ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN VĂN THANH
THAM VẤN CÁ NHÂN CHO PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA
ĐÌNH TẠI NGÔI NHÀ BÌNH YÊN – TRUNG ƢƠNG HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội, 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN VĂN THANH
THAM VẤN CÁ NHÂN CHO PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI
NGÔI NGÔI NHÀ BÌNH YÊN - TRUNG ƢƠNG HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ VIỆT NAM
Luận văn thạc sỹ: Công tác xã hội
Mã số : 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Bùi Thị Xuân Mai
Hà Nội, 2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI CẢM ƠN 6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 7
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 8
LỜI MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Tổng quan những nghiên cứu liên quan đến tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực gia
đình 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Ý nghĩa nghiên cứu 9
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 10
6. Phạm vi nghiên cứu 10
7. Câu hỏi nghiên cứu 11
8. Giả thuyết nghiên cứu 11
9. Phương pháp nghiên cứu 11
NỘI DUNG CHÍNH
13
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THAM VẤN CÁ
NHÂN CHO PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH 13
1.1. Các khái niệm chính sử dụng trong quá trình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị
bạo lực gia đình
13
1.1.1.Gia đình, Bạo lực, bạo lực gia đình và phụ nữ bị bạo lực gia đình 13
1.1.2. Một số vấn đề về tham vấn và tham vấn cá nhân 16
1.1.3. Một số vấn đề chung về tham vấn cá nhân 20
1.1.4. Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình 23
1.2. Một số lý thuyết ứng dụng trong quá trình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị Bạo
lực gia đình.
27
1.2.1. Lý thuyết nhu cầu của A.Maslow 27
1.2.2. Lý thuyết lấy thân chủ làm trọng tâm Carl Rogers 28
1.2.3. Lý thuyết nhận thức của Albert Ellic 30
1.3. Các yếu tố tác động đến tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình
32
1.3.1. Cán bộ tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực gia đình 32
1.3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật
32
1.3.3. Cơ sở pháp lý trong tổ chức hoạt động tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực gia
đình 33
1.3.4. Sự phối hợp với các cơ quan y tế, tư pháp, công an, trường học 34
1.4. Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu
34
1.4.1. Tổng quan về ngôi nhà bình yên 34
1.4.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của ngôi nhà bình yên 36
Tiểu kết chƣơng 1
37
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THAM VẤN CÁ NHÂN CHO
PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI NGÔI NHÀ BÌNH YÊN TRUNG
ƢƠNG HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM 38
2.1. Thực trạng hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại Ngôi
nhà bình yên 38
2.1.1. Quy trình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi nhà
bình yên 38
2.1.2. Các hình thức tổ chức tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại
ngôi nhà bình yên 42
2.1.3. Nội dung tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi nhà
bình yên 45
2.1.4. Người được tham vấn cá nhân tại ngôi nhà bình yên 55
2.1.5. Thực trang cán bộ làm công tác tham vấn tại ngôi nhà bình yên 58
2.1.6 Thực trạng việc kết hợp tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình
tại NNBY với các hình thức khác 63
2.2. Kết quả đạt được trong thời gian qua từ năm 2007 đến nay 64
2.2.1. Số lượng và chất lượng các ca tham vấn 64
2.2.2. Những thay đổi của phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi nhà bình yên trước
và sau khi đã được tham vấn 66
2.3. Thực trạng các yếu tố tác động tới tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia
đình tại NNBY 70
2.3.1. Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của cán bộ tham vấn tại ngôi nhà
bình yên 70
2.3.2. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực
gia đình tại ngôi nhà bình yên 74
2.3.3. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực
gia đình 75
2.3.4. Trình độ học vấn và hoàn cảnh của phụ nữ bị bạo lực gia đình 76
2.4. Thực hành thực nghiệm trên 02 trường hợp phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi
nhà bình yên 79
2.4.1. Trường hợp 1 79
2.4.2. Trường hợp 2 94
KẾT LUẬN 106
KHUYẾN NGHỊ 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
LỜI CẢM ƠN
Sau một quá trình nghiên cứu và tiến hành tham vấn cá nhân cho thân chủ là
phụ nữ bị bạo lực gia đình tại Ngôi nhà bình yên tôi đã hoàn thành cuốn luận văn
này. Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Bùi Thị Xuân Mai người đã nhiệt tình trực
tiếp hướng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình tôi nghiên cứu luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc dự án, các cán bộ nhân viên ngôi
nhà bình yên – TW Hội LHPN Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm
nghiên cứu này
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Xã hội học
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã tận tình dạy bảo, dìu dắt, hướng
dẫn động viên tôi suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, đồng nghiệp, những người bạn đã giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 16 tháng 04 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Văn Thanh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLGĐ
CTXH:
LHPN:
NNBY
NTV
NVXH:
TLH:
TC
ThV
TW:
Bạo lực gia đình
Công tác xã hội
Liên hiệp phụ nữ
Ngôi nhà bình yên
Nhà tham vấn
Nhân viên xã hội
Tâm lý học
Thân chủ
Tham vấn
Trung ương
