Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Nghiên cứu hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội (Khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 159 trang )


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐOÀN THỊ THÙY TRANG





NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN
HÓA TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
(Khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa)

Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN PHẠM HÙNG





Hà nội - 2010

9

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, du lịch đã trở thành nhu cầu xã hội phổ biến trên thế giới. Do
nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú nên các loại hình du
lịch cũng phát triển theo. Ngoài những loại hình du lịch truyền thống như du
lịch văn hóa, du lịch sinh thái, các loại hình mới cũng được ra đời như du lịch
mice, du lịch chữa bệnh, Trong đó, du lịch văn hóa lại được chia thành rất
nhiều loại hình khác nhau như du lịch lễ hội, du lịch làng nghề, đặc biệt là du
lịch văn hóa tâm linh
Du lịch văn hóa tâm linh gần đây đã hình thành và đang phát triển ở các
nước trên thế giới đặc biệt là ở châu Á như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Thái Lan. Hàng năm, các cơ quan tôn giáo của các quốc gia này kết hợp với
các công ty lữ hành tổ chức các chuyến du lịch văn hóa tâm linh cho du khách
đến các thánh tích của nhau. Ở châu Âu đặc biệt là nước Ý cũng tổ chức nhiều
đoàn khách tham gia các lễ hội tôn giáo, các khóa tìm hiểu và nghiên cứu tôn
giáo, các khóa tu thiền tại các quốc gia cùng châu lục và sang các quốc gia
châu Á.
Ở Việt Nam, trong vài năm gần đây bên cạnh nhu cầu tham quan, nghỉ
dưỡng, du khách còn có xu hướng nghiêng về nhu cầu du lịch văn hóa tâm
linh. Đối với ngành du lịch loại hình này cũng đang ngày càng phát triển trở
thành một sản phẩm du lịch quan trọng. Về tài nguyên, nước ta vốn là đất
nước của nhiều lễ hội tôn giáo, văn hóa đa dạng và phong phú kéo dài suốt cả
năm trên khắp 3 miền. Hơn nữa, Việt Nam còn có hệ thống các di tích tôn
giáo, tín ngưỡng dải khắp cả nước đặc biệt là các trung tâm văn hóa lớn như
Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh Vì vậy, hoạt động du lịch văn hóa

tâm linh sẽ ngày càng phát triển.

10

Hà Nội mảnh đất ngàn năm văn hiến, nay là trung tâm chính trị, kinh tế
- văn hóa của cả nước. Nói đến Hà Nội, người ta sẽ nghĩ ngay đến cái tên
Tràng An, đại diện cho nhiều vẻ đẹp của mảnh đất này. Hà Nội đẹp với con
người thanh lịch, thông minh, đẹp với phong cảnh hữu tình, đẹp với cuộc
sống năng động thời kinh tế mở cửa, đẹp với cuộc sống thanh lịch, ung dung
tự tại của truyền thống, Đó là những vẻ đẹp rất đỗi kinh kỳ, rất đỗi Thăng
Long, rất đỗi Đông Đô và rất đỗi Hà Nội. Hà Nội còn được biết đến với cái
tên là mảnh đất ngàn năm văn vật. Nơi đây hội tụ rất nhiều di tích lịch sử, di
tích tôn giáo, tín ngưỡng có giá trị cao như Văn Miếu Quốc Tử Giám, chùa
Một Cột, Đền Ngọc Sơn. Ngoài ra, thủ đô cũng có hàng ngàn các lễ hội
truyền thống diễn ra quanh năm. Với những điều kiện đó du lịch văn hóa tâm
linh cũng trở thành loại hình du lịch quan trọng của Hà Nội.
Hà Nội hiện đang cùng cả nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Hà Nội không ngừng phát triển kinh tê, văn hóa – xã hội để luôn
xứng tầm với vị thế thủ đô của cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển,
Hà Nội cũng không thể tránh khỏi việc đối mặt với những khó khăn thách
thức: sự gia tăng dân số, suy đồi về lối sống, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, dịch
bệnh, ô nhiễm môi trường, Vì vậy, người dân Hà Nội đặc biệt người dân các
quận nội thành đang hàng ngày phải chịu nhiều áp lực của cuộc sống đô thị.
Do đó, để có thể cân bằng cuộc sống cũng như thỏa mãn nhu cầu tinh thần thì
họ đã dành thời gian cho các chuyến du lịch để nghỉ ngơi, giải trí, Bên cạnh,
những chuyến du lịch thuần túy, họ còn thực hiện các cuộc hành trình kết hợp
cả hai yếu tố du lịch và tâm linh. Trong các chuyến du lịch này, họ không chỉ
được thỏa mãn các nhu cầu vật chất (các dịch vụ ăn uống, ngủ nghỉ, ) mà
quan trọng hơn là được thỏa mãn các nhu cầu tinh thần về mặt tâm linh
(chiêm bái, cầu khấn, thực hành các nghi lễ truyền thống). Những chuyến

hành trình đó còn được gọi là du lịch văn hóa tâm linh.

11

Hà Nội có nguồn tài nguyên du lịch tín ngưỡng, tâm linh phong phú
bậc nhất của cả nước, nhưng hiện nay chưa được nghiên cứu thật đầy đủ. Hà
Nội cũng là nơi có sản phẩm du lịch tín ngưỡng tâm linh đa dạng, nhiều vẻ,
và có sức hấp dẫn bậc nhất trong cả nước, nhưng chưa được khai thác có hiệu
quả và đầy đủ. Nhu cầu du lịch tín ngưỡng, tâm linh của người Hà Nội cũng
rất cao, nhưng hầu như chưa có công trình nào đề cập đến một cách toàn diện
và kỹ lưỡng… Với những lý do trên, đề tài "Nghiên cứu hoạt động du lịch
văn hóa tâm linh của người Hà Nội" (khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa) là
cần thiết.
Do phạm vi tư liệu rất rộng, địa bàn khảo sát rất lớn, vấn đề khảo sát rất
nhiều, nên chúng tôi giới hạn phạm vi khảo sát nghiên cứu vấn đề du lịch văn
hóa tâm linh của người Hà Nội tại một quận nội thành tiêu biểu, nơi tập trung
nhiều di tích tín ngưỡng tâm linh, nhiều sinh hoạt tín ngưỡng, và đông dân cư
tham gia vào các hoạt động tín ngưỡng, tâm linh. Chúng tôi chọn địa bàn
được khảo sát tại Quận Đống Đa - Hà Nội, nhằm nghiên cứu chi tiết hơn về
hoạt động này và đề xuất các giải pháp tương ứng.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay, đề tài du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội còn mới
mẻ. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài như về văn hóa tâm linh
và du lịch văn hóa, du lịch Hà Nội tuy phong phú nhưng chưa có tài liệu nào
đề cập đến du lịch văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, đây lại là nguồn tư liệu rất bổ
ích để chúng tôi kế thừa phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này.
Về vấn đề văn hóa và văn hóa tâm linh, các công trình nghiên cứu rất
phong phú như Đào Duy Anh với Việt Nam văn hóa sử cương; Trần Quốc
Vượng với Cơ sở văn hóa Việt Nam;Toan Ánh với Nếp cũ – tín ngưỡng Việt
Nam; Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục; Nguyễn Đăng Duy với Văn hóa

tâm linh; Văn hóa tâm linh Nam Bộ; Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt

12

Nam; Mai Thanh Hải với Tôn giáo thế giới và Việt Nam; Nguyễn Duy Hinh
với Người Việt Nam với Đạo giáo; Hồ Văn Khánh với Tâm hồn – khởi nguồn
cuộc sống văn hóa tâm linh, Phan Ngọc với Bản sắc văn hóa Việt Nam. Các
công trình đã nghiên cứu chủ yếu về các vấn đề như lý luận văn hóa; đặc
trưng chức năng của văn hóa; các thành tố văn hóa Việt Nam; tôn giáo, tín
ngưỡng trong văn hóa Việt Nam; quan niệm về văn hóa tâm linh
Các nghiên cứu về Hà Nội, người Hà Nội, văn hóa Hà Nội cũng rất
nhiều tiêu biểu như: Nguyễn Viết Chức với Nếp sống người Hà Nội từ truyền
thống của thủ đô Hà Nội, Lý Khắc Cung với Hà Nội văn hóa và phong tục,
Nguyễn Trọng Đàn với Thăng Long Hà Nội, Nguyễn Thế Long với Chùa Hà
Nội, Nguyễn Thế Long với Đình, đền Hà Nội….Nội dung chủ yếu mà các
công trình này nghiên cứu là về đặc điểm văn hóa của người Hà Nội, thành
tựu văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của Hà Nội qua hàng ngàn năm lịch
sử.
Bên cạnh đó, các công trình về du lịch Hà Nội tiêu biểu như: Nguyễn
Vinh Phúc với Hà Nội - thành phố ngàn năm, Hà Nội – cõi đất, con người,
Hà Nội qua những tháng năm, Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân,
Nguyễn Hữu Quỳnh với Bách khoa thư Hà Nội, Giang Quân với Hà Nội xưa
và nay, Thăng Long Hà Nội 1000 năm truyền thống và thanh lịch, Mai Thục
với Tinh hoa Hà Nội, Hoàng Đạo Thúy với Hà Nội thanh lịch, Người và cảnh
Hà Nội, Phố phường Hà Nội xưa, Trần Quốc Vượng với Hà Nội nghìn xưa…
đã nghiên cứu rất đầy đủ về tài nguyên cũng như sản phẩm du lịch Hà Nội
Về đề tài du lịch văn hóa, tâm linh, nói chung và trên địa bàn Hà Nội
nói riêng cũng có một số công trình như: Nguyễn Vinh Phúc với Du lịch Hà
Nội hướng tới 1000 năm Thăng Long, Nguyễn Phạm Hùng với Tượng đài Hà
Nội và du lịch văn hoá, Du lịch tôn giáo và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá

dân tộc, Khai thác món ăn dân tộc trong các khách sạn ở Hà Nội, Tiềm năng

13

du lịch phố cũ Hà Nội, Du lịch đêm Hà Nộ; Đa dạng văn hóa và sự phát triển
du lịch ở Việt nam… Các nghiên cứu này đã đề cập đến du lịch văn hóa và
việc khai thác các di sản văn hóa Hà Nội vào hoạt động du lịch văn hóa.
Như vậy, tất cả những công trình nghiên cứu nói trên đã đưa ra nội
dung rất phong phú về văn hóa, văn hóa tâm linh, du lịch văn hóa, du lịch Hà
Nội nhưng chưa đề cập đến du lịch văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, chúng tôi
nhận thấy, các tài liệu nghiên cứu trên đã giúp chúng tôi rất nhiều trong khi
thực hiện đề tài. Chúng tôi đã kế thừa nhiều kết quả nghiên cứu trước đây.
Đồng thời, chúng tôi cũng nhận thấy, vấn đề du lịch tín ngưỡng, tâm linh của
người Hà Nội hiện là một nội dung nghiên cứu còn rất nhiều vấn đề cần tiếp
tục tìm hiểu, đánh giá, nghiên cứu để có thể có được những kết luận thỏa đáng
cho việc phát triển du lịch văn hóa tâm linh nói riêng, phát triển du lịch văn
hóa ở Hà Nội nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các mục đích nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hóa một số quan điểm lý luận liên quan đến du lịch văn hóa
tâm linh
- Nghiên cứu thực trạng du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội
trên địa bàn quận Đống Đa
- Đưa ra một số giải pháp để hoạt động du lịch văn hóa tâm linh diễn
ra phù hợp với lợi ích của du khách và xã hội.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn tập hợp và xây dựng hệ thống lý luận
về du lịch văn hóa tâm linh và đưa ra phương pháp nghiên cứu các dạng thức
hoạt động du lịch văn hóa tâm linh. Đề tài là một nghiên cứu mới đóng góp
cho ngành khoa học du lịch ở Việt Nam. Đây cũng có thể là cơ sở tham khảo

cho các đề tài khác có liên quan.

14

- Ý nghĩa thực tiễn: các kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp
làm tài liệu khảo cho các nhà nghiên cứu, các cơ quan Nhà nước về du lịch,
các doanh nghiệp du lịch khai thác loại hình du lịch văn hóa tâm linh.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Với đề tài này, luận văn tập trung vào nghiên cứu các đối tượng cụ thể sau:
Các hoạt động du lịch tín ngưỡng, tâm linh
Các nghiên cứu, giới thiệu về du lịch tín ngưỡng, tâm linh
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi thời gian: nghiên cứu các hoạt động du lịch tín ngưỡng, tâm
linh hiện nay (từ năm 2008 đến năm 2010)
+ Phạm vi về không gian: thuộc địa bàn quận Đống Đa – Hà Nội
+ Phạm vi vấn đề nghiên cứu: nghiên cứu thực tiễn, thực trạng hoạt động du
lịch tín ngưỡng, tâm linh, và một số đề xuất, giải pháp cho hoạt động du lịch
này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1 Thu thập và xử lý tài liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn: sách, giáo trình; báo, tạp
chí chuyên ngành và báo, tạp chí có nội dung liên quan; công trình khoa học;
văn bản pháp quy về du lịch và liên quan đến du lịch, các văn bản pháp quy
về tín ngưỡng tôn giáo và việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa; các báo cáo
của quận Đống Đa; hồ sơ di tích, các trang web.
6.2 Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp phân tích và tổng hợp là việc lựa chọn, sắp xếp các nguồn
tài liệu thứ cấp và sơ cấp nhằm định lượng chính xác và đầy đủ phục vụ cho
mục đích điều tra và nghiên cứu, từ đó tổng hợp thành các quan điểm, nhận

xét để đưa cái nhìn khái quát về đối tượng nghiên cứu.

