Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Nghiên cứu phát triển du lịch dựa vào cộng đồng vùng ven biển Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 138 trang )


Đại học Quốc gia Hà Nội
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn





Trần thị lan





Nghiên cứu phát triển du lịch dựa vào
cộng đồng vùng ven biển nam định

Chuyên ngành: Du lịch
(Ch-ơng trình đào tạo thí điểm)



Luận văn thạc sỹ du lịch





Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: pgs.TS. phạm trung l-ơng











Hà Nội, 2010



1

MỤC LỤC



Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1
1.
Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
1
2.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4
3.
Phạm vi nghiên cứu

5
3.1
Giới hạn nội dung nghiên cứu
5
3.2
Cơ sở dữ liệu sẽ được sử dụng trong nghiên cứu
5
4.
Phƣơng pháp nghiên cứu
6
5.
Cấu trúc của luận văn
7

CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
8
1.1
Cơ sở lý luận du lịch dựa vào cộng đồng
8
1.1.1
Cơ sở lý luận về cộng đồng
8
1.1.2
Các vấn đề liên quan giữa cộng đồng, phát triển du lịch
12
1.1.3
Du lịch cộng đồng
15
1.1.4

Cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng
18
1.1.5
Tổng quan các kết quả nghiên cứu có liên quan
24
1.2.6
Những yêu cầu cần thiết đối với phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
27

Tiểu kết chƣơng 1
30

CHƢƠNG 2
ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG Ở
VÙNG VEN BIỂN NAM ĐỊNH
32
2.1.
Tổng quan về vùng ven biển Nam Định
32
2.1.1.
Đặc điểm tự nhiên
32
2.1.2.
Đặc điểm kinh tế xã hội
36
2.1.3.
Hiện trạng môi trường
42
2.2.

Tiềm năng du lịch dựa vào cồng đồng vùng ven biển Nam Định
47
2.2.1.
Tiềm năng du lịch tự nhiên
47
2.2.2.
Tài nguyên du lịch nhân văn trong vùng
51
2.3
Hiện trạng về du lịch dựa vào cộng đồng
57
2.3.1.
Tổng quan chung về Nam Định
57
2.3.2.
Hiện trạng về du lịch dựa vào cộng đồng

60
2.3.3.
Đánh giá chung về hiện trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại
khu vực
74
2.3.4.
Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng
ở vùng ven biển Nam Định
75

Tiểu kết chƣơng 2
79


CHƢƠNG 3.
ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU
LỊCH CỘNG ĐỒNG Ở VÙNG VEN BIỂN NAM ĐỊNH
81
3.1.
Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của du lịch dựa
81

2
vào cộng đồng vùng ven biển
3.2.
Định hƣớng
84
3.2.1.
Định hướng về mô hình quản lý
84
3.2.2.
Định hướng về thị trường sản phẩm
88
3.2.3.
Định hướng về xúc tiến quảng bá
95
3.2.4.
Định hướng phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ.
97
3.3.
Giải pháp
98
3.3.1.
Hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển du lịch cộng đồng

98
3.3.2.
Nâng cao nhận thức xã hội, tăng cường sự ủng hộ, quan tâm của chính
quyền và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cộng đồng
102
3.3.3.
Nâng cao năng lực cộng đồng nhận thức
106
3.3.4.
Nâng cấp hạ tầng du lịch
107
3.3.5
Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
108
3.3.6
Hợp tác với doanh nghiệp lữ hành
110
3.3.7
Giải pháp về cơ chế phân chia lợi ích
111
3.4.
Kiến nghị mội số biện pháp hỗ trợ
115

Tiểu kết chƣơng 3
118

Kết luận
119


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu.
Du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong
những năm gần đây trong đó không thể không kể đến sự đóng góp của hoạt
động du lịch cộng đồng. Với mục tiêu chính là tạo ra thu nhập bổ sung cho
người dân, bảo tồn và duy trì các nguồn tài nguyên văn hóa của địa phương,
phát triển và tăng cường cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh doanh du lịch, xây dựng
năng lực và tăng thêm quyền cho cộng đồng, tạo sự hiểu biết giữa dân cư địa
phương với cơ sở kinh doanh và khách du lịch, du lịch dựa vào cộng đồng
ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội nói chung và phát triển hoạt động du lịch của địa phương nói riêng.
Thông qua hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng, người dân có thêm thu
nhập từ việc đón khách, cho thuê đất cắm trại, chỗ nghỉ đêm (home stay),
dịch vụ ăn uống và hướng dẫn khách tham quan
Tham gia các chương trình tour du lịch dựa vào cộng đồng, du khách
có cơ hội khám phá nơi sinh sống, tham quan, tìm hiểu các tập tục sinh hoạt,
tập quán canh tác của người dân bản địa. Tại các vùng nông thôn và vùng
ven biển, nơi chưa có sự tác động lớn của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là
vùng có nhiều người dân nghèo sinh sống với các nếp sinh hoạt mang đậm
đà bản sắc riêng rất phù hợp để phát triển loại hình du lịch dựa vào cộng
đồng
Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng là loại hình du lịch còn mới ở
Việt Nam. Một số mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng đã được
hình thành bước đầu ở một số địa phương như tại SaPa (Lào Cai), Thừa
Thiên - Huế do Tổ chức phát triển Hà Lan giúp đỡ; tại Hòn Mun - Khánh
Hòa, Giao Thủy - Nam Định do Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và phát

ii
triển cộng đồng tài trợ Một số địa phương cũng đã hình thành ở mức độ
khác nhau sự liên kết của cộng đồng trong kinh doanh du lịch Nhìn chung,

