Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Hiện thực nông thôn qua một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.18 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







LÊ QUANG HUY






HIỆN THỰC NÔNG THÔN QUA MỘT SỐ TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI







LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VĂN HỌC













HÀ NỘI, NĂM 2013



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






LÊ QUANG HUY










HIỆN THỰC NÔNG THÔN QUA MỘT SỐ TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI








LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số : 60 22 32





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÝ HOÀI THU




HÀ NỘI, NĂM 2013
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
MỞ ĐẦU 4
Chƣơng 1: BỨC TRANH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ LÀNG
QUÊ TRONG BỐN TIỂU THUYẾT: THỜI XA VẮNG, BẾN KHÔNG

CHỒNG, MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA , DÒNG SÔNG MÍA 12
1.1 . Bức tranh nông thôn đa dạng với nhiều phong tục tập quán 12
1.2. Một xã hội nhức nhối những vấn đề nóng bỏng khó giải quyết 22
1.2.1. Nông thôn với những lý tƣởng và niềm đau trong chiến tranh 22
1.2.2. Quan hệ lao động sản xuất đầy khắc nghiệt 36
1.2.3 . Sự đối đầu khốc liệt giữa các dòng họ 44
1.3. Đời sống nông thôn trƣớc những biến đổi của xã hội 50
1.3.1. Lối sống theo kiểu “một ngƣời làm quan cả họ đƣợc nhờ”, dựa vào
uy danh dòng họ 50
1.3.2 . Sức mạnh nằm trong tay kẻ lắm tiền 56
Chƣơng 2 BI KỊCH CỦA CON NGƢỜI NÔNG THÔN 61
2.1. Con ngƣời bị trói buộc bởi uy danh dòng họ. 61
2.2. Con ngƣời nô lệ của khát vọng quyền lực 70
2.3. Con ngƣời cam chịu khuất phục trƣớc định kiến của gia đình và xã hội
79
2.4. Ngƣời phụ nữ - những thân phận đa đoan……………………………………
Chƣơng 3: ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN 90
3.1. Nghệ thuật khắc họa nhân vật: 90
3.1.1. X ây dựng những chi tiết ngoại hình: 90
3.2.2. Biểu hiện nội tâm nhân vật: 91
3.1.3. Miêu tả hành động nhân vật: 91
3.2. Ngôn ngữ: 92
3.2.1. Ngôn ngữ trần thuật (ngôn ngữ người kể chuyện): 92
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật. 93
3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật: 93
3.3.1. Không gian nghệ thuật: 93
3.3.2. Thời gian nghệ thuật: 94
. KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103




1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.

Trong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan
Cự Đệ đã nhận xét về tình hình sáng tác văn chƣơng giai đoạn này: “mở
rộng đề tài và các phƣơng thức tiếp cận, chấp nhận cả lãng mạn, tƣợng
trƣng, huyền thoại, viễn tƣởng, quan niệm cởi mở hơn về vai trò của chủ
thể nhà văn, về điển hình hoá, về các kiểu ngôn ngữ trần thuật, nhìn chung
là khuyến khích sự đa dạng về hình thức và phong cách biểu hiện” và
“chúng ta đƣợc mùa về truyện ngắn và tiểu thuyết”. Đặc biệt là tiểu thuyết.
Cũng theo sự thống kê do chúng tôi tổng hợp thì độc giả đã đƣợc đón nhận
đến vài trăm cuốn tiểu thuyết, trong đó nổi bật là tên tuổi những nhà tiểu
thuyết nhƣ: Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Chu Lai, Bảo
Ninh,Khuất Quang Thụy, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Hoàng Minh Tƣờng,
Trung Trung Đỉnh, Ngô Ngọc Bội, Vũ Huy Anh, Xuân Đức, Nguyễn Trí
Huân, Đào Thắng Sau này, còn xuất hiện thêm nhiều tác giả, tác phẩm
khác.
Trong văn học Viê
̣
t Nam đƣơng đại , tiê
̉
u thuyết chiếm mô
̣
t vị trí quan
trọng, chính vì thế từ giữa thâ
̣
p kỷ 90, với cảnh hô

̣
i nhâ
̣
p, tiê
̉
u thuyết đã có
sự tìm tòi theo mô
̣
t hƣớng mới, ở đó “hình thức của tiê
̉
u thuyết đã trở thành
chủ đề quan trọng. Một nền văn học không có cỗ trọng pháo tiểu thuyết thì
đó là một khoảng trống rất đáng sợ”. Muốn biết một nền âm nhạc thì nhìn
vào nhạc giao hƣởng, muốn biết một nền văn học nhƣ thế nào thì nhìn vào
tiểu thuyết. Nói nhƣ vậy để thấy vai trò của tiểu thuyết trong văn học nghệ
thuật và cũng lý giải vì sao cái đích của nhiều ngƣời cầm bút là hƣớng tới
tiểu thuyết, nói nhƣ nhà thơ Hữu Thỉnh thì: “Tiểu thuyết là hàn thử biểu
của nền văn học”.
Với số lƣợng tác phẩm, tác giả nhƣ thế, có thể nói, để tìm hiểu,
nghiên cứu tất cả các đề tài, nội dung của tiểu thuyết thời kì này là một điều
khó, thậm chí không thể. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu

2
nghiên cứu một khía cạnh nội dung của tiểu thuyết thời kì này, đề tài mang
tên: “Hiện thực nông thôn qua một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại”.
Lí do để chúng tôi chọn đề tài này là:
Thứ nhất, đề tài này có liên quan đến những tiểu thuyết đoạt giải của Hội
Nhà Văn, đã đƣợc công bố rộng rãi và đƣợc công chúng đón nhận.
Thứ hai, các tiểu thuyết đều nằm trong giai đoạn 1986-nay, là giai đoạn có
ý nghĩa quan trọng, mở đầu thời kì đổi mới và kết thúc một thế kỉ. Thứ ba,

khi tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết thời kì đổi mới, ngƣời ta chủ yếu xoáy
sâu vào các nội dung nhƣ: vấn đề chiến tranh, vấn đề xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vấn đề số phận con ngƣời trong thời kì mới, sự thay đổi trong
những quan niệm về giá trị con ngƣời Ít ngƣời chú ý tới khía cạnh nội
dung phản ánh hiện thực nông thôn trong các tác phẩm.
Chính vì những lí do kể trên mà chúng tôi quyết định chọn đề tài này.
Chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài sẽ phần nào đó đóng góp một
cách nhìn khách quan và tƣơng đối toàn diện cho bức tranh xã hội Việt
Nam trong thời kì vốn đƣợc xem là cực kì nhạy cảm này.
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài chủ yếu tập trung khảo sát bốn tiểu thuyết Thời xa vắng (Lê
Lựu), Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng) và Mảnh đất lắm người nhiều
ma (Nguyễn Khắc Trƣờng), Dòng sông Mía ( Đào Thắng) những tiểu
thuyết đã đoạt giải chính thức của Hội nhà văn nên thu hút đƣợc sự quan
tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu và độc giả. Trong quá trình tìm hiểu và
thu thập tài liệu, chúng tôi sƣu tập đƣợc một số bài viết về các tiểu thuyết
này.
Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu” đăng
trên tạp Tạp chí văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 đã tập trung nghiên cứu
tiểu thuyết Thời xa vắng trong giới hạn vấn đề số phận cá nhân, số phận
của ngƣời nhà quê trƣớc những biến động của xã hội, cụ thể là cuộc đời, số
phận của nhân vật Giang Minh Sài. Theo Hoàng Ngọc Hiến thì anh nông

