ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ NHƯ
Trí thức Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp 1945-1954
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
5.03.15
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Văn Khánh
Hà nội - 2005
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1. TRÍ THỨC VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN 11
1.1 Trí thức Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc trước 1945 11
1.2 Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám và sự phát triển của đội ngũ trí thức dân tộc.
26
1.3 Tầng lớp trí thức đối diện với sự nghiệp kháng chiến- kiến quốc 31
CHƯƠNG 2. TRÍ THỨC THAM GIA KHÁNG CHIẾN 36
2.1 Trí thức trong các tổ chức chính trị yêu nước 36
2.1.1 Trí thức tham gia vào các tổ chức cách mạng 36
2.1.2 Những tổ chức chính trị độc lập của trí thức 40
2.2 Trí thức trong các lực lượng vũ trang 42
2.2.1 Trí thức tham gia lực lượng võ trang trong những ngày đầu kháng chiến 43
2.2.2 Trí thức tham gia các lực lượng võ trang sau ngày toàn quốc kháng chiến 48
2.3 Trí thức với ngành thông tin liên lạc 53
2.3.1 Trí thức với ngành thông tin liên lạc những ngày đầu sau Cách mạng 53
2.3.2 Trí thức với ngành thông tin liên lạc những ngày đầu kháng chiến chống Pháp 57
2.3.3 Trí thức thông tin góp phần phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh vận động chiến
tranh tiến đến thắng lợi cuối cùng. 60
2.4 Một vài phong trào đấu tranh chính trị điển hình của học sinh, sinh viên, tri thức. 64
CHƯƠNG 3. TRÍ THỨC TRÊN MẶT TRẬN KINH TẾ KHÁNG CHIẾN 72
3.1. Trí thức góp phần giải quyết khó khăn về kinh tế trong thời kz 1945-1946 72
3.2. Trí thức với nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế kháng chiến 77
3.3 Trí thức làm việc trong các công binh xưởng 83
CHƯƠNG 4. TRÍ THỨC TRÊN CÁC LĨNH VỰC VĂN HOÁ- GIÁO DỤC VÀ Y TẾ. 92
4.1 Trí thức trên mặt trận báo chí 93
4.2 Trí thức với lĩnh vực sáng tác văn học nghệ thuật 102
4.3 Trí thức xây dựng nền giáo dục mới 110
4.3.1 Một số nét về tình hình giáo dục nước ta sau Cách mạng tháng 8 110
4.3.2 Trí thức với những chính sách và hoạt động của ngành giáo dục 111
4.4 Trí thức xây dựng nền y tế kháng chiến 116
4.4.1 Trí thức với các chính sách ngành y tế 116
2
4.4.2 Hoạt động của trí thức ngành y tế trong kháng chiến 118
Những sáng kiến của tầng lớp trí thức trong lĩnh vực y tế 120
KẾT LUẬN 127
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay chúng ta đang từng ngày, từng giờ chứng kiến những biến
đổi lớn lao về khoa học và công nghệ, về văn hoá- giáo dục, về nghệ thuật, về
kinh tế… Đó chính là những thành tựu kỳ diệu của trí tuệ con người trong đó
có sự đóng góp rất to lớn của đội ngũ trí thức.
Ra đời trong xã hội có giai cấp, tầng lớp trí thức góp phần nhận thức
đầy đủ hơn những qui luật vận động của tự nhiên- xã hội, từng bước giải
phóng con người khỏi sự phụ thuộc vào tự nhiên cũng như sự chi phối của các
lực lượng xã hội. Trong quá trình phát triển lâu dài, tầng lớp trí thức ngày
càng có những đóng góp xứng đáng và khẳng định vị trí của mình trong sự
nghiệp cải tạo và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tầng lớp trí thức có vai trò rất quan
trọng trong bước tiến của nhân loại.
Vậy “trí thức” là gì? Các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa khác
nhau về “trí thức”.
Theo từ điển tiếng Nga (11-1991) : “trí thức là những người có học vấn
và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hoá và
đang làm nghề lao động trí óc”
Trong Đại từ điển Bách khoa Xô Viết cho rằng: “trí thức là tầng lớp xã
hội của những người làm nghề nghiệp lao động trí óc, chủ yếu là lao động
phức tạp, sáng tạo, là sự phát triển phổ biến văn hoá”.
Liên đoàn lao động trí thức quốc tế qui định: “Lao động trí thức là
người mà hoạt động đòi hỏi sự nỗ lực về tinh thần với sáng kiến và nhân cách
thường quan trọng hơn là nỗ lực về thể chất. Do đó, trí thức là những người
làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật, văn học, khoa học, những người làm nghề
tự do, những người lao động trí thức được trả lương (kỹ sư, công chức chuyên
viên và sinh viên vv )”.
2
Tại Việt Nam người ta quan niệm trí thức là một khái niệm ghép, nói
như Chủ tịch Hồ Chí Minh người trí thức phải có cả hai mặt tài (rất quan
trọng) và đức (được coi là cái gốc).
Theo thống kê trên thế giới, có hơn 60 định nghĩa về “trí thức”. Các
định nghĩa đều đứng trên lập trường, quan điểm, căn cứ vào những tiêu chí
khác nhau nhưng nổi bật lên từ những định nghĩa này là 2 vấn đề cơ bản:
- Là những người lao động trí óc có chuyên môn cao
- Có trình độ học vấn cao.
Có điểm lưu ý rằng, khác với các giai cấp trong xã hội, trí thức không
phải là một giai cấp độc lập mà bao gồm nhiều nhóm người, thuộc nhiều giai
cấp khác nhau hợp thành, lại không có cùng lợi ích kinh tế như các giai cấp
khác. Do đó, trí thức chỉ được coi như một tầng lớp xã hội mà thôi.
Người trí thức Việt Nam xuất hiện trong lịch sử như những đại biểu
chân chính về tư tưởng văn hoá, tài năng và trí tuệ của cả dân tộc. Lịch sử
hàng ngàn năm của dân tộc ta luôn gắn liền với các cuộc chiến tranh chống kẻ
thù xâm lược từ bên ngoài. Do đó, trí thức Việt Nam hình thành trên cơ sở
gắn bó với nhân dân trong quá trình sản xuất và chiến đấu. Trí thức Việt Nam
bên cạnh đặc điểm chung: là những người có hiểu biết và trình độ văn hoá cao
so với các tầng lớp khác trong xã hội còn có những nét đặc thù: cần cù, chịu
khó, ham học hỏi, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc cao, lòng yêu nước sâu sắc và
đặc biệt rất gắn bó với quần chúng nhân dân. Trí thức Việt Nam trong bất kỳ
giai đoạn nào cũng có vai trò rất lớn đối với sự hưng vong của đất nước (phi
trí bất hưng). Sự hưng thịnh của quốc gia cũng phụ thuộc vào đội ngũ trí thức.
Chính vì thế, trí thức luôn được xã hội đề cao, nể trọng theo trình tự đẳng cấp
“Sỹ – nông – công – thương”.