phát triển du lịch dựa vào cộng đồng nêu trên đã có tác dụng tích cực, đem
lại lợi ích cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo và nâng cao ý thức
về bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường. Song các kết quả này còn ở phạm
vi hẹp, tự phát, hoạt động du lịch cộng đồng còn nhiều khó khăn, bất cập,
chưa khai thác mạnh được những đặc điểm, lợi thế của du lịch dựa vào cộng
đồng.
Vùng ven biển Nam Định bao gồm các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu
Nghĩa Hưng tiếp giáp với biển Đông ở phía Đông Nam, diện tích khoảng
700km
2
. Bờ biển kéo dài 72km từ cửa Ba Lạt đến cửa Đáy.
Vùng ven biển Nam Định là khu vực rất phong phú về các kiểu sinh
cảnh, trong đó quan trọng nhất là các bãi cát ngập triều, trảng sậy và rừng
ngập mặn. Ngoài ra, các bãi bồi ngập triều cũng là một sinh cảnh quan trọng,
là nơi kiếm ăn của các loài chim ven bờ, trong số đó có một số loài được đưa
vào sách đỏ bị đe doạ toàn cầu như: Mòng bể mỏ ngắn, Cò mỏ thìa Đây
còn là nơi trú ngụ của một số loài chim khác với số lượng lớn. Rừng ngập
mặn ở vùng ven biển Nam Định có thực vật ưu thế thuộc loài Trang, Bần
Chua, Vẹt Dù và Sú.
Khu vực có giá trị về sinh cảnh và đa dạng sinh học phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch. Vùng ven biển Nam Định cũng là nơi có
nhiều địa danh lịch sử và giàu truyền thống văn hoá như là ngọn hải đăng
cồn Vành, thăm tượng đài Trường Chinh, thăm làng quê Hành Thiện, nhà
thờ Bùi Chu, nhà thờ Phú Nhai, đình, chùa của các xã, làng ven biển hoặc

iii
đi thuyền xa xa chút du khách đến thăm các nông trường cói, chiếu (Thái
Bình)…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tài nguyên và
môi trường tự nhiên ở vùng ven biển Nam Định đã và đang bị suy thoái, ô

nhiễm do tình trạng khai thác tài nguyên quá mức, tạo ra các sức ép đối với
tài nguyên môi trường của vùng ven biển. Do vậy, đề tài đã chọn vùng ven
biển Nam Định là điểm nghiên cứu
Các giá trị tài nguyên môi trường hiện đang bị tác động bởi sức ép
mưu sinh, sinh kế của người dân. Để bảo tồn và phát huy các giá trị trên, góp
phần phát triển bền vững cần có sự chuyển đổi phương thức sinh kế truyền
thống và du lịch cộng đồng là một phương pháp tiếp cận có hiệu quả.
Có thể dễ dàng nhận thấy, cộng đồng dân cư ở vùng ven biển Nam
Định sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, và khai thác các nguồn lợi sẵn có
về thuỷ sản và các giá trị sinh thái ven biển. Việc khai thác quá mức tự nhiên
này đã dẫn đến huỷ hoại sự đa dạng của các hệ sinh thái ven biển, đặc biệt là
hệ thống rừng ngập mặn ở VQG Xuân Thủy. Biến diện tích đất canh tác
nông nghiệp thành các ao nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt cũng là một cách tàn phá
tài nguyên đất đai, làm mặn hoá các cánh đồng đã được thau chua rửa mặn.
Trong bối cảnh trên việc lựa chọn một phương thức tiếp cận mới về
sinh kế của người dân sao cho vừa khai thác được những tiềm năng đa dạng
và phong phú về tự nhiên và văn hóa bản địa, vừa hạn chế được những tác
động, góp phần bảo tồn tự nhiên và văn hóa là hết sức cần thiết.
Phát triển du lịch nói chung, đặc biệt là du lịch dựa vào cộng đồng
chính là phương thức tiếp cận phù hợp với mục tiêu trên. Đây chính là lý do
chọn đề tài nghiên cứu.

iv
Đề tài: “Nghiên cứu phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại vùng ven
biển tỉnh Nam Đinh” sẽ góp phần khơi dậy tiềm năng phát triển loại hình du
lịch dựa vào cộng đồng của vùng ven biển, đồng thời hướng tới mục tiêu bảo
tồn bền vững đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh
thái thuỷ sinh vùng ven biển.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu

- Mục tiêu ngắn hạn: Cộng đồng dân cư ven biển có được phương
thức làm kinh tế với nghề mới, có được một mô hình quản lý khai thác tài
nguyên bền vững dưới góc độ tiếp cận mới.
- Mục tiêu lâu dài: Góp phần phát triển bền vững, bảo tồn và phát huy
các giá trị cảnh quan, sinh thái và văn hoá bản địa vùng ven biển Nam Định.
Thiết lập mối quan hệ lâu dài giữa các bên liên quan nhà quản lý -
công ty lữ hành - cộng đồng dân cư ven biển nhằm phát triển hiệu quả việc
kinh doanh du lịch vùng ven biển và nâng cao được đời sống của cộng đồng
vùng ven biển
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan một số cơ sở lý luận về cộng đồng, du lịch cộng đồng, du
lịch dựa vào cộng đồng. Đánh giá tiềm năng các điều kiện có liên quan và
hiện trạng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, xác định những vấn đề đặt
ra đối với phát triển du lịch dựa vào cộng đồng và nguyên nhân.
- Xác định định hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch
dựa vào cộng đồng tại vùng ven biển Nam Định.
3. Phạm vi nghiên cứu

v
Phạm vi lãnh thổ nghiên cứu gồm có 3 huyện vùng ven biển là Giao
Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng.
3.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá các điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội, các vấn đề về tài nguyên du lịch, môi trường trong hoạt
động kinh doanh du lịch và các lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch dựa
vào cộng đồng của vùng trên quan điểm tổng hợp và từ đó đưa ra các
khuyến nghị về không gian sử dụng hợp lý cho phát triển du lịch cộng đồng,
đặc biệt là phát triển du lịch dựa vào cộng đồng cho vùng ven biển nói
chung và vùng đệm VQG Xuân Thủy, từ đó đề xuất mô hình quản lý, tổ
chức du lịch dựa vào cộng đồng cho vùng ven biển Nam Định.