3
dân Giang Minh Sài “ “người nhà quê” của Lê Lựu hai lần khốn khổ, vừa
xung đột với hệ tư tưởng gia trưởng, vừa xung đột với thành phố ở bộ phận
phức tạp nhất của nó là đàn bà, con gái.”[16, tr119], thế nên cuộc sống của
anh cứ bùng nhùng, bế tắc, vƣớng vào hết bi kịch này đến bi kịch khác. Và
từ những vấn đề thuộc về nhân vật, thuộc về tác phẩm, tác giả Hoàng Ngọc
Hiến suy luận đến những vấn đề lớn, những vấn đề bức xúc của xã hội suốt

một thời: “Lê Lựu chỉ đụng đến đề tài “người nhà quê và đô thị” một cách
ngẫu nhiên: chỉ là câu chuyện thương tâm một “anh nhà quê” chơi trèo với
thành phố bị bại. Trên đất nước ta sau khi thống nhất, không phải cán bộ
tiếp quản nào cũng trở thành người chủ của thành phố, không ít “người
nhà quê” tiếp xúc với đô thị đã bị bại hoàn toàn,sống dở chết dở, điêu
đứng bi thảm, sự thất bại của họ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc” [16, tr119].
Thiếu Mai cũng trong Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 có bài:
“Nghĩ về một “thời xa vắng” chƣa xa”. Bài viết của Thiếu Mai nghiên cứu
khá sâu sắc cả khía cạnh nội dung lẫn nghệ thuật của Thời xa vắng. Ở khía
cạnh nội dung, tác giả phân tích sự tác động của hoàn cảnh đến quá trình
hình thành tính cách của nhân vật. Trong tác phẩm, nhân vật Giang Minh
Sài cả cuộc đời đã phải gánh trên vai hệ tƣ tƣởng gia trƣởng, những quan
niệm, những định kiến khiến cho anh không lúc nào đƣợc sống bằng
chính cuộc đời của mình, chỉ biết nghe và chiều ý mọi ngƣời, đến nỗi theo
lời của tác giả Thiếu Mai thì: “trong con người anh, luôn luôn tồn tại hai
thế lực: chống đối và khuất phục. Hai thế lực ấy ngày càng phát triển, càng
mâu thuẫn, và đẩy bi kịch trong con người Sài lên một mức độ ngày càng
cao hơn.” [32, tr121]. Và cũng theo sự đánh giá của Thiếu Mai thì “ Lê Lựu
đã tỏ ra hiểu nhân vật của mình đến tận chân tơ kẽ tóc, đến tận những
ngọn ngành sâu thẳm nhất của tình cảm, suy nghĩ. Xót xa cho cuộc đời Sài
bao nhiêu, tác giả lại giận dữ lên án cách sống, cách ứng xử thiếu bản lĩnh
của anh ta bấy nhiêu” [32, tr122]. Mà đâu chỉ có Sài, bên cạnh anh còn biết
bao nhiêu ngƣời cũng làm những điều mình không muốn chỉ vì không dám

4
làm phật ý hay làm khác với mọi ngƣời xung quanh nhƣ ông đồ Khang, anh
Tính, chú Hà, Chính uỷ Đỗ Mạnh, anh Hiền, anh Hiển Nói cách khác, Sài
và những nhân vật liên quan đến tấn bi kịch của cuộc đời anh vừa là đại
diện cho những cá nhân riêng lẻ nhƣng cũng là sản phẩm chung của “một
thời, thời xa vắng, nhưng chưa xa là bao”, cái thời mà do hoàn cảnh lịch sử

của nó, ý thức cá nhân phải tạm lu mờ, nhƣờng chỗ cho những vấn đề lớn
lao mang ý nghĩa dân tộc. Đấy là xét về mặt nội dung. Xét về mặt nghệ
thuật, mặc dù “nhiều người có ý cho là văn Lê Lựu không chuốt, mộc quá,
và không phải là không có những câu què, hoặc trúc trắc, thậm chí có câu
ngữ pháp chưa chỉnh” , nhƣng tác giả Thiếu Mai vẫn cho rằng tiểu thuyết
Thời xa vắng đƣợc xây dựng bằng “một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được
vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan, không thêm bớt, tô vẽ, đặc biệt là
không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức thuyết
phục, hấp dẫn của tác phẩm” [32, tr.123]. Tuy chƣa thích thú với kết cấu
ba phần mà phần kết “khó chấp nhận vì tính chất bất hợp lí của nó, và vì nó
thể hiện một sự áp đặt do ý muốn chủ quan của tác giả” [32,tr.125]. Thế
nhƣng, với tác giả Thiếu Mai, Thời xa vắng “tuy vẫn còn có những nhược
điểm, còn thiếu một sự chặt chẽ, nhất quán cần thiết, nhưng với ưu điểm
rất trội của nó, nó là một thành công, một đóng góp vào nền văn học đang
có đà phát triển khởi sắc cùng chúng ta mấy năm vừa qua.” [32, tr.125]
Đinh Quang Tốn trong cuốn Tản mạn và chính kiến văn chương có
bài: “Lê Lựu - Thời xa vắng”. Trong bài viết này, Đinh Quang Tốn muốn
nói đến sự hoá thân của cuộc đời tác giả Lê Lựu vào trong các tác phẩm
của mình. Trong khi giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu,
những dấu ấn cá nhân của tác giả để lại trong các sáng tác , Đinh Quang
Tốn có vài dòng nhận xét về tiểu thuyết Thời xa vắng: “Thời xa vắng viết
về hậu phương miền Bắc trong cuộc chống Mĩ cứu nước với cả cái vui và
cái buồn, cái nồng nhiệt và sự non nớt, những quầng sáng và những bóng
mờ, có cả nụ cười và nước mắt ” [49, tr.18]. Nhìn chung, đề tài hậu

5
phƣơng nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mĩ có nhiều ngƣời
viết, nhƣng theo sự đánh giá của Đinh Quang Tốn thì: “Lê Lựu là người
viết thành công nhất” [49, tr.22] và “ Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên
Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu, thì Lê

Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện
đại, chọn lấy 30 tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng. Nói thế để thấy, trong
văn học Việt Nam hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí đáng kể.” [49, tr.22]
Trung Trung Đỉnh trong bài “Dƣơng Hƣớng và Bến không chồng”
đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 12 năm 1991 đã đƣa ra một số
nhận xét về mặt đề tài, nội dung và kết cấu của tiểu thuyết Bến không
chồng của Dƣơng Hƣớng. Về mặt đề tài, tác giả Trung Trung Đỉnh nhận
xét: “ Có người nói, tiểu thuyết Bến không chồng viết về đề tài nông thôn.
Lại có người nói, tiểu thuyết này viết về đề tài chiến tranh. Có người lại
cho rằng đây là cuốn sách viết về đề tài xã hội. Tất cả đều có đấy, nhưng
theo tôi Dương Hướng không nhằm vào đề tài. Anh khai thác đến tận cùng
thân phận những nhân vật chính ” [8, tr.99]. Để lí giải cho ý kiến của
mình, tác giả bài viết đã đƣa ra dẫn chứng về cuộc đời, thân phận các nhân
vật nhƣ: nhân vật Nguyễn Vạn suốt cả đời gìn giữ cái bóng của vinh quang
mà đánh mất đi cái chính yếu là bản thân mình, cá nhân mình; các nhân vật
nữ nhƣ bà Nhân, bà Khiêm, mụ Hơn, cô Hạnh, cô Thủy, cô Dâu , mỗi
ngƣời một hoàn cảnh, một thân phận khác nhau và đều để lại ấn tƣợng sâu
sắc trong lòng ngƣời đọc; Về mặt nội dung, tác giả Trung Trung Đỉnh cảm
nhận đƣợc sự chân thật, giản dị trong ngòi bút hiện thực của Dƣơng Hƣớng
qua việc miêu tả ngôi làng Đông, những con ngƣời của làng Đông, những
cảnh sinh hoạt thƣờng nhật, những nếp nghĩ, tình cảm, cách cƣ xử tự
nhiên, gần gũi nhƣ nó đang diễn ra trƣớc mắt ngƣời đọc, khiến ngƣời đọc
nhƣ đang đƣợc sống trong không khí của làng, đƣợc hòa nhập vào cuộc
sống của ngƣời dân; Còn về kết cấu của tiểu thuyết, Trung Trung Đỉnh chỉ
ra: “Cuốn sách được kết cấu một cách hồn nhiên, thuận theo chiều thời

6
gian, theo sự kiện chung của đất nước trong khoảng thời gian đó, và theo
sự đến với thân phận từng nhân vật. Chính vì thế anh không mất nhiều thời
gian trong việc tính toán chương hồi, mặc dù vẫn có chương hồi” [8, tr.99].

Ở đây, tác giả Trung Trung Đỉnh cũng có chỉ ra những mặt hạn chế của
cuốn tiểu thuyết này, đó là quá trình dẫn dắt “có những chỗ sắp xếp vụng
và đôi khi lại thiếu sự tế nhị của nghề nghiệp”, “ phần đầu dài quá. Câu
chữ có chỗ hơi luộm thuộm quá. Cái cười của cô Dâu cứ hi hí thế, e tự
nhiên chủ nghĩa quá” [8, tr.100] Thế nhƣng, tác giả bài viết lại đánh giá
“đây là nhược điểm của người say”, đấy là biểu hiện cái say của ngƣời
nghệ sĩ Dƣơng Hƣớng giữa làng Đông. Nhƣng cuối cùng, ƣu điểm vẫn là
chủ yếu, tác giả Trung Trung Đỉnh thừa nhận: “Anh chiếm lĩnh được tâm
hồn người đọc bằng sức hút của tấm lòng yêu thương nhân hậu, tự nhiên,
không ồn ào văn vẻ với một bút lực dồi dào đầy trách nhiệm. Dương
Hướng là người có bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm trước những số phận bi
ai, không né tránh nửa vời khiến cho thiên truyện càng tới những trang
cuối càng dồn nén, dồn nén đến nghẹt thở” [8, tr.98]
Về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Hữu Sơn,
trong cuốn Điểm tựa phê bình văn học có bài: “Bóng đêm - Một phƣơng
diện tƣ duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma”
chủ yếu khảo sát thủ pháp nghệ thuật, cụ thể là thời gian nghệ thuật của
tiểu thuyết này. Theo tác giả Nguyễn Hữu Sơn thì tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma “không có những trang miêu tả, thể hiện thời gian
tâm lí, tâm trạng gây ấn tượng như Sầu đong càng lắc càng đầy – Ba thu
dồn lại một ngày dài ghê! (Truyện Kiều), song chính mối liên hệ giữa các
biến cố, sự kiện với thời điểm nảy sinh các biến cố, sự kiện đó mới là đặc
điểm chính yếu tạo nên đặc trưng thời gian cho tác phẩm” [43, tr.131-132].
Và đặc trƣng thời gian của tác phẩm là thời gian bóng đêm. Các phân đoạn
mở đầu hay kết thúc trong tác phẩm cũng gắn liền với cảnh chiều tà, bóng
tối. Phần lớn những thời gian đƣợc đặc tả trong tác phẩm là thời gian bóng

7
đêm, hơn thế nữa “chúng lại thuộc về đêm cuối tháng không trăng sao,
hoặc có trăng thì chỉ thấy hình hài kì dị, không bao giờ được miêu tả như

cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên” [43, tr.133]; Đêm cũng là thời điểm bộc
lộ thân phận, tính cách của con ngƣời: ngay đầu tác phẩm là những hồi ức
về chuyện mấy mƣơi năm trƣớc lão Quềnh đã từng gặp ma và ăn ở với ma
trong đêm, rồi đến cảnh đám ma cụ cố Đại trong đêm, cảnh Thó lợi dụng
đêm tối bê trộm hũ rƣợu, cảnh bí thƣ Thủ và phó công an Cao đã bày trận
địa giả đẩy bà Son phải ra mặt chống ông Phúc - ngƣời tình của bà năm xƣa
nay là là kẻ thù của dòng họ nhà chồng cũng đƣợc tiến hành trong đêm, bà
Son bị dồn đẩy cũng lao mình xuống sông tự vẫn giữa đêm tối ; Thời gian
bóng tối là thời gian của ma quỉ, hắc ám, hiểm họa, là sự đồng lõa với tâm
địa đen tối của từng con ngƣời, những phe nhóm , những “chi bộ gia đình”,
những sự ăn chia ngấm ngầm của các đối thủ, hay nói cách khác nó là thời
gian cho phần ma trong con ngƣời đƣợc bộc lộ Chính vì thế, tác giả
Nguyễn Hữu Sơn đã kết luận: “Thời gian đêm tối là sự thống lĩnh trong
Mảnh đất lắm người nhiều ma, đồng thời nó lấn át ánh sáng của trăng
sao, càng vượt qua, thậm chí triệt tiêu sự mô tả ánh bình minh, mặt trời,
nắng ấm rực rỡ, hoa nở, chim bay ”. Và trong khi khảo sát cái không khí
hắc ám, ngột ngạt của bóng tối trong tác phẩm, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã
tìm ra một tầng giá trị khác của tiểu thuyết này: “phải chăng ý nghĩa thanh
lọc, khát khao hoàn thiện tính người, dứt bỏ bóng đêm ma quỉ mới chính là
thông điệp tác giả muốn gửi tới bạn đọc”[43, tr.135].
Lê Thị Tâm Hoài trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu đề tài: “Ngƣời
phụ nữ trong ba tiểu thuyết đoạt giải năm 1991”. Bến không chồng của
Dƣơng Hƣớng và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trƣờng là hai trong số ba tiểu thuyết đó. Ở bài viết này, tác giả Lê Thị Tâm
Hoài đi sâu khai thác hình ảnh, vẻ đẹp và bi kịch của những ngƣời phụ nữ
thể hiện trong ba tiểu thuyết. Đọc bài viết này ta sẽ thấy bà Nhân, cô
Hạnh (Bến không chồng), bà Son, cô Đào (Mảnh đất lắm người nhiều

