Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 - 2002 đặc điểm và khuynh hướng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ



NGUYỄN NAM THẮNG

QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
GIAI ĐOẠN 1992 - 2002
ĐẶC ĐIỂM VÀ KHUYNH HƯỚNG




LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ











Hà Nội – 2004







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ



NGUYỄN NAM THẮNG

QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
GIAI ĐOẠN 1992 - 2002
ĐẶC ĐIỂM VÀ KHUYNH HƯỚNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
MÃ SỐ : 50801



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN KIM








HÀ NỘI - 2004



ii
 PHẦN MỞ
ĐẦU



 CHƯƠNG I: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC
THIẾT LẬP QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
1


 I.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

1



 I.2. Tình hình và chính sách đối ngoại của Việt Nam

5


 I.3. Tình hình và chính sách đối ngoại của Hàn Quốc


8

 CHƯƠNG II: QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 -
2002

10

 II.1. Vài nét về quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lịch sử

10

 II.2. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 -2002

13

 II.2.1. Quan hệ chính trị giữa Việt Nam - Hàn Quốc

13

 II.2.2. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam - Hàn Quốc

39

 II.2.3. Quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực khác giữa Việt Nam - Hàn
Quốc


69
 CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM VÀ KHUYNH HƯỚNG TRONG QUAN HỆ
VIỆT NAM - HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 - 2002



94

 III.1. Đặc điểm quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 -2002

94

 III.1.1. Đặc điểm trong quan hệ về chính trị

94

 III.1.2 Đặc điểm trong quan hệ về kinh tế

99

 III.1.3. Đặc điểm của quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong các lĩnh vực
khác

107

 III.2. Khuynh hướng quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong tương lai

109
 KẾT LUẬN


116


iii
 PHẦN PHỤ LỤC



 Tài liệu tham khảo































BẢN KÝ HIỆU VIẾT TẮT

-AFTA ASEAN Free Trade Area
Khu vực tự do thương mại ASEAN
-APEC Asia Pacific Economic Cooperation Forum
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương
-ARF ASEAN Regional Forum
Diễn đàn khu vực ASEAN
-ASEAN Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
-ASEAN + 1 ASEAN + Hàn Quốc
-ASEAN + 3 ASEAN + Hàn Quốc + Nhật Bản + Trung Quốc
-ASEM Asia - Europe Meeting
Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
-ASEAN PMC ASEAN Post Minister Conference
Hội nghị sau Hội nghị Ngoại trưởng của ASEAN
-CHDCND Cộng hoà dân chủ nhân dân
-EAFTA East Asia Free Trade Area
Khu vực tự do thương mại Đông Bắc Á
-FDI Foreign Direct Investment
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp
-FTA Free Trade Area
Khu vực tự do thương mại
ODA Official Development Aid
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển
-KHCN Khoa học công nghệ
-NICS New Industrial Countries

Những nước công nghiệp phát triển mới
-XHCN Xã hội chủ nghĩa
-WTO World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới

1
PHẦN MỞ ĐẦU

Theo quy luật tồn tại và phát triển của nhân loại, nhu cầu mở rộng sự giao lưu,
phát triển quan hệ với bên ngoài của mọi quốc gia, mọi dân tộc là một nhu cầu tất yếu.
Bởi đó không chỉ là điều kiện cần thiết để con người có điều kiện giao hoà với các cộng
đồng dân cư, các nền văn hoá trong và ngoài khu vực, mà còn là cơ sở để quốc gia hình
thành và phát triển. Con người không thể sống biệt lập cũng như quốc gia không thể
thiếu chức năng phát triển các mối quan hệ với bên ngoài.
Trong một chừng mực nào đó, có thể coi lịch sử các quốc gia là lịch sử của những
quá trình chuyển biến nội tại và phát triển quan hệ với bên ngoài. Điều này lại càng có ý
nghĩa đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi tiến trình hội nhập giữa các dân tộc trên thế
giới ngày càng trở nên mạnh mẽ, các mối liên hệ xuyên quốc gia ngày càng thường
xuyên.
Việt Nam và Hàn Quốc không phải là những ngoại lệ. Là những quốc gia trong
cùng một khu vực của thế giới, quan hệ giữa hai quốc gia không thể không chịu tác động
của các xu hướng trong quan hệ quốc tế.
Mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã có một quá trình lâu đời, dù không được
liên tục với các liên hệ phong phú đa diện, đa tầng như quan hệ của Việt Nam với các
nước khác như Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan. Tuy có sự đậm nhạt khác nhau
qua từng thời kỳ, song quan hệ này luôn có một vị trí trong đời sống hai nước nhất là
trong những năm gần đây, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc luôn là yếu tố tác động quan
trọng tới sự phát triển của mỗi bên.
Mối quan hệ càng có bề dày lịch sử thì lại càng có ảnh hưởng tới hiện tại và tương
lai. Trong quan hệ giữa các nước Đông Á, nó đóng vai trò nổi bật và có ảnh hưởng tới

các xu thế phát triển và quan hệ hợp tác khu vực. Vào thời điểm hiện nay, cùng là những
quốc gia trong nhiều tổ chức khu vực và thế giới như Liên Hợp Quốc, ASEAN + 3,

2
ARF, APEC, mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc vẫn không mất đi ý nghĩa đối với mỗi
bên cũng như đối với toàn khu vực.
Do vậy, việc nghiên cứu về mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong thời kỳ 1992
- 2002 không chỉ góp phần làm sáng tỏ tiến trình vận động, phát triển của sự hợp tác
giữa hai nước mà quan trọng hơn là thấy rõ những thuận lợi, khó khăn cũng như triển
vọng của mối quan hệ này.
Vì những lẽ đó, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc từ năm 1992 đến 2002 đã được
người viết chọn làm đề tài cho luận văn này. Đây là đề tài có ý nghĩa lịch sử, mang giá
trị hiện tại, đồng thời còn có ý nghĩa khoa học, chính trị, góp phần để hiểu rõ thêm chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước cũng như vai trò của Hàn Quốc trong mối quan hệ
và hợp tác của nước ta hiện nay.

I. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Trước đây, Hàn Quốc là một đối tượng nghiên cứu chưa được các học giả trong
nước quan tâm nhiều, vì vậy vẫn chưa có những tác phẩm chuyên khảo sâu về vấn đề
này. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc được đề cập chủ yếu thông qua mấy hình thức sau:
thứ nhất, là các tài liệu chính thức như những văn bản của Chính phủ, của Bộ Ngoại
giao ; thứ hai, là một phần trong các công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam -
Đông Bắc Á hay một phần trong các công trình nghiên cứu về Hàn Quốc; thứ ba, là các
tác phẩm nghiên cứu riêng về một giai đoạn nào đó của quan hệ này. Loại hình của các
tác phẩm nghiên cứu này tuy không nhiều nhưng khá đa dạng, phong phú như những
tuyên bố, thông cáo, sách tư liệu, thông sử, sách giới thiệu tổng quan, công trình nghiên
cứu, bài xã luận Có thể nêu ra một số tác phẩm tiêu biểu như cuốn Tương đồng văn
hoá Việt Nam - Hàn Quốc của tập thể giảng viên Khoa Ngữ văn - Đại học KHXH&NV
Hà Nội, được Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin xuất ấn hành năm 1996, cuốn Người Việt

Nam ở Triều Tiên và mối giao lưu văn hoá Việt - Triều trong lịch sử của Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam, xuất bản năm 1997, tập Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Mười năm đào tạo

3
và nghiên cứu Hàn Quốc tại Việt Nam của Khoa Đông Phương học, do Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành năm 2002. Ngoài ra, còn có những công trình
nghiên cứu về những chuyên khảo về Hàn Quốc trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục,
kinh tế, chính trị như Hàn Quốc trước thềm thế kỷ XXI của Dương Phú Hiệp và Ngô
Xuân Bình (đồng chủ biên), do Nhà xuất bản Thống kê ấn hành năm 1999, cuốn Hàn
Quốc trên đường phát triển do Ngô Xuân Bình và Phạm Quý Long (đồng chủ biên),
được Nhà xuất bản Thống kê in năm 2000, cuốn Tìm hiểu nền hành chính Hàn Quốc và
Việt Nam, do Nhà xuất bản Thống kê phát hành năm 2001. Những cuốn sách này đều tập
hợp những bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về một lĩnh vực riêng
biệt, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa hai
nước trong lịch sử, hiện tại và đưa ra những dự báo về tương lai. Vì vậy, đề tài là một
công trình nghiên cứu mang tính khoa học và thực tiễn, góp phần tạo nên một bức tranh
ngày càng hoàn chỉnh về mối quan hệ giữa hai nước.
Trong vài năm gần đây ở nước ta, việc nghiên cứu quan hệ giữa Việt Nam với các
nước Đông Bắc Á, trong đó có Hàn Quốc đã phát triển tương đối mạnh mẽ. Nhu cầu xã
hội và sự phong phú hơn về nguồn tài liệu tham khảo cũng như việc ứng dụng các
phương pháp nghiên cứu mới đã tạo điều kiện cho sự phát triển này. Đã có hàng loạt bài
báo, hoặc bài nghiên cứu viết về mọi mặt hoạt động cũng như các vấn đề trong quan hệ
Việt Nam - Hàn Quốc. Tuy nhiên, cũng giống như giai đoạn trước, mặc dù đề tài quan
hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã được một số nhà nghiên cứu chú ý hơn nhưng vẫn chưa có
công trình chuyên khảo nào nghiên cứu đầy đủ về quá trình quan hệ hình thành và phát
triển trong thời gian này. Những công trình nghiên cứu mang tính khái quát thì lại không
có điều kiện chuyên sâu trong khi đó những công trình chuyên sâu thì lại chủ yếu đi vào
một mảng quan hệ như văn hoá, giáo dục, ngôn ngữ , hay một lĩnh vực nhất định trong
một khoảng thời gian nào đó. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu quan hệ Việt Nam -
Hàn Quốc sau Chiến tranh lạnh cũng chưa có nhiều. Dù vậy, bản luận văn này đã tiếp

thu và kế thừa nhiều từ các thành tựu nghiên cứu nói trên.


4




II. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình diễn biến của quan hệ Việt Nam -
Hàn Quốc trong khoảng thời gian mười năm kể từ khi hai nước chính thức bắt đầu đặt
quan hệ ngoại giao ở cấp cao nhất, cấp đại sứ, từ 22-12-1992 đến 22-12-2002.
Quá trình diễn biến của quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian này tương
đối phức tạp. Nó thay đổi tính chất theo từng thời kỳ, thậm chí theo từng giai đoạn nhỏ
với những sắc thái tương đối khác nhau. Mối quan hệ này đã diễn ra trên nhiều mặt, tuy
có khác nhau về mức độ theo từng thời kỳ nhưng lại luôn có sự tương giao mạnh mẽ.
Quan hệ này cũng là quan hệ nhiều tầng bởi nó được triển khai và thực hiện ở nhiều cấp
độ. Hơn thế nữa, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc luôn phải chịu nhiều tác động lớn từ bên
ngoài với những cách thức, cường độ và quy mô khá đa dạng Tất cả những điều này đã
làm nên tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu và đặt ra cho bản luận văn các nhiệm vụ
nghiên cứu dưới đây:
- Tập hợp, xử lý và hệ thống hoá tư liệu nhằm tái hiện lại quá trình diễn biến cơ bản
của quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc thời kỳ sau Chiến tranh lạnh một cách tương đối
toàn diện.
- Làm sáng tỏ cấu trúc và cơ chế vận hành của quan hệ này.
- Tìm hiểu và phân tích các nhân tố có ảnh hưởng và tác động đến quan hệ Việt Nam -
Hàn Quốc.
- Nhận thức những thuận lợi, khó khăn và các vấn đề đang tồn tại trong quan hệ này.
Từ đó, rút ra các bài học và đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát
triển trong quan hệ giữa hai nước.


5
Với một đối tượng và các nhiệm vụ nghiên cứu như vậy, việc giải quyết chúng là một
yêu cầu khó khăn. Sự khó khăn này còn có lý do bởi nguồn tài liệu về vấn đề này khá
tản mác, không nhiều đồng thời cũng do trình độ còn hạn chế của người nghiên cứu.
Giới hạn của đề tài là từ tháng 12-1992 dến tháng 12-2002. Bản luận văn đã lấy sự
kiện thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước làm mốc mở đầu. Có sự lựa
chọn này là vì đây là một bước ngoặt dẫn tới những thay đổi trong quan hệ khu vực nói
chung và quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc nói riêng. Trong khi quan hệ Việt Nam - Hàn
Quốc vẫn đang tiếp tục phát triển thì mốc kết thúc (12-12-2002) này chỉ là một sự quy
ước.

III. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc từ 1992 - 2002 vừa là một quá trình lịch sử, vừa là
một hiện tượng trong quan hệ quốc tế. Bởi thế, việc nghiên cứu nó phải kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu lịch sử và các phương pháp nghiên cứu quốc tế.
Trước hết, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học
xã hội, bởi quan hệ quốc tế là một hành động xã hội tất yếu và phổ biến. Đó là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp lịch sử được sử dụng chủ
yếu trong bản luận văn này là các phương pháp lịch đại, phương pháp đồng đại, phương
pháp lô-gíc lịch sử, phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp thống kê
Nhằm làm sáng tỏ bản chất của các mối quan hệ quốc tế luận văn còn áp dụng các
phương pháp hệ thống, phương pháp cấu trúc, phương pháp phân tích tổng hợp, phương
pháp so sánh và loại suy cùng một số lý thuyết quan hệ quốc tế hiện đại như chủ nghĩa
hiện thực, chủ nghĩa lý tưởng, chủ nghĩa xuyên quốc gia, lý thuyết về hợp tác và hội
nhập
Tất nhiên, sự phân chia các loại phương pháp như trên chỉ mang tính tương đối
bởi khả năng kết hợp vận dụng của chúng và do tính chất liên ngành của quan hệ quốc
tế. Việc kết hợp áp dụng những phương pháp này đã cho phép xem xét quan hệ Việt

Nam - Hàn Quốc như một cấu trúc hoàn chỉnh gồm nhiều yếu tố tác động qua lại với

6
nhau, vận động theo một trục thời gian, trong một môi trường tương tác có tính biến
động cao. Nó cũng giúp chúng ta nhận thức được nguồn gốc các sự kiện, tính chất và
đặc điểm của mối quan hệ qua những thời kỳ cũng như dự báo được những xu hướng và
mục tiêu mà quan hệ này sẽ tiến tới.



IV. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Cấu trúc của luận văn được xây dựng trên quan điểm lịch sử, trong đó quan hệ
Việt Nam - Hàn Quốc được xem xét theo dòng chảy của thời gian. Các chương phần
được phân kỳ dựa trên các thay đổi về chất cùng những biến đổi trong đặc điểm và tính
chất cơ bản của quan hệ này.
Trên cơ sở đó, bản luận văn này đã có cấu trúc như sau:
Chƣơng I: Bối cảnh quốc tế và những cơ sở của việc thiết lập quan hệ Việt
Nam - Hàn Quốc. Chương này gồm 3 phần: Phần I.1: Bối cảnh quốc tế nhằm đưa ra
một bức tranh khái quát về thời điểm Việt Nam - Hàn Quốc thiết lập quan hệ với nhau.
Phần I.2: Tình hình và chính sách đối ngoại của Việt Nam và Phần I. 3: Tình hình và
chính sách đối ngoại của Hàn Quốc phân tích những biến đổi của tình hình nội tại mỗi
nước và chính sách đối ngoại của hai nước được thực thi trong thời gian này. Cũng trong
phần này, luận văn cố gắng chứng minh nhu cầu của hai nước trong việc thiết lập quan
hệ với nhau: cơ sở và tính cấp thiết cho việc thiết lập mối quan hệ hợp tác giữa hai quốc
gia.
Chƣơng II. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 - 2002
Chương này điểm sơ lược qua mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa nhân dân hai
nước Việt Nam và bán đảo Triều Tiên trong quá khứ, đồng thời cố gắng phác họa một
bức tranh toàn cảnh của hai nước trong giai đoạn mười năm quan hệ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế (thương mại, đầu tư), văn hoá, giáo dục, viện trợ, lao động


7
Chƣơng III: Đặc điểm và khuynh hƣớng trong quan hệ Việt Nam - Hàn
Quốc 1992 - 2002. Chương này tổng kết tất cả những đặc điểm của quan hệ hai nước
trong khoảng thời gian mười năm (1992-2002) với những diễn biến được trình bày và
phân tích ở Chương II, và đưa ra những khuynh hướng dựa trên những kết quả đạt được
thông qua những thành tựu trong quan hệ như: văn kiện, hiệp định, tuyên bố chung giữa
hai quốc gia trong thời gian qua và những dự định sẽ tiến hành trong thời gian tới.
Kết luận: Luận văn đưa ra một số nhận xét tổng kết về quan hệ Việt Nam - Hàn
Quốc trong thời gian từ 1992 - 2002, qua đó nêu lên một vài suy nghĩ về xu hướng phát
triển của mối quan hệ này trong tương lai.
Cũng qua đây, Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Văn
Kim, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đõ rất nhiều để bản luận văn này được hoàn
thành. Người viết cũng xin chân thành cám ơn Phó Giáo sư Nguyễn Quốc Hùng, người
thầy đã trực tiếp hướng dẫn khoá luận tốt nghiệp đại học cũng như đưa ra những góp ý
quý báu cho bản luận văn này được hoàn thiện hơn.
Người viết cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Khoa Lịch sử và
Khoa Quốc tế học - Trường Đại học KHXH & NV - đã dạy dỗ và giúp đỡ trong suốt
thời gian từ ngày đầu vào trường cho đến ngày hôm nay, các cán bộ, nhân viên của Thư
viện Quốc gia, thư viện Nhật Bản (nơi có phòng đọc Hàn Quốc) của Trung Tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn, thư viện Quân đội, văn phòng KOTRA và văn phòng KOICA
tại Hà Nội . Và đặc biệt là chị Lê Thị Thu Cúc - Trợ lý Phòng văn hoá và báo chí trực
thuộc Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam, người đã giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá
trình làm luận văn từ việc tìm tài liệu cũng như cho tôi những lời khuyên đầy giá trị.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình
của bạn bè, đồng nghiệp và nguồn động viên cũng như điều kiện đến mức tối đa tốt nhất
của gia đình có thể, đặc biệt là mẹ tôi, người đã động viên, khuyến khích và hỗ trợ tôi
trong suốt thời gian qua.



Hà Nội, ngày 7 tháng 11 năm 2004

8
Người viết



Nguyễn Nam Thắng

CHƢƠNG I
BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC THIẾT LẬP
QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC



