Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp: Đánh giá tình hình quản lý thu chi BHXH tại BHXH huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương giai đoạn 2003 đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.79 KB, 97 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG/BIỂU/SƠ ĐỒ/HÌNH VẼ
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
NLĐ Người lao động
SDLĐ Sử dụng lao động
NSNN Ngân sách Nhà nước
TNLĐ Tai nạn lao động
BNN Bệnh nghề nghiệp
UBND Ủy ban nhân dân
HĐND Hội đồng nhân dân
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
DANH MỤC CÁC BẢNG/BIỂU/SƠ ĐỒ/HÌNH VẼ
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
LỜI NÓI ĐẦU
Ở Việt Nam, Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước, giữ vị trí trụ cột cơ bản và ngày càng quan trọng trong hệ thống An sinh
xã hội. Theo quan điểm chung nhất thì BHXH chính là sự bảo đảm thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. BHXH hoạt động dựa trên sự
đóng góp của các bên tham gia vào một quỹ tài chính tập trung nằm ngoài Ngân
sách Nhà nước, đó là quỹ BHXH và thông qua các chế độ BHXH, những người lao
động gặp phải rủi ro được bảo hiểm sẽ được nhận một khoản trợ cấp nhằm bù đắp,


thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất do rủi ro gây ra.
Từ năm 1995, sau khi Hệ thống BHXH Việt Nam được thành lập, BHXH đã
chuyển sang một cơ chế quản lý mới. Đó là cơ chế quản lý theo hệ thống dọc từ
trung ương đến địa phương để thực hiện tất cả các nghiệp vụ BHXH nhằm đảm bảo
tốt nhất nhu cầu an toàn cho người tham gia và nhân dân trong cả nước.
Như vậy, công tác BHXH, rất quan trọng đối với mỗi địa phương, trong đó có
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, một nơi giàu truyền thống cách mạng. Ngày
nay, Ninh Giang đang từng bước phát triển về mọi mặt nhằm mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn thể nhân dân trong
huyện. BHXH là một bộ phận đã và đang góp phần thực hiện tốt mục tiêu trên.
Giai đoạn từ 2003 - 2008, công tác BHXH huyện Ninh Giang đã đạt được
nhiều kết quả và thành tích đáng khích lệ như: các đối tượng tham gia BHXH đều
được mở rộng hàng năm, phí BHXH thu ngày càng nhiều, việc chi trả các chế độ
BHXH cho đúng đối tượng, chi đúng chi đủ theo quy định của cơ quan BHXH cấp
trên, công tác triển khai và tuyên truyện BHXH, BHYT tự nguyện đạt được kế
hoạch đã giao của BHXH tỉnh Hải Dương… Trong đó công tác quản lý thu - chi
BHXH bắt buộc có những đóng góp quan trọng: đối tượng tham gia BHXH, BHYT
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
bắt buộc tăng nhanh, số tiền BHXH thu được hàng năm không ngừng tăng lên với
tỷ lệ hoàn thành kế hoạch luôn đạt trên 100%, công tác chi trả trợ cấp BHXH được
thực hiện về tận xã, thị trấn nơi các đối tượng hưởng đang cư trú, hàng tháng chi
lương hưu, trợ cấp BHXH được đảm bảo an toàn, nhanh gọn thông qua hệ thống đại
lý chi trả tại các xã, thị trấn trong huyện… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,
công tác quản lý thu - chi BHXH vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục và
hoàn thiện như: chưa khai thác hết lực lượng lao động trên địa bàn, tình trạng nợ
đọng BHXH còn tiếp diễn tại một số đơn vị sử dụng lao động, quản lý công tác thu
- chi BHXH còn chưa khoa học…
Có thể thấy rằng, việc thực hiện tốt công tác quản lý thu - chi BHXH có ý

nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của chế độ BHXH Việt Nam cũng như BHXH
các tỉnh, huyện trong cả nước, trong đó có BHXH huyện Ninh Giang, tỉnh Hải
Dương. Nhưng những tồn tại trong công tác này cũng cần phải được xem xét và bàn
luận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài:
“Đánh giá tình hình quản lý thu - chi BHXH tại BHXH huyện Ninh Giang
tỉnh Hải Dương giai đoạn 2003 - 2010” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề này được viết với mục đích:
- Làm rõ công tác thu - chi BHXH và quản lý thu - chi BHXH;
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu - chi BHXH bắt buộc tại BHXH
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương giai đoạn từ năm 2003 đến 2008;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu - chi
BHXH huyện Ninh Giang trong thời gian tới.
Chuyên đề này được thực hiện thành công đó là nhờ có sự giúp đỡ tận tình
của cô giáo Phạm Thị Định - chủ nhiệm khoa Kinh tế bảo hiểm, trường Đại học
Kinh tế quốc dân, bác Nguyễn Thế Truyền - Giám đốc BHXH huyện Ninh
Giang và tập thể cán bộ cơ quan BHXH huyện Ninh Giang. Tuy nhiên, do trình
độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thày - cô giáo để bài
viết được hoàn chỉnh hơn.
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
Một lần nữa em chân thành cám ơn cô giáo Phạm Thị Định, bác Nguyễn Thế
Truyền và tập thể cán bộ cơ quan BHXH huyện Ninh Giang đã giúp em hoàn thành
chuyên đề này.
Ninh Giang, ngày 28 tháng 04 năm 2009
Sinh viên
Phạm Thị Hồng Nhung
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
3

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU - CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ BẢN CHẤT CỦA BHXH
1. Tính tất yếu khách quan của Bảo hiểm xã hội
Trong cuộc sống, con người không thể tồn tại và phát triển nếu không được
đáp ứng những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại… Để có thể thoả mãn được
những nhu cầu này, con người phải tham gia lao động sản xuất để tạo ra những sản
phẩm cần thiết. Khi của cải xã hội ngày càng nhiều thì mức độ thoả mãn nhu cầu
ngày càng cao, có nghĩa là thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của
con người.
Trong thực tế, không phải người lao động (NLĐ) nào cũng có đủ điều kiện về
sức khoẻ, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao
động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm
cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm; những rủi ro, bất hạnh
như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu việc làm do những ảnh hưởng của
tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội
khác… Khi rơi vào những trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người
không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu
cầu mới như cần được khám, chữa bệnh, điều trị khi ốm đau, cần có người chăm
sóc, nuôi dưỡng, cần bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ…Để có thể khắc phục những rủi
ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân, gia đình và ổn định cuộc sống, con
người đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc, tương trợ lẫn
nhau, hay sự bảo trợ, cứu trợ của Nhà nước, cộng đồng xã hội. Sự tương trợ đó dần
dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn
kết hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà
nước dưới các chế độ khác nhau.
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b

4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
Mặt khác, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá thì mối quan kinh tế
giữa người lao động và người sử dụng lao động (người SDLĐ) cũng trở nên phức
tạp. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên,
cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động đem lại. Sự hẫng hụt
về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro bị mất việc làm hoặc
khi về già… đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những
người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối
đầu với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn
lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái; đồng thời
đấu tranh đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Do đó, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh. Sau đó, giới chủ đã phải cam kết sẽ bảo đảm
cho người lao động một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết
yếu khi không may gặp phải rủi ro. Tuy nhiên, nếu các rủi ro không xảy ra thì người
chủ không phải chi đồng nào; ngược lại, nếu các rủi ro xảy ra thường xuyên hoặc
dồn dập, buộc giới chủ phải bỏ ra khoản tiền lớn mà họ không hề muốn và nhiều
khi họ tìm cách trốn tránh trách nhiệm này. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ ngày càng
trở nên gay gắt, các cuộc đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết diễn ra ngày
càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội.
Trước những nhu cầu được bảo vệ quyền lợi của người lao động và cần thiết
phải giải quyết mâu thuẫn trên, Nhà nước đã phải can thiệp bằng cách hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung và buộc cả giới chủ, thợ phải đóng góp định kỳ hàng tháng
một khoản tiền vào quỹ này. Từ đây, Bảo hiểm xã hội ra đời, quỹ tiền tệ tập trung
đó được gọi là quỹ BHXH và những tranh chấp cũng như những khó khăn trong
quá trình lao động sản xuất, cũng như trong cuộc sống người lao động được giải
quyết một cách ổn thoả, có hiệu quả nhất. Đó chính là cách giải quyết chung nhất
cho xã hội loài người trong quá trình phát triển. Sự xuất hiện của BHXH là một tất
yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải
tham gia BHXH và sự cần thiết được hưởng BHXH.

Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
2. Khái niệm và bản chất của Bảo hiểm xã hội
2.1. Khái niệm về BHXH
Bảo hiểm xã hội có lịch sử khá lâu đời với tiền thân là quỹ ốm đau do người
công nhân đóng góp tạo thành Quỹ để dự phòng khi bị mất thu nhập vì ốm đau,
bệnh tật. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, quỹ ốm đau được thành lập ở nhiều Bang
và từ đó xuất hiện hình thức bắt buộc phải đóng góp vào quỹ. Lúc đầu chỉ có giới
thợ tham gia, dần dần do các hình thức bảo hiểm mở rộng cho các trường hợp rủi ro
nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật thì đến cuối những năm 1880, giới chủ và Nhà nước
cũng phải thực hiện nghĩa vụ tham gia đóng góp vào quỹ. Do đó, hình thành cơ chế
ba bên và tính chất đoàn kết, san sẻ rủi ro lúc này được thể hiện rõ nét.
Mô hình này của Đức đã lan dần sang các nước châu Âu, sau đó sang Mỹ
Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh
thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á,
châu Phi và vùng Caribe.
Từ đây, BHXH đã dần dần trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh
xã hội và được tất cả các nước trên thế giới thừa nhận là một trong những quyền
con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, BHXH đã có nhiều thay đổi về chất
với nhiều mô hình phong phú được thể hiện ở hàng trăm nước trên thế giới. Tuy
nhiên, cho đến nay, định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận
vì được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau thì các quan điểm đưa ra cũng khác
nhau.
Nếu tiếp cận từ mục đích An sinh xã hội và hình thức tổ chức thực hiện thì có
khái niệm chung nhất về BHXH như sau:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo
đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.

Nhưng nếu tiếp cận từ giác độ khác, BHXH lại có thể được khái niệm hẹp hơn:
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động,
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
sử dụng tiền đóng góp của NLĐ, người SDLĐ và được tài trợ, bảo hộ của Nhà nước
nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị
giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi
lao động theo quy định của pháp luật hoặc chết.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là thuật (kỹ thuật) chia sẻ rủi ro và tài chính
giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã
hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội…
Một số khái niệm liên quan trong BHXH
Hoạt động BHXH đã hình thành mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và
quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao động
và diễn ra giữa ba bên là: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Trong đó:
- Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định
của pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước.
- Bên BHXH là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH, thường là
một số tổ chức do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do tư nhân hoặc tổ chức
kinh tế xã hội) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng góp của NLĐ, người
SDLĐ, lập nên quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho
bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ BHXH phát triển.
- Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh
những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do có các loại rủi ro được
bảo hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động tham gia

BHXH và nhân thân của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có phát sinh nhu
cầu được BHXH do pháp luật quy định.
2.2. Bản chất của Bảo hiểm xã hội
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội; là sản
phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển của một quốc gia đạt
đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Vì
vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát
triển của nền kinh tế. Thật vậy, một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống NLĐ thấp
kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển,
hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức
BHXH ngày càng phong phú.
Thực chất, BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã hội”
hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ
chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng
là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ
phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thanh viên khi phát sinh nhu
cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp
(BNN), già yếu, chết… Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được
thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân
phối của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu
nhập của quá trình làm việc và không làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự
phân phối giữa những người khoẻ mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những
người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ cho người sinh đẻ; giữa
người có thu nhập cao cho người có thu nhập thấp…
Có thể thấy, BHXH đã góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế

cho người lao động và gia đình họ, BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá
nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả mãn nhu cầu an toàn kinh tế của
người lao động và an toàn xã hội.
BHXH vừa mang bản chất kinh tế, vừa mang bản chất xã hội. Về mặt kinh tế,
nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ
luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự “san
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu
nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang
trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù
số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và xã hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen
lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã
nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ
trang trải mọi rủi ro xã hội là đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Cơ sở để phát sinh BHXH chính là quan hệ lao động thể hiện thông qua mối
quan hệ ba bên gồm bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Giữa
các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong nền kinh tế thị trường, bên tham
gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH. Đối với người lao động độc lập, họ
vừa là người tham gia BHXH vừa là người được quyền hưởng BHXH vì họ tham
gia đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính mình.
Điều kiện được hưởng BHXH là người lao động gặp phải những rủi ro, những
biến cố mang tính chất ngẫu nhiên, trái với ý muốn chủ quan của con người như:
ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…; hoặc cũng có thể là những trường
hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản, tử tuất… Đồng thời
các biến cố đó có thể xảy ra cả trong và ngoài quá trình lao động làm cho người lao
động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Bản chất của BHXH còn được hiểu dưới các góc độ khác nhau:
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho

NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, nghĩa là tạo ra một khoản thu
nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao động
xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống cho NLĐ khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ
và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
ổn định trất tự xã hội.
3. Đặc trưng, chức năng, tính chất của Bảo hiểm xã hội
3.1. Đặc trưng cơ bản của BHXH
- BHXH bảo hiểm cho người lao động cả trong và sau quá trình lao động, hay
NLĐ khi tham gia BHXH được bảo hiểm cho đến lúc chết. Đây là một đặc trưng
riêng của BHXH mà không một loại hình bảo hiểm nào có được.
- Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro của người lao động trong BHXH liên
quan đến thu nhập của họ gồm ốm đau, TNLĐ, BNN, thai sản, mất việc làm, già
yếu, chết… Do những sự kiện này mà họ mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến
mất hoặc giảm thu nhập. Vì vậy, NLĐ cần được bù đắp khoản thu nhập bị mất hoặc
giảm đó để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng rất cơ bản của BHXH, phản ánh
được mục đích của BHXH.
- Người lao động khi tham gia BHXH có quyền được hưởng trợ cấp BHXH,
tuy nhiên họ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH. Đồng thời, người sử
dụng lao động cũng phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ của
mình.
- Sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm người lao động, người sử
dụng lao động, Nhà nước là nguồn hình thành cơ bản của quỹ BHXH.
- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ
BHXH cũng do luật định. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động của BHXH,

BHXH còn chịu sự giám sát chặt chẽ của NLĐ và người SDLĐ theo cơ chế ba bên.
Đây là đặc trưng rất riêng của BHXH.
3.2. Chức năng
BHXH có các chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quy định nhiệm vụ, tính chất và
cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Về bản chất BHXH chính là quá trình phân phối lại thu nhập theo cả chiều
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
dọc và chiều ngang, do đó thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần
thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. BHXH bảo đảm cuộc
sống của NLĐ và gia đình họ luôn được ổn định cả về vật chất lẫn tinh thần. Do đó,
NLĐ sẽ luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Chức năng
này biểu hiện như một đòn bầy kinh tế kích thích NLĐ tích cực lao động sản xuất,
nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người
lao động với xã hội. Nhờ có BHXH, mâu thuẫn giữa NLĐ và người SDLĐ được
điều hoà và giải quyết; đặc biệt, BHXH đem lại lợi ích và sự bảo vệ cho cả hai giới
chủ - thợ. Từ đó giúp họ hiểu nhau hơn, quan tâm đến nhau và gắn bó lợi ích được
với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, việc chi cho BHXH là cách thức phải chi ít
nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho NLĐ
và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được
phát triển và an toàn hơn.
3.3. Tính chất

BHXH là chính sách gắn liền với đời sống của người lao động, do đó nó có
một số tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Như phần trên đã trình bày, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan
trong đời sống kinh tế - xã hội mỗi quốc gia vì BHXH đã trở thành nhu cầu và
quyền lợi cần thiết khách quan của NLĐ, được cả thế giới thừa nhận là một trong
những quyền con người. Do đó, BHXH hoàn toàn mang tính tất yếu khách quan
trong đời sống xã hội.
- Tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian.
Tính chất này được thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH. Từ thời
điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp hình thành quỹ BHXH; từ những
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH
theo từng chế độ BHXH…
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.
Tính kinh tế được thể hiện rõ nhất ở chỗ, BHXH thông qua việc hình thành, bảo
toàn, tăng trưởng và sử dụng đúng mục đích quỹ BHXH đã góp phần đảm bảo lợi
ích kinh tế không chỉ cho người lao động mà còn cho cả người sử dụng lao động,
Nhà nước và toàn xã hội. Đối với NLĐ, phần đóng góp của họ vào quỹ không đáng
kể song quyền lợi họ nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Với người SDLĐ, tham gia
đóng góp vào quỹ BHXH để thực hiện trách nhiệm bảo hiểm cho NLĐ họ sử dụng,
đồng thời cũng là giúp họ tránh được khoản tiền lớn để trang trải cho NLĐ gặp rủi
ro. Với Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước
(NSNN), đồng thời quỹ BHXH cũng là nguồn đầu tư đáng kể vào nền kinh tế quốc
dân, góp phần tăng trưởng kinh tế.
BHXH mang tính xã hội sâu sắc bởi đó là một bộ phận chủ yếu của hệ thống
An sinh xã hội, góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các thành viên trong xã
hội. BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”, do đó mọi người lao