15

6.3 Phương pháp khảo sát
Khảo sát là phương pháp nghiên cứu hiệu quả để thu thập được những
thông tin mong muốn. Phương pháp này cho cái nhìn khách quan về đối
tượng và mang tính trung thực. Phương pháp này được áp dụng tại các điểm
du lịch tín ngưỡng, tâm linh trên địa bàn quận Đống Đa, nhằm tìm hiểu về
điểm đến, các sản phẩm của du lịch văn hóa tâm linh và đặc điểm của khách
du lịch.

7. Bố cục của Luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương với nội dung chính như sau:
Chƣơng 1: Một số quan điểm lý luận liên quan đến đề tài, trình bày
quan điểm lý luận về du lịch văn hóa tâm linh và đưa ra hiệu quả của du lịch
văn hóa tâm linh.
Chƣơng 2: Thực trạng du lịch văn hóa tâm linh của ngƣời Hà Nội
(qua khảo sát ở quận Đống Đa), trình bày các hình thức tổ chức hoạt động
du lịch văn hóa tâm linh của người dân quận Đống Đa; các sản phẩm du lịch
tương ứng, các điểm đến du lịch văn hóa tâm linh, đặc điểm khách du lịch
tham gia loại hình du lịch này.
Chƣơng 3: Một số giải pháp đối với hoạt động du lịch văn hóa tâm
linh của ngƣời Hà Nội (qua khảo sát ở quận Đống Đa), trình bày cơ sở đề
xuất để đưa ra giải pháp nhằm phát triển hợp lý hoạt động du lịch văn hóa tâm
linh để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân Hà Nội.

16

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VÂN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ VĂN HÓA TÂM LINH VÀ DU LỊCH VĂN HÓA
TÂM LINH
1.1 Những vấn đề về văn hóa tâm linh
Khái niệm văn hóa tâm linh mới chỉ xuất hiện trong vài thập kỷ gần
đây. Nó ra đời khi mà con người có bao vấn đề xoay quanh tín ngưỡng, tôn
giáo chưa có câu trả lời. Họ phân vân liệu tâm linh có phải là tín ngưỡng tôn
giáo hay không và nên phải ứng xử như thế nào khi xã hội bước vào văn minh
hiện đại xã hội chủ nghĩa. Một nhiệm vụ đặt ra cho các nhà nghiên cứu là phải
tìm ra bản chất của văn hóa tâm linh. Văn hoá tâm linh là một khái niệm hợp
nhất bởi hai yếu tố văn hoá và tâm linh. Để hiểu được khái niệm này cần phải
phân tích ý nghĩa của hai thuật ngữ văn hóa và tâm linh.
1.1.1 Văn hóa
Văn hoá là hiện tượng xã hội xuất hiện từ thuở bình minh của xã hội
loài người. Mặc dù văn hoá rất gần gũi, và thậm chí gắn bó máu thịt của sự
phát triển con người – xã hội, nhưng việc nhận thức sâu sắc và đầy đủ về nó
là cả một quá trình rất lâu dài. Ngay khi đứng trên góc nhìn của một khoa học
thì các nhà nghiên cứu cũng có những quan niệm rất khác nhau về văn hoá.
Do vậy, sự bùng nổ các định nghĩa về văn hoá là tất yếu, khiến cho người ta
chỉ có thể tập hợp theo nhóm chứ không thể liệt kê đây đủ, chi tiết từng định
nghĩa. Theo sự thống kê của nhà nghiên cứu người Nga A.X Ca-rơ-min, đến
nay con số định nghĩa văn hoá có thể lên tới 500 định nghĩa và ông đã phân
chia số định nghĩa ấy thành 14 nhóm. Còn theo hai nhà nhân loại học Hoa Kỳ
là A.Croeber và C.Kluckholn thì trong giới nghiên cứu phương Tây có 6
nhóm định nghĩa về văn hoá. Sự phong phú của quan niệm văn hóa giúp ta có
cái nhìn đa chiều về nó.

17

Ở nước ta, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm "văn hiến". Từ đời Lý
(1010) người Việt đã tự hào nước mình là một "văn hiến chi bang". Đến đời

Lê (thế kỷ XV), Nguyễn Trãi đã viết "Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn
hiến chi bang" – Duy nước Đại Việt ta thực sự là nước văn hiến. Từ văn hiến
mà Nguyễn Trãi dùng ý muốn chỉ một nền văn hóa cao trong đó nếp sống tinh
thần, đạo đức được chú trọng. Cũng trong tác phẩm "Bình Ngô đại cáo",
Nguyễn Trãi viết:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Theo một số nhà nghiên cứu, từ "văn hiến" mà Nguyễn Trãi dùng ở
đây, về một khía cạnh nào đó, đồng nghĩa với từ "văn hoá". Tuy nhiên, phải
đến đầu thế kỷ XX thì khái niệm văn hoá mới xuất hiện với tư cách là khái
niệm khoa học.
Từ khi UNESCO phát động "Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá"
(1988-1997), nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã chú trọng nghiên cứu lý
luận về văn hoá. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xem xét các vấn đề văn hoá.
Tuy nhiên, do văn hoá là hiện tượng vô cùng phức tạp, các nhà nghiên cứu lại
nghiên cứu văn hoá từ những phương diện, góc nhìn khác nhau, nên các quan
niệm về văn hoá cũng khác nhau. Vì vậy, để tránh lạc lối trong nghiên cứu về
bản chất của văn hoá, trước hết, chúng ta có thể phân thành hai loại quan
niệm về văn hoá: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Từ góc độ tiếp cận Triết
học Mác – xít, các nhà nghiên cứu ở nước ta đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về
bản chất và vai trò của văn hoá. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, nói
văn hoá là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực bản chất
của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Đặc trưng cơ
bản nhất của văn hoá là tính sáng tạo và tính nhân văn, văn hoá đóng vai trò là

18

mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, xung quanh
vấn đề phạm vi thực tồn của văn hoá lại có những quan niệm khác nhau.