8
ma) đã đƣợc nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Họ đều là những ngƣời

phụ nữ đẹp, đẹp ở hình thể, đẹp ở tâm hồn, đẹp trong bản năng Nhƣng
cuộc đời họ cũng đầy bất hạnh, đầy bi kịch chỉ vì họ sinh ra là phụ nữ, họ
phải chịu đựng biết bao áp lực, định kiến ở đời
Trong cuốn sách “Đồng cảm và sáng tạo”, PGS.TS Lý Hoài Thu
dành sự ƣu ái cho “Dòng sông Mía”, tác giả quan tâm đến diện và điểm,
chú ý đến các hiện tƣợng và sự kiện có tiếng vang trong dƣ luận. Khả năng
nắm bắt và bình luận của Lý Hoài Thu thể hiện rõ ở các bài viết có sức khái
quát cao về lý luận: Dòng sông Mía - Một không gian tiểu thuyết vừa quen
thuộc vừa mới mẻ, Với Dòng sông Mía của Đào Thắng, tác giả nhận xét:
“Rõ ràng là, ẩn sau câu chuyện về đòn trả thù khủng khiếp của cá ông, ngòi
bút tác giả hƣớng tới một đời sống tâm linh nguyên sơ và huyền bí, một thứ
tín ngƣỡng dân gian trong trẻo nhƣng rất mực linh thiêng. Cùng với nó là
lời cảnh báo về sự ứng xử thô bạo, ngu muội của con ngƣời trƣớc thiên
nhiên, kêu gọi con ngƣời hãy biết sống hài hoà với thiên nhiên” (tr.229).
Về hình thức, Dòng sông Mía của Đào Thắng “có đƣợc nhiều dấu hiệu
thành công, mở ra đƣợc những hƣớng tiếp cận mang ý nghĩa cách tân về
mặt thể loại” (tr.232).
Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều bài viết chúng tôi muốn lấy
làm ví dụ minh họa cho sự quan tâm, những vấn đề nghiên cứu khác nhau
của các tác giả về ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh
đất lắm người nhiều ma, Dòng sông Mía. Có thể nói, khi nghiên cứu bốn
tiểu thuyết này, các nhà nghiên cứu hầu nhƣ không phân tích sâu bức tranh
xã hội nông thôn thể hiện trong các tác phẩm, mà chỉ chạm tới, chỉ nói qua.
Dẫu không phải là tiền sử của vấn đề luận văn nghiên cứu, nhƣng các bài
viết vẫn có giá trị tham khảo rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhấn mạnh
rằng vấn đề nông thôn không mới, không đặc biệt trong nghiên cứu văn
học, cũng không mới trong phạm vi nghiên cứu các tiểu thuyết Thời xa
vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Dòng sông

9

Mía. Nhƣng việc đi sâu nghiên cứu bức tranh nông thôn miền Bắc Việt
Nam một cách có hệ thống dựa trên bốn tiểu thuyết kể trên lại là một việc
tƣơng đối mới mẻ, tƣơng đối khái quát.
3.Đối tượng nghiên cứu
Viết về nội dung nông thôn Việt Nam giai đoạn 1986-nay, có thể kể
tên nhiều tác phẩm nhƣ: Thuỷ hoả đạo tặc (Hoàng Minh Tƣờng), Ngƣời
giữ đình làng (Dƣơng Duy Ngữ), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu)
Nhƣng, trong phạm vi đề tài nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung khảo sát
bức tranh nông thôn miền Bắc Việt Nam qua bốn tác phẩm: Thời xa vắng
(Lê Lựu), Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng), Mảnh đất lắm người nhiều
ma (Nguyễn Khắc Trƣờng), Dòng sông Mía (Đào Thắng).
4. Phạm vi nghiên cứu.

Nhìn chung, các tiểu thuyết thời kì đổi mới phản ánh nhiều vấn đề xã hội
nhƣ: vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chiến tranh, vấn đề con
ngƣời và quan niệm về giá trị con ngƣời trong thời kì mới Ở đề tài này,
chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề của nông thôn miền Bắc
qua một số tiểu thuyết nhƣ đã xác định ở trên.
5.Mục tiêu của việc nghiên cứu - Những đóng góp.

Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hƣớng tới những mục tiêu
sau:
Thứ nhất, trong khi nghiên cứu các vấn đề thuộc về nông thôn đƣợc trình
bày trong bốn tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm
người nhiều ma, Dòng sông Mía chúng tôi sẽ cố gắng phác hoạ những tồn
tại và nảy sinh trong bức tranh văn hoá làng quê Việt Nam thời kì đổi mới.
Thứ hai, chúng tôi quan tâm đến vấn đề con ngƣời cũng nhƣ quan tâm đến
việc phát hiện những chuyển biến trong lối sống, tâm lí, tình cảm của ngƣời
nông dân trƣớc sự thay đổi của xã hội.
Thứ ba, bên cạnh những tìm tòi về nội dung thể hiện của tác phẩm, chúng


10
tôi cũng thực sự chú ý đến phong cách chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực
của các tác giả.
Đạt đƣợc những mục tiêu kể trên, đề tài cũng có những đóng góp nhất định,
đó là đƣa ra một cái nhìn tƣơng đối khách quan, toàn cảnh về nông thôn
miền Bắc Việt Nam trong thời kì mới, đồng thời tạo hứng thú cho những ai
cùng có mối quan tâm đến vấn đề này trong việc nghiên cứu văn học.
6.Phương pháp nghiên cứu.

Xuất phát từ yêu cầu của đối tƣợng nghiên cứu và mục đích cần hƣớng tới
của luận văn, chúng tôi đã vận dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích - loại hình: Nắm vững đặc trƣng, phƣơng pháp
luận loại hình thể loại tiểu thuyết để khái quát bức tranh nông thôn, tìm ra
và phân tích những vấn đề chung, những biến đổi của xã hội, của con ngƣời
và những bi kịch mà con ngƣời phải chịu đựng sau luỹ tre làng.
Phương pháp lịch sử: Trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn xem xét sự
vận động và chuyển biến của xã hội theo xu thế tất yếu của nó, để từ đó cố
gắng tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời
sống, xã hội và con ngƣời thể hiện trong các tiểu thuyết.
Phương pháp so sánh: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng không nhiều,
nhƣng chúng tôi có sử dụng để so sánh ba tiểu thuyết kể trên với một số
tiểu thuyết khác cùng thời có phản ánh những vấn đề liên quan đến vấn đề
luận văn đang nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có ý thức vận dụng những hiểu biết
về thi pháp học hiện đại kết hợp với cảm thụ truyền thống để nghiên cứu,
chiếm lĩnh tác phẩm theo quan niệm của mình. Đồng thời, cũng có ý thức
tham khảo những ý kiến đánh giá, nhận xét đã có về từng tác phẩm. Nhƣng,
cái chính yếu là chúng tôi luôn cố gắng cảm nhận tác phẩm dựa trên ý
nghĩa bản thân nó. Chúng tôi hi vọng những gì thể hiện trong luận văn này

sẽ hạn chế đƣợc phần phiến diện chủ quan.
7. Kết cấu luận văn.