động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH và BHXH phải có trách nhiệm bảo
hiểm cho họ và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động.
Đồng thời, BHXH cũng được coi là một dịch vụ, thoả mãn nhu cầu được bảo
vệ của những người tham gia BHXH. Tính dịch vụ của BHXH luôn gắn chặt với
tính xã hội của nó, khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và
tính xã hội hoá của BHXH cùng ngày càng cao.
II. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Khi tiến hành tổ chức và thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội, các quốc gia
đều lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu Bảo hiểm xã hội
phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia mình, đồng thời cũng nhận thức thống nhất các quan điểm cơ bản về
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
Bảo hiểm xã hội sau đây:
1. Chính sách Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành và bộ phận
quan trọng nhất trong chính sách xã hội.
Mục đích chủ yếu của BHXH là nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động
và gia đình họ trước những rủi ro xã hội làm mất hoặc giảm thu nhập của người lao
động. Thực chất, BHXH là một chính sách đối với con người, nhằm đáp ứng một
trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc
làm, an toàn lao động, an toàn xã hội…
Từ quan điểm này cho thấy các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận tính xã
hội cao của BHXH, do đó BHXH không được coi là một hoạt động lợi nhuận mà là
một hoạt động phi lợi nhuận, mang tính nhân văn sâu sắc. Ở Việt Nam, BHXH là
một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước trong hệ thống An
sinh xã hội.
2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia Bảo
hiếm xã hội cho người lao động.
Người sử dụng lao động chính là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân

có thuê mướn lao động. Họ có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách
nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với NLĐ mà họ đang sử dụng theo
đúng luật pháp quy định. Làm như vậy, họ sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do
phải chi ra khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ mình đang thuê mướn;
đồng thời giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ -
thợ, tạo ra sự yên tâm và tích cực lao động sản xuất cho người lao động.
3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Bảo
hiểm xã hội.
Mọi người lao động đều được bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi
được trợ cấp BHXH. Khi những rủi ro không mong muốn xảy ra với NLĐ thì họ là
người trực tiếp chịu tác động của rủi ro đó. Vì thế, nếu muốn được hưởng BHXH
tức được nhiều người khác hỗ trợ cho mình, chia sẻ rủi ro cùng với mình thì trước
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
hết tự mình phải gánh chịu một phần rủi ro đó. Điều đó có nghĩa bản thân người lao
động phải có trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH để tự mình bảo hiểm cho mình.
4. Mức trợ cấp Bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Mức tiền lương lúc đang đi làm của người lao động;
- Mức độ suy giảm khả năng lao động (tỷ lệ thương tật);
- Ngành nghề công tác;
- Thời gian công tác và thời gian đóng góp BHXH;
- Tuổi thọ bình quân của người lao động;
- Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương lúc
đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người
được hưởng. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh
nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người lao động tham gia BHXH.
5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách Bảo hiểm xã hội, tổ chức bộ
máy thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội.

Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là
nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội, nên vai trò của
Nhà nước là rất quan trọng. Sự can thiệp của Nhà nước đã đảm bảo cho mối quan
hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động được duy trì bền vững; đồng thời
đảm bảo mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ không bị phá vỡ.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Đối tượng của Bảo hiểm xã hội
Để có thể nhận biết một cách đầy đủ và đúng nhất về BHXH, trước hết chúng
ta cần nhận biết được các đối tượng liên quan tới BHXH. Tuy đã ra đời được hơn
một thế kỷ nhưng cho tới nay, đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa
thống nhất; đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham
gia BHXH. Có người cho rằng, đối tượng của BHXH là người lao động. Tuy nhiên,
theo bản chất vốn có, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của NLĐ, chứ không
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
phải bản thân họ. Bởi BHXH được hình thành để góp phần đảm bảo và cân bằng
khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Còn NLĐ
trong mối quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia BHXH, vừa là đối tượng được
BHXH và cũng chính là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có cả người
sử dụng lao động và Nhà nước. Người SDLĐ tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là
trách nhiệm bảo hiểm cho NLĐ mà họ sử dụng, đồng thời họ cũng nhận được lợi
ích trong một số trường hợp. Còn Nhà nước tham gia BHXH vừa với tư cách là
người SDLĐ với tất cả các công nhân viên chức, những người hưởng lương từ
NSNN, vừa với tư cách là người bảo hộ cho quỹ BHXH; cụ thể là bảo toàn giá trị
cho quỹ, bảo hộ sự tăng trưởng của quỹ và hỗ trợ thêm cho quỹ trong trường hợp
quỹ bị thâm hụt.
Đối tượng được bảo hiểm ngoài người lao động còn có người sử dụng lao