Quan niệm cho rằng, văn hoá là một loại quan hệ đặc thù riêng có của
con người. Đó là quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong ý thức con người với
thế giới hiện thực. Từ quan niệm này, nhà nghiên cứu Phan Ngọc khẳng định:
Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân
hay một tộc người với thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc
người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu
hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy
nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác
các kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người khác. [23, tr.16]
Xem xét văn hoá trong mối quan hệ với con người, với nhu cầu và mục
đích sống của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn ở và phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hoá."[56,tr21]
Trong định nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến "sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt" và "biểu hiện của nó", tức đã đề cập đến
cả hoạt động sống của con người và những thành tựu do hoạt động đó tạo ra.
Nhưng dù là "hoạt động" hay "thành tựu" thì đều phải đáp ứng "những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" mới được gọi là văn hoá. Hơn nữa,
khi nhìn nhận văn hoá theo nghĩa rộng, Người đã xem văn hoá là thế giới giá
trị, tức là tất cả những gì của con người, do con người và vì con người.
Dựa trên quan niệm giá trị, GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng: " Văn hoá
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo

19

và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội."[42,tr10]
Tất nhiên, ở đây giá trị cần được hiểu không chỉ là một loại "thước đo"

hoàn toàn mang tính chủ quan. Giá trị được nhận thức là thuộc tính của sự vật
có ích cho con người khi quan hệ với con người. Giá trị được quyết định bởi
cấu trúc, tính chất và công năng của bản thân sự vật nhưng chỉ phát lộ trong
quan hệ với con người. Do đó, giá trị không hoàn toàn mang tính chủ quan mà
có cả mặt khách quan và mặt chủ quan. Giáo sư Nguyễn Văn Huyên còn nhấn
mạnh: "Tất nhiên, toàn bộ giá trị ở đây là những sản phẩm có ích, thoả mãn
nhu cầu nhân sinh, đáp ứng sự phát triển - tiến bộ của xã hội. Bởi những sản
phẩm do con người sáng tạo ra không những không đáp ứng nhu cầu tiến bộ,
mà còn phản tiến bộ, đó là sản phẩm phản văn hoá." [15, tr.52] Như vậy, việc
xem văn hoá là giá trị vật chất và tinh thần kết tinh năng lực bản chất của con
người khắc phục được quan niệm đối lập tuyệt đối giữa xã hội với tự nhiên và
quan niệm đồng nhất giữa văn hoá với xã hội. Đồng thời, nó bao hàm ý nghĩa
rằng, văn hoá không phải là cái tồn tại một cách cô lập với con người mà luôn
trong mối quan hệ hữu cơ với con người, do con người sáng tạo ra và đến lượt
nó lại có tác dụng hoàn thiện, hoàn mỹ con người – xã hội.
Như vậy, văn hóa hiểu theo nghĩa rộng, tức tất cả những gì phi tự nhiên
là văn hóa, thì nó vừa giá trị, vừa lại phản giá trị. Nhưng văn hóa hiểu theo
nghĩa hẹp thì chỉ là giá trị mà thôi. Thuật ngữ văn hóa tâm linh được dùng là
theo nghĩa hẹp.
1.1.2 Tâm linh
1.1.2.1 Khái niệm
Theo nhà tâm lý học Sigmund Freud, con người là thực thể đa chiều.
Trong đó có 3 kích thước cơ bản: bản chất sinh học, bản chất xã hội và bản
chất tâm linh. Ba bản chất này được tạo thành chiều sâu, chiều rộng và chiều

20

cao của con người. Bản chất sinh học và bản chất xã hội thì đã được nghiên
cứu rất nhiều, nên tuy không còn phải vấn đề nữa nhưng việc nhận định nó thì
đã khá xác định. Còn bản chất tâm linh thì ít được các nhà khoa học quan tâm

nghiên cứu, bởi có thời người ta coi nó không phải là đối tượng của khoa học,
mà là đối tượng của huyền môn. Vì thế, tâm linh đã phải chịu không ít hiểu
lầm và ngộ nhận.
Trước đây, nói đến tâm linh là người ta nghĩ ngay đến tín ngưỡng và
tôn giáo, và đồng nhất nó với tín ngưỡng và tôn giáo. Thực ra, khái niệm tâm
linh vừa hẹp hơn nhưng lại vừa rộng hơn khái niệm tín ngưỡng tôn giáo. Hẹp
hơn vì ở tín ngưỡng tôn giáo ngoài phần tâm linh ra còn có phần mê tín dị
đoan và sự cuồng tín tôn giáo. Bởi đó vừa là một lĩnh vực của đời sống tinh
thần vừa là một thiết chế xã hội, mà đã là thiết chế xã hội thì không tránh khỏi
sự thế tục hóa, sự tha hóa do việc lợi dụng của giai cấp thống trị. Rộng hơn vì
tâm linh gắn liều với những khái niệm cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu
việt không chỉ có ở đời sống tôn giáo, mà còn có cả ở đời sống tinh thần,
đời sống xã hội. Không chỉ có ở Thượng đế, có Chúa trời, Thần, Phật mới
thiêng liêng mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật, công lý cũng
thiêng liêng không kém. Có như vậy, con người mới đạt đến chiều cao của
con người. Vì nếu những cái đó bị giải thiêng thì con người không biết lấy cái
gì để khu biệt mình với động vật.
Mặc dù không được nhận biết, không được nghiên cứu và bị hiểu lầm,
nhưng tâm linh vẫn tồn tại trong và cùng với con người như là một chiều kích,
thậm chí là chiều kích quan trọng nhất của con người. Đó là một giá trị cơ bản
bao trùm và vĩnh cửu của đời sống con người. Tuy nhiên, trong xã hội cổ
truyền trước đây việc nghiên cứu tâm linh không được đặt ra một cách cấp
thiết. Chỉ khi con người bước vào thời đại công nghiệp cơ khí đại quy mô,
duy lý cực đoan và duy khoa học thực nghiệm, nhất là từ thế kỷ XX thì vấn đề

