Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Tăng cường công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Chi cục Hải quan cửa khẩu Hữu Nghị - Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.23 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Tên đề tài:
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG BUÔN
LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TẠI CHI CỤC HẢI
QUAN CỬA KHẨU HỮU NGHỊ - CỤC HẢI QUAN
TỈNH LẠNG SƠN
Giảng viên hướng dẫn : GS.TS Hoàng Đức Thân
Họ và tên sinh viên : Trịnh Thu Hường
Mã sinh viên : CQ 507601
Chuyên ngành : Kinh tế
Lớp : Hải Quan 50
Hệ : Chính quy
Thời gian thực tập : 06/02/2012 => 21/05/2012 (Đợt 1)
Hà Nội, tháng 05/ 2012
MỤC LỤC
Trang
PHÒNG THUẾ XNK 91
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Sơ đồ 2.1: Các bước xác định rủi ro của một lô hàng XNK.………………… 51
PHÒNG THUẾ XNK 91
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1
2
3
4
5
6


7
8
9
10
11
12
13
14
CCHQ
CCHQCK
CBL
CNTT
CSDL
CK
ĐTTP
GLTM
KS
KSLN
KTSTQ
KNTM
KTQD
KTTT
Chi cục hải quan
Chi cục hải quan cửa khẩu
Chống buôn lậu
Công nghệ thông tin
Cơ sở dữ liệu
Cửa khẩu
Điều tra tội phạm
Gian lận thương mại

Kiểm soát
Kiểm soát liên ngành
Kiểm tra sau thông quan
Kim ngạch thương mại
Kinh tế quốc dân
Kinh tế thị trường
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
NK
QLKCN
QLRR
QL1A
TMXLVP
TP
TCCB
TQ
TTXLTTNVHQ
VPHC

VN
XHCN
XK
XNK
Nhập khẩu
Quản lý khu công nghiệp
Quản lý rủi ro
Quốc lộ 1A
Tham mưu xử lý vi phạm
Thành phố
Tổ chức cán bộ
Trung Quốc
Trung tâm xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan
Vi phạm hành chính
Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa
Xuất khẩu
Xuất nhập khẩu
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Ở VN trong những năm gần đây, KTTT và những đặc trưng của nó cũng
như sự tự do kinh doanh đã mở ra nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thúc đẩy quan hệ giao thương buôn bán
giữa các quốc gia một cách mạnh mẽ. VN là nước đi lên từ một nền kinh tế
nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém không đủ các điều kiện cần
thiết cho nền kinh tế phát triển. Trước tình hình đó, Nhà nước ta đã chuyển
hướng phát triển kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT
có sự quản lý điều tiết Vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế
kinh tế mở đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho VN trong tiến trình hội nhập
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế

trong nước phát triển. VN có thể NK máy móc trang thiết bị, nguyên vật liệu
của nước ngoài kết hợp với các yếu tố năng lực sản xuất trong nước để phát triển
sản xuất và đáp ứng nhu cầu trong nước. Tuy nhiên do sản xuất trong nước còn
nhiều yếu kém, các sản phẩm sản xuất chất lượng còn thấp, giá thành và chi phí
cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm với hàng hoá của nước ngoài là chưa
mạnh. Do vậy để bảo vệ sản xuất trong nước, Nhà nước phải đặt ra hàng rào
thuế quan, hạn ngạch, v.v Mặt trái của chính sách này là làm cho tệ nạn buôn
lậu và GLTM diễn ra một cách phức tạp ở hầu khắp các cửa khẩu, địa phương
trong cả nước.
Trước tình hình này, ở nước ta đang đặt ra những vấn đề hết sức nóng
bỏng. Trên tuyến đường nào cũng có hàng lậu, hàng giả, điều này gây ra những
khó khăn và thiệt hại nghiêm trọng cho cả sản xuất và tiêu dùng trong nước. Do
vậy mỗi chúng ta phải có sự nhìn nhận đúng đắn và đầy đủ về vấn đề này để
không tiếp tay cho gian thương và phối hợp cùng với cơ quan chức năng thực
hiện công tác đấu tranh CBL và GLTM một cách có hiệu quả. Đây cũng luôn là
mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Tệ nạn buôn lậu và GLTM ở
1
nước ta trong những năm gần đây có nhiều diễn biến phức tạp và đang là một
trong những trở ngại lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước . Chính
vì vậy, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng lĩnh vực đấu tranh phòng, chống
buôn lậu, GLTM và đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để ngăn chặn, phòng
ngừa tệ nạn này.
Lạng Sơn là một tỉnh biên giới tiếp giáp với nước bạn ở Sùng Tả (Quảng
Tây, TQ) lên đến 253km đường biên giới, là cửa ngõ phía Đông Bắc của Tổ
quốc. Có 2 cửa khẩu quốc gia: cửa khẩu Chi Ma (huyện Lộc Bình), Bình Nghi
(huyện Tràng Định), 2 cửa khẩu quốc tế: cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng và cửa
khẩu đường bộ Hữu Nghị; cùng 7 cặp chợ biên giới với TQ. Hàng năm, với
lượng khách du lịch, tiểu và trung thương cùng với khối lượng hàng hóa XNK
và lưu lượng phương tiện vận tải lớn qua các cửa khẩu này, đặc biệt là Hữu
Nghị Quan – điểm đầu của tuyến đường QL1A huyết mạch đi khắp các miền