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Đánh giá của cán bộ tham vấn về quy trình tham vấn cá nhân cho phụ nữ
bị bạo lực gia đình tại NNBY 39
Bảng 2.2. Đánh giá về hình thức tham vấn tại NNBY 43
Bảng 2.3. Đánh giá của cán bộ tham vấn về các hình thức tham vấn tại NNBY 44
Bảng 2.4. Đánh giá của cán bộ tham vấn và phụ nữ bị bạo lực gia đình về nội dung
tham vấn tâm lý xã hội cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 46
Bảng 2.5. Đánh giá của cán bộ tham vấn và phụ nữ bị bạo lực gia đình về nội dung
tham vấn về pháp lý củacho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 48
Bảng 2.6. Đánh giá của cán bộ tham vấn và phụ nữ bị bạo lực gia đình về nội dung
tham vấn về sức khỏe cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 50
Bảng 2.7. Đánh giá của cán bộ tham vấn và phụ nữ bị bạo lực gia đình về nội dung
tham vấn về kỹ năng sống cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 52
Bảng 2.8. Đánh giá của cán bộ tham vấn và phụ nữ bị bạo lực gia đình về nội dung
tham vấn về làm kinh tế cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 54
Bảng 2.9. Nghề nghiệp của phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 56
Bảng 2.10.Trình độ học vấn của phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 57
Bảng 2.11. Các kiến thức của cán bộ tham vấn tại NNBY được tập huấn 60
Bảng 2.12 Các kỹ năng mà cán bộ tham vấn tại NNBY được tập huấn 62
Bảng 2.13. Đánh giá của phụ nữ bị bạo lực gia đình về chất lượng của công tác
tham vấn cá nhân tại NNBY 65
Bảng 2.14. Nhận thức, cảm xúc, giao tiếp của phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY
trước và sau khi đã được tham vấn 67
Bảng 2 .15. Bảng đánh giá nhu cầu chị Nguyễn Thị X
84
Bảng 2.16. Các hoạt động can thiệp cho chị Nguyễn Thị X
90
Bảng 2 .17. Bảng đánh giá nhu cầu chị Trần Thị Y
97
Bảng 2.18. Các hoạt động can thiệp cho chị Trần Thị Y 102
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phụ nữ Việt nam chiếm 50,8% dân số, 50,3% lực lượng lao động của cả
nước, họ có vai trò và tiềm năng to lớn tạo ra của cải vật chất cho xã hội, góp phần
vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước và có chức năng quan trọng là làm vợ,
làm mẹ, duy trì và phát triển nòi giống.
Cơ chế thị trường đã tạo điều kiện để phụ nữ phát huy mạnh mẽ tài năng, sức
sáng tạo, nâng cao vị thế của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng đồng thời, cơ chế thị
trường và ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá cũng đang đặt ra không ít khó khăn,
thách thức đối với phụ nữ: thiếu việc làm, thiếu cơ hội để học tập, nâng cao trình độ
và tham gia vào các hoạt động xã hội, bất bình đẳng giới, là nạn nhân của các tệ nạn
xã hội và bạo lực; là đối tượng đầu tiên gánh chịu bất hạnh do những đổ vỡ gia
đình. Làm thế nào giúp phụ nữ vươn lên trong cuộc sống, vượt qua những tác động
tiêu cực để họ không những thực hiên tốt chức năng kinh tế mà còn thực hiện tốt
chức năng tình cảm, giáo giục con cái giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Bạo lực gia đình (BLGĐ) là vấn nạn trong gia đình và của xã hội nó ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền còn người và là một trong những biểu hiện của bất
bình đẳng giới. Hiện nay, tình trạng BLGĐ xảy ra ở Việt Nam nổi lên như một vấn
đề xã hội bức xúc. Nghiên cứu năm 2010 của tác giả Bùi Thị Xuân Mai trên 188
phụ nữ tại nông thôn cho thấy có tới gần 50% phụ nữ được hỏi họ đã từng trải
nghiệm bị bạo lực tinh thần: mắng, nhiếc, xỉ vả…
Nạn nhân của BLGĐ thường là phụ nữ và trẻ em. BLGĐ dẫn đến nhiều hậu
quả: về thể xác, tinh thần, kinh tế. Tổn thương về thể xác của nạn nhân: gãy xương,
tàn phế, bầm dập, rách da, suy giảm chức năng vận động… thậm chí nạn nhân có
thể bị tử vong. Về tâm lý và hành vi của nạn nhân: hoảng loạn, lo âu, buồn chán,
trầm cảm, tâm thần, lạm dụng các chất kích thích, lệch lạc về hành vi. Về kinh tế:
tốn kém tiền của do chi phí đề khám và điều trị bệnh tật, phải nghỉ việc nên không
có nguồn thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội, nhà nước cần phải chi phí nhiều
2
cho công tác tuyên truyền đẩy mạnh bình đẳng giới, phòng chống BLGĐ.Về mặt xã
hội: làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến cộng đồng, trật tự trị an.
Trước những khó khăn nêu trên của phụ nữ bị bạo lực gia đình đã có những
hoạt động trợ giúp công tác xã hội song còn khá hạn chế. Đặc biệt là các hoạt động
can thiệp và trợ giúp cho các nạn nhân bị bạo lực gia đình.
Mô hình NNBY là một trong những mô hình mới của công tác xã hội ở nước
ta, với các hoạt động trợ giúp cho phụ nữ bị bạo lực gia đình trong đó hoạt động
tham vấn cá nhân là một hoạt động đang được đánh giá cao nhưng mô hình này
chưa được nhân rộng. Nghiên cứu lựa chọn đề tài tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị
bạo lực gia đình nhằm đánh giá những ưu điểm và hạn chế của hoạt động tham vấn
cá nhân tại NNBY để nhân rộng mô hình này trên địa bàn cả nước.
2.Tổng quan những nghiên cứu liên quan đến tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực
gia đình
2.1. Các nghiên cứu về bạo lực gia đình
BLGĐ không phải chỉ là vấn đề của một gia đình hay chỉ tồn tại ở một vài
nước mà BLGĐ, đặc biệt là bạo lực với phụ nữ đang trở thành vấn đề phổ biến
trong tất cả các nước trên toàn cầu. Do tính chất phức tạp và mức độ nghiêm trọng
cũng như ảnh hưởng của BLGĐ đến nền an sinh của mỗi cá nhân và toàn xã hội,
nhiều quốc gia trên thế giới (Adapted from “Violence Against Women,” WHO,
FRH/WHD/97.8, “Women in Transition” Regional Monitoring Report, UNICEF
1999, and a study by Domestic Violence Research Centre, Japan.)