động, bởi khi NLĐ gặp rủi ro thì người SDLĐ cũng sẽ bị thiệt hại do quá trình hoạt
động kinh doanh có thể bị gián đoạn và họ cũng phải thực hiện trách nhiệm của họ
với NLĐ đó.
Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là người lao động và gia đình họ theo
quy định của pháp luật BHXH.
2. Hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi
quốc gia. Nó là những quy định chung rất khái quát về cả đối tượng, phạm vi, các
mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung đã đề ra đối với
BHXH.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ
thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với
người lao động; hay đó là hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng
hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
- Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi quốc gia và các chuẩn
mực quốc tế. Tuy nhiên, đều phải dựa trên các cơ sở hình thành như cơ sở sinh học
(độ tuổi, giới tính, sự suy giảm khả năng lao động do thai sản, ốm đau…); ảnh
hưởng của điều kiện lao động và môi trường sống; ảnh hưởng của các điều kiện
kinh tế - xã hội; điều kiện về tài chính BHXH;
- Các chế độ BHXH mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính;
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn
thì mức chi trả sẽ cao và ổn định;
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ, có thể hàng tuần, hàng tháng, hàng
quý tuỳ theo từng chế độ;
- Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán;

- Các chế độ thường có tính chất ổn định nhất định trong khoảng thời gian xác
định và cũng thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều
kiện kinh tế - xã hội.
Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong Công ước
số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bảo gồm 9 chế
độ trợ cấp:
- Chế độ chăm sóc y tế (1);
- Trợ cấp ốm đau (2);
- Trợ cấp thất nghiệp (3);
- Trợ cấp tuổi già (4);
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ và BNN) (5);
- Trợ cấp gia đình (6);
- Trợ cấp sinh đẻ (7);
- Trợ cấp khi tàn phế (8);
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) (9).
Tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3
chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong 5 chế độ: (3); (4); (5); (8); (9).
3. Quỹ Bảo hiểm xã hội
3.1. Khái niệm và đặc điểm
3.1.1. Một số khái niệm về quỹ BHXH
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài NSNN.
Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia
BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi
trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm và chi phí cho các hoạt động
nghiệp vụ BHXH.

Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó
vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật
chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
3.1.2. Quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, do đó nguyên
tắc quản lý quỹ là “cân bằng thu - chi”.
- Phân phối quỹ vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn
trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là đối tượng tham gia đóng góp
quỹ đồng thời cũng là đối tượng được nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ khi gặp rủi
ro. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia đóng góp nhưng có người
được được hưởng trợ cấp nhiều lần, nhiều chế độ khác nhau nhưng cũng có người
được hưởng ít lần, ít chế độ, thậm chí không được hưởng.
- Quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với
quỹ là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của
BHXH là bảo đảm an toàn thu nhập cho người lao động, đến lượt mình, BHXH
cũng phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính.
- Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài
chính trung gian cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
chính quốc gia. Chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng nhưng lại có quan
hệ chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định
của đất nước.
3.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vào pháp
luật BHXH và tuỳ thuộc vào mục đích của hệ thống BHXH của mỗi nước. Trong
Công ước 102 về các tiêu chuẩn tối thiểu về BHXH của ILO đã quy định: “Các chi

phí cho các trợ cấp BHXH và các chi phí về quản lý của hệ thống BHXH phải được
tài trợ từ quỹ BHXH bằng cách đóng góp BHXH hoặc bằng thuế hoặc kết hợp cả
hai cách đó, theo những thể thức để giảm bớt tình trạng khó khăn cho người thiếu
thốn phương tiện sinh sống có lưu ý tới tình hình kinh tế từng nước thành viên và
những nhóm người được bảo vệ”. Như vậy, có hai cách để tạo nguồn quỹ BHXH:
Một là, các đối tượng không phải đóng góp mà Nhà nước sẽ tài trợ thông qua thuế;
Hai là, có sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước
đóng góp hoặc hỗ trợ thêm và từ các nguồn khác.
Hiện nay, hầu hết các nước có BHXH đều thực hiện theo cách thứ hai. Cụ thể,
quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn sau:
- Thứ nhất, từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm có người sử
dụng lao động, người lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước.
Đây là nguồn thu chủ yếu của quỹ. Tỷ lệ đóng góp giữa NLĐ và người SDLĐ
được quy định tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia. Nhìn chung, ở các nước
phát triển NLĐ và người SDLĐ đóng góp tương đương nhau (có thể người SDLĐ
cao hơn một chút), tổng mức đóng góp chiếm khoảng 35% - 45% tiền lương của
người lao động. Ở các nước đang phát triển, người SDLĐ thường phải đóng góp
cao hơn nhiều so với NLĐ (có thể cao gấp 2 - 3 lần). Sự hỗ trợ từ Nhà nước thông
qua NSNN cũng tùy thuộc vào điều kiện và quy định của từng quốc gia. Có những
nước, Nhà nước sẽ thực hiện bù thiếu trong trường hợp đóng góp của NLĐ và
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
người SDLĐ không đủ để chi trả; nhưng cũng có những nước, sự hỗ trợ thực hiện
dưới dạng NSNN chịu trách nhiệm đối với toàn bộ một hoặc một số chế độ nào đó;
ngoài ra, ở phần lớn các nước phát triển, sự hỗ trợ đó được thực hiện bằng cách
hàng năm trích một tỷ lệ nhất định từ GDP để hỗ trợ cho quỹ BHXH.
- Thứ hai, từ lãi đầu tư phần tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ. Đây là nguồn thu
quan trọng, đáng kể đóng góp vào sự bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
- Thứ ba, từ các nguồn thu hợp pháp khác như sự đóng góp, ủng hộ của các cá