trong cả nước, nối VN với TQ và từ đó đến với các nước châu Âu, đồng thời
cũng là con đường quan trọng nối TQ với các nước ASEAN. Hoạt động XNK
trên địa bàn Lạng Sơn, đặc biệt là qua cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị diễn ra rất sôi
động, đa dạng và phức tạp với đủ loại hình của trên hàng nghìn doanh nghiệp,
công ty trong và ngoài nước. Nhưng cùng với sự phát triển về hoạt động XNK,
lưu thông hàng hóa cũng phát sinh không ít những hoạt động buôn lậu, GLTM
và những vi phạm pháp luật Hải quan.
Trước những tiêu cực đó, Cục Hải quan Lạng Sơn nói chung và Chi cục
Hải quan cửa khẩu Hữu Nghị nói riêng đã từng bước khắc phục kịp thời những
sơ hở thiếu sót trong công tác giám sát quản lý tăng cường công tác thuế, thanh
kiểm tra, đặc biệt đẩy mạnh công tác đấu tranh CBL và GLTM. Phối hợp với
các lực lượng trong và ngoài Ngành để tổ chức điều tra, xác minh những vụ việc
trọng điểm, phát hiện phương thức, thủ đoạn mới của gian thương, để ngăn chặn
và xử lý kịp thời, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội.
2
Xuất phát từ những ý kiến nêu trên, được sự phân công của nhà trường,
sự giúp đỡ của giáo sư, tiến sĩ Hoàng Đức Thân, các đồng chí cán bộ công tác
tại CCHQCK Hữu Nghị, cùng với nghiên cứu thực tiễn trong thời gian thực tập
và kiến thức đã được học tại nhà trường, chuyên đề “Tăng cường công tác
phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại tại Chi cục Hải quan cửa
khẩu Hữu Nghị - Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn” được chọn là mang tính cấp
thiết, thời sự, phù hợp với thực tiễn hoạt động của CCHQCK Hữu Nghị, cũng
như tình hình đấu tranh CBL và GLTM trong cả nước. Do thời gian thực tập
ngắn, hiểu biết còn hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong được sự đóng góp cũng như sửa chữa của quý thầy cô và các đồng chí
hải quan Hữu Nghị.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Đối tượng nghiên cứu: Công tác CBL và GLTM của CCHQCK Hữu Nghị.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong lĩnh vực ngoại thương thông qua hoạt
động XK và NK hàng hoá qua biên giới tại CCHQCK Hữu Nghị trong những

năm gần đây.
3. Bố cục của chuyên đề
Ngoài phần Lời mở đầu, Danh mục từ viết tắt, Danh mục bảng biểu, Kết
luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, thì nội dung chuyên đề được phân
bổ thành 3 chương như sau:
Chương 1 . Những vấn đề cơ bản về công tác phòng chống buôn lậu và GLTM
tại cơ quan hải quan.
Chương 2. Thực trạng công tác phòng chống buôn lậu và GLTM tại CCHQCK
Hữu Nghị - Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tăng cường công tác phòng chống buôn
lậu, GLTM tại CCHQCK Hữu Nghị
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG
CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GLTM TẠI CƠ QUAN HẢI QUAN
1.1. HÌNH THỨC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA BUÔN LẬU VÀ GLTM QUA BIÊN
GIỚI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
1.1.1. Khái niệm buôn lậu.
Thuật ngữ buôn lậu được sử dụng với những ý nghĩa rất khác nhau. Từ góc
độ của khoa học về ngôn ngữ, cụm từ "buôn lậu" có ý nghĩa là buôn bán những
hàng hoá trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa những hiểu biết
xưa nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ thông hiện nay.
Buôn lậu là 1 trong 16 hành vi GLTM được tổ chức Hải quan thế giới quy
định .Có thể hiểu một cách nôm na: Buôn lậu là hành vi lén lút đưa hàng hóa
XNK qua biên giới trốn tránh hoặc chống lại sự kiểm tra, KS của Hải quan bằng
cách không đi qua cửa khẩu, hoặc tuy có đi qua cửa khẩu nhưng dùng thủ đoạn
bí mật bất hợp pháp như trà trộn hàng lậu trong các hàng hóa khác có làm thủ
tục, cấu tạo chỗ bí mật để giấu hàng lậu để che dấu hàng hóa, trốn tránh,
chống lại sự kiểm tra của Hải quan, nhằm đạt được lợi ích cuối cùng là thu được
lợi nhuận thặng dư siêu ngạch. Hành vi buôn lậu có khi chỉ có giá trị nhỏ, nhưng

hầu hết phải do những tổ chức bất hợp pháp có đường dây bất hợp pháp qua
biên giới, có khi xuyên quốc gia thực hiện.
Từ xa xưa, trong "Quốc triều Hình luật" của triều Lê (1428 - 1788) được xem
là Bộ Luật hình sự hoàn chỉnh nhất của thể chế phong kiến Việt Nam, tội danh
buôn lậu không được quy định. Mặc dù vậy "Quốc triều Hình luật" đã quy định
"những trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hoá
lên bờ thì bị xử biếm (cách chức), phạt gấp 3 tang vật để sung công…". Những
người bán ruộng đất ở bò cõi, binh khí; các thứ chất nổ có thể chế hoả tiễn, hoả
pháo cho người nước ngoài đều phải tội chém", "bán mắm muối ra nước ngoài
… thì bị xử đi Châu Xa". Các mặt hàng cấm XK lúc đó được quy định gồm:
4
ruộng đất, thuốc nổ, vũ khí, sắt, đồng, vàng da trâu, gỗ lim, vỏ quế, trân châu,
ngà voi … Những hành vi cụ thể, tách biệt nói trên trong tiềm thức xã hội đều
được gộp chung lại là hiện tượng buôn lậu chứ không có tội danh buôn lậu.
Trước năm 1985, thuật ngữ "tội buôn lậu" đã được đề cập trong một số văn
bản pháp luật nước ta như Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh
sát nhân dân (20/7/1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép (30/6/1982). Song về cơ bản tội danh "buôn lậu" lúc đó
chưa được hướng dẫn nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu thành và dấu hiệu
pháp lý đặc trưng. Phần lớn người ta vẫn chịu ảnh hưởng của các quan niệm
truyền thống, cho rằng buôn lậu bao gồm các hành vi kinh doanh trái phép, trốn
thuế, đầu cơ tích trữ, làm hàng giả, buôn bán hàng cấm.
Từ năm 1985, Bộ luật Hình sự ra đời (27/06/1985) đã chính thức ghi nhận
tội danh buôn lậu. Điều 97 của Bộ Luật Hình sự tội buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định: "Người nào buôn bán trái
phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm …". Bắt đầu từ đây, tội danh buôn lậu đã được xác định
với bốn yếu tố cấu thành tội phạm (các mặt khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
thể, mặt chủ quan) và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nên đã có tác dụng