Trung Quốc: theo báo cáo của chính phủ có tới 305 gia đình có bạo lực; Hàn
Quốc 40-60% phụ nữ bị bạo lực, Nhật Bản 60% phụ nữ được hỏi cho là đã từng bị
bạo lực; Thái Lan 20%, Malaxia 39% (K.Soin, 2001).
Tác phẩm “”Loving to Survive - Sexual Terro Men’s Violence and Women’s
Live” (Tình yêu và sự sống sót - sự khủng bố tình dục của đàn ông và cuộc sống
của phụ nữ) của Dee L.R. Graham và hai đồng nghiệp là Edna. Rawlings và
Roberta K.Rigsby đã phân tích các ảnh hưởng của bạo lực nam giới đối với phụ nữ
và tâm lý của họ.
3
Tại Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về gia đình và BLGĐ:
Năm 2001, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã thực hiện đề tài “BLGĐ đối với
phụ nữ tại Việt Nam” nghiên cứu tại 3 tỉnh Lạng Sơn, Thái Bình và Tiền giang đề
tài đã tìm hiểu nhận thức, thái độ của người dân và cán bộ thi hành pháp luật của
các tổ chức đoàn thể xã hội. Đồng thời đề tài cũng chỉ ra những hậu quả nặng nề
của BLGĐ đối với phụ nữ.
Trong nghiên cứu về vai trò của người phụ nữ nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa công nghiệp nông thôn, tác giả Hoảng Bá Thịnh (2002) đã
chỉ ra 54,5% số người được hỏi cho rằng có hiện tượng “chồng đánh vợ”.
Theo kết quả điều tra về thực trạng bình đẳng giới năm 2004 – 2005 (Nguyễn
Vân Anh, 2005), có 21,2% phụ nữ cho biết đã từng bị chồng chửi trong 12 tháng
trước khi khảo sát.
Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao, nguyên nhân ly hôn do “mâu
thuẫn vợ chồng, đánh đập, ngược đãi” 8 tháng đầu năm 2003 là 22.997 vụ trong
tổng số 41.326 vụ, chiếm 55,6% và trong năm 2005, tỷ lệ này chiếm 60,3% các vụ
ly hôn.
Cuộc điều tra gia đình Việt Nam 2006 cũng chỉ ra rằng có khoảng 21,2% cặp
vợ/chồng xảy ra các hiện tượng bạo lực như: đánh, mắng chửi, chấp nhận quan hệ
tình dục khi không có nhu cầu.
Kết quả khảo sát của Uỷ Ban các vấn đề xã hội tại 8 tỉnh thành năm 2006 cho
thấy có 23% gia đình có bạo lực về thể chất, 25% về bạo lực tinh thần và 30% có
hành vi ép buộc quan hệ tình dục.
Vấn đề bạo lực giới trong nghiên cứu của IOM, 2009 có đưa ra có hơn 50%
trường hợp phụ nữ di cư bị bạo lực thể thể chất kết hợp với bạo lực tình dục (dẫn
theo Hoàng Bá Thịnh, Vấn đề giới và nghiên cứu di cư ở Việt Nam trong cuốn Giới
và Di dân tầm nhìn Châu Á, NXB ĐHQG TP Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hồng
Xoan, 2013).
Cùng với thực trạng này, cuốn sách “Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam,
thực trạng, diễn tiến và nguyên nhân” của nhóm tác giả Trần Hữu Minh và Trần Thị
4
Vân Anh (chủ biên), năm 2009 tập trung vào vấn đề bạo lực của người chồng đối với
người vợ với mong muốn cung cấp các dữ liệu thông tin đầu vào cho một cuộc nghiên
cứu trên quy mô toàn quốc về bạo lực gia đình. Công trình nghiên cứu cung cấp cho
độc giả, cho những người quan tâm đến việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới và
trên hết cho các nhà hoạch định chính sách một cách nhìn sâu hơn về bản chất của vấn
đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ, tính tiến triển của nó và sự cần thiết áp dụng các
giải pháp phòng ngừa mầm mống của bạo lực gia đình trước khi nó trở thành bạo lực
thật sự. Cuốn sách này bao gồm cả tổng quan các nghiên cứu đã có trước đây, phân tích
định lượng một số cuộc nghiên cứu có liên quan đến bạo lực gia đình và nghiên cứu
định tính về diễn tiến của bạo lực gia đình ở Việt Nam.
Nhóm tác giả Phạm Kiều Oanh và Nguyễn Thị Khoa với bài viết: “Bạo lực
trong gia đình từ góc nhìn của người nghèo”, đăng trên tạp chí Khoa học về Phụ
nữ, số 2/2003 được trích ra từ một nghiên cứu về tình trạng bạo lực trong gia
đình của Tổ chức Action Aid Việt Nam, được thực hiện tại tỉnh Lai Châu và
Ninh Thuận. Mục đích chính của nghiên cứu này là tìm hiểu nhận thức của nhân
dân và chính quyền địa phương về bạo lực trong gia đình và các phương án can
thiệp khả thi để giảm thiểu tình trạng này tại cộng đồng. Cách hiểu về bạo lực
của người dân cũng như cán bộ chính quyền địa phương trong nghiên cứu này
cũng nghiêng về vũ lực, đánh đập. Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực,
nghiên cứu nhấn mạnh đến nguyên nhân kinh tế với nhận định khó khăn về kinh
tế dễ gây ra xích mích giữa hai vợ chồng. Mặc dù không phân tích rõ sự khác
nhau giữa nhận thức của người dân và các cán bộ cấp tỉnh, huyện, xã nhưng
người đọc vẫn thấy được cán bộ có cách nhìn nhận vấn đề về bạo lực gia đình
đầy đủ và chính xác hơn so với những người dân.
