Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Tác động của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung thông tin trên báo in hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 120 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******




HOÀNG THỊ MINH NGỌC



TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
NỘI DUNG THÔNG TIN TRÊN BÁO IN HIỆN NAY.
(Khảo sát báo Đầu tƣ và báo Tuổi trẻ TP.HCM
từ năm 2011 đến 7/2013).




LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Báo chí học






Hà Nội - 2014




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******


HOÀNG THỊ MINH NGỌC



TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
NỘI DUNG THÔNG TIN TRÊN BÁO IN HIỆN NAY.
(Khảo sát báo Đầu tƣ và báo Tuổi trẻ TP.HCM
từ năm 2011 đến 7/2013).




Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ANH TUẤN







Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu, khảo sát của
cá nhân tôi. Những thông tin, số liệu, luận cứ, luận điểm trong luận văn là
hoàn toàn do tôi thu thập, tìm hiểu, khảo sát và chưa từng công bố ở công
trình nghiên cứu nào.

Tác giả luận văn



Hoàng Thị Minh Ngọc



















LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu nghiêm
túc của tôi tại khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các
thầy cô giáo trong khoa Báo chí và Truyền thông đã tạo điều kiện để tôi có cơ
hội nghiên cứu và thực hiện đề tài. Tôi đặc biệt chân thành cảm ơn TS.
Nguyễn Anh Tuấn là người đã nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi hoàn thành
luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè và những người đã ủng hộ,
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình khảo sát thực tế.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn



Hoàng Thị Minh Ngọc

MỤC LỤC
Mở đầu 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5
7. Kết cấu của luận văn 5
Nội dung 6

Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ VÀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH6
1.1. Khái niệm 6
1.1.1.“Báo chí”, “Báo in” 6
1.1.2.Thông tin 7
1.1.3.Cơ chế tự chủ tài chính 8
1.2. Một số vấn đề lý luận về tác động của cơ chế tự chủ tài chính với nội
dung thông tin báo in 11
1.2.1. Chức năng của báo in trong nền kinh tế thị trường 11
1.2.2.Cơ chế tự chủ tài chính và các hoạt động kinh tế báo chí 14
1.2.3.Cơ chế tự chủ tài chính và tác động với nội dung thông tin báo in 18
1.2.4.Thương mại hóa báo chí trong điều kiện tự chủ tài chính 20
1.3. Một số hoạt động kinh tế báo chí 22
1.3.1. Phát hành báo chí 22
1.3.2. Quảng cáo, quảng cáo trên báo chí 23
1.3.3. Các hoạt động kinh tế khác 25
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI
CHÍNH ĐỐI VỚI NỘI DUNG THÔNG TIN TRÊN BÁO IN 31
2.1. Những tác động của cơ chế tự chủ tài chính với nội dung thông tin
trên báo in 31
2.1.1. Đầu tư cho hoạt động báo chí 31
2.1.2. Quảng cáo trên báo in 32
2.1.3. Định hướng nội dung vào nhóm đối tượng chính yếu 35
2.1.4. Tăng các chuyên trang, chuyên mục 37
2.1.5. Thương mại hóa và chất lượng thông tin báo in 39
2.1.6. Tác động từ mối quan hệ giữa hoạt động phát hành và quảng cáo 40
2.2. Khảo sát tác động của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung thông
tin qua các hoạt động kinh tế của báo Đầu tƣ và báo Tuổi trẻ 43
2.2.1. Báo Đầu tư 43
2.2.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển 43
2.2.1.2. Cơ cấu tổ chức 45

2.2.1.3. Tác động của các hoạt động kinh tế tới nội dung thông tin 47
2.2.2. Báo Tuổi trẻ 65
2.2.2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển 65
2.2.2.3. Sự tác động của các hoạt động kinh tế với nội dung thông tin. 69
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN
CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC VỚI NỘI DUNG THÔNG TIN TRÊN
BÁO IN KHI THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH 90
3.1. Các giải pháp cơ bản 90
3.1.1. Hoàn thiện luật pháp về chính sách tài chính đối với báo chí 90
3.1.2. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với báo chí. 93
3.1.3. Tổ chức lại hệ thống báo in 95
3.2. Đề xuất giải pháp cụ thể đối với cơ quan báo in 97
Kết luận 108
Tài liệu tham khảo 110










DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

Bảng 2.1. Bảng kết quả khảo sát ý kiến độc giả về quảng cáo trên báo
in 33
Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức báo Đầu tƣ 46
Bảng 2.3. Số lƣợng quảng cáo trên Báo Đầu tƣ 57