hướng dẫn nhận thức cũng như chỉ đạo thực phi pháp luật.
Từ năm 1986, đất nước chuyển sang phát triển KTTT, tình hình buôn lậu
có xu hướng gia tăng. Đến năm 1999, trước yêu cầu của thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm buôn lậu, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá 10, ngày
21/12/1999, Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung, sửa đổi Bộ luật hình
sự, tại Điều 153 của Bộ luật, tội buôn lậu được quy định thành một tội độc lập
(đã tách tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định
tại Điều 154 Bộ luật hình sự):
5
Như vậy, về mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở hành vi
“buôn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý hoặc
những vật phẩm có giá trị khác ”. Hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới” là
cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, được xác định như sau:
- Buôn bán qua biên giới, trái với quy định về quản lý hải quan những
hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc
hàng hóa là các vật phẩm thuộc di tích, lịch sử văn hóa hay hàng cấm có số
lượng lớn. Hành vi đó thường được thể hiện dưới một số hình thức như: không
khai báo, khai báo gian dối; giả mạo giấy tờ dùng trong XNK; giấu hàng hoá
tiền tệ; không đi qua các cửa khẩu hoặc trốn tránh sự kiểm tra, giám sát của Hải
quan, Thuế vụ, Bộ đội biên phòng, Công an
- Không có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ của các cơ quan có thẩm quyền khi
thực hiện XK, NK hàng hóa.
1.1.2. Khái niệm và các hình thức GLTM
Gian lận thương mại theo Từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc" trong hoạt
động thương mại. Người có hành vi GLTM gọi là "gian thương" tức là "người
có nhiều mưu mô lừa lọc", "kẻ buôn bán gian lận và trái phép". Gian lận được
coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói hoặc cử chỉ, hành động không
đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục đích đánh lừa người khác.
Trong dân gian GLTM gắn liền với thành ngữ "buôn gian, bán lận" và dùng để
chỉ những thủ đoạn mánh khóe lừa lọc khách hàng hoặc người khác để thu lời

bất chính. Hành vi "buôn gian, bán lận" trong dân gian được hiểu bao gồm một
số thủ đoạn đơn giản như: hàng xấu nói tốt, ít nói nhiều, rẻ nói đắt, cân đo điêu,
buôn bán hàng cấm, lén lút, giấu giếm, lậu thuế … Hành vi GLTM trước hết
phải là hành vi gian lận được thể hiện trong lĩnh vực thương mại. Chủ thể của
hành vi GLTM là các chủ hàng, có thể là người mua hoặc người bán, cũng có
khi là cả người mua và người bán. Mục đích của hành vi GLTM là nhằm thu lợi
bất chính từ thực hiện trót lọt hành vi lừa đảo, dối trá.
6
Như vậy, GLTM trong lĩnh vực Hải quan là những hành vi GLTM của chủ
hàng trong hoạt động XK để trốn tránh việc KS và quản lý của Hải quan. Vấn đề
này được Hội đồng Hợp tác Hải quan (nay là Tổ chức Hải quan thế giới) chú ý
từ những ngày mới thành lập. Trong Bản khuyến nghị về giúp đỡ hành chính lẫn
nhau do Hội đồng Hợp tác Hải quan quốc tế đưa ra ngày 5/12/1975 cũng đã đề
cập vấn đề giúp đỡ hành chính lẫn nhau về chống GLTM. Qua nhiều lần bổ
sung, thảo luận, đến 9/6/1977 định nghĩa về GLTM trong lĩnh vực Hải quan mới
được Hội đồng Hợp tác Hải quan quốc tế đưa ra trong Công ước quốc tế về hỗ
trợ hành chính lẫn nhau trong ngăn chặn, trấn áp và điều tra các vi phạm Hải
quan - Công ước Nairobi. Khái niệm về GLTM trong lĩnh vực Hải quan được
Công ước Nairobi nêu ra như sau:
"Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi phạm pháp luật Hải
quan trong đó một cá nhân lừa dối Hải quan để nhằm lẩn tránh một phần hoặc
toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, việc áp dụng các biện pháp cấm hoặc hạn
chế do luật pháp Hải quan quy định, hoặc thu được một khoản lợi nhuận nào đó
qua việc vi phạm pháp luật này".
Về khái niệm này đã khái quát được hành vi GLTM trong lĩnh vực Hải quan,
hành vi đó được thể hiện bằng sự lừa dối thông qua hành động lẩn tránh việc
nộp thuế và tuân thủ pháp luật hải quan nhằm mục đích thu được một khoản lợi
nào đó. Thực tế, trong bối cảnh hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát
triển, song song với xu thế này là những hoạt động GLTM cũng ngày càng phức
tạp, tinh vi. Điều đó cho thấy, khái niệm trên chưa thể hiện được một cách đầy

đủ, chính xác hành vi GLTM trong lĩnh vực hải quan. Vì vậy, tại hội nghị quốc
tế lần thứ V về chống GLTM trong lĩnh vực hải quan do Tổ chức Hải quan thế
giới triệu tập tại Brussels (Bỉ) từ ngày 9/10/1995 đến ngày 13/10/1995 đã xem
xét lại khái niệm về GLTM trong lĩnh vực hải quan và thống nhất đưa ra một
khái niệm mới như sau:
7
"Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi phạm các điều
khoản pháp quy hoặc pháp luật hải quan nhằm:
- Trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh việc nộp thuế hải quan, phí và các khoản
thu khác đối với việc di chuyển hàng hoá thương mại và/hoặc:
- Nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hoá
không thuộc đối tượng đó và/hoặc:
- Đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho
các nguyên tắc và tập tục, cạnh tranh thương mại chân chính".
Trong điều kiện KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động GLTM ngày
càng đa dạng và tinh vi, phức tạp hơn. Hội nghị đã thống nhất phân chia các
hình thức GLTM thành 16 loại:
1) Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải
quan (thí dụ: Buôn bán động vật quý hiếm, sản phẩm văn hoá …)
2) Khai báo sai chủng loại hàng hoá.
3) Khai tăng, giảm giá trị hàng hoá.
4) Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hoá (ví dụ: Nhà nước ta có chính
sách ưu đãi về thuế đối với hàng hoá của các nước ASEAN, Trung Quốc, ).
5) Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng hoá gia công.
6) Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng hoá
được miễn thuế xuất nhập khẩu nhưng đã sử dụng sai mục đích ).
7) Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu (thí dụ các loại giấy
phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng, cho y tế,
văn hoá, xã hội …)
8) Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước (ví dụ: hàng của Lào,