Lần giở lại những trang lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta
nhất là trong giai đoạn lịch sử hơn 80 năm chống Pháp (1858-1945) chúng ta
thấy có một điểm nổi lên rất rõ nét là trong công cuộc đấu tranh kiên cường,
bất khuất của toàn dân, luôn luôn có mặt tầng lớp trí thức.
3
Trí thức yêu nước đã đứng lên giành lấy ngọn cờ dân tộc từ tay bọn đế
quốc thực dân, trở thành người tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp xâm lược. Họ trở thành lực lượng xung kích đi đầu
trong việc đi tìm một đường lối cứu nước mới lúc bấy giờ. Một bộ phận trí
thức tiên tiến nhất đã truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin trong các tầng
lớp nhân dân, chuẩn bị tiền đề cần thiết cho sự hình thành một chính đảng
cộng sản ở Việt Nam.
Sự tham gia tích cực của tầng lớp trí thức qua hai cao trào cách mạng
1930-1931, 1936-1939, trong quá trình chuẩn bị và tiến hành tổng khởi nghĩa
tháng 8-1945 thành công và đặc biệt là 9 năm kháng chiến gian lao, anh dũng
cùng quần chúng nhân dân đánh bại thực thực dân Pháp, 21 năm đánh đuổi đế
quốc Mỹ là minh chứng khẳng định chắc chắn điều đó. Lịch sử mãi ghi nhận
những đóng góp tích cực và to lớn ấy của tầng lớp trí thức yêu nước vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc ta.
Trong kháng chiến chống Pháp nhiệm vụ của giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam chính là kháng chiến và kiến quốc. Để hoàn thành nhiệm
vụ ấy, ngoài quân sự, còn phải xây dựng phát triển kinh tế. Đảng và Nhà
nước ta rất cần những nhà chuyên môn thông thạo về công nghệ và công
nghiệp, để phát triển giao thông vận tải, cần kỹ sư thạo về việc đắp đường,
bắc cầu, để giữ gìn sức khỏe của nhân dân cần có thầy thuốc Vì vậy, lao
động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc.
Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học-công nghệ mới đang diễn ra rất
mạnh mẽ, mở ra một môi trường thuận lợi cho các nước đi lên. Sự phát triển
của mỗi quốc gia là quá trình vận động biện chứng giữa năng lực nội sinh của
dân tộc với việc khai thác các nguồn lực thời đại. Năng lực nội sinh của một
dân tộc bao gồm rất nhiều yếu tố con người, tài nguyên thiên nhiên Đối với
nước ta, như đã nói, “khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hẹp”
thì việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam, trí tuệ Việt Nam có ý
4
nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm, vị trí và vai trò và những đóng góp
quan trọng của trí thức Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945-1954 và qua đó để có những định hướng đúng cho tầng lớp trí thức
trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay, chúng tôi chọn đề tài “Trí thức
Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu về tầng lớp trí thức từ trước đến nay, không chỉ được
giới Sử học quan tâm mà các nhà nghiên cứu về Khoa học xã hội và Nhân văn
cũng luôn luôn muốn tìm hiểu. Có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học
về tầng lớp trí thức do các nhà khoa học của Việt Nam đã được công bố.
Có một số sách và bài viết trong các tạp chí đã đề cập đến vấn đề này
như sau:
1. Nguyễn Văn Khánh: Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong sự
nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước, NXB Thông tấn, Hà Nội, 2004.
2. Hồ Sơn Diệp: Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945-1954, NXB Đại học Quốc gia, TP.Hồ Chí Minh, 2003.
3. Hồ Hữu Nhật: Trí thức Sài Gòn-Gia Định 1945-1975, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
4. Đỗ Đức Dục: Để tiếp tục truyền thống cách mạng tháng tám tầng
lập trí thức, tư sản phải làm gì?, báo Cứu quốc, cơ quan trung ương của mặt
trận Liên Việt, 1952, số 2147.
5. Hoàng Văn Đức: Trí thức Việt Nam trong cuộc cách mạng dân chủ,
báo Độc lập, 1949, số16.
6. Trần Huy Liệu: Trí thức Việt Nam trong quá trình đấu tranh giải
phóng dân tộc, Nghiên cứu lịch sử, 1960, số 2.
5
7. Hoàng Văn Đức: Hiện trạng đời sống viên chức trí thức, báo Độc
lập, Cơ quan tranh đấu của Đảng dân chủ Việt Nam, 1953, số 54
8. Phạm Tất Dong: Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
Tuy nhiên, những nghiên cứu về đội ngũ trí thức trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 chưa được đi sâu mà mới chỉ là khái
quát, sơ lược, hoặc là viết về từng vùng Ví dụ tác phẩm Trí thức Nam Bộ
trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 của Hồ Xuân Diệp, Trí
thức Sài Gòn-Gia Định 1945-1975 của Hồ Hữu Nhật cũng mới chỉ tập trung
nghiên cứu vai trò của trí thức Nam Bộ trong kháng chiến. Cuốn sách Trí thức
với Đảng, Đảng với trí thức trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước
của Nguyễn Văn Khánh thì lại đi sâu vào giới thiệu quá trình hình thành, kết
cấu và đặc điểm trí thức Việt Nam, trên cơ sở đó nêu bật những đóng góp của
to lớn của đội ngũ này trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên công
trình chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vai trò của tầng lớp trí thức trong
từng thời kỳ lịch sử cụ thể như trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Còn
các bài viết in trên các tạp chí thường chỉ nghiên cứu một vài khía cạnh của
đội ngũ trí thức như đời sống (Hoàng Văn Đức: Hiện trạng đời sống viên
chức trí thức, Độc lập, Cơ quan tranh đấu của Đảng dân chủ Việt Nam, 1953,
số 54), hay nhiệm vụ cách mạng của trí thức trong một giai đoạn nhất định
(Đỗ Đức Dục: Để tiếp tục truyền thống cách mạng tháng tám tầng lập trí
thức, tư sản phải làm gì?, báo Cứu quốc, cơ quan trung ương của mặt trận
Liên Việt, 1952, số 2147).
Vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu trí thức Việt Nam trong kháng chiến
chống Pháp trên mọi phương diện là rất cần thiết.
3. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành với nguồn tư liệu đáng tin cậy và phong phú
từ trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, các văn kiện Đảng giai đoạn 1930-1954,
Bảo tàng cách mạng, Viện lịch sử quân sự, Viện kinh tế và sách báo tham
khảo
6
Để nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức, luận văn đã vận dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng hợp, kết hợp
phương pháp lịch sử và logíc, so sánh và đối chiếu, Ngoài ra còn sử dụng các
phương pháp liên ngành, tiếp cận từ khía cạnh tâm lý học và xã hội học lịch
sử,
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu có hệ thống những hoạt động của trí thức trong thời kỳ 1945-
1954. Phân tích làm sáng tỏ những đóng góp và vai trò của trí thức nước ta
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Do điều kiện tài liệu, thời gian nghiên cứu khẩn trương nên luận văn không
thể đi sâu và giới thiệu đầy đủ tất cả các mặt những hoạt động của trí thức
Việt Nam trong các lĩnh vực khác như luật, kiến trúc, giao thông, công nghệ
Hy vọng những hạn chế và thiếu sót này chúng tôi sẽ có dịp khắc phục trong
những công trình nghiên cứu sau.