21

tâm linh mới trở thành một tiếng gọi. Bởi lẽ, con người càng chiếm lĩnh mạnh
mẽ và có hiệu quả thế giới bên ngoài, thiết lập nên một nền văn minh vật chất
phong phú bao nhiêu, thì đời sống bên trong, đời sống nội tâm của nó càng

nghèo đi bấy nhiêu. Con người đang tự đánh mất mình. Không coi nhẹ ý
nghĩa của những hoạt dộng "bên ngoài", nhưng việc giảm sút hoặc mất đi
những hoạt động "bên trong", nhất là những hoạt động của đời sống tâm linh,
là điều tệ hại nhất đối với sự tồn tại người. Vấn đề đặt ra là phải lập lại sự cân
bằng của hai hoạt động ấy, hai "đời sống" ấy.
Như vậy, cái tâm linh không nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học
mà còn là đối tượng của khoa học. Và không chỉ có nghiên cứu về nó, người
ta còn có thể đề ra những phương pháp phát triển tâm linh của con người bằng
những thể nghiệm, những thực nghiệm về nó. Từ đây chí ít ở lĩnh vực đời
sống tâm linh, tôn giáo và khoa học không còn loại trừ nhau như nước với lửa
nữa, mà có thể gần gụi nhau, thúc đẩy nhau làm phong phú lẫn nhau nhằm
đưa con người đến một sự phát triển hài hòa ở tất cả các mặt sinh học – xã hội
– tâm lý – tâm linh.
Trong Từ điển Tiếng Việt, tâm linh được giải thích theo hai nghĩa: "1.
Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan
niệm duy tâm. 2.Tâm hồn, tinh thần, thế giới tâm linh."
Thuật ngữ tâm linh có hai từ tiếng Anh tương đương là spiritualism và
psychic. Spiritualism mang hai nghĩa: thứ nhất là niềm tin tôn giáo – triết học
về sự tồn tại sau cái chết; thứ hai là tâm trí, tâm hồn, tinh thần (nghĩa này ít
dùng). Còn psychic lại được hiểu theo nghĩa hiện tượng dị thường, huyền bí.
Trong cuốn "Tâm linh Việt Nam", Nguyễn Duy Hinh quan niệm: Tâm
linh là thể nghiệm của con người (Tâm) về cái Thiêng (linh) trong Tự nhiên
và Xã hội thông qua sống trải, thuộc dạng ý thức tiền logíc không phân biệt
thiện ác.[13,tr52]

22

Tác giả giải thích tâm linh là một khát vọng trí tuệ của con người.
Trong quá trình tồn tại, con người không bằng lòng khai thác tự nhiên hái quả
săn mồi sinh con đẻ cái như mọi động vật khác. Con người luôn có khát

vọng tìm hiểu và lý giải tự nhiên (trời, đất, nước, muôn loài ) và bản thân
con người để cải thiện cuộc sống của họ. Đó là khác biệt cơ bản giữa con
người và động vật. Qua trải nghiệm cụ thể, lâu dài mỗi dân tộc có một tâm
linh riêng biệt đặc sắc song cũng đều qui vào giải thích về trời đất và con
người. Giải thích về sức mạnh vô hình tác động đến cái Sống của con người.
Mạnh và vô hình nên gọi là Thiêng. Một số hiện tượng tâm linh thành tín
ngưỡng hoặc có thờ cúng hoặc không thờ cúng. Đó là tâm linh tín ngưỡng
như thờ cúng tổ tiên, cúng hồn lúa Còn tâm linh phát triển thành tâm linh
tôn giáo thì người ta tin theo tâm linh của một giáo Chủ nào đó truyền dạy có
trình độ lôgíc nhất định cao hơn tâm linh tín ngưỡng. Nhưng dù vậy mỗi cộng
đồng người tiếp thu tâm linh giáo Chủ nào đó đều ít nhiều thông qua tâm linh
tín ngưỡng của mình.
Từ quan niệm trên cho thấy, tâm linh chỉ tồn tại ở con người và là kết
quả trải nghiệm của họ trong quá trình sống ở mỗi môi trường nhất định. Từ
đó hình thành nên tâm linh riêng biệt của mỗi dân tộc. Tâm linh không phải là
tín ngưỡng tôn giáo mà tâm linh chứa đựng chúng. Tín ngưỡng tôn giáo chỉ
có thể tồn lại trong môi trường tâm linh ở đó con người có niềm tin vào
những đối tượng thiêng như thánh thần, Phật, Chúa.
Một quan niệm khác về tâm linh của tác giả Nguyễn Đăng Duy trong
cuốn "Văn hoá tâm linh": Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống
đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái
thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu
tượng, hình ảnh, ý niệm. [8,tr14]

23

Như vậy, tâm linh là cái tồn tại trong mỗi con người. Nó thể hiện qua
niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng hay tôn giáo của mỗi người.
Và cụ thể hơn chính là sự ngưỡng vọng của họ về những biểu tượng, hình ảnh
thiêng liêng,

1.1.2.2 Đặc điểm của tâm linh
Thứ nhất, tâm linh là một hình thái ý thức, tâm linh gắn liền với ý thức
của con người. Do vậy điều kiện để tồn tại tâm linh là sự có mặt của ý thức
con người. Điều đó đồng nghĩa với việc một người mất trí không còn khả
năng suy nghĩ thì trong đầu người đó sẽ trống rỗng và không có tâm linh.
Thứ hai, tâm linh là phần thiêng liêng trong ý thức của mỗi con người.
Ý thức của con người thì rất đa dạng như ý thức về toán học, ý thức về văn
học, ý thức về cộng đồng Trong đó, ý thức tâm linh là ý thức hướng về cái
thiêng liêng cao cả. Ý thức tâm linh được ngưng tụ theo hai cách:
Cách thứ nhất là ở ý niệm, con người phải hành động thì sự thiêng liêng
mới được bộc lộ. Ví dụ như người ta có ý niệm thiêng liêng âm dương giao
hòa, đực cái phối hợp nên đã tiến hành nhiều nghi lễ trò diễn phồn thực.
Người ta quan niệm có thổ địa linh thiêng nên mỗi khi xây nhà phải làm lễ
động thổ
Cách thứ hai là đọng lại ở các hình ảnh, biểu tượng. Biểu tượng là tiếng
nói chung để biểu thị ước lệ về một tín hiệu. Trong đó, mọi biểu tượng thiêng
liêng đều chứa đựng những giá trị cao cả, giá trị thẩm mỹ. Vì vậy, mọi biểu
tượng thiêng liêng là cơ sở bền vững cho nhiều mối quan hệ của con người.
Mọi người trong làng có mối quan hệ khăng khít với nhau vì họ cùng có
chung biểu tượng thiêng liêng mái đình, cây đa, giếng nước mà đi đâu ai cũng
nhớ. Hay cả dân tộc Việt Nam đoàn kết trong mối quan hệ cùng một tổ tiên
với biểu tượng núi Lĩnh và đền Hùng.