Trung Quốc vận chuyển qua lãnh thổ Việt Nam).
9) Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá.
8
10) Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, buôn bán trái phép hàng hoá được
sử dụng nhất định (ví dụ: Hàng cho đồng bào bị bão lụt, cho các dân tộc miền
núi để xoá đói giảm nghèo, hàng cho các cơ quan ngoại giao…).
11) Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ người
tiêu dùng.
12) Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.
13) Buôn bán hàng không có sổ sách
14) Làm giả, làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế Hải quan (thí dụ:
Làm giả chứng từ về hàng đã xuất…)
15) Kinh doanh "ma" để hưởng tín dụng thuế trái phép.
16) Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (ví dụ:
Công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá sản).
Nhìn chung, đối với các nước trên thế giới, tuỳ thuộc vào mức độ tác hại,
hậu quả của các hành vi GLTM đó mang lại cho xã hội sẽ bị xử lý hành chính
hay xử lí hình sự. Đối với nhiều nước như Mỹ, Nhật, Pháp bên cạnh việc áp
dụng các công ước quốc tế xử lý 16 hành vi này theo luật Hải quan, còn quy
định trong Luật Hình sự các tội danh cụ thể tương ứng với những hành vi đó.
Hiện nay, một vấn đề mới trong GLTM mà Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
cũng đang rất quan tâm đó là Gian lận thương mại trong chuyển tải hàng hoá
xuất nhập khẩu. Chuyển tải là một khâu cần thiết trong quá trình thực hiện hoạt
động thương mại, nhằm đưa hàng hoá từ nơi này đến nơi khác nhưng phải đi qua
một số địa điểm nhất định nào đó. Tuy nhiên, đôi khi chủ hàng sử dụng hoạt
động chuyển tải để che giấu xuất xứ thực sự của hàng hoá và đó là GLTM trong
chuyển tải. Do vậy, GLTM trong chuyển tải được hiểu như sau “Gian lận trong
chuyển tải là việc sử dụng một nước thứ 3 để giấu nguồn gốc thực sự của hàng
hoá, che mắt Hải quan của nước nhập khẩu”. Tại nước thứ 3, người ta cung cấp
các tài liệu giả hoặc có hoạt động gian dối nhằm thay đổi nguồn gốc hàng từ XK

9
sang nước quá cảnh (hay nước thứ 3). Như vậy đến khi nhập vào, họ tránh được
hạn chế đặt ra của nước nhập như: hạn ngạch, li xăng, chế độ ưu đãi,…
Qua thực tế cho thấy, một số dạng GLTM qua chuyển tải là :
- Hàng hoá đưa vào một cảng hoặc một kho ở nước chuyển tải ở đây chúng
có thể thay thế được nhãn rồi lại bốc lên tàu và xem như sản phẩm của nước
chuyển tải hoặc một số nước nào đó.
- Hàng đưa vào nước chuyển tải là hàng hoàn chỉnh hoặc bán sản phẩm
nhưng được khai là nguyên nhiên phụ kiện, được coi là nguyên liệu để sản xuất
hoặc để chế biến và nghiễm nhiên trở thành sản phẩm của nước chuyển tải.
- Hàng mang giấy tờ giả để chứng minh là hàng của nước thứ 3 trên đường
đi từ nước xuất hàng đến nước nhập hàng.
1.1.3. Tác động của buôn lậu và GLTM qua biên giới đối với
kinh tế - xã hội.
• Hậu quả đối với nền kinh tế
Buôn lậu, GLTM có tác hại rất lớn đối với nền kinh tế, những thành tựu
của công cuộc đổi mới mà đất nước đang tiến hành. Buôn lậu, GLTM có nguy
cơ kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo thành một lực cản lớn đối với
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hàng hoá nhập lậu là hàng gian lận, trốn thuế sẽ làm mất tính cân bằng
trong cạnh tranh thương mại giữa hàng nội và hàng ngoại, đồng thời làm thất thu
thuế XNK và các sắc thuế khác dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà nước. Thuế
quan đánh trên hàng hoá XNK nhằm mục đích làm tăng giá của hàng NK, bảo
vệ và kích thích sản xuất nội địa. Vì vậy, hàng nhập lậu - gian lận trốn thuế đã
phá vỡ cạnh tranh lành mạnh giữa hàng nội và hàng ngoại nhập. Hàng ngoại
nhập lậu vào thị trường do trốn thuế nhập khẩu nên giá rẻ hơn, chất lượng cao
hơn hàng nội do có công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị khoa học hiện đại.
Trong khi đó, những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước vẫn phải nhập
10
khẩu và chịu thuế một số nguyên vật liệu, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ

sản phẩm, họ còn phải nộp các khoản thuế khác như: thuế giá trị gia tăng, thuế
thu nhập doanh nghiệp… Mặt khác, hệ thống công nghệ kỹ thuật trong một số
lĩnh vực sản xuất hiện vẫn còn đang lạc hậu, không đồng bộ, năng suất và hiệu
quả thấp, hàng hoá không phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, nên không đủ sức
cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên chính thị trường của mình Theo quy luật
cung - cầu và giá trị hàng hoá trên thị trường thì cuộc cạnh tranh giữa hàng nội
và hàng nhập thì hàng nhập lậu do giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn, làm cho hàng
nội không tiêu thụ được trên thị trường dẫn đến đọng vốn, thiếu nợ vốn. Điều
này dễ làm cho các doanh nghiệp sản xuất đứng trước nguy cơ phá sản, nhất là
những doanh nghiệp và những ngành công nghiệp non trẻ, mới ra đời. Đây thực
sự là mối đe dọa đời sống của hàng nghìn công nhân trong các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất trong nước.
Cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập lậu không chỉ gây thiệt hại cho
người sản xuất, mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Hàng ngoại tràn ngập
thị trường với giá rẻ tạo nên thị hiếu, tâm lý ưa dùng hàng ngoại. Tuy hàng
ngoại với giá rẻ hơn giá thành hàng nội là do trốn được thuế nhưng rất bấp bênh
vì không phải lúc nào nhập hàng cũng trốn được thuế. Mặt khác, các hoạt động
tăng cường đấu tranh CBL, GLTM của các lực lượng chức năng sẽ làm cho
nguồn hàng khan hiếm, vì vậy trong từng thời kỳ sẽ nẩy sinh cơn sốt về giá, về
hàng, làm đảo lộn sự ổn định giá cả trên thị trường. Với cạnh tranh đó, kết cục
tất yếu là hàng ngoại lấn át hàng nội địa, phá vỡ thế bình ổn giá cả, sản xuất
trong nước bị đình đốn. Nhập lậu hay xuất lậu cũng gây thiệt hại như nhau về
kinh tế, bởi nhập lậu ồ ạt biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hoá của
nước ngoài, đặc biệt là hàng dư thừa, ế ẩm. Còn xuất lậu hàng hoá, đặc biệt là
nguyên liệu, khoáng sản, nhiên liệu thô, các mặt hàng chiến lược, hàng quốc
cấm sẽ làm cho tài lực của đất nước cạn kiệt. Hậu quả rõ nhất làm mất cân đối
giữa sản xuất và tiêu dùng, làm chệch hướng phát triển của nền kinh tế.
11
Mặt khác, buôn lậu và GLTM còn làm cho đất nước thất thu lớn về thuế
XNK và các sắc thuế khác gây ảnh hưởng đến quá trình cân đối thu - chi ngân

sách của Nhà nước, làm thất thoát ngoại tệ mạnh ra ngoài biên giới.
• Hậu quả về mặt văn hoá - xã hội
Buôn lậu, GLTM gây nên những hậu quả phức tạp và nặng nề về mặt văn
hoá - xã hội. Đây là một trong những yếu tố làm gia tăng giữa giàu và nghèo, tạo
đà cho việc thuê mướn, bóc lột sức lao động. Một số tư thương đánh mất khuynh
hướng tạo việc làm, chỉ mải mê làm giàu thông qua buôn lậu, GLTM. Hiện
tượng buôn lậu xuất hiện đã lôi kéo một lực lượng lao động khá lớn tham gia
vào đội quân “cửu vạn” mang vác hàng qua biên giới. Lực lượng đó không chỉ
bao gồm lao động tại chỗ, mà còn có cả lao động từ nơi khác đến làm cho sản
xuất bị buông lỏng, tình hình trật tự an toàn xã hội cũng bị biến động. Thành
phần lao động bị tiền thuê mướn cám dỗ, có cả trẻ em ở tuổi đến trường, bỏ sản
xuất, bỏ học hành làm “cửu vạn”. Đây là đội ngũ tiếp tay và bao che cho buôn
lậu, có những làng thuộc khu vực biên giới đường bộ người dân ở đây bỏ cả sản
xuất, coi việc mang vác, vận chuyển “thuê” hàng hoá nhập lậu là một nghề để
sinh sống.
Tệ nạn buôn lậu, GLTM là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xã hội,
ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá dân tộc.
Những kẻ buôn lậu không từ một thủ đoạn nào để thu được nhiều lợi nhuận bất
chính, đồng tiền bất chính đã làm hại những người đi buôn lậu, làm nẩy sinh các
tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè… ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách
con người, làm cho đạo đức của nhiều kẻ bị tha hoá. Không chỉ có thế, buôn lậu
và GLTM bao giờ cũng dẫn đến tiêu cực, tham nhũng dễ dẫn đến tha hoá một bộ
phận cán bộ công chức của Nhà nước. Thực tế cho thấy những ngành chức năng
trong hoạt động CBL, GLTM; trong điều hành, thực thi chính sách thương mại
hoặc liên quan đến hoạt động thương mại nếu không vững vàng sẽ bị lôi kéo,
mua chuộc và trở thành nô lệ của đồng tiền. Do bị lôi kéo bởi khoản lợi nhuận
12
khổng lồ, gian thương tìm mọi mánh khoé, mọi thủ đoạn để móc nối với một số
cán bộ Nhà nước bị tha hoá, biến chất. Do bị sự cám dỗ của đồng tiền mà họ đã
lợi dụng vị trí, quyền lực nhà nước giao cho để cấu kết với buôn lậu, tiếp tay và