I.1/ BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC

Chiến tranh Lạnh kết thúc tạo ra những biến chuyển lớn trong đời sống chính trị
thế giới nói chung và trong quan hệ quốc tế nói riêng. Bước vào thập niên 90 của thế kỷ
XX, quan hệ quốc tế có những bước phát triển mới, thay đổi cả về hình thức và tính
chất. Trật tự thế giới hai cực không còn nữa, môi trường quốc tế có nhiều biến đổi sâu
sắc và rộng khắp, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và diễn ra trên mọi phương
diện. Sự khác biệt về ý thức hệ không còn là trở ngại trong quan hệ giữa các nước có chế
độ chính trị - xã hội khác nhau, mà thay vào đó việc phát triển kinh tế trở thành ưu tiên
hàng đầu trong chiến lược phát triển của mọi quốc gia. Kinh tế trở thành nhân tố có ý
nghĩa quyết định trong quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nhất là
cách mạng về công nghệ thông tin đã mở ra những triển vọng phát triển kinh tế to lớn
cho tất cả các quốc gia dù lớn hay nhỏ, dù phát triển hay đang phát triển ở mọi châu lục
của thế giới. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế
có những bước phát triển mạnh và ngày càng gia tăng, tác động tới mọi mặt trong quan

hệ quốc tế. Các nước dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển
đều phải điều chỉnh chính sách đối ngoại để thích nghi với hoàn cảnh mới. Quan hệ giữa
các nước có những biến chuyển lớn, chuyển từ đối đầu hoặc liên kết với nước này chống
lại nước kia sang vừa hợp tác vừa đấu tranh và cùng tồn tại hoà bình. Trước bối cảnh
tình hình thế giới thay đổi, các nước đều đặt ưu tiên cao cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh

9
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại để tạo cho mình một thế đứng trên
trường quốc tế và một vị thế thuận lợi cho việc đảm bảo an ninh quốc gia và phát triển
đất nước.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng không nằm ngoài quỹ đạo vận động của
những biến chuyển đó. Xu thế hoà bình ổn định và hợp tác ngày càng chiếm ưu thế chủ
đạo ở khu vực này mặc dù vẫn còn tồn tại một số di sản của thời kỳ Chiến tranh lạnh. Về
mặt kinh tế, châu Á - Thái Bình Dương trong thập kỷ 80 và bước sang thập kỷ 90 của
thế kỷ XX là khu vực phát triển năng động nhất với tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả
khu vực cũng như từng nước vào loại cao nhất thế giới. Vai trò của các nước vừa và nhỏ
trong khu vực ngày càng tăng lên, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ hoà bình và duy
trì ổn định trong khu vực và thế giới. Tại khu vực này, quan hệ quốc tế đã có sự thay đổi
tính chất, có sự "tiếp xúc chéo", "công nhận chéo", và bình thường hoá quan hệ giữa các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tình hình trên bán đảo Triều Tiên cũng đã
được cải thiện theo chiều hướng giảm căng thẳng, xu hướng đối thoại và hợp tác tăng
lên. Quan hệ giữa hai miền trên bán đảo Triều Tiên có những tiến triển đáng kể, đàm
phán cấp thủ tướng bắt đầu từ tháng 9-1990 và ký thoả thuận về hoà giải, hợp tác và
không xâm lược lẫn nhau vào tháng 12-1991, cùng gia nhập Liên Hợp Quốc vào tháng
9-1991, ký Tuyên bố chung về phi hạt nhân hoá bán đảo Triều Tiên tháng 12-1991,
Thoả thuận gặp gỡ cấp cao tháng 8-1994; giao lưu hợp tác hai miền về kinh tế, văn hoá,
thể dục thể thao cũng đã bắt đầu được thực hiện. Xu thế chính trị và kinh tế ở khu vực
ngày càng thuận lợi hơn, quan hệ quốc tế ở khu vực cũng được cải thiện và giảm dần
căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên trong thời điểm Chiến tranh lạnh kết thúc là một
nhân tố quan trọng đưa đến việc hai nước Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ

ngoại giao.
Xuyên suốt lịch sử của mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian từ năm
1975 đến 1992, thì tác động bên ngoài chủ yếu xuất phái từ quan hệ tay đôi Mỹ - Liên
Xô. Khoảng thời gian này, sự thay đổi của các nhân tố bên ngoài cũng như tác động của
chúng đã diễn ra mạnh mẽ và ảnh hưởng trực tiếp đến những quan hệ tay đôi trên. Từ

10
đó, cả hai nước đều phải tiến hành những điều chỉnh lớn trong chính sách ngoại giao của
mình.
Xu thế hoà dịu bắt đầu tư quan hệ Xô - Mỹ đã nhanh chóng phát huy tác dụng ra
toàn thế giới. Ở châu Á - Thái Bình Dương, Liên Xô rút quân ra khỏi Afganistan, tiến
hành cắt giảm sự hiện diện quân sự và những cam kết chiến lược. Đồng thời, từ giữa
tháng 12-1989, Liên Xô đã quyết định rút một phần lực lượng quân sự ra khỏi cảng Cam
Ranh. Trong khi đó, năm 1990, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đưa ra Sáng kiến chiến lược
Đông Á nhằm giảm bớt số quân Mỹ ở đây từ 143.000 năm 1990 xuống 100.000 vào năm
1993, đóng cửa hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động một số căn cứ quân sự trong vùng tại
Hàn Quốc, Australia Tất cả các động thái theo hướng hoà dịu này đã làm giảm đáng kể
mâu thuẫn Xô - Mỹ và các tác động của chúng đối với sự đối đầu và chia rẽ ở khu vực.
Ít nhất, lực chia rẽ từ quan hệ Xô - Mỹ trong cả thực tế lẫn trong nhận thức cũng không
còn đè nặng lên quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc như trước nữa, nhất là trong vấn đề an
ninh - chính trị.
Sau khi Liên Xô tan rã (25-12-1991), nước Nga hầu như rút khỏi các tranh chấp
quyền lực ở đây. Mâu thuẫn Nga - Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương càng trở nên nhỏ bé
so với các ưu tiên quan hệ khác. Ảnh hưởng và vai trò của Nga đã bị giảm sút đáng kể.
Quan hệ Nga - Mỹ càng ít tác động đến quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á và quan hệ
Việt Nam - Hàn Quốc.
Những cố gắng của Liên Xô nhằm cải thiện quan hệ với Trung Quốc, sự suy giảm
vai trò quốc tế của Liên Xô và sự nổi lên của Mỹ như vai trò cường quốc số một cũng
khiến Liên Xô và Trung Quốc xích lại gần nhau hơn. Chuyến thăm của M.S.Gorbachov
đến Trung Quốc tháng 6-1989 đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Xô - Trung.