nhân, tổ chức trong xã hội, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài
nước; hay khoản nộp phạt của các doanh nghiệp, đơn vị do chậm nộp BHXH hoặc
vi phạm quy định của BHXH
3.3. Phương thức đóng và mức đóng BHXH
Về phương thức đóng góp, BHXH có thể căn cứ vào mức lương cá nhân và
quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp hoặc căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của
người lao động được cân đối chung trong nền kinh tế quốc dân để xác định mức
đóng. Việc lựa chọn căn cứ nào là tuỳ thuộc vào quy định mỗi quốc gia nhưng phải
đảm bảo rằng mức đóng góp của mỗi bên phải đủ để cân đối thu - chi cho quỹ
BHXH.
Về mức đóng góp BHXH, tuỳ theo quy định của từng nước, mà mức đóng góp
của các bên khác nhau. Thực chất, mức đóng đó chính là phí BHXH, là yếu tố quyết
định sự cân đối thu - chi quỹ BHXH nên việc xác định phải được tính toán một cách
rất khoa học. Một cách chung nhất, phí BHXH được xác định theo công thức:
P = f
1
+ f
2
+ f
3
Trong đó: P - là phí BHXH;
f
1
- là phí thuần tuý trợ cấp BHXH;
f
2
- là phí dự phòng;
f
3
- là phí quản lý.

Phí thuần tuý trợ cấp BHXH là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của phí
BHXH. Phí này được xác đinh để đảm bảo chi trả cho cả các chế độ ngắn hạn và dài
hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
thời gian ngắn (thường là một năm), do đó số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát
sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn, có quá trình đóng và
hưởng tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định, cho
nên sự cân bằng giữa đóng và hưởng phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài.
Cũng chính vì thế mà ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo
quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, việc xác định phí BHXH là rất phức tạp và phải dựa vào nhiều yếu tố
và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cầu nguồn lao động, việc xác
định và dự báo tuổi thọ bình quân, xác suất xảy ra rủi ro…
3.4. Sử dụng quỹ BHXH
Theo mục đích của BHXH, quỹ BHXH phải đảm nhận cho những khoản chi
chủ yếu như sau:
- Chi trả các trợ cấp BHXH: đây là khoản chi chủ yếu nhất của quỹ BHXH.
Tuỳ theo quy định của từng nước, các chế độ BHXH có thể khác nhau. Theo ILO,
có 9 loại trợ cấp sau:
Trợ cấp chăm sóc y tế: chi trợ cấp chi phí khám chữa bệnh phát sinh;
Trợ cấp ốm đau: chi bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc giảm do nghỉ ốm;
Trợ cấp thất nghiệp: chi bù đắp phần thu nhập bị mất do bị mất việc làm;
Trợ cấp thai sản: đây là chế độ đặc biệt bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người
phụ nữ, do đó quỹ BHXH được sử dụng chi bù đắp phần thu nhập bị mất do nghỉ
thai sản, mức trợ cấp ít nhất phải bằng thu nhập lúc đang đi làm;
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: chi trợ cấp cho chi phí y tế phát
sinh và phần thu nhập bị mất do bị giảm hoặc mất sức lao động sau TNLĐ và BNN;
Trợ cấp gia đình: chi trả cho các chi phí liên quan đến việc nuôi dạy con cái,