Bảng 2.4. Biểu đồ tỷ lệ doanh thu các hoạt động kinh doanh của báo Đầu
tƣ 64
Hình 2.5. Sơ đồ tổ chức báo Tuổi trẻ 67
Bảng 2.6. Số lƣợng quảng cáo trên báo Tuổi trẻ 75
Bảng 2.7. Biểu đồ tỷ lệ doanh thu các hoạt động kinh doanh của báo Tuổi
trẻ 82











1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo chí nói chung và báo in nói riêng đóng vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội của mọi quốc gia. Ở Việt Nam, báo chí được xác định “là tiếng
nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn
của nhân dân”
1
. Từ khi bước vào công cuộc Đổi mới của đất nước (từ Đại hội
Đảng VI - năm 1986), báo chí nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Cùng với quá trình Đổi mới, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập quốc tế, cơ chế bao

cấp đối với các cơ quan báo chí dần được xóa bỏ. Đến nay nhiều cơ quan báo
chí đã chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ về mặt tài chính.
Cơ chế tự chủ tài chính đối với cơ quan báo chí giúp Nhà nước tiết
giảm được một khoản chi ngân sách đáng kể, đồng thời tạo điều kiện để các
cơ quan báo chí phát triển năng động, không bị lệ thuộc vào nguồn vốn ngân
sách. Nhiều cơ quan báo chí đã tổ chức và quản trị tốt hoạt động kinh doanh
báo chí, nhờ đó không chỉ tự trang trải được thu – chi mà còn tích lũy, chủ
động nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Cơ chế tự chủ tài chính và sức ép cạnh tranh trong cơ chế thị trường cũng đã
tác động đến nội dung thông tin trên báo chí cả tích cực và tiêu cực. Về mặt
tích cực, có thể nhận thấy sự không ngừng cải tiến cả về nội dung và hình
thức của các ấn phẩm báo chí nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh
thu hút độc giả; sự định hướng nội dung nhằm vào phục vụ nhóm đối tượng
độc giả chính yếu; sự ra đời của các chuyên trang, chuyên mục có nội dung
thông tin gần gũi với mối quan tâm của độc giả. Về mặt tiêu cực, sự phát triển
của các trang thông tin chỉ dẫn tiêu dùng, gắn với nhu cầu quảng bá thương
hiệu sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp đã xuất hiện xu hướng thương
mại hóa báo chí, có những sản phẩm báo chí thiên về lợi nhuận, ít quan tâm

1
Nghị quyết hội nghị Trung ương 5, khoá X về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu
mới” (7/2007).


2
đến chức năng thông tin tuyên truyền hoặc lấy chức năng thông tin, tuyên
truyền che đậy cho các hoạt động kinh tế. Báo cáo tình hình công tác báo chí
năm 2012 được Bộ Thông tin Truyền thông trình bày tại “Hội nghị cán bộ báo
chí toàn quốc triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2013” tổ chức ngày
19/3/2013 tại Hà Nội, đã chỉ rõ một trong những khuyết điểm của báo chí

nước ta hiện nay là xu hướng thương mại hóa báo chí, giật gân câu khách,
chạy theo thị hiếu tầm thường của một nhóm nhỏ công chúng, thông tin sai sự
thật ảnh hưởng đến lợi ích, danh dự của tổ chức và công dân
Làm gì và làm như thế nào để vừa đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, đảm bảo
tự trang trải tài chính vừa khắc phục được những mặt tiêu cực nảy sinh khi
thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ quan báo chí là câu hỏi lớn
mang tính thời sự đang được đặt ra. Vì vậy luận văn chọn đề tài “Tác động
của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung thông tin trên báo in hiện
nay”, nghiên cứu về thực trạng cơ chế tự chủ tài chính và tác động của nó đối
với nội dung thông tin báo in qua khảo sát báo Đầu tư và Tuổi trẻ Thành phố
Hồ Chí Minh là hai tờ báo hoàn toàn tự trang trải về tài chính từ nhiều năm
nay. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và kết quả khảo sát thực tiễn, luận văn đề
xuất những kiến nghị, giải pháp phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những tác động tiêu cực của cơ chế tự chủ tài chính đối với định hướng nội
dung thông tin trên báo in ở nước ta.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những nghiên cứu về hoạt động kinh tế báo chí nói chung liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp tới vấn đề tác động của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung
thông tin trên báo chí ở Việt Nam có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
như:
- Kỷ yếu Hội thảo với chủ đề “Toàn cầu hóa và sự phát triển của
báo chí – truyền thông Việt Nam” do Học viện Báo chí và Tuyên truyền
– Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức, 15/12/2006.
- Nguyễn Thị Vân Anh với luận văn thạc sỹ “Thông tin chỉ dẫn tiêu
dùng trên truyền hình của đài PTTH Hà Nội”, Trường Đại học KHXH&NV
Hà Nội, 2012.
- Lê Hải với luận án tiến sỹ “Xây dựng tập đoàn truyền thông ở Việt