Trong chừng mực nào đó, sự cải thiện quan hệ Xô - Trung đã góp phần làm giảm đáng
kể mâu thuẫn Trung - Việt vốn là một trong những tác nhân gây căng thẳng ở khu vực
Đông Á. Ít nhất sự cải thiện này cũng không làm Trung Quốc nhìn Việt Nam như một
nguy cơ có khả năng gây sức ép an ninh như trước kia. Nhưng mặt khác, việc mất đi sự
bảo đảm an ninh của Liên Xô, Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương hơn trước một láng giềng

11
ngày càng hùng mạnh. Điều này đã thúc đẩy Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn tới
ASEAN và một chính sách ngoại giao đa phương hoá, đa dạng hoá.
Một diễn biến khác cũng không kém phần quan trọng, đó là sự rạn nứt nghiêm
trọng của mối quan hệ Trung - Mỹ bắt đầu từ lệnh cấm vận của Mỹ sau sự kiện Thiên
An Môn tháng 6-1989. Sự rạn nứt này còn xuất phát bởi sự lo ngại của Trung Quốc
trước khả năng Mỹ nhảy vào lấp "khoảng trống quyền lực" ở Đông Nam Á. Điều này
được thể hiện rõ trong sự điều chỉnh lớn trong chính sách Đông Nam Á của Mỹ, đặc biệt
là trong quan hệ với Việt Nam. Mỹ đã tích cực hơn trong việc tăng cường ảnh hưởng
của mình ở Đông Nam Á nhưng theo cách thức không hoàn toàn như trước. Mỹ bắt đầu
từng bước cải thiện quan hệ với Việt Nam một cách có điều kiện. Chủ trương này thực
chất là nhằm nâng cao địa vị quốc tế của Mỹ trong khu vực, đồng thời nhằm ngăn cản
Trung Quốc thế chân vào sự rút lui của Liên Xô.
Ngày 18-7-1990, tại Paris, Ngoại trưởng Mỹ J.Baker tuyên bố Mỹ rút sự công
nhân Chính phủ liên hợp Campuchia Dân chủ tại Liên Hợp Quốc, đồng thời sẽ mở cuộc
đối thoại với Việt Nam về vấn đề Campuchia. Đây là bước đi mạnh mẽ nhất của Mỹ kể
từ sau năm 1979 trong quan hệ với Việt Nam. Sau một loạt các cuộc gặp gỡ, Mỹ đưa ra
"bản lộ trình" bao gồm 4 bước cho quá trình bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt. Đồng
thời sau khi Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết, Mỹ từng bước nới lỏng các lệnh
cấm vận đối với Việt Nam và tăng cường tiếp xúc trao đổi nhằm giải quyết những vấn
đề tồn tại. Trong khi đó, Campuchia đã dần dần không còn là vấn đề gai nhọn trong
quan hệ Mỹ - Việt nữa, nhất là khi tình hình Campuchia đã đi vào ổn định sau tuyển cử
tháng 5-1993 và thành lập chính phủ liên hiệp tháng 9-1993. Hơn thế nữa, hai bên cũng
tìm được sự gần nhau hơn trong nhiều vấn đề liên quan như mong muốn duy trì hoà bình

ổn định ở Campuchia, thái độ đối với sự diệt chủng của Khmer Đỏ
Những khai thông trong quan hệ Mỹ - Việt được thực hiện chủ yếu trong giai
đoạn sau của thời kỳ này. Cùng với những tiến bộ đạt được trong vấn đề MIA, quan hệ
Mỹ - Việt bắt đầu bước sang một chương mới. Ngày 3-2-1994, Tổng thống Mỹ
B.Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam và mở văn phòng liên lạc tại

12
thủ đô hai nước. Ngày 11-7-1995, Việt Nam và Mỹ chính thức bình thường hoá quan hệ.
Khi Chiến tranh Lạnh đang trở thành lịch sử thì những điều chỉnh lớn của Mỹ - với tư
cách là siêu cường duy nhất - đã có một ý nghĩa rất đáng kể. Sự kiện này không chỉ tạo
điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam với chính sách mở
cửa. Trên bình diện quan hệ quốc tế, cánh cửa của con đường hội nhập thế giới đã được
mở và hội nhập như thế nào, bây giờ chủ yếu là vấn đề của chính Việt Nam. Trong phạm
vi khu vực ASEAN, sự kiện này có một giá trị không thể bỏ qua. Chỉ sau khi Việt Nam
và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao, 16 ngày sau đó, Việt Nam mới chính thức trở thành
thành viên của ASEAN, mặc dù quá trình này đã được chuẩn bị từ nhiều năm trước.
Với chính sách đối ngoại truyền thống của mình, chính sách Việt Nam của Hàn
Quốc vẫn tính đến quan điểm và thái độ của Mỹ đối với Việt Nam. Trong thời kỳ này,
quan hệ Mỹ - Việt tuy có tiến triển song tốc độ là tương đối chậm chạp. Đứng về phía
Mỹ, những khai thông ban đầu trong quan hệ này xuất phát từ tình thế nhiều hơn là nội
tại, dưới sức ép của các nhu cầu kinh tế hơn là thiện chí chính trị. Sự tiến bộ trong vấn
đề Campuchia là do có sự trùng hợp nhất định về quan điểm và lợi ích đối với sự ổn
định ở Đông Nam Á, thái độ đối với tội ác diệt chủng, sự lo ngại vai trò của Trung Quốc
trong thời kỳ "hậu Campuchia". Trong khi đó, việc Việt Nam không còn là ưu tiên chiến
lược của Mỹ, sự tiếp tục của quá khứ đối đầu đều là những trở lực tạo nên sự chậm chạp
của mối quan hệ Mỹ - Việt vào nửa đầu của thời kỳ này. Dù sao, những tiến bộ nhất
định trong quan hệ Mỹ - Việt và trong việc giải quyết vấn đề Campuchia có ý nghĩa
đáng kể đối với xu thế hoà hoãn, hoà dịu ở Đông Nam Á, giảm sự ngăn cách và góp
phần thúc đẩy sự ổn định ở khu vực Đông Á.
Rõ ràng, so với các thời kỳ trước, trong thời kỳ này, khi nhân tố Liên Xô/Nga mất

dần vai trò và ảnh hưởng, nhân tố Mỹ và Trung Quốc đã có những tác động mới theo
hướng tích cực hơn đối với quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á nói chung, quan hệ Việt
Nam - Hàn Quốc nói riêng. Một điểm nữa là hai nước này cũng ảnh hưởng trước xu thế
khu vực hoá và tính độc lập của từng nước đang tăng lên sau những năm tháng quan hệ
quốc tế nằm trong sự đối đầu Đông - Tây.