24

Đặc điểm thứ ba là tâm linh có sức truyền cảm truyền lệnh, tập hợp ghê
gớm. Do con người có tâm lý tự nhiên là khi đời sống được yên bình mạnh
khỏe, ăn nên làm gia, hoặc được cứu thoát khỏi cơn hoạn nạn, nguy hiểm, thì
nảy sinh ý thức hướng, nhớ về cội nguồn, biết ơn những cái cao cả đã cho
mình, cứu mình. Ý thức biết ơn này có sức hút tự nguyện rất lớn, không gì có

thể ngăn cản.
Như vậy, tâm linh do các tác giả quan niệm đều thể hiện nó gắn với con
người, ở trong con người. Vì vậy, trong mọi mặt đời sống của con người đều
tồn tại tâm linh và có thể nhóm thành hai loại là tâm linh trong cuộc sống đời
thường và tâm linh trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo.
1.1.2.3 Hình thức của tâm linh
- Tâm linh trong đời sống cá nhân
Trong đời sống cá nhân của những người theo tôn giáo thì suốt đời họ
chỉ mang niềm tin thiêng liêng vào Chúa và Phật. Trong họ lúc nào cũng
thường trực đời sống tâm linh. Còn đối với mọi cá nhân đời thường thì tâm
linh khá phong phú nhưng không phải lúc nào cũng thường trực đời sống tâm
linh. Đời sống tâm linh của người đó chỉ xuất hiện khi hoàn cảnh thiêng, thời
gian thiêng xuất hiện.
- Tâm linh trong đời sống gia đình
Mái ấm gia đình, nơi không gian thiêng liêng nhất, nơi con người sinh
ra, ở, con người phấn đấu lo toan và cũng là chỗ cuối cùng con người về.
Ngày nay xây dựng nếp sống văn hóa gia đình, hãy nâng niu giá trị tâm linh
truyền thống. Mỗi gia đình thực sự là một tổ ấm thiêng liêng, hạnh phúc nhất
của con người.
Trong gia đình, bàn thờ tổ tiên là biểu tượng máu thịt thiêng liêng nhất,
lôi cuốn người ta quây quần đoàn tụ, nhớ về cội nguồn, duy trì những giá trị

25

thiêng liêng chuyển giao cho con cháu. Những giá trị tâm linh là hết sức bền
vững, là hằng số của văn hóa gia đình.
- Tâm linh trong đời sống cộng đồng làng xã
Cái cột chặt con người trong làng xã xưa kia không phải chỉ có quan hệ
lãnh thổ, kinh tế mà còn có nhiều quan hệ khác đó là thế giới tâm linh. Vậy
tâm linh ở đây biểu hiện ra những gì? Đó là thần tượng thiêng liêng về các

anh hùng có công dựng làng, giữ nước đang được tôn thờ trong những không
gian thiêng liêng, những ngôi đình đền. Ở những khong gian thiêng liêng ấy,
hàng năm lễ thần và hội làng diễn ra, thì lại là những dịp niềm tin thiêng liêng
được củng cố. Thần thánh thiêng liêng nhắc nhở nhớ về cội nguồn, lễ hội
thiêng liêng nhắc nhở xóa bỏ những gì khúc mắc bất hòa. Đoàn tụ gần gũi
nhau hơn lại đến với những trái tim con người làng xóm. Đồng thời nếp sống
cộng đồng hàng ngày, tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, bán anh
em xa mua láng giềng gần, đều là những sợi dây tình cảm vô cùng thiêng
liêng cố kết xóm làng, củng cố khối cộng đồng. Đó là những quan hệ thiêng
liêng nhất trong đời sống cộng đồng làng xã. Nó là cái nền vững chắc nhất
trong mối quan hệ làng xã. Nó biểu thị khía cạnh thiêng liêng nhất trong bản
sắc văn hóa xóm làng, cũng là văn hóa dân tộc. Những biểu tượng, những mối
quan hệ cộng đồng thiêng liêng ấy, là cơ sở, là động lực, là niềm tin để dân ta
trụ vững, phát triển cho đến ngày nay.
- Tâm linh với Tổ quốc giang sơn đất nước
Ngày nay mỗi cuộc lễ nghi, cuộc hội nghị ta kiến lập bàn thờ Tổ quốc.
Gần mới đay trong đánh Mỹ ta thường nói bằng cả sức mạnh bốn nghìn năm
lịch sử, sức mạnh truyền thống. Đó chẳng phải là vô hình trừu tượng mà là
hình ảnh thiêng liêng từ Hữu Nghị quan đến mũi Cà Mau. Là núi cao biển
rộng sông dài. Là cây đa bến nước, mái đình, những hình ảnh thiêng liêng về
làng xóm. Là những mảnh đất thiêng liêng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa,

26

oai hùng còn đó. Là hình ảnh Bác Hồ gần gũi thân thương vĩ đại. Là những
tượng đài, nấm mộ trong nghĩa trang lịch sử nhắc nhở. Là hình ảnh lá cờ
thiêng liêng vẫy gọi Từ những hình ảnh biểu tượng thiêng liêng đó mà ngày
xưa, ngày nay "chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi". Làm sao đừng để kinh
tế thị trường có đạo tặc bô hình gặm nhấm dần làm mất đi những hình ảnh,
biểu tượng thiêng liêng đó trong ý thức con người hôm nay và các thế hệ tiếp

theo.
- Tâm linh trong văn học nghệ thuật
Tâm linh trong sáng tác văn học nghệ thuật là những hình ảnh, biểu
tượng thiêng liêng nào đó mà tác giả thể hiện được ra trong tác phẩm làm
rung động những trái tim, ngấn lệ những tâm hồn. Mà muốn được như vậy,
nhà sáng tạo nghệ thuật thực sự phải có đời sống tâm linh, cảm thụ đối tượng
muốn sáng tạo ra trong tác phẩm đến độ thiêng liêng nhất.
Sự thăng hoa trong niềm tin thiêng liêng về chúa về thần Phật đã để lại
biết bao giá trị kiến trúc nghệ thuật. Những ngôi nhà thờ Thiên chúa giáo ở
Hy Lạp, La Mã, nhà thờ Phát Diệm Ninh Bình, gác chuông chùa Keo khéo
léo tuyệt vời ở Thái Bình, các pho tượng Phật ở chùa Tây Phương Hà Tây.
- Tâm linh trong tín ngưỡng tôn giáo
Tâm linh được thể hiện trong rất nhiều mặt của đời sống tinh thần, có
cả trong tín ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng tôn giáo là lĩnh vực đặc biệt trong
đời sống tâm linh.
1.1.2.4 Phân biệt tâm linh với mê tín dị đoan
Mê tín dị đoan là tin một cách mê muội, kì dị, là thường. Tin không lý
trí và đến mức không cần đến cả mạng sống của mình. Vì vậy, Mê tín dị đoan
chỉ tồn tại khi nó bám vào trình độ văn hóa khoa học thấp kém, con người
không đủ trình độ để phân tích, lý giải đúng sai, nhảm nhí. Hoặc lợi dụng tình
trạng quẫn bách, mụ mẫm của con người không được kịp thời giúp đỡ giải