bao che cho các buôn lậu, GLTM và hình thành những đường dây phức tạp, khó
phát hiện.
Hàng nhập lậu tuồn vào thị trường nội địa bất hợp pháp trong đó còn có
nhiều tài liệu phản động, văn hoá đồi trụy, thậm chí có cả vũ khí của những phần
tử thù địch từ nước ngoài chuyển về. Một bên là bọn buôn lậu hám lợi và phi
nghĩa, một bên là các thế lực thù địch luôn có ý đồ làm thay đổi bản sắc văn hoá
dân tộc, từ đó làm thay đổi bản chất của dân tộc được hình thành từ trong quá
trình đấu tranh chống lại áp bức bóc lột và phát triển sản xuất. Bọn buôn lậu lợi
dụng triệt để quá trình mở cửa để tăng cường chống phá ta trên mặt trận văn hoá
- xã hội bằng các thủ đoạn tuyên truyền lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền,
ấn hành các sản phẩm văn hoá, phủ nhận quá khứ của dân tộc, ca ngợi lối sống
hưởng thụ, chúng tuồn vào nước ta băng hình, tác phẩm văn hoá đồi trụy, phản
động… Cho nên những tác hại do buôn lậu gây ra không chỉ thuần tuý về kinh
tế, mà nó còn ảnh hưởng đến văn hoá - xã hội, xâm hại thuần phong mỹ tục của
đất nước.
• Hậu quả đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
Những hậu quả do buôn lậu, GLTM gây ra đối với nền kinh tế và đối với
nền văn hoá xã hội đã dẫn đến những tác hại về mặt chính trị, gây khó khăn cho
sự quản lý Nhà nước. Hàng nhập lậu, gian lận trốn thuế làm cho thị trường hỗn
loạn, đời sống kinh tế của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, tệ nạn xã hội
phát triển; công bằng, văn minh xã hội không được thiết lập; nhà nước thất thu
thuế nên không cân đối được thu - chi ngân sách, một số quỹ phúc lợi bảo hiểm
xã hội bị giảm sút…
Buôn lậu và các chủ thể buôn lậu vì những khoản lợi nhuận khổng lồ đã
bất chấp pháp luật, bất chấp chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước với
13
những thủ đoạn tinh vi để thu lợi nhuận bất chính. Những khoản lợi nhuận này
tạo cho bọn buôn lậu giàu có và ăn chơi sa đoạ, phung phí, trong khi đại bộ phận
nhân dân làm ăn chân chính thì sống khó khăn và nghèo khổ. Chính sự bất công
đó đã làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, kèm theo

khủng hoảng cả hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Một trong những hậu quả nữa của buôn lậu gây ra về mặt chính trị là tác
hại của nó đối với chủ quyền và an ninh quốc gia. Ngày nay, hoà bình, hợp tác
để phát triển đang trở thành xu hướng của thời đại, sức mạnh quân sự đang được
thay thế bằng sức mạnh kinh tế. Với ưu thế về kinh tế khoa học, kỹ thuật, các
nước tư bản phát triển đã và đang thực hiện chiến lược “biên giới mềm” đẩy thế
giới vào cuộc chiến tranh không có khói lửa - chiến tranh kinh tế. KTTT là giải
pháp hữu hiệu để tăng trưởng kinh tế, nên các nước chậm phát triển đều có xu
hướng phát triển KTTT, mở rộng quan hệ với nước ngoài để thu hút vốn và khoa
học kỹ thuật tiên tiến. Với chính sách mở cửa thì cuộc chiến tranh giành thị
trường nổ ra không kém phần gay go so với các hình thức chiến tranh khác.
Chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa với hình thức xâm lăng mới, đó là “diễn
biến hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”, hàng hoá đến đâu là biên giới
đến đó - dần dần các nước chậm phát triển từng bước phụ thuộc vào kinh tế và
cuối cùng phải phụ thuộc vào chính trị. Trên thực tế, biên giới nhiều quốc gia
vẫn còn nguyên vẹn, bộ máy nhà nước vẫn do những cán bộ trong nước điều
hành, nhưng thực chất độc lập, chủ quyền lãnh thổ bị mất. Vì vậy, bảo vệ an
ninh biên giới không chỉ là việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà thực chất là bảo
vệ các tiềm năng - yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo vệ an ninh quốc gia
góp phần bảo vệ vững chắc nguồn nhân lực, vật lực, tài lực là phục vụ cho sự
phát triển của nền kinh tế và sự vững chắc của chế độ chính trị.
• Ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội
Buôn lậu, GLTM gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối nền kinh tế, văn
hoá xã hội, chính trị, đây là những hậu quả trực tiếp dễ nhìn nhận. Một hậu quả
14
khác không kém phần nguy hại là hậu quả của buôn lậu, GLTM dưới góc độ cả
về vĩ mô và vi mô. Nó làm cho cơ quan quản lý nhà nước không KS được tình
hình XNK và liên doanh đầu tư với ngoài; công tác điều hành của cơ quan chức
năng gặp nhiều khó khăn và hoạt động kém hiệu quả.
Xét về góc độ quản lý vĩ mô, buôn lậu và GLTM là một trong những

nguyên nhân làm hàng hoá nội địa bị đình trệ trong khâu phân phối và tiêu dùng,
sản xuất trong nước bị đình đốn. Nhiều doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa
không cạnh tranh nổi trên thị trường, nợ nần chồng chất dẫn đến phá sản, kéo
theo sự gia tăng của đội quân thất nghiệp. Buôn lậu, GLTM còn là nguyên nhân
trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến các tệ nạn xã hội, đó là tham nhũng, tha hoá,
rượu chè, cờ bạc, trộm cắp… Do đó, nó làm cho công tác quản lý của Nhà nước
thêm khó khăn, phức tạp. Mặt khác, buôn lậu và GLTM trực tiếp dẫn đến thất
thu về thuế XNK và các sắc thuế khác, đây là khoản thu lớn của ngân sách nhà
nước. Điều này ảnh hưởng đến các kế hoạch về kinh tế, tài chính khiến nhà nước
mất cân đối về thu - chi ngân sách. Buôn lậu, GLTM còn phá vỡ sự bình ổn của
thị trường, tạo nên cơn sốt về hàng hoá và giá cả làm cho nhà nước không quản
lý được hoạt động XNK; việc hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội bị sai lệch…
Những hậu quả của buôn lậu, GLTM đối với quản lý vĩ mô đã trực tiếp và
gián tiếp ảnh hưởng đến quản lý vi mô. Hệ thống pháp luật của ta về quản lý
hoạt động XNK còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, nếu không nói là chồng chéo,
mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, những chủ thể buôn lậu, GLTM đã lợi dụng kẽ
hở, những quy định thiếu chặt chẽ của Nhà nước để thực hiện hành vi buôn lậu,
gian lận trốn thuế. Từ đó việc quản lý của cơ quan nhà nước ở cơ sở gặp nhiều
khó khăn do sự lũng đoạn thị trường của hàng ngoại nhập lậu. Giải pháp đấu
tranh CBL, GLTM, tăng cường hiệu lực kiểm tra, KS của các ngành chức năng
vẫn chưa được giải quyết tận gốc, buôn lậu đã làm cho một số cơ quan quản lý
lúng túng, bị động, khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội.
15
Cũng dưới góc độ quản lý, trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, hàng ngoại
nhập với lợi thế về giá cả rẻ hơn hàng nội do trốn được thuế, chất lượng tốt, mẫu
mã đẹp nên được tiêu thụ mạnh, tạo nên tâm lý ưa dùng hàng ngoại (như hàng
điện tử, gia dụng…) trong nhân dân. Nhưng do nguồn hàng không ổn định, giá
cả không ổn định nên buôn lậu là nguyên nhân gây nên những cơn sốt về hàng,
về giá cả hàng hoá làm cho thị trường nội địa không thiết lập, lưu thông hàng