11

Luận văn gồm trang. Ngoài hai phần dẫn luận và kết luận, luận văn có ba
chƣơng:
Chƣơng I: Bức tranh văn hoá làng quê trong bốn tiểu thuyết: Thời xa vắng,
Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Dòng sông Mía
Chƣơng II: Bi kịch của con ngƣời nông thôn.
Chƣơng III: Một số vấn đề thuộc nghệ thuật biểu hiện

12
Chương 1
BỨC TRANH VĂN HOÁ LÀNG QUÊ TRONG BỐN TIỂU
THUYẾT: THỜI XA VẮNG, BẾN KHÔNG CHỒNG, MẢNH ĐẤT
LẮM NGƯỜI NHIỀU MA , DÒNG SÔNG MÍA
1.1 . Bức tranh nông thôn đa dạng với nhiều phong tục tập quán

Nền văn hoá truyền thống Việt Nam đƣợc hình thành trên cơ sở
của nền văn hoá nông nghiệp. Cuộc sống của mỗi ngƣời Việt Nam đều gắn
bó mật thiết với xóm làng, quê hƣơng. Chính bởi vậy, nói đến văn hoá làng
quê là đề cập đến một bức tranh nhiều màu sắc của sự đa dạng phong phú
những phong tục tập quán. Phong tục tập quán là những nền nếp đã lan
truyền rộng rãi, thói quen phổ biến, có từ lâu đời, đƣợc truyền từ đời này
sang đời khác. Nội dung phong tục tập quán bao hàm tất cả mọi mặt trong
đời sống xã hội. Trong văn hoá Việt Nam, phong tục có thứ trở thành luật
tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những
đạo luật. Tuy nhiên, khi nghiên cứu phong tục tập quán, một thực tế cần
phải nhìn nhận là có những phong tục tập quán tốt, tích cực, có những

phong tục tập quán không tốt, tiêu cực. Dẫu vậy, dù tốt hay không tốt, dù
tích cực hay tiêu cực thì những phong tục tập quán ấy cũng góp phần hình
thành nên sự đặc sắc của văn hoá nông thôn, sự đặc sắc của văn hoá dân
tộc.
Trong cái ý thức tiểu nông tồn tại từ bao đời, ngƣời nông thôn
thƣờng có quan niệm: “ăn cây nào rào cây ấy”, ở các làng quê Việt Nam,
ngƣời ta thƣờng có xu hƣớng thích đề cao làng mình. Với họ, làng mình cái
gì cũng nhất, cái gì cũng hơn thiên hạ: “Đình làng Đông to nhất. Cây quéo
làng Đông cao nhất. Cầu đá làng Đông đẹp nhất; nƣớc sông Đình cũng mát
nhất” [18, tr.9]. Chính vì vậy, bất cứ địa danh nào nổi bật của địa phƣơng
cũng đƣợc ngƣời ta nâng niu bằng vô số những câu chuyện huyền thoại,
truyền thuyết hoá chúng; một mặt, để bồi dƣỡng thêm sự gắn bó, lòng tự

13
hào của ngƣời dân; mặt khác, để cho bất cứ ai đến làng mình, nghe chuyện
làng mình cũng phải nhớ, cũng phải ấn tƣợng
Cái làng Đông của Bến không chồng dẫu nhỏ bé và cũng bình dị
nhƣ bao làng quê khác, nhƣng nó lại là cái kho của những huyền thoại. Từ
dòng sông, bến nƣớc, đến bãi tha ma của làng đều ẩn chứa bao câu chuyện
thần bí. Nào là chuyện về hồ “mắt tiên” quanh năm trong vắt, là nơi mà đàn
bà con gái làng Đông có nỗi oan khuất đều trốn ra hồ tắm để đƣợc giải oan.
Ngƣời ta kể rằng, cô Ngần – một ngƣời con gái đẹp nhất làng Đông - bị cha
mẹ ép gả cho ngƣời cô không yêu nên đêm tân hôn cô trốn ra hồ nƣớc giữa
đồng tự vẫn, từ đó, cái hồ nƣớc tanh hôi nhƣ một vũng nƣớc trâu đằm, lau
sậy um tùm, cá rúc, quốc lủi hôi xì, đỉa bơi cung quăng, ếch nhảy chòm
chõm bỗng trở nên trong vắt quanh năm, cỏ lau lụi tàn, quốc, cú lủi sạch,
đỉa cũng mất tăm và chính nhờ hồ mắt tiên mà gái làng Đông da cô nào
cũng trắng mịn, mang nhiều nét khêu gợi của tiên nữ; Nào là chuyện gò
ông Đổng, nơi yên nghỉ của ngƣời con trai làng Đông dũng cảm, không
chết nơi trận mạc mà chết khi trở về nghe tin vợ ngoại tình. Và ngƣời ta

bảo trai làng Đông cũng có chí khí khác thƣờng vì mang dòng máu của
ngƣời chiến binh năm xƣa; Nào là chuyện về con ma ở gốc ruối đầu cánh
mả Rốt chuyên hãm hiếp những ngƣời đàn bà goá chồng; Nào là chuyện ba
ba thuồng luồng ngoài bến sông
Rồi đến cái làng Giếng Chùa trong Mảnh đất lắm người nhiều
ma, quanh năm vật lộn với cái ăn cái mặc, với việc chia ruộng đất, với
những mƣu đồ về địa vị , cũng tồn tại không ít giai thoại. Làng Giếng
Chùa không biết từ bao giờ tồn tại câu ca: “Ai may đƣợc ngọc Giếng Chùa
, rủi ai núi Bụt thả bùa trêu ma”. Các câu chuyện đƣợc kể đều liên quan đến
câu ca đó. Ngƣời ta kể rằng hồi làng còn chùa, còn chiếc giếng làng to bằng
gian nhà kè đá ong trƣớc cửa tam quan, ngƣời ta có thể bắt đƣợc ngọc ở đó.
Hay những câu chuyện ma mãnh trên núi ông Bụt: ma trêu ngƣời trần, ma
quyến rũ ngƣời trần

14
Mỗi làng đều xây dựng những kho truyền thuyết khác nhau và không thua
kém nhau về mức độ hấp dẫn. Những kho truyền thuyết ấy đƣợc hình thành
từ tình yêu làng quê thôn xóm thiết tha, sâu lắng, xuất phát từ nhận thức
giản đơn, ngây thơ của ngƣời dân và ý thức muốn tôn vinh làng, tôn vinh
những con ngƣời của làng mình. Bởi thế nên, thế hệ trƣớc nối thế hệ sau,
luôn nhắc nhở nhau một ý thức: đã là ngƣời làng mà “không biết tích làng
là hỏng”.
Làng không chỉ là những truyền thuyết, cuộc sống thực của các làng
quê với sự đa dạng, phong phú về các quan niệm, về đời sống tín ngƣỡng,
về những mối quan hệ giữa con ngƣời với làng, giữa ngƣời với ngƣời trong
đời sống thƣờng nhật cũng là một cái mỏ vô tận cho ta khai thác, thƣởng
thức.
Trong đời sống tín ngƣỡng, ngƣời Việt Nam nói riêng, ngƣời phƣơng
Đông nói chung tiếp thu tƣ tƣởng phật giáo, thƣờng hay có tục thờ cúng
ông bà tổ tiên. Đây là một nét văn hoá đẹp. Đối với các dòng họ ở nông

thôn, mỗi năm họ có một ngày giỗ tổ, hay còn gọi là ngày chạp tổ. Việc
này do tộc trƣởng chủ trì. Ngƣời trƣởng họ có một thứ quyền lực riêng.
Trƣởng họ còn thƣờng đƣợc hƣởng ruộng hƣơng hoả, tự điền để lấy kinh
phí lo việc họ. Ruộng hƣơng hoả, tự điền nhiều thì lễ to, nhà thờ họ lớn, tế
khí đầy đủ và ngƣợc lại. Sau này, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không
còn ruộng hƣơng hoả, những ngƣời trong họ sẽ cùng nhau đóng góp theo
các xuất đinh của từng gia đình ( gia đình có bao nhiêu nam thì tƣơng
đƣơng bằng ấy xuất đinh) để lo sửa sang nhà thờ họ, cúng kính, cỗ bàn
Ngày giỗ tổ hàng năm là ngày con cháu sinh sống, làm ăn ở khắp mọi nơi
về họp mặt đông đủ để tƣởng nhớ tổ tiên, tƣởng nhớ những ngƣời đã chết
và để những ngƣời còn sống trao đổi thông tin về cuộc sống, thắt chặt thêm
tình anh em máu mủ ruột già, dây mơ rễ má
Dòng họ Nguyễn trong Bến không chồng cũng có những ngày giỗ
tổ nhƣ thế. Họ Nguyễn to nhất làng Đông. Từ đƣờng họ Nguyễn cũng to