27

tỏa. Hoặc trong những giây phút thăng hoa ngày hội, giây phút say sưa trào
dâng thần thánh cũng dễ khiến con người mất tỉnh táo, mê tín vào sự phán bảo
phi lý nhảm nhí.
Trong khi đó, tâm linh là niềm tin thiêng liêng có ở trong nhiều mặt đời
sống tinh thần. Những người tin vào Phật và Chúa, đi tu, theo đạo suốt đời
tâm niệm vào Phật, vào Chúa có thể giải thoát về cái chết cho mình. Hoặc

những người không theo tôn giáo nào, nhưng vẫn tin vào thần phật thiêng
liêng, tự đến đình, chùa thắp hương khấn lễ, cầu mong sự phù hộ bình yên
mạnh khỏe gặp nhiều may mắn. Còn xuất phát từ một số người muốn kiếm lợi
bằng việc dựa vào thần phật thương mại hóa niềm tin, đặt ra phán bảo nhiều
điều kỳ diệu khác thường, cúng lễ cho người khác, khiến cho người khác tin
theo mê muội, hành động theo sự tin ấy, gây tốn kém sức khỏe, tiền bạc vô
ích, thậm chí nguy hại tính mệnh, ấy là mê tín dị đoan.
Như vậy, tâm linh hay mê tín dị đoan tồn tại được đều phải có niềm tin.
Nhưng niềm tin của mê tín dị đoan không có thị phi, mù quáng.
1.1.3 Văn hóa tâm linh
1.1.3.1 Khái niệm
Những khái niệm văn hóa ở trên chưa trực tiếp nhắc tới chữ tâm linh
nhưng đã có những chữ tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, những chữ
này đều gắn với niềm tin thiêng liêng. Vì vậy, khi nói đến văn hoá tâm linh,
nội dung quan trọng phải đề cập đến là niềm tin, là cái thiêng liêng cao cả.
Văn hoá tâm linh được hiểu là văn hoá biểu hiện những giá trị thiêng liêng
trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống
tín ngưỡng tôn giáo.[8,tr29]
Cuộc sống đời thường ý muốn nói là cuộc sống của những người không
theo tôn giáo để phân biệt với các tín đồ của các tôn giáo. Tuy nhiên trong
cuộc sống đời thường không ai là không có một niềm tin linh thiêng nào đó.

28

Đối với các nơi linh thiêng như chùa, đền, đình, phủ dù chưa một lần được
đến đó nhưng trong chúng ta đều có một ý niệm thiêng liêng liêng về chúng.
Và ít ai trong chúng ta là không một lần đến chùa lễ Phật, đến đền lễ thần.
Không một gia đình nào là không dành một góc nhỏ để đặt ban thờ cúng giỗ
tổ tiên. Đó là một sự cầu cúng, một niềm tin linh thiêng về cuộc sống của con
người.

Còn niềm tin trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo bao gồm hai loại.
Thứ nhất là niềm tin của những người không theo đạo Phật nhưng vẫn đến
chùa cầu bình yên, mạnh khỏe, của những người không theo Kitô giáo nhưng
ngày lễ Nôen vẫn đến nhà thờ xem lễ. theo các tôn giáo, niềm tin của những
tín đồ tôn giáo. Thứ hai là của những tín đồ tôn giáo, họ suốt ngày, suốt đời
mang theo niềm tin thiêng liêng về Chúa, về Phật. Họ tôn thờ tất cả những gì
thuộc về tôn giáo mà họ đi theo: người sáng lập, giáo lý, hệ thống thờ tự, nơi
cử hành các nghi lễ
1.1.3.2 Thành tố của văn hóa tâm linh
Văn hóa tâm linh bao gồm cả văn hóa hữu hình và văn hóa vô hình.
Văn hóa hữu hình như các không gian thiêng liêng (đình, chùa, phủ, nhà
thờ ) hay các biểu tượng thiêng (tượng Phật, tượng Chúa ). Văn hóa tinh
thần là những ý niệm thiêng liêng trong đầu con người. Những ý niệm đó phải
được thể hiện qua hành động của họ. Vì vậy, văn hóa tâm linh bao gồm cả
văn hóa hành động.
Tương tự như văn hóa thể thao, văn hóa du lịch, khái niệm văn hóa
tâm linh là chỉ về một mặt hoạt động văn hóa của xã hội con người, mang tính
thiêng liêng, được biểu hiện ra những khía cạnh vật chất và tinh thần, trong
quá trình lịch sử, và còn tồn tại lâu dài cùng con người.



29

1.2 Những vấn đề về du lịch văn hóa tâm linh
1.2.1 Quan niệm về du lịch và du lịch văn hóa
1.2.1.1 Du lịch
Du lịch vốn là một từ Hán Việt trong đó du có nghĩa là đi chơi, lịch có
nghĩa là từng trải. Du lịch chính là sự trải nghiệm của con người sau mỗi
chuyến đi.