hoá bị rối loạn và gây ách tắc cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
• Ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng
Hành vi buôn lậu có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, giống nòi của cộng
đồng thông qua việc đưa hàng giả, hàng nhái hoặc những loại hàng kém phẩm
chất, không đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định của nhà nước tuồn vào tiêu
thụ trong nội địa đặc biệt là các loại hàng hoá phải đảm bảo tiêu chuẩn về vệ
sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về y tế, tiêu chuẩn chất lượng như: Tân
dược, đồ chơi trẻ em, mũ bảo hiểm, rượu, nước giải khát…
 Tóm lại những hậu quả và tác hại do buôn lậu, GLTM gây nên đó là: Làm
mất ổn định giá cả thị trường, kìm hãm sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến
môi trường đầu tư, gây thất thu cho ngân sách cho nhà nước, tạo nên sự cạnh
tranh không bình đẳng giữa hàng nội và hàng ngoại, là nguyên nhân phát sinh
các tiêu cực trong xã hội. Vì vậy tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại phải
được ngăn chặn một cách triệt để và là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có
ngành Hải quan.
1.2. HẢI QUAN VN TRONG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GLTM.
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan VN trong phòng chống
buôn lậu và GLTM
• Chức năng:
Chức năng về quản lý Nhà nước về Hải quan thể hiện ở hai mặt: quản lý
bằng chính sách pháp luật và bằng hoạt động kiểm tra, giám sát. Nhà nước tạo
điều kiện thuận lợi đối với hoạt động XK, NK, nhập cảnh, xuất cảnh qua biên
16
giới trên cơ sở tuân thủ pháp luật VN, điều ước quốc tế có liên quan đến hoạt
động Hải quan mà VN ký kết và công nhận.
Ở nước ta, ngày 30 tháng 8 năm 1984, Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết
số 547/NQ/HĐNN phê chuẩn việc lập Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội
đồng Bộ trưởng, tiếp theo ngày 20 tháng 10 năm 1984 Hội đồng Bộ trưởng ban
hành Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của Tổng cục Hải quan, Nghị định 139/HĐBT nêu rõ “Tổng cục Hải quan, cơ

quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, là công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng
và Nhà nước có chức năng:
- Kiểm tra và quản lý hàng hóa, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ vận
tải xuất nhập qua biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Thi hành chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu;
- Ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ Hải quan và các luật lệ khác
liên quan đến việc xuất nhập khẩu;
- Chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới”.
Nghị định 139/HĐBT đã đánh dấu một bước phát triển mới của Hải quan
VN. Bằng văn bản pháp lý, Nhà nước đã xác định tính chất công tác hải quan,
làm rõ sự thống nhất về đầu mối quản lý trong toàn ngành, về vai trò, vị trí của
Hải quan VN trong sự nghiệp xây dựng đất nước, góp phần bảo vệ chủ quyền
quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phục vụ công tác đối ngoại.
Trong đó, chức năng CBL, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các
hành vi vi phạm pháp luật Hải quan khác được xác định là một trong những
chức năng cơ bản và quan trọng của ngành Hải quan.
Trên cơ sở, kế thừa thành tựu và kết quả đã đạt được, Pháp lệnh Hải quan
được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 20 tháng 2 năm 1990 quy định chức
năng của Hải quan VN là: “Quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động
17
xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt nam.
Đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối, tiền
Việt Nam qua biên giới”. Sự ra đời của Pháp lệnh Hải quan năm 1990 đánh dấu
một giai đoạn phát triển quan trọng về chất của ngành Hải quan cả về quy mô,
phương thức và hiệu quả hoạt động.
• Nhiệm vụ:
Hải quan VN, khi tiến hành kiểm tra, giám sát, kiểm soát, có nhiệm vụ tổ
chức đấu tranh CBL hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối, tiền VN qua
biên giới; áp dụng các biện pháp phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý các vi

phạm theo quy định của pháp luật.
Để thể chế hóa kịp thời các quan điểm đổi mới của Đảng về chính sách
phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến Hải quan và đáp ứng đòi hỏi các cam
kết quốc tế liên quan đến hoạt động Hải quan mà VN tham gia hoặc có nghĩa vụ
phải thực hiện. Sau một thời gian chuẩn bị dự án Luật Hải quan, ngày 29 tháng 6
năm 2001 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X toàn văn Luật Hải quan đã được
thông qua. Điều 11, Luật Hải quan quy định nhiệm vụ của Hải quan: “Hải quan
Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận
tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức
thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị
chủ trương biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hóa hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”. Điều 32 của Luật Hải quan năm 2001 đã chính
thức hóa về mặt pháp lý đối với công tác KTSTQ, đây là một trong những biện
pháp nghiệp vụ của phương pháp quản lý hải quan hiện đại đó là việc kiểm tra
các chứng từ thương mại, chứng từ sổ sách kế toán sau khi hàng đã được thông
quan, để thẩm định lại mức độ chính xác của các thông tin về các lô hàng, do
chủ hàng khai báo trước đó.
18
Để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và GLTM, ngành Hải quan
có quan hệ phối hợp với các lực lượng chức năng trong và ngoài phạm vi địa
bàn hoạt động của mình (địa bàn hoạt động hải quan).
1.2.2. Nội dung công tác phòng chống buôn lậu và GLTM của Hải quan
VN
- Công tác xây dựng văn bản và thực hiện pháp luật về phòng chống buôn
lậu, GLTM: được quy định tại Luật hải quan, thành lập và tuân thủ Quy chế hoạt
động của lực lượng Hải quan chuyên trách phòng, chống buôn lậu, quy định
thực hiện các nghiệp vụ kiểm soát hải quan. Thường xuyên cập nhật, sáng tạo về
đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới, GLTM diễn biến phức tạp, tinh
vi. Trong quá trình hoạt động của mình thì hải quan VN đã có những kiến nghị

bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động
hải quan như: Luật thương mại, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật doanh nghiệp…
từng bước hoàn thiện chính sách quản lý để phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường.
- Công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, GLTM của Hải quan là một
quá trình lâu dài, bao gồm nhiều biện pháp nghiệp vụ, phối hợp với các đơn vị
trong và ngoài ngành để phòng ngừa, phát hiện, xử lý các vi phạm trên.
- Trong công tác phòng ngừa buôn lậu và GLTM thì cơ quan Hải quan chủ
trì phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan thực hiện các hoạt động phòng,
chống buôn lậu trong địa bàn hoạt động hải quan, nghiên cứu hành vi, thủ đoạn
buôn lậu và GLTM Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết đặc biệt là
phương pháp quản lý mới nhất - QLRR, thu thập thông tin trong nước và ngoài
nước liên quan đến hoạt động hải quan để chủ động phòng, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, phục vụ thông quan hàng hóa và
KTSTQ
- Công tác nghiệp vụ khi Hải quan phát hiện các dấu hiệu vi phạm, phát
hiện hàng hóa nhập lậu, trốn thuế đó là áp dụng các biện pháp: khởi tố vụ án, lấy
19
lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến
vụ án, khám người, khám nơi lưu trữ trong khu vực kiểm soát của Hải quan,
trưng cầu giám định, khởi tố bị can, tiến hành các biện pháp điều tra khác theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự , kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ cho
Viện kiểm sát
- Công tác của đơn vị chuyên trách phòng chống buôn lậu và GLTM là Lực
lượng Hải quan chuyên trách phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hoá qua biên giới (gọi tắt là lực lượng kiểm soát Hải quan) tiến hành các biện
pháp nghiệp vụ đặc thù , bao gồm: TTXLTTNVHQ (Hải quan thế giới gọi hoạt
động này là Tình báo hải quan); vận động quần chúng tham gia phòng, chống
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới; điều tra nghiên cứu nắm
tình hình; tuần tra kiểm soát; các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp

luật để phục vụ việc xác minh, làm rõ và xử lý hành vi vi phạm pháp luật hải
quan; Tiến hành một số hoạt động điều tra theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật
tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự; cơ sở bí mật; sưu tra; đấu
tranh chuyên án; nội tuyến; ngoại tuyến; trinh sát kỹ thuật.
- Để khuyến khích hoạt động phòng, chống buôn lậu và GLTM nhà nước
đã ban hành chính sách, chế độ đảm bảo kinh phí cho hoạt động của các lực
lượng CBL và GLTM như: Kinh phí đảm bảo cho các hoạt động điều tra, xác
minh, bắt giữ, lưu kho bãi, định giá, đấu giá, chi trả cho người cung cấp tin đã
phần nào hỗ trợ, động viên cho công tác này.
1.2.3. Vai trò của hải quan trong công tác phòng chống buôn lậu và
GLTM qua biên giới.
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Vì vậy, các
nước đều phải có luật pháp và các cơ quan chức năng ngăn ngừa, phòng chống
các tệ nạn trong lĩnh vực thương mại.
Việc tăng cường giao lưu để hợp tác, trao đổi là một đòi hỏi tất yếu để hoà
nhập với nền kinh tế thế giới. Trong mối quan hệ đa phương đó, sự xâm nhập
20
của các yếu tố tiêu cực có tính quốc tế là không thể tránh khỏi được, và một khi
có sự gian lận trong hoạt động XNK, GLTM thì tình trạng tham nhũng, tiêu cực
vẫn còn xảy ra và phát triển.
Qua nghiên cứu lịch sử phát triển, hình thành của Hải quan VN cho thấy,
cơ quan hải quan chiếm một vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, là “Người
lính biên phòng trên mặt trận kinh tế”, được thể hiện ở chỗ: cơ quan hải quan,
mặc dù tên gọi, cơ cấu tổ chức bộ máy có thể thay đổi theo từng giai đoạn để
phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử của đất nước, nhưng là cơ quan quản lý
duy nhất trong hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về Hải quan nói chung và phòng chống buôn lậu, GLTM nói riêng.
Vì vậy đó là bộ phận không thể thiếu, không thể thay thế trong bộ máy hành
chính Nhà nước.
Nguồn thu từ thuế XNK bảo đảm một phần thu lớn cho ngân sách nhà

nước. Hải quan làm tốt công tác phòng chống buôn lậu và GLTM giúp Nhà
nước không thất thoát hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Công tác thu ngân sách của
ngành trong những năm qua luôn vượt mức kế hoạch được giao, số thu năm sau
cao hơn năm trước, chiếm từ 25% đến hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, là
nguồn thu không thể thiếu của ngân sách Nhà nước.
Hải quan quản lý tốt nguồn hàng XNK, ngăn chặn hàng lậu, hàng giả vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ góp phần đắc lực vào sự phát triển hoạt động XK,
NK, đầu tư du lịch, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, góp phần
hạn chế nhập siêu. Công tác thu thuế mỗi năm luôn vươt mức kế hoạch được
giao, số thu thuế năm sau cao hơn năm trước, chiếm từ 25 – 30% tổng thu ngân
sách Nhà nước. Hạn ngạch thuế quan bảo trợ nền sản xuất trong nước, điều tiết
lượng hàng hóa và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Đồng thời cũng tạo thuận lợi
cho giao thương hàng hóa quốc tế, giải phóng hàng hóa, tạo thuận lợi cho kinh
doanh và giao thương.
21

×