13
Như vậy, sự chấm dứt Chiến tranh Lạnh không chỉ làm mất đi các tác động lôi
kéo và những kích động từ bên ngoài dẫn đến sự đối đầu trước kia ở khu vực Đông Á.
Nó còn tạo ra môi trường hoà dịu, hoà hoãn ở đây. Mặt khác, sự chấm dứt Chiến tranh
Lạnh cũng làm lộ diện những vấn đề và nhân tố vốn bị che khuất bởi đối đầu an ninh -
chính trị Đông - Tây. Đó là yếu tố kinh tế và với những thế lực mới của Nhật Bản, EU
và các nước NICs. Những nhân tố và thế lực mới này khi có được vị trí xứng đáng đã
nhanh chóng tác động thuận lợi cho sự cải thiện quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc.
Với sự sụp đổ của mô hình kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp, mệnh lệnh
hành chính ở các nước XHCN, mô hình kinh tế thị trường dường như đã trở thành đáp
án duy nhất thích hợp đối với sự phát triển kinh tế. Sự chi phối của thị trường với các
đặc điểm mở cửa và giao lưu đã thúc đẩy các nền kinh tế gắn bó với nhau chặt chẽ hơn
và do đó, nền kinh tế thế giới cũng trở nên thống nhất hơn. Sự thống nhất này dựa trên
cơ sở chung là nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường không chỉ tạo ra cạnh tranh
mà còn yêu cầu hợp tác, trao đổi. Nó không ngừng đòi hỏi sự mở rộng thị trường và
nâng cao mức cung cầu. Nó tạo nên các dòng lưu thông tự do về vốn, lao động, hàng hoá
và dịch vụ. Bởi thế, kinh tế ngày càng có sức chi phối quan hệ quốc tế và hiện diện ngày
càng nhiều trong quan hệ giữa các quốc gia.
Sống trong một thế giới như vậy, Việt Nam và Hàn Quốc một khi đã dấn thân là
phải cùng nhau thích ứng. Sự dấn thân này sẽ ngày càng mang đậm mầu sắc kinh tế bởi
phát triển đã trở thành ưu tiên chiến lược, giao lưu trở thành điều kiện cơ bản, hợp tác
trở thành hoạt động sống còn và chậm chân sẽ dẫn đến mất mát. Con đường chủ yếu đề
đáp ứng những điều này chính là hợp tác để cùng phát triển.
Mô hình phát triển kinh tế của khu vực Đông Á và Đông Nam Á từ năm 1960 đến

đầu thập niên 90 đang đối đầu với một thử thách lớn. Nhật Bản là nước có ảnh hưởng
kinh tế lớn trong thời điểm này và đã áp dụng mô hình phát triển tập thể, hướng đến
công nghiệp hoá đối ngoại, lợi dụng xuất khẩu quốc tế để phát triển. Với tư cách là một
trong ba trung tâm kinh tế hàng đầu của thế giới và cường quốc số một ở châu Á, Nhật
Bản ngày càng có vai trò lớn trong quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á. Mặc dù vai trò

14
chính trị còn khiêm tốn, nhưng với tiềm năng và các cơ sở quan hệ kinh tế đã có, Nhật
Bản ngày càng có ảnh hưởng đối với quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc. Trong thời kỳ này,
Nhật Bản không chỉ là nơi cung cấp các khoản đầu tư, nguồn cung cấp công nghệ mà
còn là thị trường quan trọng tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu của các nước trong khu vực.
Ngược lại, một mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam - Hàn Quốc sẽ góp phần củng cố
quan hệ ở khu vực, và rõ ràng Nhật Bản cũng có quyền lợi to lớn khi tiến hành hoạt
động thương mại và đầu tư trong một môi trường ổn định . Không thể phủ nhận, các
hoạt động kinh tế mạnh mẽ của Nhật và các công ty xuyên quốc gia của nó cũng góp
phần thúc đẩy xu thế tăng cường hợp tác kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc nói riêng và
trong khu vực nói chung.
Tóm lai, chưa bao giờ trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc, những điều
kiện bên ngoài thuận lợi cho sự phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước lại được mở ra
lớn đến như vậy. Đó là các xu thế hoà dịu trong quan hệ quốc tế, xu thế hợp tác cùng
phát triển về kinh tế, sự mất đi tác động chia rẽ của các nước lớn Là hai nước sống
trong cùng khu vực, Việt Nam và Hàn Quốc đều ý thức được việc phải chuyển mình,
xoá đi những nghi kỵ, thù hằn để tăng cường hợp tác. Đó là con đường duy nhất để hai
nước giải quyết được các vấn đề còn tồn tại, thích ứng được với tình hình đang thay đổi
trong một thế giới mà tụt hậu giờ đây có nghĩa là đắm chìm.

I.2/ TÌNH HÌNH VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

Việc kết thúc Chiến tranh lạnh với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN
Đông Âu, cũng như những diễn biến mới trong quan hệ quốc tế, sự phát triển như vũ bão

của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, đã dẫn đến việc Việt Nam phải tìm ra một hướng
đi mới cho công cuộc phát triển nền kinh tế, cũng như bảo vệ đất nước.
Những khó khăn bước đầu khi xây dựng lại đất nước sau hoà bình thống nhất, giải
quyết những vấn đề còn tồn tại giữa Việt Nam và các nước, tháo gỡ vấn đề Campuchia,
từng bước bình thường hoá với Trung Quốc và các nước trên thế giới đã giúp Việt Nam
dần thoát khỏi sự bao vây cô lập, để hội nhập với thế giới và đi vào phát triển. Việc mất

15
đi một thị trường quan trọng là khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế - Soviet
Economisiskoi Vzaimopomosi) là một thách thức lớn với nền kinh tế Việt Nam và đòi
hỏi Việt Nam phải có những điểu chỉnh trong chiến lược phát triển.
Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình Việt Nam có nhiều biến đổi sâu
sắc. Sau 5 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986-1991), Việt Nam đã thoát ra khỏi
khủng hoảng kinh tế, giữ vững được ổn định chính trị và an ninh quốc gia. Trong bối
cảnh mới trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công cuộc Đổi mới
và điều chỉnh chiến lược đối ngoại cho phù hợp với sự phát triển của tình hình. Nhiệm
vụ trọng tâm của ngoại giao Việt Nam bao trùm trong thời kỳ này là "giữ vững hoà bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc", và "chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở
các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình" [2; 88].
Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trên, trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam thúc
đẩy xây dựng quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực, tăng cường hợp tác để duy
trì một môi trường hoà bình, ổn định lâu dài phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội đất nước. Từ mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước, vị trí và uy tín của Việt
Nam sẽ ngày càng được đề cao ở trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Trên cơ
sở đường lối đối ngoại trên và nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước, Việt Nam nhận
thấy rằng Hàn Quốc là một trong những đối tác quan trọng, có nhiều tiềm năng để Việt
Nam thiết lập và mở rộng quan hệ trên nhiều lĩnh vực.
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia cùng nằm trong "khu vực văn hoá Đông