hoặc trợ cấp cho các gia đình gặp khó khăn do các rủi ro ngẫu nhiên gây ra. Điều
kiện được hưởng trợ cấp và mức hưởng theo quy định từng nước;
Trợ cấp khi tàn phế: chi trợ cấp cho phần thu nhập bị giảm hoặc mất của người
lao động khi không may bị tàn phế, bao gồm cả chi phi nhằm hỗ trợ các phương
tiện giúp đỡ người tàn phế trong cuộc sống;
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
Trợ cấp tuổi già: chi trợ cấp cho phần thu nhập không còn do tuổi già không
thể lao động nữa;
Trợ cấp mất người nuôi dưỡng: chi trợ cấp cho con cái người lao động khi con
chưa trưởng thành nhưng bố hoặc mẹ đã mất, trợ cấp cho người thân khác mà người
lao động có trách nhiệm chăm lo, phụng dưỡng.
Các trợ cấp này được xác định theo những căn cứ kinh tế - xã hội và các điều kiện
sinh học của mỗi nước trong những giai đoạn nhất định và được pháp luật quy định.
- Chi phí quản lý: đây là khoản chi cho các hoạt động thường xuyên của tổ
chức BHXH, bao gồm: Chi lương cho đội ngũ làm công tác BHXH trong toàn hệ
thống, Chi phí nghiệp vụ BHXH, Chi phí hành chính (điện, nước, văn phòng
phẩm…), Chi cho nghiên cứu phát triển BHXH, Chi phí mua sắm, sửa chữa nhỏ…
- Chi phí đầu tư: khoản chi này để đảm bảo các hoạt động đầu tư phần nhàn
rỗi của quỹ BHXH được diễn ra bình thường và đạt hiệu quả cao. Về mặt kế toán,
khoản chi này được trích ra trong tổng thu được từ lợi nhuận đầu tư.
- Chi dự phòng: đây là khoản dự trữ có thể phát sinh trong năm ngoài dự liệu.
- Chi phí khác có liên quan đến hoạt động BHXH.
4. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
4.1. Lịch sử phát triển Bảo hiểm xã hội Việt nam
Ngay sau khi thành lập nước Việt nam dân chủ Cộng hoà, Nhà nước đã ban
hành sắc lệnh nhằm thực hiện BHXH đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
Nhưng đến năm 1961, chế độ BHXH mới thực sự thực hiện trên cơ sở thành lập
Quỹ BHXH thống nhất sau khi Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ

BHXH kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/11/1961 với 6 loại trợ cấp: ốm đau,
thai sản, TNLĐ-BNN, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Hệ thống này chỉ bảo
đảm bảo hiểm cho khoảng 60-70 vạn người trên tổng số 17 triệu người của miền
Bắc Việt Nam (theo số liệu năm 1962). Từ năm 1975, chính sách BHXH được thực
hiện thống nhất trong cả nước.
Sau Đại hội VII của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước dần đi vào chiều sâu,
trong đó việc đổi mới BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới là một yêu
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2009
cầu bức bách nhằm thực hiện các chính sách xã hội. Việc đổi mới được đánh dấu
bằng việc tách một bộ phận cấu thành BHXH - chế độ chăm sóc y tế khi ốm đau
thành một quỹ độc lập: quỹ Bảo hiểm Y tế. Ngày 15/08/1992, Nghị định 299/HĐBT
về việc ban hành Điều lệ BHYT được thực thi. Ngày 22/06/1993, Chính phủ ban
hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời các chế độ BHXH, mở đầu cho cuộc cải
cách sâu rộng, toàn diện về BHXH.
Việc cải cách thực sự đi vào thực tiễn từ tháng 01/1995, khi Bộ Luật Lao động
có hiệu lực, trong đó có Chương XII về BHXH. Để hướng dẫn thực hiện Bộ Luật
Lao động, hàng loạt các văn bản pháp quy về BHXH được ban hành như:
- Nghị định 12/CP ngày 16/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ
BHXH;
- Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH
Việt Nam;
- Quyết định 606/TTg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam;
- Nghị định 93/1998/NĐ-CP ngày 12/11/1998 của Chính phủ về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH.
Trong đó Chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu
BHXH bao gồm người SDLĐ đóng 15% quỹ tiền lương và NLĐ đóng 5% tiền
lương hàng tháng. Quỹ này được sử dụng để chi cho 5 chế độ BHXH gồm chế độ

ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, hưu trí, tử tuất; đồng thời được bảo toàn, tăng
trưởng và được Nhà nước bảo hộ.
Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐTT chuyển hệ
thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam.
Ngày 06/12/2002, Chính phủ ra Nghị định 100/QĐCP quyết định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của BHXH (bao gồm cả BHYT).
Ngày 29/06/2006, Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ra đời. Luật này quy
định về BHXH có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, riêng đối với BHXH tự nguyện
thi hành từ ngày 01/01/2008 và bảo hiểm thất nghiệp thi hành từ ngày 01/01/2009.
Sinh viên: Phạm Thị Hồng Nhung Bảo hiểm 47b
22

×