3.2. Cơ sở dữ liệu sẽ được sử dụng trong nghiên cứu
- Các tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đã công bố (số
liệu khí hậu, thuỷ văn; số liệu về kinh tế, xã hội; hiện trạng sử dụng đất ).
- Bản đồ địa hình khu vực nghiên cứu.
- Các tài liệu nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài.
- Các tài liệu, số liệu về hiện trạng du lịch cộng đồng xã Giao Xuân do
Trung tâm Bảo tồn Sinh vật Biển và Phát triển Cộng đồng (MCD), số liệu về
hiện trạng phát triển du lịch vùng ven biển của Sở Văn hóa Thể thao Du lịch
Nam Định cung cấp.
- Tài liệu nghiên cứu khảo sát thực địa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp chủ
yếu sau:

vi
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Đây là một phương pháp truyền
thống trong nghiên cứu khoa học. Phương pháp này được sử dụng xuyên
suốt trong quá trình giải quyết các nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Nhằm thu thập những số liệu, thông tin
thực tế về nhận thức, suy nghĩ của những nhà hoạch định chính sách. Số
liệu, thông tin thu thập được sẽ giúp hình thành bức tranh thực tế của vấn đề
nghiên cứu mang tính thực tế, có khả năng thực thi.
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp không thể thiếu trong
quá trình nghiên cứu về định lượng trong mối quan hệ chặt chẽ về mặt định
tính của các hiện tượng và quá trình, đối chiếu với quá trình phát triển du
lịch. Phương pháp toán thống kê được vận dụng nghiên cứu trong luận văn
này để xác định hiện trạng hoạt động du lịch thông qua các chỉ tiêu phát
triển ngành cơ bản. Về mặt nghiên cứu các vấn đề cộng đồng, phương pháp
này hỗ trợ xử lý các thông tin để xây dựng mô hình phù hợp cho nhiệm vụ
đã đặt ra.

- Phương pháp sơ đồ, bản đồ: Đây là phương pháp cần thiết trong quá
trình nghiên cứu có liên quan đến tổ chức lãnh thổ. Bản đồ được sử dụng
chủ yếu theo hướng chuyên ngành để phân tích đánh giá tiềm năng phát triển
du lịch và điều kiện có liên quan. Ngoài mục đích minh họa về vị trí địa lý,
phương pháp này còn giúp cho các nhận định, đánh giá trong quá trình
nghiên cứu được thể hiện một cách tổng quát.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa: Công tác thực địa có mục
đích cơ bản là kiểm tra chỉnh lý và bổ sung những tư liệu, đối chiếu và lên
danh mục cụ thể từng đối tượng nghiên cứu, sơ bộ đánh giá các yếu tố cần
thiết cho việc xây dựng các yếu tố hợp phần của mô hình tổ chức quản lý du
lịch dựa vào cộng đồng vùng ven biển Nam Định
5. Cấu trúc của luận văn

vii
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của khoá luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng.
Chương 2: Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch dựa vào
cộng đồng ở vùng ven biển Nam Định.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch dựa vào
cộng đồng tại vùng ven biển tỉnh Nam Định








CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH

DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
1.1. Cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng
1.1.1 Cơ sở lý luận về cộng đồng
1.1.1.1 Khái niệm về cộng đồng
Khái niệm về cộng đồng là một trong những khái niệm cơ bản của
khoa học xã hội và nhân văn với nhiều định nghĩa khác nhau.

viii
Cộng đồng thường được hiểu là những nhóm dân cư sinh sống trên
cùng một lãnh thổ qua nhiều thế hệ, có những đặc điểm chung về sinh hoạt
và văn hoá truyền thống, sử dụng chung các nguồn tài nguyên, môi trường.
Cộng đồng là nền tảng phát triển của mọi xã hội. Khái niệm cộng
đồng có thể được hiểu ở những mức độ quy mô khác nhau từ làng, bản đến
bộ tộc, dân tộc, quốc gia. Tuy nhiên trong thực tế, cộng đồng thường được
hiểu theo nghĩa hẹp, hạn chế đối với những nhóm cư dân sinh sống ở những
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội còn kém phát triển, cuộc sống của họ phụ
thuộc chủ yếu vào việc khai thác trực tiếp các nguồn tài nguyên thiên nhiên
[15, tr37].
Cộng đồng thường xem các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng,
đất đai, nguồn nước…là “ngân hàng” của họ, nơi mà họ có thể dựa vào để
sinh sống. Cộng đồng sử dụng các nguồn tài nguyên nơi mình sinh sống
cùng với việc phát triển các tập quán quản lý riêng. Họ khai thác tài nguyên
theo nhiều phương thức và chia sẻ lợi ích từ việc khai thác cho những thành
viên khác trong cộng đồng của mình. Việc chia sẻ nguồn lợi luôn đi liền với
chia sẻ trách nhiệm bảo tồn được xem là triết lý sống của cộng đồng được
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác [15, tr38].
Khái niệm cộng đồng bao gồm các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt chẽ, là một nhóm xã hội có
lúc khá phân tán, được liên kết bằng lợi ích chung trong một không gian tạm
thời, dài hay ngắn như phong trào quần chúng, công chúng khán giả, đám

đông… Đây là một định nghĩa rất hay được sử dụng trong khoa học xã hội,
gắn với các thực thể xã hội nhất định.
Có một định nghĩa khác nhìn nhận cộng đồng như một đặc thù chỉ có
ở nền văn minh con người, ở đó, con người hợp tác với nhau vì những lợi
ích chung, thường được gọi là tính cộng đồng.