Trong khuôn khổ chương trình hợp tác quốc gia giữa Chính phủ Việt Nam và
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) 2006-2010, Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch đã phối hợp với Tổng cục Thống kê và Viện Gia đình và Giới thuộc Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam tiến hành điều tra Gia đình Việt Nam. Cuộc điều tra này được
tiến hành trên phạm vi toàn quốc, tập trung vào 4 lĩnh vực là: quan hệ gia đình; các
5
giá trị, chuẩn mực của gia đình; kinh tế gia đình và phúc lợi gia đình. Trong đó có 1
chương dành cho nội dung mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình. Bằng những số
liệu xác thực, điều tra đã cho độc giả nắm rõ hơn về mâu thuẫn và bạo lực gia đình;
các hình thức bạo lực và nạn nhân của nó; các lý do dẫn đến mâu thuẫn, xung đột và
bạo lực; cách giải quyết xung đột và bạo lực và cuối cùng là hậu quả của bạo lực gia
đình. Những điều tra này nhằm nhận diện thực trạng, thu thập thông tin cần thiết
phục vụ công tác quản lý và hoạch định chính sách về gia đình. Nghiên cứu có nội
dung đa dạng, sâu sắc bằng cách sử dụng cả hai phương pháp nghiên cứu định tính
và định lượng.
Với các công trình nghiên cứu về BLGĐ nêu trên đã phân tích được thực
trạng, nguyên nhân của nạn BLGĐ. Điều này cũng phản ánh được những lo ngại,
băn khoăn chung của các nhà nghiên cứu trước sự gia tăng của nạn BLGĐ.
2.2. Các nghiên cứu liên quan đến tham vấn và tham vấn cho phụ nữ bị
bị bạo lực gia đình
2.2.1. Nghiên cứu liên quan đến tham vấn và tham vấn cho phụ nữ bị bị
bạo lực gia đình ở nước ngoài
Tham vấn được sử dụng lần đầu tiên bởi B.Davis, khi ông thành lập trung
tâm tham vấn hướng nghiệp đầu tiên tại Detroit năm 1898.
Từ giữa thế kỷ XX, khi ThV phát triển như một nghề chuyên nghiệp ở một
số nước, trong đó phải kể đến những nghiên cứu về ThV, hoạt động ThV và trị liệu
tâm lý của G.Williamson, Carl Rogers…
Năm 1930 E.G. Williamson đã phát triển một lý thuyết toàn diện bề ThV với
quy trình 5 bước: 1- Phân tích, xác định vấn đề đưa ra ghi chép có thể và trắc
nghiệm đối với khách hàng, 2- Tổng hợp, phân tích thông tin để hiểu vấn đề, 3-
Chẩn đoán, giải nghĩa vấn đề, 4- ThV hỗ trợ đối tượng giải quyết vấn đề, 5- Theo
dõi khẳng định lại. Lúc này ThV thực sự chuyển hướng từ tư vấn nghề nghiệp sang
tham vấn trên tất cả các lĩnh vực. [16,tr.49]
Theo Froehlich W.D (1993) thì “Tham vấn chỉ sự giúp đỡ quyết định hay
định hướng thông qua các nhà chuyên môn như bác sỹ, các nhà tâm lý học, giáo dục
6
học, cán bộ xã hội…trong những cuộc đàm thoại cá nhân hay nhóm. ThV thường
được kết hợp những cuộc trao đổi thăm dò diễn ra trước đó cũng như những nghiên
cứu trắc nghiệm và gắn với các chương trình can thiệp hỗ trợ khác” [28,tr.85].
Trên nền tảng những tư tưởng và cách tiếp cận của Parsons, G. Williamson
(1930), trong lý thuyết về ThV với tên gọi “Tiếp cận đặc điểm và nhân tố”, các tác
giả đã bổ sung và phát triển quy trình ThV giải quyết vấn đề với 5 bước cơ bản từ
chẩn đoán, kết thúc đến theo dõi. [2,tr.65].
Tại Mỹ, Canada, Singapore, Philippin Khi phụ nữ bị BLGĐ sẽ nhận được
sự hỗ trợ của NTV, nhân viên CTXH. Khi phụ nữ bị BLGĐ đến hoặc được giới
thiệu đến trung tâm ThV, trung tâm CTXH hoặc nơi làm việc của NTV, nhân viên
CTXH tiếp nhận, đánh giá, xác định vấn đề, xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề.
NTV, NVXH sẽ là người đồng hành cùng với phụ nữ bị BLGĐ trong suốt quá trình
trợ giúp. Dựa trên những kiến thức và hiểu biết tâm lý, tâm lý xã hội NTV, nhân
viên CTXH tìm cách hỗ trợ về tâm lý xã hội và trị liệu với từng cá nhân. Thông
thường hình thức ThV và trị liệu đối với các nạn nhân là ThV trực tiếp trong các
trung tâm, phòng ThV với phụ nữ bị BLGĐ. Những NVXH, NTV là những người
kết nối dịch vụ hỗ trợ cho phụ nữ bị BLGĐ điều phối các dịch vụ.
Các thành viên trong gia đình của các phụ nữ bị BLGĐ sẽ được cung cấp các
dịch vụ xã hội. Ngoài dịch vụ ThV cá nhân, các thành viên trong gia đình cũng
được hỗ trợ thông qua các dịch vụ ThV gia đình, ThV nhóm, tham gia các câu lạc
bộ, tham gia các khóa tập huấn về kỹ năng sống, tập huấn về kiến thức gia đình và
nâng cao nhận thức về BLGĐ.