15
nhất làng Đông. Ngôi từ đƣờng ấy gồm ba gian cùng với một gian hậu
cung, nơi đặt bàn thờ tổ: “Ba gian từ đƣờng có hai hàng cột cái và hai hàng
cột con, cả thảy là mƣời sáu cột. Những chiếc cột lim to một ôm đẫy cứ đen
bóng lên. Các chân cột đặt tảng đá xanh nổi vân trắng, nền từ đƣờng lát đá
đỏ, ngoài thềm lát đá xanh. Gian hậu cung cuốn bằng gạch chỉ vữa trộn mật
với vôi, cát, rắn nhƣ đá. Trên bệ thờ là những con rồng sơn son thiếp vàng
rực rỡ, cỗ ngai đặt ở giữa bệ thờ, có bát hƣơng to lúc nào cũng toả khói
thơm ngát. Gian giữa từ đƣờng thêm bốn câu đối trên bốn cột cái” [18,
tr.22]. Đấy chính là mồ hôi nƣớc mắt của cả họ tộc qua bao đời đã để lại.
Cái cơ ngơi ấy do cụ Nguyễn Nghiên, ngƣời đứng đầu dòng họ Nguyễn lúc
bấy giờ cai quản. Gia đình cụ Nguyễn Nghiên mấy đời độc đinh, sau cụ
Nguyễn Nghiên, đến con trai ông là Nguyễn Khiên, rồi cuối cùng là Nghĩa
– cháu nội ông. Lễ chạp tổ đƣợc nói đến trong tiểu thuyết rơi vào đời ông
Nguyễn Khiên, khi ông mới hơn bốn chục tuổi. Đấy là cái lễ chạp tổ đầu

tiên sau ngày hoà bình, vì vậy, các cụ trong họ bảo phải làm thật to. Họ bàn
bạc, tranh cãi và cuối cùng quyết định “chín chục mâm, mỗi mâm hai bát
năm đĩa. Ban sắp cỗ gồm bảy tay dao thớt, sáu đàn bà ngồi bếp, hai thanh
niên bổ củi, bốn cô gái gánh nƣớc. Ngoài ra còn các nhân vật chén bát sai
vặt.” [18, tr.25]. Có thể nói, ngày chạp tổ chính là ngày hội, là thế giới tinh
thần, vật chất của cả họ. Mỗi năm có một ngày chạp tổ, mỗi nhà một cảnh,
quanh năm làm ăn, bỗng dƣng lại tụ tập đánh chén một bữa, đoàn kết, thân
mật, không phân biệt sang hèn, không phân chia địa vị: “từ ông giáo Thảo
đức độ có tiếng, đến nhà chú Bỉnh chuyên đi trộm khoai, trộm chuối, từ
ông Hƣng phó chủ tịch đến nhà chú Dĩ ba đời gắp cứt trâu ” [18, tr.27].
Dẫu rằng việc tổ chức giỗ chạp linh đình, rùm beng nhƣ vậy có hơi tốn kém
về thời gian và tiền bạc, lại dễ nảy sinh mê tín dị đoan Nhƣng chính việc
ấy, nếu đƣợc tổ chức đúng mức, sẽ phát huy đƣợc thuần phong mĩ tục, làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Nhƣ đã nói ở trên, cũng nhƣ một số nƣớc phƣơng Đông khác, phần

16
đông ngƣời dân Việt theo tín ngƣỡng phật giáo, có tập tục thờ cúng ngƣời
chết vì họ tin rằng con ngƣời có phần hồn, phần xác, có kiếp trƣớc, kiếp
sau. Cái quan niệm ấy có thể khiến ngƣời ta sống tốt hơn, lƣơng thiện hơn
để tu nhân tích đức cho hậu thế, tránh quả báo ở đời. Thế nhƣng, cái suy
nghĩ ấy cũng làm hình thành trong nhân dân biết bao điều mê tín, bao hành
động ngây thơ, mù quáng đến là tức cƣời.
Bà đồ Khang (Thời xa vắng) thấy con trai bị cảm lạnh, mê man bất
tỉnh, không đi kiếm thầy thuốc mà vội vàng ra sân để “gọi hồn, gọi vía”
con về. Quan niệm dân gian cho rằng con ngƣời ta, con trai có “ba hồn bảy
vía”, con gái có “ba hồn chín vía”. Hồn, vía có thể thoát khỏi xác khi giật
mình, khi sợ hãi quá, khi ngủ hoặc là khi ngất xỉu Thằng Sài sợ đòn, trốn
cha ngoài cánh đồng trong một đêm sƣơng giá nên bị cảm đến mức hôn
mê. Với niềm tin nhƣ thế, bà đồ Khang và mọi ngƣời hốt hoảng cầu gọi:

“Ba hồn bẩy vía thằng Sài đâu thì về”, Bẩy vía ba hồn Sài ơi về với mẹ đi
con”, “Bẩy vía ba hồn thằng Sài ở đâu tthì về với bố , với mẹ Sài ơi”
Cũng may, ngoài gọi hồn, gọi vía, ngƣời ta còn kết hợp với những cách giải
cảm dân gian khác nên thằng Sài mới thoát chết.
Cũng từ những quan niệm mê muội, ấu trĩ ấy mà làng Giếng
Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) lổn nhổn, lẫn lộn ngƣời với ma,
ma với ngƣời. Ngƣời ta tin vào cái tài cai trị phần âm của làng của cô
Thống Bệu, dù rằng ai cũng biết cô “vừa giỏi việc âm, lại vừa tài việc
dƣơng”, bởi cô cũng có vợ và con đàn cháu đống hẳn hoi. Ngƣời ta tin vào
những câu chuyện ma do ngƣời này ngƣời kia kể. Ngƣời ta cũng tin rằng
ngƣời chết có thể nhập hồn vào ngƣời khác để trả lốt những ân oán, nợ nần
trên cõi trần Bởi vậy mà cái xã hội Giếng Chùa nhỏ bé xảy ra biết bao
chuyện lạ lùng, ma nhập vào ngƣời, ngƣời đội lốt ma, có ngƣời mê tín, có
ngƣời lợi dụng chuyện mê tín , khiến cho làng Giếng Chùa tồn tại toàn
những ma là ma, cả ma sống và ma chết
Bức tranh văn hoá làng quê có lẽ thể hiện sinh động nhất trong