5. Những đóng góp của luận văn
Từ các số liệu và sự kiện cụ thể và trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ
thống về những hoạt động của trí thức trong thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp 1945-1954. Luận văn nêu lên sự sáng tạo của Đảng trong việc vận
dựng, tập hợp trí thức đồng thời chỉ ra những đóng góp của tầng lớp này trong
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp trên các lĩnh vực chính trị, quân sự,
văn hóa-giáo dục, kinh tế và y tế.
6. Nội dung của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục, luận án có 4 chương
Chƣơng 1: Đội ngũ trí thức Việt Nam trong những năm 1945-1954
Chương này giới thiệu khái quát về những hoạt động của trí thức trong
phong trào giải phóng dân tộc (trước khi có Đảng), những đóng góp to lớn
của trí thức trong Cách mạng tháng 8. Nguồn gốc, cơ cấu, thái độ chính trị
của đội ngũ trí thức nước ta trong kháng chiến.
Chƣơng 2: Hoạt động của trí thức trên các lĩnh vực chính trị-quân sự
7
Trình bày những hoạt động của trí thức trong lĩnh vực chính trị –quân
sự, sự tham gia trước và sau ngày toàn quốc kháng chiến. Những hoạt động
của trí thức cho ngành thông tin liên lạc, mạch máu của bộ đội ta. Một số hoạt
động của sinh viên-tri thức.
Chƣơng 3: Trí thức trên mặt trận kinh tế
Một số chính sách của Đảng và Chính phủ đối với ngành kinh tế. Để
cung cấp được đầy đủ lương thực, thuốc men cho cuộc kháng chiến, trí thức
Việt Nam đã không quản hy sinh, dũng cảm quên mình tất cả cho tiền tuyến,
cho kháng chiến. Trí thức chính là những người đi đầu trong ngành sản xuất
vũ khí vô cùng vất vả, gian nan.
Chƣơng 4: Trí thức trong các lĩnh vực văn hóa-giáo dục, y tế.
Trình bày những hoạt động của trí thức trên lĩnh vực báo chí, văn học,
nhạc, họa, kịch Những hoạt động này làm giàu thêm cho nền văn hóa dân
tộc. Nội dung của chương này còn nêu lên những đóng góp của trí thức trong
ngành giáo dục, y tế nước nhà.
8
CHƢƠNG 1. TRÍ THỨC VIỆT NAM TRƢỚC YÊU CẦU
CỦA SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN
1.1 Trí thức Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc trƣớc
1945
Sáng ngày 1-9-1858, thực dân Pháp cho nổ súng vào cửa bể Đà Nẵng và đổ
bộ chiếm bán đảo Sơn Trà. Sự kiện nói trên báo hiệu âm mưu xâm lược của
thực dân Pháp muốn biết nước ta thành thuộc địa của chúng. Dân tộc ta bước
vào một giai đoạn lịch sử mới: Giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi
ách xâm lược.
Trước sự tấn công của thực dân Pháp, giai cấp phong kiến thống trị lúc
đó có trách nhiệm phải bảo vệ độc lập dân tộc. Nhưng từ đầu họ tỏ ra yếu
đuối, bất lực và đã đầu hàng mà quên đi vận mệnh dân tộc. Trong khi triều
đình đầu hàng, quần chúng nhân dân cả nước sôi sục một khí thế quyết đánh
giặc cưú nước.
Một số trí thức đã đứng lên giành lấy ngọn cờ dân tộc trở thành người
tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh chống Pháp. Một số sỹ phu tiến bộ
lúc đó đề xướng tư tưởng cải cách xã hội, thể hiện tinh thần yêu nước, muốn
cho nước nhà được giàu mạnh để có thể chống lại sự tấn công dồn dập của kẻ
thù. Tuy chưa có tác dụng giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ nhưng các hoạt động nói trên đã khẳng định trách nhiệm của lớp
trí thức phong kiến tiến bộ trước yêu cầu mới của dân tộc.
Cũng trong thời gian này nhiều nhà nho học yêu nước sáng tác văn thơ,
hịch mang đậm tính chiến đấu như Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Nghị,
Văn thơ yêu nước là một vũ khí đánh giặc “sớm biết” xông ra mặt trận cùng
nghĩa quân “giáo tre nghìn dặm đánh Tây” {32,51}. Nó có tác dụng to lớn cổ
vũ tinh thần toàn dân đánh giặc cứu nước.
Mặc dù tất cả các phong trào cứu nước trên đều không thành công
nhưng nó chứng tỏ truyền thống yêu nước kiên cường của các tầng lớp nhân
dân ta nói chung và tầng lớp trí thức nói riêng, đồng thời tạo tiền đề cho một
9
cuộc đấu tranh ác liệt hơn, hào hùng hơn của một dân tộc anh hùng, trong đó
có lực lượng trí thức tân học mới được hình thành.
Trong lúc xã hội Việt Nam đang có những biến đổi sâu sắc do tác động
của cuộc khai thác thuộc địa lần 2 và của chính sách giáo dục, văn hoá của
thực dân Pháp thì một trào lưu tư tưởng tư sản đã ảnh hưởng vào Việt Nam
qua hai con đường Trung Quốc và Nhật Bản. Trào lưu tư tưởng thâm nhập
vào Việt Nam đã góp phần làm xuất hiện các xu hướng cứu nước mới trong
một số sỹ phu tiến bộ. Dù đường lối hoạt động của có khác nhau nhưng các
khuynh hướng này đều chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản. Đại diện cho
khuynh hướng này là phong trào Đông Du (1904-1908), rồi tiếp theo đó là
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) và Duy Tân (1906-1908). Tất cả
những phong trào trên đều nhằm mục đích cưú nước cứu dân nhưng cuối
cùng bị thực dân Pháp can thiệp và thất bại.
Tiếp theo đó những năm 1920, phong trào yêu nước tiếp tục phát triển
rầm rộ tại nhiều nơi. Nhờ tác động của chủ nghĩa Mác Lênin thông qua hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc và thắng lợi của Cách mạng Tháng 10 Nga, phong
trào học sinh, sinh viên trí thức nước ta sau chiến tranh dần hình thành và phát
triển mạnh mẽ.