2.2.2. Nghiên cứu liên quan đến tham vấn và tham vấn cho phụ nữ bị bạo
lực gia đình ở trong nước
Do những hạn chế về chủ quan và khách quan, nên việc tìm kiếm các
nguồn tư liệu, tài liệu liên quan đến vấn đề ThV cho phụ nữ bị BLGĐ ở Việt
Nam không nhiều vì vậy trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu gặp phải một
7
số khó khăn. Dưới đây chúng tôi xin nêu ra một số nghiên cứu liên quan đến
vấn đề ThV cho phụ nữ bị BLGĐ.
Trước năm 1945 ở một số bệnh viện như bệnh viện Bạch Mai đã có mặt của
một số cán bộ xã hội và họ đã sử dụng kỹ năng ThV vào quá trình trợ giúp cho bệnh
nhân chữa trị tại bệnh viện.
Ở Miền nam trước những năm 1975 đã có những khóa đào tạo ThV được đề
cập trong các khóa đào tạo cán sự xã hội do thạc sỹ Nguyễn Thị Oanh, TS Trần Thị
Giồng tiến hành và sau đó là mô hình ThV học đường cũng được đề cập và phát
triển ở miền nam vào những năm 90 của thế kỷ XX.
ThV ở Việt Nam thực sự là một lĩnh vực, ngành nghề mới nên các nghiên cứu
về ThV không nhiều: ThV tâm lý, lý luận về ThV được các tác giả: Trần Thị Minh
Đức, Nguyễn Ngọc Phú, Phạm Tất Dong,Trần Quốc Thành, Trần Thị Lệ Thu,
Nguyễn Thị Mùi… đề cập đến trong các hội thảo khoa học, tạp chí tâm lý học.
Nghiên cứu của UNPA và Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch năm 2010 để đưa
ra hướng dẫn thực hiện luật phòng chống bạo lực gia đình cũng đề cập đến những
dịch vụ cần phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng, trong đó có nhà tạm lánh, địa
chỉ tin cậy cũng như tham vấn hôn nhân gia đình, bao gồm cả tham vấn cá nhân,
tham vấn nhóm đối với các đối tượng liên quan như phụ nữ bị bạo lực gia đình,
người gây ra bạo lực gia đình và trách nhiệm tham vấn, tư vấn với cộng đồng.
Nghiên cứu của Lê Thị Quý năm (2007) về bạo lực gia đình cũng cho thấy
hiện nay bạo lực gia đình đối với phụ nữ xảy ra nhiều hình thức khác nhau đối với
phụ nữ, việc xây dựng các mô hình, câu lạc bộ tại địa phương cũng có tác động
phần nào, tuy nhiên tác giả cũng chỉ ra thực trạng tư vấn, hòa giải vấn đề bạo lực
gia đình còn có những bất cập.
Nghiên cứu của UNPA phối hợp với CSAGA (2006) cũng chỉ ra khoảng cách
giữa luật pháp và thực tiễn triển khai trong đó có giải pháp can thiệp về hình thành
các cơ sở tham vấn cũng như cải thiện chất lượng tham vấn, hòa giải tại địa phương.
8
Nghiên cứu các giải pháp hạn chế bạo lực gia đình với phụ nữ và trẻ em của
Bùi Thị Xuân Mai (2009) đã chỉ ra sự thiếu hụt các dịch vụ trợ giúp phụ nữ bị bạo
lực gia đình trong đó đặc biệt là dịch vụ tham vấn.
ThV cho phụ nữ bị BLGĐ cũng là một chủ đề được các tổ chức quốc tế đóng
tại Việt Nam như: Unicef, Care, Radda Barnen, Plan…quan tâm. Đã có được những
dự án với sự giúp đỡ của các chuyên gia ThV về BLGĐ, họ đã tổ chức triển khai
tương đối nhiều khóa tập huấn về ThV về BLGĐ [3,tr.80].
Chuyên mục tư vấn Thanh Tâm trên báo phụ nữ: Mỗi số báo hàng ngày của
Báo phụ nữ đều có mục tư vân Thanh Tâm, số lượng người tìm đến ThV trên báo
phụ nữ rất đa dạng về độ tuổi, ở các vùng miền khác nhau với nhiều vấn đề khác
nhau như: hôn nhân gia đình, tình yêu giới tính…trong đó có ThV về BLGĐ. Trong
quá trình nghiên cứu trên chuyên mục này về các bài ThV liên quan đến BLGĐ,
việc ThV cho những người bị BLGĐ chưa mang lại hiệu quả cao bởi nhiều lý do
khác nhau như: Những người ThV không có chuyên môn về ThV nên đã dẫn đến rất
nhiều thân chủ được ThV không hài lòng, có những bài người tiến hành ThV đã
phán xét thân chủ, áp đặt các giải pháp, thân chủ không được quyền tự quyết, đưa
lời khuyên cho thân chủ, ThV chưa tập trung vào những vấn đề mà thân chủ đang
muốn được tháo gỡ…
Chi hội phụ nữ các cấp, hoạt động ThV cho các chị em phụ nữ bị BLGĐ
thường xuyên được tiến hành bởi các chi hội phụ nữ, các thành viên tổ hòa giải của
cụm dân cư hoặc tổ dân phố. Tuy nhiên đang tồn tại một thực trạng đó là các cán bộ
hội phụ nữ, các cán bộ hòa giải cơ sở làm công tác ThV cho các chị em phụ nữ bị
BLGĐ chưa mang lại hiệu quả cao. Đa số họ mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những
lời khuyên cho cho thân chủ chứ chưa thực sự ThV cho chị em hội viên phụ nữ của
mình bị BLGĐ hoặc mới chỉ bằng kinh nghiệm và niềm say mê nghề nghiệp chứ
chưa được qua đào tạo một cách bài bản và chuyên nghiệp. Chính vì lý do đó nên
cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả cao trong việc hỗ trợ cho các nạn nhân là phụ
nữ bị BLGĐ.