17
các mối quan hệ của con ngƣời trong đời sống thƣờng nhật. Tiền thân là
một xã hội phong kiến tồn tại suốt hơn một ngàn năm, ảnh hƣởng sâu sắc
những chuẩn mực đạo đức theo quan điểm Nho, Phật, Đạo nên khi nƣớc
Việt Nam dân chủ cộng hòa rồi đến nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ra đời thì những quan điểm ấy vẫn luôn thực sự ăn sâu bén rễ trong
nhân dân. Chính vì thế, trong gia đình ngƣời Việt Nam nói chung luôn có
sự nề nếp, có trên có dƣới, quan hệ cha – con, chồng – vợ, anh - chị – em
với vai vế rõ ràng. Chẳng thế mà, cha để di huấn bảo phải đào mộ kẻ thù để
giải quyết ân oán, dù sợ run nhƣng Trịnh Bá Hàm (Mảnh đất lắm người
nhiều ma) vẫn cứ thực hiện. Thủ (Mảnh đất lắm người nhiều ma) đƣờng
đƣờng là một bí thƣ đảng uỷ xã, ai cũng nể, cũng sợ, nhƣng lại tuyệt đối
“chƣa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả” [52, tr.81]. Rồi tất cả những

ngƣời phụ nữ nhƣ bà đồ Khang, vợ Tính, Tuyết (Thời xa vắng), bà Khiên,
bà Nhân (Bến không chồng), bà Son, bà Dần (Mảnh đất lắm người nhiều
ma), bà Mến, bà Thuần, chị Mận ( Dòng sông Mía) cũng cung cúc tuân
theo đạo đức phong kiến tồn tại từ bao đời: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử”. Cả đời họ chỉ biết tuân phục, hi sinh và cống hiến.
Bên cạnh những ngƣời đàn ông của đời mình, họ cam chịu kiếp dây leo,
không một lúc nào dám tự sống, sống cho riêng mình.
Con ngƣời bên cạnh cuộc sống riêng tƣ, những mối quan hệ riêng tƣ, còn
tồn tại với vai trò là tế bào của xã hội. Nói nhƣ vậy có nghĩa là ta đang nói
đến mối quan hệ giữa con ngƣời với làng xã, hay nói cách khác là nói đến
trách nhiệm của ngƣời dân khi sống trong làng. Cha ông ta nói: “phép vua
thua lệ làng”. Có nghĩa là bên cạnh những luật lệ chung của quốc gia, luôn
tồn tại những thứ “hƣơng ƣớc” của riêng từng làng đƣợc hình thành và điều
chỉnh qua nhiều đời, không ngƣời dân nào dám chống đối và nó cũng
không dễ gì bị phá bỏ. Và những “lệ làng” ấy hầu nhƣ đều hƣớng tới mục
đích xây dựng, phát triển làng tốt hơn, nền nếp hơn, phồn thịnh hơn.
Con đƣờng chính giữa làng Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người

18
nhiều ma) dài gần một cây số đƣợc lát toàn bằng gạch vồ mua từ dƣới
Hƣơng Canh – Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên trải qua bao nhiêu thời gian,
nó vẫn chắc khừ. Có một con đƣờng sạch sẽ, đẹp đẽ nhƣ vậy là vì từ xƣa
làng có lệ mỗi đám cƣới phải nộp 200 viên gạch: “Trai làng lấy gái làng
nộp 200, thế tức là mỗi bên chỉ có 100 viên thôi. Nhƣng nếu trai làng gái
làng đi lấy vợ lấy chồng ở đất khác, thì gia đình cũng cứ phải chồng đủ 200
viên” [52, tr.5]. Ngoài ra, làng còn qui định những ngƣời đỗ tú tài trở lên,
những ngƣời nhận chức từ lí trƣởng trở lên cũng phải mừng làng 200 viên
gạch. Những cô gái hoang thai cũng phải tạ làng 200 viên gạch. Đấy là
chƣa kể những ngƣời đi xa về nhƣ ông Quản Ngƣ cũng bày tỏ nỗi nhớ làng
bằng việc tặng cho làng 200 viên gạch Ngƣời ta cống hiến cho làng bằng

nhiều cách, có ngƣời tự nguyện, có ngƣời bị cƣỡng ép, có ngƣời vui vẻ, có
ngƣời oán hận Nhìn chung, đƣờng làng đƣợc lát bằng cả những niềm vui,
niềm hạnh phúc, sự kiêu hãnh về chức danh, và đƣợc lát bằng cả những nỗi
khổ đau ê chề, sự tủi cực của những mảnh đời. Nhƣng đấy là lệ làng, không
ai dám cãi, không dễ phá bỏ, ai không tuân theo thì chỉ có cách bỏ làng mà
đi. Những định chế của làng cùng lối sống thuần nông khiến cho cuộc sống
của ngƣời nông thôn vừa đa dạng vừa vô cùng phức tạp. Mối quan hệ giữa
những con ngƣời trong làng trong xã cũng vì thế mà mang nhiều sắc thái,
vừa cả nể vừa du di, vừa dễ dãi vừa khe khắt, vừa tình cảm, khắng khít vừa
tọc mạch, ti tiện, vừa tự ti vừa tự tôn
Khác với lối sống thờ ơ, đèn nhà nào nhà ấy sáng ở thành phố, ở nông thôn,
hầu nhƣ cả xóm, cả làng, cả xã đều biết nhau. Chính điều đó tạo nên quan
hệ, lối sống tình cảm, gắn bó giữa các gia đình trong cộng đồng thôn, xã;
tạo nên cái nếp sống đẹp “tối lửa tắt đèn có nhau” ở các làng quê. Thế
nhƣng, ngay trong cái tình đoàn kết, cái kiểu sống “tối lửa tắt đèn có nhau”
ấy lại nảy sinh vấn đề phức tạp, nảy sinh tình trạng “trong nhà chƣa tỏ,
ngoài ngõ đã thông”. Hay nói cách khác, ngƣời nông thôn hay có thói quen
để ý, xét nét, thóc mách chuyện nhà ngƣời khác và lan truyền thông tin rất

19
nhanh.
Đến cái xóm Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) trong
những ngày đói ta sẽ thấy ngay điều đó. Vào những ngày giáp hạt, xóm
Giếng Chùa nổi tiếng sung túc nhất xã cũng rơi vào cảnh đói vàng mắt.
Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà phải luộc chuối
xanh chấm muối. Những nhà thƣờng xuyên túng bấn thì bây giờ đứt bữa
hẳn. Cả làng, đi đâu cũng thấy những mặt ngƣời hao gầy, nhớn nhác hớt
hải cứ tƣởng nhƣ đang vội vã đi đâu, nhƣng kì thực chẳng có việc gì hết, cứ
ra vào quanh quẩn với cái bụng eo sèo. Ấy thế mà họ vẫn còn thời gian, sức
lực để “quan tâm” đến cuộc sống của ngƣời khác. Họ biết đƣợc nhà bà đồ

Ngật, “ngƣời vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách cái làn
mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì cá chép cả con giãy đành đạch”
[52, tr.6], nay cũng phải ăn bánh mạt ngô, thứ ngô trƣớc đây chỉ dùng chăn
gà. Họ cũng biết gia đình ông Quản Ngƣ, ngƣời “với hai bàn tay trắng đã
chu du đến nửa vòng trái đất”, nói cái gì cũng “độn thêm tiếng Tây, lƣỡi cứ
đá ngƣợc lên tận mái ngói, đến quăn cả mồm miệng” [52, tr.7], giờ cũng
phải đóng cửa ăn cháo cám, đến nỗi thằng con bị táo bón phải ôm gốc khế,
chổng mông lên cho ông bố lấy que “đào”. Và trong các cuộc họp chi bộ,
họp xã , ngƣời đi họp chƣa về đến nhà thì ngƣời ở nhà đã tiếp nhận đầy đủ
thông tin cuộc họp do “thông tấn xã vỉa hè” đƣa lại Cái gần gũi, tình cảm
trong đời sống thôn quê đôi khi trở thành thóc mách, lắm chuyện. Nhƣng
chính điều đó lại trở thành một nét đặc trƣng của văn hoá làng.
Song hành với thói quen xét nét cuộc sống của những ngƣời xung quanh thì
ngƣời nông thôn lại rất thích phô trƣơng cuộc sống sung túc của mình cho
làng xóm thấy. Bởi vì, trong tâm thức của họ luôn quan niệm rằng: “Con
công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng
nhƣ anh nhọ đít” [52, tr.75]. Chính vì thế, ngƣời ta thích mua sắm, tích cóp
đƣợc chút tiền nào là lo sắm sửa đồ đạc. Thậm chí, đói cũng bóp bụng sắm.
Nhà anh Tính (Thời xa vắng) ở trong cái làng Hạ Vị lụt lội và