Hiện nay cùng với sự phát triển của du lịch, khái niệm du lịch cũng
được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy theo góc độ xem xét. Các khái niệm
được đưa ra theo hai góc độ chính là cầu – người đi du lịch và cung – kinh tế
du lịch. Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, du lịch được hiểu theo
hai khía cạnh:
Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của
con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du
lịch được xem xét ở gốc độ cầu, góc độ người đi du lịch.
Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực
kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ một
ngành kinh tế.
Như vậy, du lịch hiểu theo khía cạnh nào thì nó đều hướng tới giá trị về
mặt tinh thần của người đi du lịch trên cơ sở đó mới nảy sinh hoạt động về
kinh tế. Nhà kinh tế Kalfiotis cũng có quan điểm như vậy. Ông cho rằng: du
lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân hay tập thể từ nơi này đến nơi khác
nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức, do đó tạo nên các hoạt động kinh

30

tế.[40,tr9] Thuật ngữ du lịch trong du lịch văn hóa tâm linh được hiểu theo
nghĩa đó.
1.2.1.2 Du lịch văn hóa
Với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật cùng với sự đa dạng
về nhu cầu, mục đích đi du lịch của con người, các hình thức du lịch đặc thù
xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên phổ biến. Trong đó, du lịch văn hóa là

một trong những loại hình đã và đang phát triển trên toàn thế giới. Đây là loại
hình du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, tìm hiểu, nâng cao hiểu biết
của du khách về các di tích lịch sử, lễ hội, làng nghề truyền thống, phong tục
tập quán, các sự kiện văn hóa do cộng đồng tạo ra có sức thu hút đặc biệt với
khách du lịch.
Theo nghĩa hẹp, du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc
văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống.
Theo nghĩa rộng, du lịch văn hóa cần phải hiểu là khái niệm bao gồm
tất cả những hình thức (loại hình) du lịch có khai thác, sử dụng các giá trị văn
hóa dân tộc vào kinh doanh phục vụ du lịch trên cơ sở đặt ra các yêu cầu về
tôn trọng và giữ gìn, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống ấy.
Theo PGS.TS. Trần Đức Thanh: "Du lịch văn hóa là loại hình du lịch
dựa vào các giá trị văn hóa của một cộng đồng hoặc một nhóm dân tộc, một
quốc gia hoặc một khu vực có tác dụng giáo dục và nâng cao hiểu biết, nhận
thức của khách du lịch."
Theo GS.TS. Nguyễn Văn Đính: "Du lịch văn hóa là loại hình du lịch
dựa trên nền tảng của tài nguyên du lịch nhân văn và hoạt động du lịch diễn ra
chủ yếu trong môi trường nhân văn hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai
thác tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là các công trình kiến trúc văn hóa
do cộng đồng tạo ra có sức thu hút đặc biệt với du khách."

31

Như vậy, điều kiện cần thiết để phát triển du lịch văn hóa là tài nguyên
du lịch nhân văn bao gồm các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đại diện
cho cộng đồng, dân tộc, quốc gia. Loại hình này thỏa mãn nhu cầu đặc trưng
của du khách: tham quan, tìm hiểu về các giá trị văn hóa. Quan trọng hơn là
nó có tác dụng giáo dục và nâng cao nhận thức của khách du lịch và hiện
đang phát triển mạnh ở Việt Nam, đất nước tiềm năng du lịch văn hóa rất

phong phú.
Du lịch văn hóa được chia thành nhiều loại hình khác nhau. Việc phân
loại thành du lịch sinh thái hay du lịch văn hóa là dựa trên tiêu chí về tài
nguyên du lịch. Trong đó, du lịch văn hóa là loại hình du lịch hoạt động chủ
yếu trong môi trường nhân văn. Môi trường nhân văn ở đây chính là môi
trường có chứa các tài nguyên du lịch văn hóa như di tích lịch sử, lễ hội, tôn
giáo, ẩm thực, văn hóa nghệ thuật Dựa trên cơ sở tài nguyên du lịch văn
hóa, các loại hình du lịch văn hóa được hình thành.
- Du lịch lễ hội
Lễ hội hiện đang là một trong những tài nguyên du lịch nhân văn có
sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Tham gia vào lễ hội du khách có thể hòa
mình vào các cuộc biểu dương lực lượng, biểu dương tinh thần đoàn kết của
cộng đồng. Du khách tìm thấy ở lễ hội bản thân mình, quên đi những khó chịu
của cuộc sống đời thường. Có lẽ vì thế nên du khách đi vì mục đích này ít
quan tâm đến sự thiếu thốn, thiếu hụt trong dịch vụ hơn những du khách đi vì
mục đích khác. Với tầm quan trọng đó, việc khôi phục các lễ hội truyền
thống, việc tổ chức các lễ hội mới không chỉ là mối quan tâm của các cơ
quan, đoàn thể quần chúng, xã hội mà còn là một hướng quan trọng của ngành
du lịch.
Tuy nhiên, khi đánh giá các lễ hội phục vụ mục đích du lịch cần phải
lưu ý các đặc điểm về thời gian, quy mô của lễ hội, địa điểm tổ chức lễ hội.

32

Về thời gian, các lễ hội không phải diễn ra quanh năm mà chỉ tập trung trong
thời gian ngắn. Các lễ hội thường diễn ra vào mùa xuân. Có lễ hội được tiến
hành trong khoảng 1 đến 2 tháng nhưng cũng có lễ hội diễn ra trong vài ngày.
Về quy mô, các lễ hội diễn ra trên địa bàn rộng và có lễ hội chỉ bó gọn trong
một địa phương nhỏ. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến hoạt động du lịch và
nhất là khả năng thu hút du khách. Các lễ hội thường tổ chức tại những di tích

lịch sử - văn hóa. Điều này cho phép khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ hội
trong du lịch.
- Du lịch tôn giáo
Từ xa xưa, du lịch tôn giáo là một loại hình du lịch khá phổ biến. Đó là
các chuyến đi với mục đích tôn giáo như truyền giáo của các tu sĩ, thực hiện
lễ nghi tôn giáo của tín đồ tại các giáo đường, dự các lễ hội tôn giáo. Ngày
nay du lịch tôn giáo được hiểu là các chuyến đi của du khách chủ yếu để thỏa
mãn nhu cầu thực hiện các lễ nghi tôn giáo tôn giáo của tín đồ (du lịch tôn
giáo chủ động), hay tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo của người dị giáo. Điểm
đến của các luồng du khách này là chùa chiền, nhà thờ, thánh địa.
- Du lịch tham quan di tích, danh thắng
Là một trong những tài nguyên quan trọng hàng đầu, các di tích văn
hóa – lịch sử của Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Chúng được phân bố
rộng rãi từ Bắc vào Nam, từ thành thị đến nông thôn gắn liền với lịch sử dựng
nước và giữ nước của nhân dân với truyền thống văn hóa lâu đời và phong
tục, tập quán riêng của từng dân tộc.
Di tích, danh thắng là đối tượng tham quan phổ biến của du khách
trong các chuyến du lịch. Qua đó, du khách có thể mở rộng tầm mắt, nâng cao
vốn hiểu biết về văn hóa, lịch sử của dân tộc hay địa phương.


×