Á", có truyền thống lịch sử hàng ngàn năm văn hiến với những đặc điểm là tinh thần yêu
nước, trí thông minh và cần cù lao động. Trong quá khứ, cả hai dân tộc đều bị các cuộc
chiến tranh xâm lược tàn phá khốc liệt và là những thuộc địa có trình độ sản xuất thấp, ít
được thế giới biết đến. Sau khi giành độc lập, chính phủ và nhân dân hai nước đều mong
muốn sống trong hoà bình, độc lập, tập trung sức lực phát triển kinh tế, khắc phục hậu
quả của quá khứ, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, rút ngắn khoảng cách với

16
các nước phát triển. Đó là những điểm thuận lợi cho hai nước dễ dàng thông hiểu và hợp
tác với nhau hơn so với các nước khác trong khu vực như Indonesia, Philippines,
Malaysia, Thái Lan
Bên cạnh đó, nền kinh tế của Hàn Quốc trước khi bước vào tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá năm 1962 và của Việt Nam trước công cuộc Đổi Mới năm 1986 đều
mang tính chất nông nghiệp là chủ yếu, trình độ sản xuất thô sơ, dân số đông, điều kiện
thời tiết không thuận hoà, đất đai manh mún không đủ để sản xuất lớn, các ngành công
nghiệp địa phương chỉ thoả mãn nhu cầu nội địa, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Vì vậy, khi hai nước hợp tác với nhau, nhất là trong lĩnh vực kinh tế,
Hàn Quốc có nhiều kinh nghiệm phát triển trong những năm qua và có thể chia sẻ cũng
như giúp Việt Nam vượt qua những khó khăn trong quá trình đổi mới đất nước.
I.3/ TÌNH HÌNH VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC

Trong hai thập niên 70 và 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Hàn Quốc đạt tốc độ phát
triển nhanh và mạnh. Bước sang thập niên 80, Hàn Quốc đã trở thành một nước công
nghiệp hoá mới (NIC), và được mệnh danh là một "con rồng kinh tế châu Á". Hàn Quốc
đã lợi dụng được những mặt tích cực của xu thế mới trên thế giới và khu vực để phát
triển kinh tế thành công, nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Từ cuối những năm 80, quá trình dân chủ hóa trong nền chính trị Hàn Quốc được
thúc đẩy mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời các chính sách mới, phù hợp với
tình hình phát triển của quốc tế và nhằm giải quyết các vấn đề an ninh và kinh tế của đất
nước, tạo cơ sở cho việc thống nhất hai miền trên bán đảo Triều Tiên. Một trong những

hướng mới trong chính sách ngoại giao của Hàn Quốc ở thời kỳ ngay sau khi Chiến
tranh Lạnh kết thúc là toàn cầu hoá và đa dạng hoá quan hệ. Tiêu biểu cho sự thay đổi về
đường lối đối ngoại trên là Chính sách ngoại giao phương Bắc (The Northern Diplomacy
Policy) (2-1988). Chính sách này đã thúc đẩy và thiết lập quan hệ ngoại giao với các
nước XHCN như Liên Xô, Trung Quốc, kể cả thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với
CHDCND Triều Tiên. Hàn Quốc đã thu được nhiều thành công với chính sách này, từ

17
chỗ phụ thuộc nhiều về kinh tế vào Mỹ và Nhật Bản nay chuyển sang quan hệ đa
phương với các nước có chế độ chính trị khác nhau. Điều đó đã tạo điều kiện để Hàn
Quốc gia nhập Liên Hợp Quốc và tăng cường vị thế của Hàn Quốc trên trường quốc tế.
Chính sách này giúp Hàn Quốc phát triển mạnh quan hệ hợp tác kinh tế với các nước
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng như các nước ASEAN. Chính trong bối
cảnh này, Hàn Quốc đã thúc đẩy quá trình thiết lập quan hệ chính thức với Việt Nam.
Việc Hàn Quốc phát triển quan hệ với Việt Nam cũng có nghĩa là Hàn Quốc có nhiều
thuận lợi hơn trong việc xâm nhập vào hai thị trường kinh tế tiềm năng mới là Lào và
Campuchia. Với kinh nghiệm xây dựng và phát triển kinh tế của mình, Hàn Quốc mong
muốn công nghệ và vốn của Hàn Quốc khi kết hợp với nguồn tài nguyên và lao động
của Việt Nam chắc chắn sẽ góp phần vào công cuộc phát triển tốt hơn cho kinh tế của
hai nước.
Đối với Hàn Quốc, đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam đã
trùng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hàn Quốc cũng như sẽ có thể phát huy
lợi thế so sánh từ cả hai nước khi hợp tác chặt chẽ với nhau. Việc mở rộng quan hệ hợp
tác với Việt Nam đã góp phần giúp Hàn Quốc khắc phục những khó khăn về tài nguyên,
chi phí lao động và thị trường. Thông qua hợp tác kinh tế, Hàn Quốc phát triển sản xuất,
mở rộng được các kênh tiêu thụ sản phẩm, thu được lợi nhuận, và dần chuyển giao một
số ngành đã mất lợi thế cạnh tranh ở trong nước sang Việt Nam.
Giới chính trị, các nhà khoa học và doanh nghiệp Hàn Quốc thời gian này đều
nhận thấy rằng: Hiện nay đang có một nước Việt Nam mới với một thị trường khá lớn
gần 80 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú, diện tích lãnh thổ gần gấp rưỡi diện

tích bán đảo Triều Tiên, sức lao động nhiều và rẻ tuy rằng sức mua có khả năng thanh
toán chưa cao nhưng chính sách mở cửa và công cuộc cải cách kinh tế đang tiến triển
mạnh, với sự phát triển kinh tế cao, một thị trường đầy tiềm năng đã thu hút được sự
quan tâm của các bạn hàng, các nhà đầu tư lớn không chỉ của Hàn Quốc mà còn của các
nước khác trên thế giới. Vì vậy, khi thời cơ thuận lợi mở ra, điều kiện đã chín muồi, Hàn

18
Quốc nói riêng và nhiều nước khác nói riêng đã nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại
giao với Việt Nam.