ix
Nhìn chung có hai cách hiểu về cộng đồng: một là cộng đồng tính và
hai là cộng đồng thể. Hai cách hiểu về cộng đồng này khác nhau nhưng
không đối lập nhau. Cộng đồng tính là thuộc tính hay là quan hệ xã hội có
những đặc trưng mà các nhà xã hội học đã cố gắng xác định và cụ thể hoá,
chẳng hạn như tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng đồng, ý thức cộng
đồng… Cộng đồng thể tức là những nhóm người, những nhóm xã hội có tính
cộng đồng với rất nhiều thể có quy mô khác nhau, đó là các thể nhỏ, thể vừa,
thể lớn và thể cực lớn, kể từ gia đình, quốc gia đến nhân loại [15, tr40].
1.1.1.2. Bản chất cộng đồng
Theo một số nhà khoa học, khái niệm cộng đồng bao gồm bốn yếu tố:
1. Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác, tương quan
này đôi khi được gọi là tương quan đệ nhất đẳng, tương quan mặt
đối mặt, tương quan thân mật.
2. Có sự liên hệ về tình cảm và cảm xúc nơi cá nhân trong những
nhiệm vụ và công tác xã hội của tập thể.
3. Có sự hiến dâng tinh thần hoặc dấn thân đối với những giá trị
được tập thể coi là cao cả và có ý nghĩa.
4. Một ý thức đoàn kết với những người trong tập thể.
Các cộng đồng hội đủ bốn yếu tố trên khá phổ biến trước khi có sự
xuất hiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và nền kinh tế tư bản. Trong thế
giới ngày nay, vẫn có các cộng đồng có được các đặc tính trên và là những
cộng đồng hoàn chỉnh ở các khu vực mà một số các nhà nhân chủng học,
dân tộc học gọi là "tiền hiện đại" như các làng chẳng hạn [15, tr42].

1.1.1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành một cộng đồng
Các kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã cho thấy có nhiều
cách để tập hợp những yếu tố hình thành cộng đồng và đặc biệt là xác định
xem yếu tố nào đóng vai trò quan trọng nhất. Theo Tô Duy Hợp và Lương

x
Hồng Quang, có ba yếu tố quan trọng để tạo lập nên cộng đồng là yếu tố địa
vực, yếu tố kinh tế (nghề nghiệp) và yếu tố văn hoá.
+ Địa vực: nói đến cộng đồng là nói đến một tập thể người định cư
trên một vùng đất đai. Điều này giải thích tại sao yếu tố đất đai đã và vẫn có
những giá trị tinh thần tạo nên sự cấu kết tập thể mà câu nói cả miệng của
bất cứ người dân nào trên thế giới này thường hay nói đó là "đất mẹ của
tôi".
+ Kinh tế (nghề nghiệp): các hoạt động kinh tế không chỉ tạo cho cộng
đồng một sự đảm bảo về mặt vật chất để họ cùng nhau tồn tại mà chúng còn
có những đóng góp quan trọng khác. Nghề nghiệp chỉ là một phần của các
yếu tố kinh tế nhưng trong việc tạo nên sự cấu kết cộng đồng, tạo ra một sức
mạnh, một sự thống nhất chung thì nghề nghiệp có một vai trò hết sức quan
trọng. Các cộng đồng nông thôn với một hoặc vài nghề chính thì việc có
cùng một hoặc vài nghề trong một cộng đồng là một yếu tố tương đồng về
địa vị kinh tế, sở hữu, cách thức làm ăn.
+ Văn hoá: yếu tố văn hoá là một biểu thị có tính tổng hợp khi nhận
biết các cộng đồng, trong đó các khía cạnh đặc biệt cần chú ý trong phân tích
là tộc người, tôn giáo - tín ngưỡng và hệ giá trị và chuẩn mực.
Cùng chung một niềm tin tín ngưỡng - tôn giáo là sự chia sẻ những
ước nguyện về mặt tinh thần, tạo nên sự thống nhất tinh thần, củng cố nền
đạo lý chung tại cộng đồng. Trong thực tế, các tín ngưỡng dân gian và các
tôn giáo có sự lồng ghép với nhau trên một số nguyên lý, từ đó thống nhất về
mặt lịch sử các niềm tin của người dân, tránh những xung đột, tạo ra những
sức mạnh cấu kết cộng đồng mới có tính hiệu quả mạnh mẽ [15, tr43-47].

1.1.2. Các vấn đề liên quan giữa cộng đồng, phát triển du lịch
1.1.2.1. Khả năng tham gia của cộng đồng với hoạt động phát triển du lịch.

xi
Trong tất cả các nỗ lực nhằm đạt được mục tiêu bền vững trong phát
triển nói chung, phát triển du lịch nói riêng, thì sự tham gia của cộng đồng
địa phương đã đặc biệt được quan tâm và khuyến khích. Có rất nhiều nguyên
nhân khi đề cập đến sự tham gia của cộng đồng trong phát triển du lịch.
Trước tiên về mặt đạo đức và công bằng xã hội, cộng đồng là những
chủ nhân thực sự của các tài nguyên du lịch, cả tự nhiên lẫn nhân văn, mà
ngành du lịch dựa vào để thu hút khách, cho nên họ có quyền tham gia và
hưởng lợi từ các hoạt động du lịch trong khu vực. Qua đó, họ sẽ tự giác và
đóng vai trò chính trong việc gìn giữ tài nguyên du lịch phục vụ phát triển
du lịch nói riêng và sự phát triển bền vững nói chung.
Các cộng đồng địa phương không chỉ là những yếu tố thu hút khách
trong rất nhiều trường hợp mà còn là nguồn nội lực to lớn cho các hoạt động
phát triển du lịch, điều này đặc biệt quan trọng ở các nước đang phát triển.
Họ chính là nguồn nhân công với chi phí thấp nhất trong các dự án đầu tư
phát triển du lịch, điều mà các nhà đầu tư rất quan tâm nhằm tạo ra hiệu quả
chi phí trong đầu tư. Hơn nữa, với nguồn kiến thức bản địa phong phú của
mình, nếu được đào tạo hướng dẫn thì chính họ là những người phục vụ du
khách tốt hơn ai hết trong các hoạt động nghiệp vụ du lịch như: đón tiếp,
phục vụ ăn nghỉ, dẫn đường và hướng dẫn khách thăm quan…
Về mặt vĩ mô, sự tham gia và hưởng lợi từ các hoạt động du lịch của
cộng đồng còn đóng góp vào việc bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xã
hội vùng sâu, vùng xa, xoá đói giảm nghèo, giảm chênh lệch giữa các vùng
trong phát triển, định canh định cư, ổn định an ninh quốc phòng và trật tự an
toàn xã hội, chính trị, văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng…
Có 7 mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển


xii
1. Thụ động: Cộng đồng không có quyền và trách nhiệm xem xét, dự
báo về tương lai của hoạt động phát triển. Những thông tin này chỉ chia sẻ
giữa các tổ chức bên ngoài cộng đồng.
2. Đưa tin: Cộng đồng chỉ có trách nhiệm trả lời câu hỏi mà không có
vai trò, ảnh hưởng tới nội dung cần xử lý cho hoạt động phát triển. Kết quả
xử lý thông tin không được chia sẻ với cộng đồng.
3. Tư vấn: Cộng đồng được tham khảo ý kiến và quan điểm của cộng
đồng có được lưu ý. Tuy nhiên cộng đồng không được tham gia vào quá
trình ra quyết định.
4. Khuyến khích: Sự tham gia vào các hoạt động phát triển của cộng
đồng sẽ được khuyến khích bằng vật chất hay tinh thần, do vậy cộng đồng
thường sẽ không tiếp tục tham gia khi những khuyến khích này không còn.
5. Chức năng: Cộng đồng tham gia vào hoạt động phát triển theo
nhóm với các mục tiêu chức năng đã được xác định trước, do vậy sự tham
gia chưa được đầy đủ vì đã có những quyết định mang tính áp đặt.
6. Tương tác: Cộng đồng được tham gia vào quá trình ra quyết định
sau đó thông tin được phân tích để đưa ra kế hoạch hành động và thực hiện.
7. Tự vận động: Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển
được thực hiện độc lập với mọi can thiệp từ bên ngoài. Cộng đồng sẽ tự đưa
ra các sáng kiến và có thể làm thay đổi cả hệ thống [15.tr41].
Như vậy, đối với việc người dân tham gia vào hoạt động phát triển du
lịch, các phương thức tham gia này của cộng đồng sẽ là một quá trình để xác
định và củng cố vai trò của cộng đồng trong công tác quy hoạch, trong quá
trình thực hiện, giám sát và đánh giá các hoạt động có ảnh hưởng đến đời
sống của cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng còn có thể được nhìn dưới
một góc độ khác như sau:

xiii
- Tham gia vào việc xác định những cơ hội và điểm mạnh cho phát

triển - cộng đồng địa phương hiểu về nhu cầu của họ rõ hơn bất kỳ người
bên ngoài nào khác và có những ý tưởng tốt nhất để lập ra các chiến lược
phù hợp với các hoạt động du lịch cộng đồng của họ.
- Tham gia vào quá trình quy hoạch - cộng đồng địa phương nắm được
những hạn chế và tiềm năng tài nguyên của họ có thể sử dụng cho việc xây
dựng để đạt được các mục đích hay mục tiêu đã xác định của họ.
- Tham gia vào quá trình thực hiện - mặc dù bị hạn chế về tài chính,
nhưng cộng đồng địa phương cũng có thể đóng góp bằng việc đưa ra những
gợi ý, chia sẻ kinh nghiệm và các hình thức giúp đỡ khác và trở thành một
phần của chương trình.
- Tham gia vào việc chia sẻ lợi ích - những lợi ích đạt được từ các hoạt
động du lịch cộng đồng cần được phân phối tới mọi nhóm người có liên
quan trong cộng đồng nếu không sẽ không khuyến khích được sự tham gia
của họ.
- Tham gia vào quá trình giám sát và đánh giá - cộng đồng địa phương
là những người bảo vệ các tài nguyên quanh mình và họ có thể theo dõi
những thay đổi và sửa đổi các sản phẩm du lịch theo nhu cầu và những gì
mà họ cho là tốt nhất theo kiến thức bản địa của họ. Họ có thể đánh giá
những can thiệp bên ngoài hay nhu cầu sửa đổi [25].
1.1.2.2. Cộng đồng vùng ven biển.
Cuộc sống cộng đồng người dân vùng ven biển dựa chủ yếu vào các
nguồn lợi có nguồn gốc từ biển và chính cuộc sống của họ lại là sức ép và
nguồn gây ô nhiễm đáng kể tác động làm suy giảm các nguồn tài nguyên,
môi trường vốn rất nhạy cảm ở khu vực này. Những tác động chủ yếu của
cộng đồng vùng ven biển bao gồm:

xiv
- Chất thải sinh hoạt từ các khu dân cư trên đất liền ở vùng ven biển
và từ các "làng" thuyền chài trên các vũng, vịnh ven bờ trực tiếp đổ ra biển
làm ô nhiễm chất lượng nước biển ven bờ và lâu dài làm suy thoái môi