20
cũng chẳng giàu có gì, nhƣng trong căn nhà của anh vẫn bầy biện và có
cung cách ăn ở nhƣ bất cứ một nhà khá giả lịch sự nào trên tỉnh. Khi có
khách quý đến nhà anh, họ sẽ đƣợc đón tiếp một cách khá long trọng, bài
bản, đến nỗi, khách dù ăn cơm hay chỉ uống một cốc nƣớc bột sắn cũng
không có cảm giác làng Hạ Vị úi xùi. Sở dĩ nhƣ vậy là vì, trong khi cả làng
Hạ Vị ngƣời ta không thể chấm thịt gà bằng thứ nƣớc chấm gì khác ngoài
món tiết luộc thì nhà Tính, dƣới sự cố vấn của thằng cháu đã đƣợc đi tập
huấn, tham quan cửa hàng ăn trên huyện, đã có đầy đủ những nguyên liệu
bếp núc cần thiết nhƣ: hành, tỏi, hồ tiêu, ca ri, ớt khô, chanh, dấm, dâu

ngâm, sắn dây, rƣợu thuốc Khách đến sẽ đƣợc hƣởng những mâm cỗ
thịnh soạn, thức nào ra thức ấy, chứa chan tình cảm và kiến thức ẩm thực
của chủ nhà ; Khách sẽ không thể biết đƣợc cái cảnh vợ con Tính sau đấy,
đằng sau cánh cửa bếp, xì xụp bên những bát đĩa thừa thãi đã đƣợc dồn lại,
cùng với bát bánh đúc ngô, một món ăn quen thuộc hàng ngày.
Đến một vùng nông thôn đói nghèo nhƣ xóm Giếng Chùa (Mảnh
đất lắm người nhiều ma) nhƣng ngay trong những tháng giáp hạt khó
khăn, ngƣời ta vẫn thi nhau sắm sửa nào là giƣờng mô-đéc, tủ buýp-phê, tủ
lệch đến sa-lông chân quỳ. Ông bà dạy: “tốt khoe ra, xấu xa che lại”. Ngƣời
dân ở đây phát triển triệt để ý nghĩa lời dạy đó. Với họ, đói mà đƣợc ngồi
sa-lông gỗ lát cũng vênh vang, mát mặt hơn là no bụng mà để ngƣời khác
thấy đƣợc sự tọa tuệch trong cuộc sống của mình. Và trong quan niệm của
họ thì “khách đến nhà làm sao biết trong bụng chủ nhà chứa những gì. Rau
lang, sắn mốc hay cơm tám giò chả đã qua khỏi cửa miệng thì cũng là nhập
khẩu vô tang, có giời lần!” [52, tr.75]. Thế là có bao nhiêu ngƣời ta cứ phô
ra, không có cũng cố kiếm ra mà phô trƣơng. Sở dĩ nhƣ vậy là vì họ không
muốn ai coi thƣờng nhà mình, nhất là coi thƣờng vì sự bần hàn. Đầu tƣ cho
cuộc sống của ngƣời sống đã đành, ngƣời ta còn đầu tƣ cho cả ngƣời chết.
Trong khi nhiều ngƣời trong làng “cái thiếu, cái đói hiện lên từ ánh mắt
mệt mỏi đến nƣớc da mai mái và cặp môi khô, cả hàm răng cũng khô.

21
Tiếng cƣời thiếu ăn khô tông tốc” [52, tr.21] thì nhà ông Vũ Đình Phúc tổ
chức đám tang cho bố mình hết sức đàng hoàng, trang trọng, không nề hà
tốn kém: ngả một con lợn hơn một tạ, đóng áo quan bằng gỗ dổi không cần
phải sơn mà vẫn vàng ƣơm, mời phƣờng bát âm lớn theo đúng nghi thức cổ
truyền, tổ chức lễ cầu hồn hết sức tốn kém, làm cỗ mời cả làng Họ Vũ
Đình là họ lớn trong làng, ông Phúc muốn làm tất cả những việc ấy để dân
làng nhìn vào, để cho dòng họ đối địch Trịnh Bá phải tức tối vì ghen tị.
Hay xét nét, thích phô trƣơng, tính câu nệ, cả nể , những đặc điểm chung

về tính cách của ngƣời nông thôn khiến cho họ đối xử với nhau trong cuộc
sống thƣờng nhật rất tình cảm nhƣng cũng rất khách sáo theo kiểu “hòn đất
ném đi, hòn chì ném lại”. Vợ chồng anh Tính (Thời xa vắng) đã xúc động
đến run ngƣời khi Châu – vợ Sài về ra mắt đã sắm sửa một mâm cỗ nhỏ để
cúng bàn thờ tổ gia đình chồng, mua mấy gói kẹo đƣa chị dâu chia cho các
cháu Anh chị thích sự quan tâm chu đáo của Châu. Sự chu đáo ấy khiến
cho anh chị yên tâm là cô em dâu ngƣời Hà Nội không hề xem thƣờng gia
đình chồng quê mùa lam lũ. Và với niềm xúc động chân thành đó, bao khó
khăn, vất vả vì phải chạy đôn chạy đáo lo đồ cƣới cho thắng em đều tiêu
tan. Anh chị còn cố gắng hết sức, kể cả việc cắt phần ăn của các con để lo
cho đƣợc một đám cƣới “không hề có sự cách biệt giữa quê và tỉnh”. Hay
nhƣ nhà ông Hàm (Mảnh đất lắm người nhiều ma), mỗi lần gặt, nhà
nhiều ruộng phải nhờ anh em họ hàng. Và mỗi lần nhƣ vậy, ông Hàm lại tổ
chức ăn rất sang: “cá kéo dƣới ao, gà nhốt sẵn trong chuồng, rƣợu cất từ
mấy hôm trƣớc” [52, tr.176]. Những bữa ăn nhƣ vậy vừa là để chứng tỏ uy
thế, sự sung túc của chủ nhà; vừa là để anh em trong gia đình thêm tình
cảm; vừa là sự trả ơn tế nhị của chủ nhà.
Trong quan hệ gia đình, ngƣời nông thôn còn giữ một mối quan hệ vừa tình
cảm, thân mật vừa giữ kẽ, khách sáo đến vậy. Trong quan hệ xã hội, quan
hệ xóm làng, sự câu nệ, khách sáo ấy lại càng lắm nhiêu khê. Nhƣ đã nói ở
trên, Vũ Đình Phúc (Mảnh đấtlắm người nhiều ma) tổ chức đám tang cho

×