Trong lúc phong trào đang lên sôi nổi, khoảng giữa những năm 1925-
1926 đã xuất hiện những nhóm chính trị của thanh niên trí thức yêu nước và
tiến bộ như: Hội Phục Việt; Đảng Thanh niên; Việt Nam cách mạng thanh
niên; Tổ chức Tân Việt cách mạng Đảng: (tiền thân là hội Phục Việt). Ngoài
những tổ chức đã nêu ở trên còn có một số những tổ chức khác như Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản liên
đoàn Hoạt động của 3 tổ chức này có ảnh hưởng rất to lớn đến những biến
chuyển của phong trào yêu nước. Sau đó lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thống
nhất các tổ chức này thành Đảng cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình
phát triển của lịch sử nước ta. Sau hội nghị thành lập Đảng, phần lớn trí thức
10
trong các tổ chức cách mạng đều tự nguyện xin gia nhập Đảng cộng sản Việt
Nam và trở thành lớp đảng viên cộng sản đầu tiên tham gia tích cực vào quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc. Cùng với cả dân tộc, tầng lớp trí thức
cũng bước vào thời kỳ đấu tranh mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, cách mạng Việt Nam bước vào thời
kỳ mới, từ Bắc đến Nam liên tiếp nổ ra cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Tầng
lớp trí thức được giác ngộ, rèn luyện và ngày càng có những đóng góp to lớn
trong phong trào giải phóng dân tộc.
Năm 1929, khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản thế giới đã giáng
đòn nặng nề vào nền kinh tế Đông Dương. Việt Nam bị Pháp biến thành nơi
đỡ đạn: bóc lột, tăng cường cướp đoạt lên đầu nhân dân. Cuộc sống đói nghèo
càng thêm nặng nề dưới một chế độ chính trị ghẹt thở. Đói khổ và căm hờn
đến cực độ, nhân dân Việt Nam sẵn sàng vùng dậy đấu tranh dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Đứng vững trên quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên
cơ sở hiểu rõ đặc điểm, tình hình của tầng lớp trí thức, Đảng ta ngay từ khi
mới ra đời trong Chính cương sách lược vắn tắt tháng 10-1930 đã nhận định:
“ Phải hết sức liên lạc tiểu tư sản- trí thức, trung nông lôi kéo họ đi về phe
giai cấp vô sản”{1,19}. Sự ra đời của nghị quyết này đã góp phần động viên
được nhiều thanh niên hăng hái tham gia cách mạng. Hơn thế nữa nhằm tập
hợp lực lượng, Đảng ta đã sớm đề ra phát triển mặt trận, một hình thức tổ
chức chính trị rộng rãi và vững chắc. Mặt trận phản đế Đông Dương ra đời,
lôi kéo được đông đảo quần chúng, đặc biệt là tầng lớp trí thức trên con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trí thức nghe theo tiếng gọi của Đảng đã tập hợp nhau lại trong những
đoàn thể thống nhất, sẵn sàng đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc. Phong trào
của họ diễn ra vô cùng sôi nổi, rầm rộ tạo thành làn sóng cách mạng khắp ba
miền Bắc-Trung-Nam khiến cho bọn giặc Pháp vô cùng tức tối.
11
Trước sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta, thực dân Pháp điên
cuồng khủng bố, đàn áp, bắt bớ cán bộ cách mạng như Tôn Đức Thắng, Lê
Hồng Phong, Chúng còn hèn hạ giết chết nhà trí thức Châu Văn Liêm, Trần
Phú
Tầng lớp trí thức đứng trước thử thách gay go, quyết liệt, một số bị mất
phương hướng, bi quan dao động nhưng phần đông anh chị em không bị nhụt
chí. Nhiều trí thức lại tham gia đấu tranh với nhiều hình thức mới. Chính vì
vậy mà trong thời kỳ 1932-1935, phong trào cách mạng của quần chúng lại
dần được hồi phục và phát triển.
Phong trào thơ mới, thể loại phóng sự, thơ trào phúng đã được sáng tác
nhiều hơn cộng với văn học nghệ thuật dân gian nhằm vào bọn địa chủ tay sai
đã bóc lột và phản bội quần chúng. Trí thức còn sử dụng báo chí công khai
hợp pháp làm vũ khí đấu tranh tư tưởng. Thông qua những cuộc đấu tranh,
tranh luận sôi nổi về văn học và nghệ thuật, trí thức đã bày tỏ quan điểm cách
mạng của mình về nghệ thuật vô sản, nghệ thuật dù có siêu phàm đến đâu
cũng không đứng ngoài cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và phải hướng
vào phục vụ sự nghiệp cách mạng. Đó là thắng lợi lớn của Đảng ta khi chỉ rõ
được con đường đi của giới văn nghệ sỹ.
Đây là thời kỳ của những trận thử lửa đầu tiên của trí thức Việt Nam,
để rút ra những kinh nghiệm đấu tranh cách mạng cho những cao trào cách
mạng tiếp theo.
Phong trào cách mạng trong nước đang khôi phục và phát triển thì tình
hình trên thế giới có rất nhiều chuyển biến quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
Đông Dương. Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản quốc tế lần thứ 7 (tháng 7-
1935) đã nhận định kẻ thù nguy hiểm nhất trước mắt chưa phải là chủ nghĩa
đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. Lúc này, Đảng cộng sản ở nước
ta đã hồi phục. Hội nghị trung ương Đảng năm 1936 căn cứ vào tình hình
trong nước và thế giới đã quyết định tạm gác khẩu hiệu “ độc lập dân tộc và
người cày có ruộng” tập trung mũi nhọn chống bọn thuộc địa phản động tay
12
sai, đòi tự do cơm áo hoà bình và chống phát xít. Đảng còn chủ trương thành
lập mặt trận thống nhất rộng rãi sau đổi thành mặt trận dân chủ Đông Dương
bao gồm nhiều tầng lớp tham gia. Đây là chuyển hướng quan trọng trong
đường lối sách lược của Đảng ta.
Nhằm thực hiện đường lối chính trị trên, Đảng lãnh đạo đấu tranh
chống các tư tưởng sai lầm. Chính vì vậy đây là “thời kỳ vận động quần
chúng sôi nổi chưa từng thấy dưới thời Pháp thống trị”, với những hình thức
tổ chức và hoạt động phong phú. Tầng lớp trí thức đã tham gia vào các tổ
chức chính trị, kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh cách mạng phát triển
lên một bước. Tầng lớp trí thức đòi tự do lập hội, tự do ngôn luận báo chí, đòi
bình đẳng về tiền lương vv
Như vậy, nếu năm 1930-1931 nhân dân ta mới có hội phản đế Đông
Dương, mà nền tảng là công nhân thì đến giai đoạn 1936-1939, ngoài giai cấp
công nhân còn có tầng lớp trí thức hoạt động rất sôi nổi cùng với quần chúng
cần lao.
Tháng 3-1937, trung ương Đảng đã họp hội nghị đề ra sách lược phù
hợp với đường lối cách mạng trong giai đoạn mới, xác định trách nhiệm các
cán bộ Đảng là: “thanh niên khai trí, tân tiến và dân chủ, văn hoá các hội
đoàn thể nên tổ chức công khai cho nhiều người vào”{75,3}. Năm 1938, lập
ra hội truyền bá chữ quốc ngữ ở Hà Nội, lấy lực lượng sinh viên làm nòng
cốt. Nhờ có chủ trương đúng đắn, khẩu hiệu đấu tranh phù hợp, tầng lớp trí
thức đã phát huy hết khả năng tinh thần, đóng góp to lớn cho cách mạng.