ThV của NNBY cho các nạn nhân bị BLGĐ được tiến hành bởi các cán bộ
tham vấn cho đến nay phòng ThV đã ThV khoảng 3000 lượt. Do là những người có
9
kinh nghiệm và được đào tạo chuyên sâu về ThV nên các nạn nhân đến với phòng
ThV đều được ThV một cách chuyên nghiệp và bài bản. Tuy nhiên do phòng ThV
của NNBY chưa được nhiều người biết đến nên việc ThV còn hạn chế về số lượt
người được ThV. Hầu hết những người được ThV ở ngôi bình chỉ là phụ nữ và trẻ
em bị BLGĐ, song trên thực tế có cả những nam giới là nạn nhân của BLGĐ thì
chưa được ThV.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm khảo đánh giá thực trạng hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo
lực gia đình của NNBY và kết quả đạt được trên cơ sở đó đưa ra những khuyến
nghị nhằm phát triển, nhân rộng mô hình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực
gia đình tại các địa bàn khác.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hoá những lý thuyết, xác định và trình bày các khái niệm công cụ:
bạo lực, bạo lực gia đình, tham vấn, tham vấn cá nhân, tham vấn cá nhân cho phụ
nữ bị bạo lực gia đình, các lý thuyết nền tảng, các yếu tố ảnh hưởng đến tham vấn
cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình.
Đánh giá thực trạng hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia
đình tại NNBY.
Đề xuất những khuyến nghị để hoàn thiện và phát triển mô hình tham vấn
cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình và nhân rộng mô hình ra nhiều địa bàn
khác nhau.
4. Ý nghĩa nghiên cứu
4.1. Về lý luận
Nghiên cứu đã hệ thống hóa những cơ sở lý luận về BLGĐ, tham vấn cá nhân
cho phụ nữ bị bạo lực gia đình.
Thông qua nghiên cứu làm sáng tỏ hơn tính đúng đắn về những chủ trương,
quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phát triển CTXH, trong đó ThV để giải
quyết tốt các vấn đề xã hội xảy ra và phòng chống bạo lực gia đình nói chung.
10
4.2. Về thực tiễn
Làm rõ được những hoạt động tham vấn cần thiết cho phụ nữ bị bạo lực gia
đình nói chung và tại NNBY nói riêng.
Chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa tham vấn và công tác xã hội.
Chỉ ra được những điểm mạnh thuộc mô hình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị
bạo lực gia đình tại NNBY để phổ biến và nhân rộng trên cả nước.
Chỉ ra những yêu cầu về tính chuyên môn cần tiếp tục hoàn thiện đối với
tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY như đội ngũ cán bộ
tham vấn, cơ sở vật chất…
Là tài liệu tin cậy cho các hoạt động nghiên cứu có liên quan.
5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY Trung ương Hội liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam
5.2. Khách thể nghiên cứu
Phụ nữ bị bạo lực gia đình
Cán bộ quản lý NNBY
Cán bộ xã hội/ Nhân viên xã hội, cán bộ tham gia tham vấn cá nhân cho
phụ nữ bị bạo lực gia đình
Người thân của các nạn nhân bị bạo lực gia
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Thời gian: nghiên cứu các hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực
gia đình tại NNBY từ năm 2007 đến nay
6.2. Địa bàn nghiên cứu: Ngôi nhà bình yên – Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam
6.3. Nội dung nghiên cứu: quy trình tham vấn, nội dung, hình thức, cán bộ làm
công tác tham vấn, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn cá nhân cho
phụ nữ bị bạo lực gia đình và các kết quả đã đạt được.
11
7. Câu hỏi nghiên cứu
Hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY như
thế nào?
Kết quả của sự trợ giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình thông qua hình thức tham
vấn cá nhân từ năm 2007 đến nay như thế nào? (Về số lượng các ca tham vấn, chất
lượng, những thay đổi của thân chủ sau khi được tham vấn)
Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hoạt động tham vấn cá nhân phụ nữ bị bạo
lực gia đình tại NNBY?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Tại NNBY các cán bộ tham vấn sử dụng tham vấn cá nhân là chủ yếu đồng
thời có kết hợp cả tham vấn nhóm và tham vấn gia đình. Tham vấn cá nhân cho
phụ nữ bị bạo lực gia đình là một hình thức can thiệp của CTXH tại NNBY đã
theo hướng chuyên nghiệp và chịu ảnh hưởng của các yếu tố, điều kiện nhất định
như: cán bộ tham vấn, cơ sở vật chất của NNBY, cơ sở pháp lý và phụ nữ bị bạo
lực gia đình.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
9.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Các báo cáo: Báo cáo nghiên cứu về bạo lực gia đình năm 2006. Báo cáo các
năm của NNBY
Văn bản pháp lý: Hiến pha
́
p 2013, Luật hôn nhân và gia đình năm 2004, Luật
phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật bình đẳng giới năm 2007, Nghi định
08/2009/NĐ – CP, ngày 04 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết về
việc thi hành một số điều luật phòng chống bạo lực gia đình.
Các công trình nghiên cứu, sách, báo, đánh giá, bài viết về bạo lực gia đình và
tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực gia đình của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu,
học giả trong cả nước.
12
9.2 Phỏng vấn sâu
Tô
̉
ng số pho
̉
ng vấn sâu la
̀
15 trươ
̀
ng hơ
̣
p, bao gồm: Phụ nữ bị bạo lực gia đình
(05 người), cán bộ dự án (01 người), cán bộ quản lý (01 người), cán bộ tham vấn
(06 người), quản gia (01 người), bảo vệ (01 người).