trường và các hệ sinh thái vùng ven bờ và hải đảo.
- Việc khai thác rừng ngập mặn để phục vụ sinh hoạt và gần đây để
phát triển nuôi tôm, làm tổn hại đến nơi cư trú (habitat) của các loài thuỷ
sinh vốn rất phong phú ở hệ sinh thái này. Kết quả tác động này của cộng
đồng không chỉ làm suy giảm đa dạng sinh học hệ sinh thái đất ngập nước
ven biển mà còn làm tăng nguy cơ xói mòn môi trường đất vùng bờ biển, hải
đảo vốn rất mong manh.
Ở những khu vực ven biển có hệ sinh thái rừng phát triển thì ngoài
những tác động trên, việc khai thác rừng cũng có những tác động đáng kể
không chỉ làm suy thoái bản thân hệ sinh thái rừng mà sẽ còn làm gia tăng
quá trình bồi lấp các cửa sông, tăng độ đục vùng nước biển khu vực cửa
sông do quá trình rửa trôi. Kết quả của quá trình này cũng sẽ ảnh hưởng, làm
suy thoái hệ sinh thái san hô, cỏ biển ở những khu vực này.
- Hoạt động đánh bắt thuỷ sản vùng nước ven bờ (vốn rất phổ biến ở
những nước đang phát triển như Việt Nam do hạn chế về năng lực đánh bắt
xa bờ của cộng đồng) làm suy giảm đáng kể đa dạng sinh học vùng nước
ven bờ. Tác động này càng trở nên nghiêm trọng khi cộng đồng sử dụng
những công cụ đánh bắt có tính huỷ diệt như lưới vét, mìn, xung điện, v.v.
Đây là vấn đề ảnh hưởng đáng kể của cộng đồng dân cư đến môi trường
vùng ven biển, hải đảo.
- Hoạt động neo đậu tàu thuyền của cộng đồng thiếu quy hoạch cũng
có những ảnh hưởng đáng kể đến sự tồn tại, phát triển của các rạn san hô
ven bờ. Kết quả của tác động này cũng ảnh hưởng đến đa dạng sinh học hệ

xv
sinh thái san hô - hệ sinh thái đặc thù rất có giá trị du lịch ở các nước nhiệt
đới.
Cùng với những tác động của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội,
sinh hoạt đời sống cộng đồng cũng có những tác động đáng kể đến tài
nguyên và môi trường vùng ven biển, hải đảo. Như vậy hoạt động du lịch

với sự tham gia của cộng đồng, nhất là ở vùng ven biển, trước hết cần được
tổ chức sao cho bản thân cộng đồng hạn chế được những tác động tiêu cực
của chính mình đối với môi trường vốn rất nhạy cảm ở khu vực này. Vấn đề
này cần được cân nhắc và quan tâm trong quá trình nghiên cứu đề xuất mô
hình hoạt động du lịch với sự tham gia của cộng đồng.
1.1.3. Du lịch cộng đồng
1.1.3.1 Khái niệm
Khái niệm du lịch cộng đồng xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20,
tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất cho khái niệm này.
Do có những quan điểm nghiên cứu, góc nhìn khác nhau về vị trí của
du lịch cộng đồng mà cho đến nay còn tồn tại khá nhiều ý kiến, khái niệm về
vấn đề này, những khái niệm này được sử dụng khá linh hoạt và được thay
đổi tùy thuộc vào tác giả, địa điểm và các dự án cụ thể, song các vấn đề về
bền vững và cộng đồng địa phương (điển hình ở khu vực nông thôn, những
người nghèo, và ở vùng sâu vùng xa) là những nội dung chính được đề cập,
xem xét.
Theo Nicole Hausle và Wolffang Strasdas: “Du lịch cộng đồng là một
hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát
triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế
địa phương”.
Theo Hsien Hue Lee, Đại học cộng đồng Hsin-Hsing, Đài Loan: “Du
lịch cộng đồng là nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch đón

xvi
khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. Đồng thời khuyến khích và
tạo ra các cơ hội tham gia của người dân địa phương trong du lịch”
Tại hội thảo “Chia sẻ Bài học Kinh nghiệm Phát triển Du lịch Cộng
đồng” được Tổng cục Du lịch tổ chức tại Hà Nội năm 2003 đã xác định:
“Phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng nhằm đảm bảo văn hóa,
thiên nhiên bền vững, nâng cao nhận thức và tăng quyền lực cho cộng đồng.

Cộng đồng được chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch, nhận được sự hợp tác,
hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức quốc tế”
Ngoài ra còn nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau, tuy nhiên có thể
thống nhất và hiểu du lịch cộng đồng là loại hình du lịch bền vững dựa vào
cộng đồng địa phương. Du lịch cộng đồng là một cách tiếp cận nhằm tạo ra
lợi nhuận cao nhất cho người dân địa phương, những người sử dụng du lịch
như một công cụ tạo nguồn lợi kinh tế. Du khách phải trả tiền khi họ đến
tham quan khu vực và khoản tiền này được sử dụng để bảo vệ các di sản văn
hóa và thiên nhiên và giúp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đó.
Căn cứ vào những nội hàm được đa số thống nhất, có thể đưa ra khái
niệm chung về du lịch cộng đồng như sau:
“Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mang lại cho du khách những
trải nghiệm về bản sắc cộng đồng địa phương, trong đó cộng đồng địa
phương tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch, được hưởng lợi ích kinh tế
- xã hội từ hoạt động du lịch và có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên, môi
trường, bản sắc văn hóa của cộng đồng”[8. tr6].
1.1.3.2. Mức độ tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch
Mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch khác nhau tùy
thuộc vào vai trò của cộng đồng:
- Mức độ thụ động: theo đó cộng đồng chỉ được xem là đối tượng du
lịch (tài nguyên) và hầu như không có vai trò gì đối với hoạt động phát triển

xvii
du lịch. Trong trường hợp này các công ty du lịch sẽ đưa điểm quần cư cộng
đồng với những yếu tố chính là con người, lối sống cộng đồng, văn hóa, tín
ngưỡng, kiến trúc quần cư,v.v.) vào chương trình du lịch và coi đó là một
điểm đến để đưa khách đến tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm về con người,
văn hóa, lối sống của cộng đồng. Cộng đồng không có vai trò gì (tham gia
thụ động) đối với kế hoạch phát triểnp;‟du lịch và hầu như không được
hưởng lợi ích từ hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch trong trường hợp cộng