Trong những năm 1936-1939 báo chí phát triển rầm rộ, đã có tác dụng
tập hợp liên kết tổ chức, động viên chỉ đạo các lực lượng đấu tranh. Đấu tranh
đòi tự do báo chí ngôn luận cũng phát triển mạnh mẽ. Một loạt tờ báo bằng
tiếng Pháp, tiếng Việt được xuất bản. Nam Kỳ có Tiền Phong, Dân Chúng ;
Trung Kỳ có Nhành Lúa, Kinh Tế ; Bắc Kỳ có Lao Động Ngoài ra còn có
các báo quốc văn nối tiếp nhau ra đời như Tin Tức, Thế Giới Mới, Đời Nay,
Thời Thế vv
13
Có thể nói, từ khi thành lập Đảng đến nay, đây là lần đấu tranh báo chí
công khai phát triển mạnh mẽ nhất. Hàng loạt báo chí nối tiếp nhau ra đời.
Bọn đế quốc thực dân đã thi hành nhiều biện pháp kìm hãm, ngăn cản sự phát
triển của phong trào. Tuy nhiên, với sự cố gắng nỗ lực của tầng lớp trí thức,
báo chí vẫn tiếp tục được phát triển. Báo phản ánh được tiếng nói của quần
chúng, động viên hàng triệu nhân dân từ thành thị đến nông thôn tham gia
cách mạng.
Trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, trào lưu văn học cách mạng theo ý
thức hệ vô sản đã trưởng thành một cách nhanh chóng. Bên cạnh những bài có
nội dung đấu tranh về quan điểm, phê bình văn học còn có những tác phẩm
văn xuôi, thơ ca cách mạng, văn chương chống phản động và trụy lạc. Văn
học hiện thực phát triển mạnh “diễn tả nỗi thống khổ của tầng lớp nhân dân
đang hướng về cách mạng” tiêu biểu như các tác giả: Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan vv
Lấy trí thức làm nòng cốt xoá mù chữ, chống thất học, nâng cao trình
độ văn hoá, ban truyền bá chữ quốc ngữ ngày càng phát triển rộng. Hội phái
hội viên vào Huế mở rộng địa bàn, tuyên truyền vận động, lập chi hội, vận
động quần chúng góp tiền, giúp mua phương tiện mở lớp học Mặc dù bị
Pháp đàn áp nhưng trong hai năm 1938-1939 ở Hà Nội đã lập được 4 khoá
học cho 4000 học viên. Hoạt động của hội góp phần đưa ánh sáng, đường lối
của Đảng đến với quần chúng nhân dân, mở rộng cơ sở cách mạng.
Tất cả mọi cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng thời kỳ này đã
góp phần đánh lui mọi tư tưởng phản động, giáo dục đảng viên, nâng cao
nhận thức của quần chúng thiết thực chuẩn bị mọi mặt cho thắng lợi cuối
cùng. Trong đó cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa của tầng lớp trí thức
cách mạng đóng vai trò xung kích.
Bên cạnh lĩnh vực báo chí, văn học nghệ thuật, trí thức nước ta còn
tham gia vào phong trào đòi tự do dân chủ. Ngày 1-6-1936, Chính phủ Mặt
trận nhân dân Pháp quyết định thành lập Uỷ ban điều tra thuộc địa, nhằm
14
thăm hỏi dân ý một cách rộng rãi. Đảng cộng sản Đông Dương nhân cơ hội
này tổ chức quần chúng, tố cáo tội ác của chế độ thuộc địa, tỏ bày nguyện
vọng tự do dân chủ của mình.
Nguyễn An Ninh, một trí thức yêu nước tiêu biểu đề ra ý kiến vào mùa
thu năm 1936: Triệu tập “Đông Dương đại hội” nhằm tập hợp nguyện vọng
của tầng lớp nhân dân Đông Dương gửi cho Chính phủ mặt trận nhân dân
Pháp. Đề nghị này được Đảng cộng sản động viên, khích lệ và được phong
trào của quần chúng ủng hộ. Đảng còn kêu gọi thành lập các Uỷ ban hành
động để tập hợp các tầng lớp nhân dân tích cực chuẩn bị hướng đến Đông
Dương đại hội.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng cộng sản, toàn quốc đã dấy lên một
phong trào quần chúng sôi nổi, rộng rãi. Điển hình nhất là ở Nam Kỳ tháng 9-
1936, có trên 600 Uỷ ban hành động, chưa bao giờ lại tổ chức nhiều cuộc mít
tinh hội họp, giải truyền đơn như thời kỳ này. Tại hội nghị trù bị Đông Dương
ở Sài Gòn (13-8-1936) cử ra ban trù bị Đông Dương đại hội gồm 19 người,
có 3 đại biểu công nhân, 3 đại biểu nông dân, 3 đại biểu doanh nghiệp, 4 đại
biểu báo chí và có 6 đại biểu trí thức. Trong đại hội, tầng lớp sinh viên và trí
thức đã đóng vai trò tích cực. Họ thu thập nguyện vọng của tầng lớp mình và
tầng lớp khác, đòi mở thêm trường học tiếng mẹ đẻ Uỷ ban thanh niên trong
đó phần đông là trí thức đã tham gia vào các hoạt động nhằm phá tan âm mưu
giả mạo dân ý. Nhiều sinh viên đã miệt mài sao chép truyền đơn Đảng, bí mật
đem rải trong thành phố, nông thôn và các vùng lân cận.
Đông Dương đại hội chính là cuộc đấu tranh của lực lượng nhân dân
tiến bộ trong đó có trí thức. Phong trào này tuy chưa đạt được mục đích đấu
tranh công khai, hợp pháp và bí mật không hợp pháp, nhưng quần chúng đã
tích cực tham gia để thực hiện những mục đích của Đảng đề ra.
Trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của phong trào cách mạng thời
kỳ này, thực dân Pháp đã tăng cường áp dụng các biện pháp, thủ đoạn nhằm
mua chuộc, chia rẽ phong trào. Chúng đã tổ chức các hội ánh sáng, đoàn
15
hướng đạo , lôi kéo tầng lớp trí thức ra khỏi con đường đấu tranh cách mạng.
Nhằm đập tan âm mưu thâm độc đó của kẻ thù, Đoàn thanh niên trong đó
tầng lớp trí thức là lực lượng xung kích đã tổ chức các hoạt động như các đêm
văn nghệ, các đợt đi thăm quan Thông qua hình thức này, trí thức cùng nhau
sáng tác ra bài ca cách mạng, những tác phẩm văn học nghệ thuật tiến bộ để
tuyên truyền cho quần chúng. Kết quả là đã đập tan được những thủ đoạn
thâm độc của kẻ thù, giáo dục thanh niên về tinh thần yêu nước và quốc tế vô
sản.
Thông qua hoạt động thực tiễn nhiều trí thức đã trưởng thành được
đứng vào hàng ngũ đấu tranh của Đảng, những người đứng đầu các tổ chức.