CHƢƠNG II
QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 - 2002


II. 1/ VÀI NÉT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC TRONG LỊCH SỬ

Khi đánh giá quan hệ hai bên trong dịp kỷ niệm 5 năm thiết lập quan hệ (1992-
1997), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm lúc đó nhận xét: "Hiếm thấy trên thế
giới trường hợp hai nước mới thiết lập quan hệ ngoại giao một thời gian ngắn như vậy

mà quan hệ hợp tác lại phát triển nhanh như vậy" [75; 35], hay theo lời đại sứ Việt Nam
tại Hàn Quốc Nguyễn Văn Xương đã dùng hình ảnh "nở rộ" để miêu tả quan hệ Việt
Nam - Hàn Quốc những năm đó [75; 35]. Những phát triển nhanh và vững chắc trong
quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc 5 năm tiếp theo (1997- 2002) là những minh chứng hùng
hồn cho nhận xét trên. Để có được những thành tựu trên, ngoài sự nỗ lực vượt bậc của
hai nước trong 10 năm qua, cộng với những điều kiện của bối cảnh chính trị, kinh tế và
xu thế phát triển thuận lợi trên thế giới, một nhân tố đóng vai trò quan trọng đóng góp

19
không thể thiếu được là một "nền móng" vững chắc tốt đẹp của quan hệ hai nước, hai
dân tộc trong quá khứ.
Nhìn lại lịch sử, do điều kiện địa lý cách xa nhau nên giữa Việt Nam và Hàn Quốc
không có quan hệ trực tiếp về chính trị và kinh tế. Hai nước chỉ biết đến nhau qua một
nước thứ ba: đó là Trung Quốc phong kiến. Việc các sứ thần hai nước gặp nhau tại Yên
Kinh (Bắc Kinh) như trường hợp tiêu biểu của Phùng Khắc Khoan và Lý Tối Quang
(hiệu là Lý Chỉ Phong), hay Lê Quý Đôn và Hồng Khải Hy đã để lại những dấu ấn tốt
đẹp trong quan hệ hai nước không chỉ trong quá khứ mà còn lưu lại cho đến tận hiện
nay. Các sứ thần đã làm thơ, viết lời tựa tặng nhau, rồi cùng đem những ký ức đó về
nước của mình và hình thành nên tình cảm tốt đẹp giữa nhân dân hai nước. Vua quan và
nhân dân trên bán đảo Triều Tiên còn có một ấn tượng khác đầy thiện cảm và biết ơn về
con người Việt Nam. Đó là sự kiện hai dòng họ Lý (Lý Tinh Thiện và Lý Long Tường)
đến định cư và sinh sống tại Hàn Quốc vào thế kỷ thứ XII và XIII. Trong quá trình sinh
sống, con cháu hai dòng họ Lý đều đóng góp sức lực, tài trí của mình để bảo vệ và phát
triển mảnh đất đã cưu mang mình. Sự kiện Hoàng thân Lý Long Tường mộ quân cùng
người dân bản địa đánh đuổi quân xâm lược Mông Cổ vào thế kỷ XIII đã được nhân dân
bán đảo Triều Tiên ghi nhận và biết ơn sâu sắc. Vua Triều Tiên lúc đó là Cao Tông
(Kojong) (1213-1259) rất ngợi khen và cho đổi tên Trấn Sơn (nơi Lý Long Tường đang
sinh sống) là Hoa Sơn, phong cho ông tước Hoa Sơn Quân lấy nghĩa là nước Nam có núi
Hoa Sơn. Đồng thời vua cấp 30 dặm đất, 2.000 hộ cho Hoàng thân Lý Long Tường lập
ấp ăn lộc và phụng thờ tổ tiên. Vua lại cho dựng nhà lưu niệm gọi là Thụ Hàng Môn, đề

biển ghi công đức của Hoàng thân. Những kỷ niệm và di tích đó hiện vẫn đang được
người dân trên bán đảo Triều Tiên trân trọng và giữ gìn.
Về phía Việt Nam, sự kiện người dân đảo Tế Châu của Triều Tiên trôi dạt đến Hội
An năm 1689 đã được chúa Nguyễn giúp đỡ và tạo điều kiện để trở về nước. Sự kiện
này theo một nhà nghiên cứu Việt Nam học, giáo sư Hàn Quốc Cho Jae Hyun thì "đây là
câu chuyện cảm động, tiêu biểu cho lòng mến khách, nhân đạo, ngoại giao chu đáo của
người Việt Nam đối với người Hàn Quốc" [11; 57].

20
Những năm sau này của thế kỷ XX, các nhà cách mạng Việt Nam và Triều Tiên
cùng chí hướng đã gặp nhau, kề vai sát cánh trong việc đi tìm đường cứu nước khi hai
nước đều bị thực dân đế quốc đô hộ. Tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc trong những năm bôn
ba tìm đường cứu nước, Người rất quan tâm đến những đất nước đang nằm trong ách
thống trị của đế quốc thực dân như Trung Hoa, Algeri, Tunidy và đặc biệt là Triều Tiên.
Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chủ tịch đã nhắc tới Triều Tiên khoảng 100 lần.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ bài viết thứ hai của mình với tựa đề Đông Dương và
Triều Tiên: Một sự so sánh thú vị đăng trên báo Le Popularie ngày 4-9-1919, Nguyễn Ái
Quốc đã so sánh chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương với đế quốc Nhật ở
Triều Tiên. Người phân tích "việc chính phủ Nhật nhìn thấy trước hậu quả đáng buồn
khi mở ra một cuộc chinh phục rất lớn của chủ nghĩa quân phiệt, nên đang thừa nhận
phải cải cách chế độ ở Triều Tiên theo một tinh thần khoan dung" trong lúc đó thì "thật
đáng buồn thay khi thấy rằng sau 50 năm thống trị mà những người đại diện cho nước
Cộng hoà Pháp ở Đông Dương vẫn cứ ngoan cố kìm chân người bản xứ trong vòng nô
lệ, không cho họ hưởng một chút quyền tự do nào, cũng như các quyền khác theo luật
pháp quy định" [5; 12]. Nhưng Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh " chúng tôi không hề đóng
vai trò đáng khinh bỉ làm người biện hộ cho chủ nghĩa đế quốc Nhật mà lên án nó cũng
như lên án tất cả các thứ chủ nghĩa đế quốc" [5; 12]. Và Người cũng cảnh báo trước rằng
không vì cái chiêu bài tự trị ấy mà "những người yêu nước Triều Tiên lấy làm thoả mãn
mà họ còn tiếp tục đòi cho được độc lập hoàn toàn" [5; 12]. Người khẳng định "Thế giới
sẽ chỉ có nền hoà bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thoả thuận với nhau tiêu

diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp" [5; 11]. Tư tưởng đó của
Người cho đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.
Sau này vào thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX, dù quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc đã
có những lúc không được tốt đẹp, nhưng khi thời gian đó trôi qua, mối quan hệ này
dường như chỉ cần có cơ hội là được nối ngay trở lại và tiếp tục phát triển. Khoảng thời
gian 10 năm giữa hai nước (từ 22-12-1992 đến 22-12-2002) là một giai đoạn tuy chưa
phải là dài để có thể nói lên tất cả nhưng nó đã phản ảnh được phần nào những diễn biến

×