đồng tham gia một cách thụ động thường được gọi là “Du lịch tham quan
cộng đồng”
- Mức độ có tham gia: theo đó cộng đồng tham gia cung cấp một số
dịch vụ (bán hàng lưu niệm, dịch vụ ăn uống, v.v.) tại điểm du lịch nơi cộng
đồng sinh sống và qua đó được hưởng một số lợi ích về vật chất. Trong
trường hợp này, ngoài vai trò là “tài nguyên” như trên, cộng đồng đã có vai
trò nhất định trong hoạt động du lịch và được hưởng một phần lợi ích trong
chuỗi giá trị du lịch. Hoạt động du lịch trong trường hợp này thường được
gọi là “Du lịch có sự tham gia của cộng đồng”
- Mức độ chủ động: theo đó cộng đồng là chủ thể tổ chức và cung cấp
dịch vụ và qua đó sẽ đem đến cho du khách những trải nghiệm tốt về cộng
đồng, về những giá trị tự nhiên và văn hóa nơi cộng đồng sinh sống. Trong
trường hợp này các công ty du lịch sẽ chỉ đóng vai trò là đối tác của cộng
đồng. Cộng đồng vừa có vai trò là “tài nguyên” vừa đóng vai trò là người tổ
chức khai thác chính các giá trị “tài nguyên” đó. Trong trường hợp này hoạt
động du lịch thường được gọi là “Du lịch dựa vào cộng đồng” hay “Du lịch
cộng đồng”. Du lịch cộng đồng chính là hình thức nơi đảm bảo mức độ tham
gia cao nhất của cộng đồng vào hoạt động du lịch [8, tr7-10]
1.1.4. Cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng

xviii
1.1.4.1. Khái niệm về du lịch dựa vào cộng đồng
Du lịch dựa vào cộng đồng nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm
du lịch đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. Du lịch dựa vào
cộng đồng khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương trong du lịch
và cần có cơ chế tạo ra các cơ hội cho cộng đồng.
Du lịch dựa vào cộng đồng là sự tương tác giữa khách và chủ mà có
sự tham gia có ý nghĩa của cả hai phía và tạo các lợi ích kinh tế, bảo tồn cho
cộng đồng địa phương và môi trường. (Học viện nghiên cứu núi, Malaixia
2002).

Theo Nicole Hausle và Wolfgang Strasdas – 2002 có định nghĩa: Du
lịch dựa vào cộng đồng là loại hình du lịch mà một số lớn người dân địa
phương có quyền kiểm soát nó và và có sự tham gia trong việc quản lý và
phát triển du lịch cộng đồng. Phần lớn thu nhập được giữ lại cho kinh tế của
địa phương
Du lịch dựa vào cộng đồng đó được thống nhất tại cuộc họp Bộ
trưởng du lịch lần đầu tiên năm 2000 tại Hàn Quốc và được trình bày tại
Hiến chương về du lịch của APEC. Hiến chương thừa nhận vai trò quan
trọng của du lịch trong việc phát triển kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa
của các nền kinh tế thành viên trong tổ chức APEC. Hiến chương nhấn mạnh
tầm quan trọng của du lịch dựa vào cộng đồng thông qua các nhận định sau
[2]:
- Du lịch dựa vào cộng đồng là động lực quan trọng tăng cường cơ hội
kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Là một phương tiện hữu ích để cân bằng lợi ích kinh tế giữa các vùng
miền trong nền kinh tế, đặc biệt là vùng nông thôn.
- Là cầu nối giữa lĩnh vực nhà nước và tư nhân.

xix
Du lịch dựa vào cộng đồng đó và đang được áp dụng không chỉ ở các
nền kinh tế phát triển như Canada, Australia mà cũng được áp dụng ở các
nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, Lào Có rất nhiều dự án phát
triển du lịch dựa vào cộng đồng trong khu vực APEC nhưng các dự án này
chủ yếu là dự án thực hiện một lần do các tổ chức phi chính phủ (NGOs) đề
xuất và quản lý thực hiện. Năm 1999, Chính APEC đó quản lý các dự án
CBT ở một số nền kinh tế thành viên với mục đích phân tích các nhân tố có
thể ảnh hưởng tới nền kinh tế khi thực hiện CBT. Cho đến nay, vẫn chưa có
những đánh giá về ảnh hưởng của CBT tới tương lai lâu dài của nền kinh tế.
Nhưng phát triển du lịch được xem như là công cụ để tái cơ cấu nền kinh tế
và thực sự rất cần thiết phải thực hiện đúng mọi nguyên tắc và cơ chế của

CBT. Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng như là một phần của tiến trỉên
phát triển cân đối nền kinh tế . Điều đó cũng chứng tỏ, CBT không phải là
mô hình phát triển kinh tế mới lạ mà nó chỉ là một công cụ phát triển của
nền kinh tế.
Cộng đồng dựa vào du lịch như là một công cụ xóa đói, giảm nghèo,
cân bằng lợi ích kinh tế ở vùng nông thôn do Bộ du lịch Malaysia phối hợp
với nhóm nghiên cứu kế hoạch Du lịch tại trường đại học kỹ thuật Malaysia
thực hiện từ tháng 11/2008 đến tháng 4/2009. Nghiên cứu thực hiện nhằm
mục đích nâng cao hiểu biết của các nước thành viên về khái niệm CBT,
cách thực hiện tốt mô hình CBT và tương lai phát triển lâu dài của CBT
thông qua kinh nghiệm thực hiện thành công mô hình CBT ở khu vực
APEC.
Du lịch dựa vào cộng đồng (CBT) là một công cụ phát triển cộng
đồng, ở đó tăng cường khả năng của cộng đồng địa phương trong việc quản
lý nguồn du lịch và đảm bảo sự tham gia của cộng đồng địa phương trong
hoạt động du lịch [2]. CBT có thể giúp nhân dân địa phương tăng thêm thu

xx
nhập, đa dạng hóa nền kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ môi trường
và có cơ hội nhận thêm các chương trình đào tạo, giáo dục. Vì CBT có thể
tạo thêm thu nhập cho người dân địa phương nên nó được xem như là một
công cụ xóa đói, giảm nghèo. CBT yêu cầu phải thực hiện trong thời gian
dài và mục đích chính là tối ưu hóa lợi nhuận cho cộng đồng địa phương và
hạn chế các ảnh hưởng xấu của du lịch tới cộng đồng và nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Du lịch dựa vào cộng đồng cần được tiếp cận theo một cách có hệ
thống, từ việc nghiên cứu tính ổn định của cộng đồng tham gia vào hoạt
động du lịch đến việc đảm bảo tất cả thành viên trong cộng đồng được tham
gia vào thực hiện dự án đồng thời tham gia vào việc kiểm soát và hạn chế
các ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của họ. Một số đặc điểm của CBT