Phong trào thời kỳ này còn tạo nên một bước tiến mới của cách mạng cho
những thời kỳ tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Năm 1939, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp ở
nước ta dâng Đông Dương cho Nhật. Nhật vào đã liên tiếp dùng nhiều thủ
đoạn để lừa gạt thực dân Pháp và cả dân ta. Chúng muốn một mình nắm chính
quyền cai trị đất nước ta.
Nhằm đối phó với tình hình trên, Đảng cộng sản Đông Dương đã kịp
thời ra chỉ thị cho các Đảng viên rút vào hoạt động bí mật. Trong hội nghị
trung ương Đảng cuối năm 1939, đã quyết định thành lập “Mặt trận dân tộc
thống nhất phản đế Đông Dương” thay cho mặt trận dân chủ. Nền tảng của
mặt trận là giai cấp công nhân và nông dân đoàn kết với tiểu tư sản và trí
thức. Như vậy tầng lớp trí thức trở thành một lực lượng quan trọng trong mặt
trận. Đây là sự sắp xếp lực lượng cách mạng hết sức sáng suốt của Đảng,
nhằm cô lập cao độ kẻ thù xâm lược đồng thời cũng là thắng lợi ban đầu của
Đảng trong việc lôi kéo quần chúng xây dựng lực lượng.
Năm 1941, tình hình thời cuộc càng có nhiều biến chuyển khẩn trương.
Hội nghị trung ương Đảng lần 8 ở Pắc Pó đã nhận định “Nhiệm vụ cấp bách
nhất được đặt ra lúc này là làm thế nào huy động mọi lực lượng để cứu nước,
giải phóng dân tộc. Muốn thế phải đoàn kết toàn dân, tập hợp các đoàn thể,
16
hội cứu quốc, các tầng lớp nhân dân, trong đó có đông đảo nhân sỹ trí thức
Mặt trận Việt Minh ra đời 19-5-1941 đáp ứng được yêu cầu đó” {76,11}. Bên
cạnh đó, Hội nghị quyết định thành lập “Đoàn thanh niên cứu quốc Việt
Nam” làm lực lượng xung kích trong mặt trận Việt Minh. Hoạt động của
Đoàn thực sự lớn mạnh và có những đóng góp to lớn cho thắng lợi cuối cùng
của dân tộc ta.
Để thức tỉnh và động viên giới trí thức trên mặt trận văn hoá tư tưởng,
nhằm chống lại những âm mưu văn hoá ngu dân và nô dịch của phát xít thực
dân, chống lại những khuynh hướng văn hoá sai lầm, đầu năm 1943, Đảng ta
quyết định thành lập “tổ văn hoá cứu quốc” mà hạt nhân của nó là một số văn
sĩ trí thức cách mạng tuyên truyền chủ nghĩa Mác và lôi kéo học sinh, sinh
viên.
Cũng năm 1943, Đề cương văn hoá của Đảng ra đời. Đây là sự kiện hết
sức quan trọng trong đời sống chính trị xã hội nói chung, trong giới trí thức
văn nghệ sỹ nói riêng. Bản đề cương văn hoá ra đời đã kịp thời khích lệ các
hành động cách mạng của phong trào học sinh, sinh viên và trí thức, trang bị
cho họ kiến thức về lý luận mác xít, làm tăng thêm sức chiến đấu của họ trong
từng bài thơ văn, từng bản nhạc. Nhằm thúc đẩy công tác văn hoá và phát
triển thành một vũ khí đấu tranh cách mạng của giới văn nghệ sỹ, Hội văn hoá
cứu quốc đã được thành lập với sự tham gia của nhiều văn nghệ sỹ. Một nền
văn hoá cách mạng có tính dân tộc dân chủ hình thành và mở rộng, hỗ trợ đắc
lực cho cách mạng giải phóng.
Tháng 6-1944 với sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Việt Nam, một tổ
chức của trí thức, sinh viên có tên gọi là Đảng dân chủ đã ra đời. Nhiệm vụ
trung tâm ngay từ đầu mà Đảng đề ra cho tầng lớp sinh viên, trí thức là sát
cánh cùng các đoàn thể đánh đổ bọn phát xít Nhật, kẻ thù cụ thể và trước mắt
của toàn thể nhân dân. Chiến lược lúc đó của Đảng dân chủ là “tích cực lột
mặt nạ và đập tan các hạng Việt gian đầu hàng Nhật, đặc biệt là các nhóm
Đại Việt”. Có thể nói rằng những hoạt động đó của Đảng đã phá tan được ảnh
17
hưởng của bè lũ thân Nhật trong các tầng lớp nhân dân. Ngoài ra, các uỷ ban
tuyên truyền xung phong của Đảng đã hoạt động ráo riết ngay trước mắt bọn
thực dân Nhật-Pháp. Trong những ngày chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa, đảng
viên của Đảng có mặt khắp mọi nơi đặc biệt là ở các đô thị lớn, lôi cuốn sinh
viên, công chức và cả thương gia lên mặt trận đấu tranh cách mạng.
Có thể nói rằng thành tích căn bản dân chủ là “thành tích giác ngộ cách
mạng và cải tạo tư tưởng cho tầng lớp tiểu tư sản và trí thức”{37,1}. Đảng đã
vạch rõ rằng thái độ “trung lập, khách quan” của tầng lớp đó về chính trị là
một thái độ sai lầm. Trong lúc mà cuộc đấu tranh quân sự kế tục cuộc đấu
tranh chính trị đang diễn ra giữa nhân dân và quân thù nếu đứng ngoài rìa
cuộc vật lộn đó tức là vô tình làm lợi cho địch. Tầng lớp trí thức có hiểu biết
càng phải xuống đường đấu tranh để làm nhiệm vụ lịch sử của mìnhvv
Chính vì vậy, Đảng đã góp phần làm cho họ công nhiên và quả quyết bước
vào con đường cách mạng dân chủ mới.
Việc Đảng cộng sản, mặt trận Việt Minh, Đảng dân chủ tranh thủ được
sự ủng hộ của tầng lớp sinh viên trí thức đã có một ý nghĩa rất quan trọng,
tầng lớp trung gian phần lớn đã ngả về phía cách mạng. Nhiều thanh niên trí
thức đã gia nhập phong trào đấu tranh cách mạng của công nông. Như vậy,
mặc dù chịu tác động mạnh của âm mưu, thủ đoạn thâm độc chủ nghĩa phát
xít Nhật -Pháp nhưng do chủ trương đúng đắn của Đảng cộng sản, phần đông
sinh viên trí thức Việt Nam đã từng bước giác ngộ và hăng hái tham gia
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Thông qua các đoàn thể và hội cứu
quốc ,trí thức đã tích cực góp phần chuẩn bị lực lượng cho cách mạng tháng
8-1945.