9.3 Thảo luận nhóm
Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi thực hiện 01 thảo luận nhóm gồm 08
người: cán bộ quản lý, cán bộ tham vấn, cán bộ dự án, nhân viên xã hội tại
NNBY.
9.4 Phương pha
́
p nghiên cư
́
u trường hợp
Trong nghiên cứu này nghiên cứu và thực hành, thực nghiệm trên 02 trường hợp
phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY
9.5. Phương pha
́
p điều tra bằng bảng hỏi
Hiện nay tại NNBY hiện có 10 phụ nữ bị bạo lực gia đình đang tạm trú và 15
cán bộ nhân viên, do cỡ mẫu ít nên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tổng thể bằng
bảng hỏi: phụ nữ bị bạo lực tại NNBY (10 người), Cán bộ NNBY (15 người). (Do
cỡ mẫu ít nên chúng tôi không tính tỷ lệ % mà tính số tuyệt đối)
13
NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THAM VẤN CÁ
NHÂN CHO PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Các khái niệm chính sử dụng trong quá trình tham vấn cá nhân cho phụ
nữ bị bạo lực gia đình
1.1.1.Gia đình, Bạo lực, bạo lực gia đình và phụ nữ bị bạo lực gia đình
1.1.1.1. Gia đình
Theo luật Hôn nhân và gia đình “gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Từ đó phát sinh các quyền và
nghĩa vụ đối với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ nhau về vật chất, tinh thần và nuôi
dạy con cái dưới sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội” [13/tr2]
Luật hôn nhân gia đình (2004) Khái niệm này mới đề cập đến những người
sống chung với nhau trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng, còn những
người sống chung với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn hoặc những
người đã ly hôn sau đó lại tiếp tục sống chung với nhau hay những người đồng tính
sống chung với nhau như vợ chồng sẽ không được gọi là gia đình.
1.1.1.2. Bạo lực
Bạo lực là một hiện tượng xã hội, phương thức ứng xử trong các mối quan hệ
xã hội tồn tại trong mọi xã hội từ khi hình thành xã hội loài người. Đây là mối quan
hệ khi mà một bên sử dụng quyền lực để chấn áp bên kia.
Theo tổ chức Y tế thế giới “Bạo lực là việc đe dọa hay dùng sức mạnh thể
chất hay quyền lực đối với bản thân, người khác hoặc đối với một nhóm người hay
một cộng đồng mà gây ra hay làm tăng khả năng gây ra tổn thương, tử vong, tổn hại
về mặt tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển hay gây ra sự mất mát” (WHO)
Theo từ điển Tiếng việt (2003) “Bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp, lật đổ.
Nó có thể là bạo lực chính trị, bạo lực vũ trang, trên phạm vi toàn xã hội, giữa các
quốc gia, trên lãnh thổ một đất nước, nó có thể là bạo lực gây thương tích, tổn
14
thương về kinh tế, thể chất hay tinh thần của người này cho người khác trong các
nhóm xã hội hay gia đình”
Xét về bản chất bạo lực là việc sử dụng sức mạnh để triệt hạ, gây những tổn
thương về thể chất, tinh thần cho người khác.
1.1.1.3. Bạo lực gia đình
BLGĐ là một dạng bạo lực xã hội, hiện tượng BLGĐ đã tồn tại từ rất lâu
trong mọi thời đại và trong mọi xã hội. BLGĐ có thể là hành vi đánh đập, đe dọa,
gây sức ép về thể chất và tâm lý diễn ra giữa những người thân trong gia đình.Theo
luật phòng chống BLGĐ năm 2007 “BLGĐ là hành vi cố ý của thành viên gia đình
gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành
viên khác trong gia đình” [14,tr.1].
Các thành viên gây ra BLGĐ ở đây được xem xét cả những người sống
chung với nhau nhưng không có quan hệ hôn nhân hay những người đã ly hôn.
Các hình thức bạo lực gia đình hiện nay gồm: bạo lực thển xác, bạo lực tinh
thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế. Theo điều 2 của Luật phòng chống BLGĐ
được xác định cụ thể như sau:
Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến sức
khỏe, tính mạng.
Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự hoặc nhân phẩm.
Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng.
Ngăn cản việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông
bà và cháu, cha mẹ và con, giữa vợ và chồng, giữa anh chị em với nhau.
Cưỡng ép quan hệ tình dục.
Cưỡng ép tảo hôn, cưỡng ép két hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ.
Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi cố ý khác làm hư hỏng tài sản
riêng của các thành viên khác trong gia đình.
15
Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họm kiểm soát thu nhập của thành viên trong gia đình nhằm tạo ra tình
trạng phụ thuộc về tài chính.
Có hành vi trái pháp luật thuộc thành viên gia đình khỏi chỗ ở
1.1.1.4. Phụ nữ bị bạo lực gia đình
- Phụ nữ bị bạo lực gia đinh
Phụ nữ bị bạo lực gia đình là hiện tượng người phụ nữ bị các thành viên
trong gia đình đánh đập, đe dọa, gây sức ép về thể chất, tâm lý, kinh tế và tình dục
gây ra những tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối
với phụ nữ.
- Các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Bạo lực thể xác với phụ nữ là những hành vi các thành viên trong gia đình đá,
đấm, tát dùng các vật dụng như gậy gộc, các vật dụng…tác động trực tiếp đến sức
khỏe, phụ nữ.
Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ là hành vi các thành viên trong gia đình chửi
bới, mắng nhiếc, đe dọa và im lặng không nói chuyện trong một thời gian dài….đối
với người phụ nữ. Thậm chí một số trường hợp không cho người phụ nữ được tiếp
xúc với bạn bè, người thân, cấm tiết lộ thông tin …
Bạo lực tình dục đối với phụ nữ là hành vi khi người phụ nữ không muốn,
không có nhu cầu quan hệ tình dục bị cưỡng ép quan hệ tình dục, không thèm quan
hệ tình dục trong một thời gian dài, không thèm quan hệ tình dục hoặc ép người phụ
nữ quan hệ tình dục bằng hành vi loạn luân…
Bạo lực kinh tế với phụ nữ là hành vi người phụ nữ bị các thành viên trong gia
đình tước đoạt tiền bạc, ép buộc phái đưa tiền, không cho đi làm hoặc bắt người phụ
nữ phải lệ thuộc về kinh tế
- Ảnh hưởng của bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Hiện nay bạo lực gia đình đã và đang để lại nhiều hậu quả nặng nề cho phụ nữ
nói riêng và các nạn nhân bị bạo lực gia đình nói chung. Bạo lực gia đình dẫn đến
nhiều hậu quả nặng nề đối với phụ nữ như:
16
Về thể xác của phụ nữ: gãy xương, tàn phế, bầm dập, rách da, suy giảm chức
năng vận động… thậm chí nạn nhân có thể bị tử vong
Về tâm lý và hành vi của phụ nữ: Hoảng loạn, lo âu, buồn chán, trầm cảm, tâm
thần, lạm dụng các chất kích thích, lệch lạc về hành vi.
Về kinh tế: Tốn kém tiền của do chi phí đề khám và điều trị bệnh tật. Không
những thế mà trong thời gian điều trị bệnh nạn nhân không những phái chi phí, tốn
tiền cho việc khám và chữa bệnh đồng thời nạn nhân phải nghỉ việc nên không có
nguồn thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngoài ra nều tình trạng bạo lực gia
đình xảy ra nhiều nhà nước cần phải chi phí nhiều cho công tác tuyên truyền đẩy
mạnh bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình.
Về mặt xã hội: làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến cộng đồng, trật
tự trị an.
Như vậy chúng ta thấy rằng bạo lực gia đình là vấn đề ảnh hưởng không chỉ
đến bản thân họ mà còn ảnh hưởng đến toàn xã hội.
1.1.2. Một số vấn đề về tham vấn và tham vấn cá nhân
1.1.2.1. Tham vấn
Hiện nay có rất nhiều các nghiên cứu đưa ra những quan niệm khác nhau về
ThV trong nội dung luận văn này xin đề cập đến một số định nghĩa về ThV như sau:
Theo P.K.Odhner (1998), “ThV là quá trình trợ giúp con người có mục đích rõ
ràng và mang tính chuyên nghiệp, đòi hỏi NTV cần phải dành một thời gian nhất
định và sử dụng các kỹ năng một cách thuần thục để giúp đỡ đối tượng (còn gọi là
thân chủ) tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai những giải pháp trong điều kiện
cho phép”. Ông cho rằng, đây là một khoa học thực hành nhằm giúp đỡ con người
vượt qua những khó khăn của họ, giúp họ có được khả năng hoạt động độc lập trong
xã hội bằng chính kỹ năng sống và năng lực của mình.
Tác giả Rogers, Jenny trong cuốn Caring for people: Help at the Frontline
USA, 1990, lại cho rằng, “ThV là hoạt động nhằm giúp đỡ con người tự giúp chính
họ. Hoạt động ThV sẽ giúp họ nâng cao khả năng tự tìm giải pháp đối phó với vấn
đề và thực hiện tốt chức năng của mình trong cuộc sống”. Theo như Jennny ThV là
17
hoạt động mà chính thân chủ sẽ tự giúp họ thông qua việc nâng cao năng lực để từ
đó thân chủ sẽ là người giải quyết vấn đề của mình.
Tiến sỹ Trần Thị Giồng cho rằng, “ThV là tiến trình tương tác giữa NTV và
thân chủ, trong quá trình này NTV sử dụng các kỹ năng chuyên môn giúp thân chủ
khơi dậy tiềm năng để họ có thể tự giải quyết được vấn đề đang gặp phải”
[15,tr.12].
Tác giả Trần Thị Minh Đức cho rằng: “ThV là một quá trình tương tác giữa
NTV với thân chủ. Thông qua các kỹ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các
nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ nghề nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực
tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình”
[3,tr.128-129].
Tác giả Bùi Thị Xuân Mai cũng cho rằng: “ThV là một quá trình trợ giúp tâm
lý, trong đó NTV sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ nghề nghiệp để
thiết lập mối quan hệ tương tác tích cực với thân chủ nhằm giúp họ nhận thức được
hoàn cảnh về vấn đề để thay đổi cảm xúc và hành vi, tìm kiếm giải pháp cho vấn đề
của mình” [15,tr.7].
Theo quan niệm trong các định nghĩa trên các tác giả nhấn mạnh đến ThV là
một quá trình tương tác giữa NTV với thân chủ, trong đó đặc biệt chú ý đến việc sử
dụng kiến thức và kỹ năng cũng như đạo đức nghề nghiệp của những người làm
ThV, giúp thân chủ tự xác định vấn đề của mình và tự giải quyết vấn đề của mình.
Tóm lại ThV là một quá trình tương tác tích cực giữa NTV với thân chủ, NTV
sử dụng các kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ giúp thân chủ thấu hiểu
bản thân, nhận thức về vấn đề của mình và trên cơ sở sự hỗ trợ, giúp đỡ của NTV
thân chủ tự tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề khó khăn mà bản thân mình đang
gặp phải.
1.1.2.2. Mục đích và vai trò của tham vấn
Mục đích của ThV không phải đưa ra những lời khuyên hay quyết định thay
thân chủ. Mục đích cuối cùng của ThV là giúp thân chủ tăng cường hiểu biết về bản