được UNEP và UNWTO chỉ ra như sau [2]:
- Cộng đồng tham gia vào giám sát và đánh giá từ những khâu đầu tiên
của việc kinh doanh du lịch, không chỉ tài nguyên thiên nhiên mà còn đánh
giá văn hóa địa phương ở những nơi họ đi thăm.
- Cộng đồng cung cấp các dịch vụ ăn ngủ nghỉ đến giải thích thuyết
minh trong tour du lịch.
- Hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường tự nhiên và đời sống
văn hóa xã hội của người dân.
- Hỗ trợ bảo vệ tự nhiên và văn hóa thông qua việc tạo ra lợi ích kinh tế
từ các nguồn lợi đó.
- Tạo nguồn thu nhập khác và tạo công ăn việc làm cho người dân.
- Tăng cường hiểu biết của người dân và khách du lịch về sự bảo tồn tự
nhiên và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Sự khác biệt giữa “Du lịch dựa vào cộng đồng” và “Du lịch cộng
đồng” ở chỗ khi đề cập đến “Du lịch dựa vào cộng đồng” là muốn nhấn

xxi
mạnh đến hình thái tổ chức hoạt động du lịch còn khi đề cập đến “Du lịch
cộng đồng” là đề cập cả đến hình thái tổ chức và đối tượng du lịch là công
cộng [13].
1.1.4.2. Vai trò của du lịch dựa vào cộng đồng
Với bản chất của du lịch dựa vào cộng đồng, việc phát triển du lịch
dựa vào cộng đồng sẽ có những tác động tích cực bao gồm [11]:
- Góp phần tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương, đặc biệt ở vùng
nông thôn nơi tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đây sẽ là yếu tố tích cực góp phần
làm giảm tác động của cộng đồng đến các giá trị cảnh quan, tự nhiên và qua
đó sẽ góp phần bảo tồn tài nguyên, môi trường đảm bảo cho phát triển du
lịch bền vững;
- Góp phần để cộng đồng, đặc biệt là những người dân chưa có điều
kiện trực tiếp tham gia vào các dịch vụ du lịch, được hưởng lợi từ việc phát

triển hạ tầng du lịch (giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, v.v.).
Đây cũng sẽ là yếu tố tích vực để đảm bảo sự công bằng trong phát triển du
lịch, một trong những nội dung quan trọng của phát triển du lịch bền vững;
- Góp phần tạo cơ hội việc làm cho cộng đồng và qua đó sẽ góp phần
làm thay đổi cơ cấu, nâng cao trình độ lao động khu vực này. Đây sẽ là yếu
tố quan trọng góp phần hạn chế được dòng di cư của cộng đồng từ khu vực
nông thôn ra ku vực thành thị, ổn định xã hội đảm bảo cho phát triển bền
vững chung;
- Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng sẽ góp phần tích cực trong việc
phục hồi và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, nghề truyền thống, vì
vậy có đóng góp cho phát triển du lịch bền vững từ góc độ tài nguyên, môi
trường du lịch;
- Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh giao
lưu văn hóa và kế đến là giao lưu kinh tế giữa các vùng miền, giữa Việt Nam

xxii
với các dân tộc trên thế giới. Đây cũng là yếu tố quan trọng trong bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam đồng thời tạo cơ hội để
phát triển kinh tế ở những vùng còn khó khăn, đảm bảo sự phát triển bền
vững nói chung, du lịch nói riêng.
Với những tác động tích cực trên, việc đẩy mạnh phát triển du lịch nói
chung, du lịch dựa vào cộng đồng nói riêng sẽ có vai trò rất quan trọng trong
phát triển bền vững ở Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ người dân sống
ở vùng nông thôn ở Viêt Nam còn cao, chiếm tới hơn 70% dân số cả nước,
tỷ lệ hộ đói nghèo cũng còn khá cao [8].
1.1.4.3. Các nguyên tắc của phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
Một số nguyên tắc chủ yếu đối với phát triển du lịch dựa vào cộng
đồng được xác định dựa trên bản chất của du lịch cộng đồng bao gồm:
- Công bằng về mặt xã hội: các thành viên của cộng đồng sẽ tham gia
vào việc lên kế hoạch, triển khai, kiểm soát các hoạt động du lịch tại cộng

đồng, ở đây cần nhấn mạnh sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương
vào quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động du lịch. Từ đó lợi ích kinh
tế sẽ được chia sẻ công bằng và rộng khắp, không chỉ riêng cho các công ty
du lịch mà còn dành cho các thành viên của cộng đồng.
- Tôn trọng các giá trị văn hóa của cộng đồng: thực tế cho thấy
chương trình du lịch nào cũng ảnh hưởng ít nhiều đến cộng đồng địa
phương. Điều quan trọng là các giá trị văn hóa của cộng đồng phải được bảo
vệ và giữ gìn với sự đóng góp tích cực của tất cả các thành phần tham gia
vào hoạt động du lịch, đặc biệt là cư dân địa phương bởi không đối tượng
nào có khả năng bảo vệ và duy trì các giá trị văn hóa tốt hơn chính họ. Cộng
đồng địa phương phải nhận thức được vai trò và vị trí của mình cũng như
những lợi, hại mà phát triển du lịch mang đến.

×