Trên lĩnh vực báo chí, tầng lớp trí thức đã góp một phần không nhỏ
trong việc tập hợp lực lượng nhân dân. Từ đầu những năm 1940, nhiều báo
cách mạng đã đã xuất bản, lưu hành công khai, rộng rãi. Ngoài hai tờ báo là
Giải phóng, cơ quan của Đảng cộng sản Đông Dương và báo Cứu Quốc cơ
quan của tổng bộ Mặt trận Việt minh, còn có báo Lao Động, Hồn Nước, Tiền
18
Phong vv. Báo chí địa phương được xuất bản không ít như: Cao-Bắc-Lạng
có tờ Việt Nam độc lập, Trung Bộ có tờ Quyết Thắng, Nam Bộ có tờ Giải
Phóng và Tiền Phong Nội dung báo chí nói lên tôn chỉ mục đích của người
làm báo, thúc đẩy sự tu dưỡng phẩm chất của người trí thức trẻ, tăng cường
tình đoàn kết trong lực lượng sinh viên và giữa sinh viên với các tầng lớp
khác. Do vậy báo chí không còn mang tính chất hoàn toàn bí mật như thời kỳ
trước, mà nó giúp “uy tín của Đảng, của mặt trận Việt minh đối với các giới
văn hoá, văn học cũng như đối với nhân dân ngày càng lan rộng và đi sâu”
{70,9}. Khi Nhật đảo chính Pháp, báo chí đã cổ động sôi nổi cho việc thành
lập chính quyền nhân dân ở các vùng giải phóng, giới thiệu những kinh
nghiệm khởi nghĩa giành chính quyền từng phần, tích cực chuẩn bị mọi điều
kiện tiến tới tổng khởi nghĩa
Cùng báo chí, hoạt động của hội truyền bá chữ quốc ngữ tiếp tục phát
triển. Nhiều lớp học đã được mở ở ngoại thành Hà Nội, Hà Đông và sau đó
được mở rộng ra các tỉnh khác như Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An thu
hút được đông đảo sinh viên trí thức tham gia. Chỉ tính riêng trong một tuần
“ở Hà Nội tháng 8-1941 đã có trên 200 trí thức ghi tên vào ban dạy học của
hội với 22 địa điểm học chỉ trong thành phố”{71,1}. Trong những năm 1942-
1943, hội đã tổ chức những cuộc nói chuyện về các danh y, các cuộc thi câu
đối nôm, diễn thuyết, trưng bày, soạn sách vở mở thư viện tại khu Tương
Mai (Hà Nội) để các hội viên cũng như học sinh có nơi tham khảo sách báo.
Năm 1944, hội truyền bá chữ quốc ngữ được thành lập ở cả Nam Kỳ, Ai Lao,
Cao Miên. Năm 1945 ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ đều có chi nhánh của hội. “Số học
viên thoát nạn mù chữ nhờ hoạt động của hội lên 5 vạn, nhiều nhất ở Hà Nội
là 3 vạn”{48,172}. Hàng nghìn người dân đã biết đọc, biết viết nhờ phong
trào này.
Có được kết quả đó ngoài đóng góp của nhân dân thì điều đáng kể là
công sức của hàng vạn chiến sỹ hội viên trong đó chủ yếu là lực lượng trí
thức, sinh viên. Điều đặc biệt là thông qua phong trào này: “Nhiều giáo viên
19
và thanh niên đã biết liên lạc với tổ chức thanh niên và cứu quốc trở thành
cán bộ của quần chúng, của mặt trận Việt Minh, hoạt động hội để tuyên
truyền cho Việt Minh”{78,111}.
Trào lưu văn hoá cách mạng thời kỳ này tiếp tục phát triển. Phần lớn trí
thức và các văn nghệ sỹ trong tác phẩm của mình đều nói lên cách sống cực
kỳ ngột ngạt dưới ách cai trị phát xít và tâm tư mong chờ, khao khát cách
mạng quần chúng nhân dân. Tiêu biểu thơ chủ tịch Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Sóng Hồng Trên con đường cách mạng, văn chương đã đến với họ như một
phương tiện, một vũ khí chiến đấu sắc bén, được sử dụng thường xuyên và rất
có hiệu qủa.
Về sáng tạc nhạc, nhóm “Đồng vọng”, nhóm “Tráng ca” ra đời được
học sinh, sinh viên hưởng ứng nhiệt liệt. Những bài hát lịch sử nổi tiếng ghi
dấu ấn đậm nét trong lòng quần chúng như Bạch Đằng Giang, Xếp bút
nghiên đều là những ca khúc hoành tráng lay động lòng người, thúc giục họ
đứng lên cứu nước.
Có được kết quả to lớn như vậy trên mặt trận văn hoá tư tưởng vào thời
kỳ này chính là do tầng lớp trí thức qua thực tế đấu tranh thấm nhuần chủ
nghĩa Mác-Lênin, thấm nhuần đường lối chủ trương chính sách Đảng và mặt
trận Việt Minh. Họ được giác ngộ về ý thức dân tộc và giai cấp nên đã tham
gia đấu tranh dũng cảm, hăng hái và nhiệt tình.
Sau 3 cuộc khởi nghĩa: Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, phong trào đấu
tranh nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn trực tiếp chuẩn bị
cho tổng khởi nghĩa tháng 8 sau này.
Trong bối cảnh đó các cuộc đấu tranh của sinh viên và trí thức đã có
nhiều chuyển biến: ở các trường kỹ nghệ, việc chống bắt học sinh, sinh viên
vào lính kỹ thuật, đòi huỷ bỏ lệnh giữ học sinh ở trường để làm vỏ đạn phục
vụ chiến tranh đế quốc. Các truyền đơn cũng được họ rải ở nhiều nơi trong
thành phố, kêu gọi quần chúng chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ Liên Xô,
chống thực dân phong kiến khủng bố, đàn áp quần chúng.
20
Các đồng chí lãnh đạo Đảng ta đã tiếp xúc trực tiếp với một số trí thức
yêu nước có uy tín và sinh viên có nhiệt tâm để hình thành nên một ban trị sự
lâm thời của Tổng hội do luật sư Dương Đức Hiền làm hội trưởng. Ban trị sự
được sự tín nhiệm của đông đảo sinh viên, ngoài sinh viên của ba miền Bắc-
Trung-Nam còn có sinh viên Ai Lao, Cao Miên và cả sinh viên Pháp {40,44}.
Tổng hội đã xây dựng khối đoàn kết trong sinh viên, chống lại mọi âm mưu
chia rẽ của kẻ thù, khơi dậy lòng yêu nước, thương nòi của đông đảo sinh
viên, đưa họ tham gia vào các hoạt động hữu ích. Nhiều cuộc mít tinh, biểu
tình và diễn thuyết đã nổ ra ở khắp nơi. Chính vì vậy sở mật thám Pháp ở Hà
Nội đã xác nhận: “Chỉ riêng tháng 1-1941 ở Hà Nội đã có 13 vụ rải truyền
đơn cách mạng”{4,44}.
Trong những năm 1941-1942 phong trào sinh viên ở Nam kỳ đã phát
triển mạnh. Tổng hội đã lập ra các ban vệ sinh và y học để giúp đồng bào
phòng bệnh chữa bệnh chống lại các hiện tượng mê tín, dị đoan được bà con
hưởng ứng nhiệt liệt. Ngoài ra, tổng hội cũng lập ra ban cố vấn về luật để giúp
đồng bào mỗi khi bị oan ức cần đấu tranh trong quan hệ giai cấp thống trị, do
luật sư Nguyễn Ngọc Minh cầm đầu.
Năm 1942-1943, việc giáo dục tinh thần yêu nước, rèn luyện phẩm chất
và thân thể cho sinh viên được chú trọng. Lần đầu tiên tại khu Đông Dương
học xá, tổng hội đã tổ chức trọng thể lễ giỗ tổ Hùng Vương. Các sinh viên quê
ở ba miền Bắc-Trung-Nam cùng nhau thắp hương trầm trở về với cội nguồn
dân tộc, giữ trọn khí phách giống nòi.
Ngoài ra, sinh viên trí thức ở còn cho tổ chức diễn kịch, những mẩu
kịch lịch sử nhắc lại một quãng đời của một bậc vĩ nhân cứu quốc, một bậc
chí sỹ công thần như “Đêm Lam Sơn”, “Hội nghị Diên Hồng” được tổ chức
ở giảng đường đại học ở Nam kỳ hoặc ở rạp Olimpia
1
, Hà Nội, thu hút sự
tham gia đông đảo tầng lớp nhân dân tham dự, đông nhất là thanh niên, sinh
viên và trí thức. Sinh viên Nam Kỳ còn tổ chức nhiều đêm dạ hội ở nhà hát
1
Ngày nay là nhà hát Hồng Hà
21
lớn Sài Gòn nhằm kêu gọi mọi người phải noi gương Hai Bà Trưng đứng lên
khởi nghĩa trả thù nhà, đền nợ nước. Phong trào biểu diễn văn nghệ và tuyên
truyền kiến thức khoa học được sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng
nhân rộng ra toàn Nam kỳ và Trung kỳ.
Điều đó làm cho nhân dân càng thêm tin tưởng vào tầng lớp thanh niên
trí thức và hy vọng ở họ về một tương lai mới của đất nước. Nhận xét về vấn
đề này báo Thông tin đã đưa tin: “ Đó là những tấm gương lịch sử mà
chúng ta cần phải biết, để noi theo. Mà gương này được thanh niên trí thức
đem ra soi chung thật là rực rỡ chói lọi muôn phần Qua những tấm gương
kiên trung đó họ sẽ ngẫm nghĩ về nhiệm vụ của mình”{71,34}.
Cuối năm 1943 đầu năm 1944 tình hình cách mạng Việt Nam có những
bước phát triển mới, tổ chức của Đảng và mặt trận Việt Minh đã bắt rễ vào
trong quần chúng. Dưới sự chỉ đạo của Tổng bí thư Trường Chinh, Tổng hội
sinh viên lại tiếp tục tổ chức nhiều hoạt động để lôi kéo sinh viên, trí thức như
cuộc hành hương lần thứ ba lên đền Hùng, tổ chức các trại, đẩy mạnh các hoạt
động văn nghệ.
Sau những cuộc vận động yêu nước đó được nâng lên thành phong trào
giải phóng dân tộc, trong tầng lớp sinh viên và trí thức nổ ra cuộc vận động
“xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”. Phong trào này được khởi xướng tại
Hà Nội sau đó lan ra khắp các tỉnh Bắc kỳ, lôi cuốn cả sinh viên miền Trung
và Nam kỳ. Họ đã tổ chức thành từng nhóm, dùng xe đạp toả về các ngả
đường để tuyên truyền. Đây là phong trào rất đặc trưng của sinh viên trí thức
Việt Nam trước thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Trong năm 1944, với tinh thần công tác tích cực “sửa soạn khởi nghĩa”
theo chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh các đoàn viên sinh viên trí thức vẫn tiếp
tục hăng hái tham gia phong trào mít tinh, biểu tình và diễn thuyết. Từ sau
ngày 9-3-1945, cao trào kháng Nhật cứu nước bùng nổ trong toàn quốc.
Những tổ chức vũ trang, một nửa vũ trang đã phát triển nhanh chóng, đồng
thời những cuộc mít tinh biểu tình chính trị rầm rộ nổi lên khắp mọi nơi. Lực
22
lượng trí thức góp phần không nhỏ vào cao trào kháng Nhật. Tại nhiều địa
điểm họ còn giữ vai trò là lực lượng xung kích. Đặc biệt phong trào yêu nước
của tầng lớp này ngày càng phát triển rộng rãi.
Tại Hà Nội, trí thức sinh viên tham gia vào các đội tuyên truyền xung
phong, đội danh dự trấn áp bọn mật thám, chỉ điểm ác ôn ngay trong thành
phố như giết chết tên Cai Long, Phó Nhu làm hả dạ đồng bào. Nhiều cuộc
mít tinh lớn đã diễn ra ở khắp thành phố, ở cả những tỉnh lân cận như Bắc
Ninh, Hà Đông Trí thức còn công khai lên diễn đàn diễn thuyết, rải truyền
đơn làm cho kẻ địch lo sợ.
Để mua chuộc nhân sĩ trí thức Nam Kỳ và tập hợp thanh niên làm lực
lượng đề phòng sự tấn công của thực dân Pháp, Nhật đã đề nghị bác sỹ Phạm
Ngọc Thạch đứng ra tập hợp tổ chức lực lượng thanh niên Nam Kỳ. Nhân cơ
hội này, xứ uỷ Nam Kỳ tương kế tựu kế quyết định tập hợp lực lượng thanh
niên yêu nước làm lực lượng xung kích để tổng khởi nghĩa. Vì vậy mà một tổ
chức có tên gọi là “Thanh niên Tiền Phong” đã ra đời. Những người đứng
đầu có tên tuổi như bác sỹ Phạm Ngọc Thạch, luật sư Thái Văn Lung Vì vậy
“chỉ trong ba tháng sau ngày phát động ở các tỉnh thành Nam Kỳ, lực lượng
thanh niên trí thức trong tổ chức đã phát triển nhanh chóng, riêng ở Sài Gòn
đã có 20 vạn thành viên”{78,231-232}.
Như vậy cho đến lúc này, hầu hết các lực lượng thanh niên sinh viên trí
thức để tham gia vào các tổ chức cứu quốc. Họ trở thành một lực lượng chính
trị lấn át chính quyền Nhật. Họ còn liên tiếp tổ chức những cuộc hội họp, biểu
tình, mít tinh, lễ tuyên thệ ở khắp nơi, đồng thời còn tiến hành nhiều điểm cứu
tế góp phần giải quyết nạn đói ở miền Bắc, tiến hành đi bắt bọn Pháp nhảy dù
và lấy súng đạn của Pháp.
Ngày 14-8-1945 phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam sau 6 năm ráo riết chuẩn bị, đã
nhanh chóng chuyển từ tiền khởi nghĩa sang tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước. Thời cơ giành chính quyền đã tới. Trí thức lúc này tham