3
Nam”, Học viện Báo chí và tuyên truyền, 2012.

- PGS.TS. Đinh Văn Hường, Hoạt động và đóng góp kinh tế của báo in
đối với kinh tế xã hội Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, Tài liệu Hội thảo
Quốc tế với chủ đề: “Đóng góp của khoa học xã hội nhân văn trong phát triển
kinh tế xã hội”, 2011.
- Hoàng Văn Hướng với luận văn thạc sỹ “Yếu tố kinh tế trong hoạt
động của các cơ quan báo chí Việt Nam”, Học viện Báo chí và tuyên truyền,
2008.
- Dương Xuân Sơn, Vai trò của báo in Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
trong quá trình giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa quốc tế, Tài liệu Hội
thảo khoa học quốc tế tại Việt Nam lần thứ ba với chủ đề “Việt Nam: Hội
nhập và phát triển”, 2008.
- Tạ Ngọc Tấn, Phát triển báo chí trước những yêu cầu mới của đất
nước, Tạp chí Cộng sản, số 15, năm 2005.
- Vũ Đình Thường với luận văn thạc sỹ “Hoạt động báo chí trong kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Một số bài viết đăng trên các báo điện tử, website: Đinh Quý Xuân,
Báo chí với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (www.tinkinhte.com,
11/9/2009); Khánh Linh, Kinh tế truyền thông cần một tư duy mới
(vnn.vietnamnet.vn, 16/6/2005); Ngô Kiên, Về thương mại hóa báo chí gần
đây (baonghean.vn, 2/11/2012)…
Những công trình nghiên cứu về tác động của cơ chế tự chủ tài chính đối
với báo chí chưa nhiều, chưa có công trình nào làm rõ tác động của cơ chế tự
chủ tài chính đối với nội dung thông tin trên báo in nước ta. Một số công trình
nghiên cứu đã có khảo sát thực tế tại các cơ quan báo chí, nhưng chưa có
công trình nào khảo sát cụ thể thực trạng những tác động của cơ chế tự chủ tài
chính đối với nội dung thông tin trên báo Đầu tư và báo Tuổi trẻ thành phố
Hồ Chí Minh (gọi tắt là báo Tuổi trẻ).



4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động báo chí trong cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Khảo sát về tác động của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung
thông tin trên các báo in.
- Đề xuất các giải pháp để phát huy mặt tích cực và hạn chế tác
động tiêu cực của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung thông tin các
báo in, định hướng cho việc thông tin trên báo in.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của hoạt động kinh doanh
đối với nội dung thông tin của báo in.
Phạm vi nghiên cứu là tập trung khảo sát sâu hai tờ báo in: báo Tuổi trẻ
và báo Đầu tư trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến tháng 7/2013.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn thực hiện trên cơ sở nhận thức luận các vấn đề
lý luận triết học duy vật biện chứng, nền tảng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các vấn đề lý luận về báo chí và cơ chế thị trường theo quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu để hệ thống hóa các vấn đề lý
luận.
- Phương pháp khảo sát chi tiết, tổng hợp và phân tích hoạt động
kinh doanh và nội dung thông tin đăng tải trên hai tờ báo Tuổi trẻ và
Đầu tư.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
Qua việc nghiên cứu, khảo sát sẽ rút ra những nhận xét về mặt tích cực,
thành công và hạn chế, khó khăn, bài học kinh nghiệm của cơ chế tự chủ tài
chính đối với nội dung thông tin trên báo in.




5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn được hình thành trên cơ sở tổng hợp, kế thừa những công
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn kết hợp với quá trình
nghiên cứu từ thực tế và lý thuyết của tác giả luận văn. Do vậy, luận văn có ý
nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn.
Về ý nghĩa lý luận, luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động
báo chí trong cơ chế kinh tế thị trường, kinh tế báo chí, mối quan hệ giữa cơ
chế tự chủ tài chính đối với nội dung thông tin trên các báo in.
Về ý nghĩa thực tiễn, qua khảo sát thực tế hai tờ báo cụ thể chỉ ra những
mặt tích cực và tiêu cực của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung thông tin
của báo in. Trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của hoạt động kinh
doanh với chất lượng nội dung thông tin trên báo in.
Luận văn là tài liệu tham khảo đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
về báo chí để có chính sách và phương pháp thúc đẩy báo chí Cách mạng Việt
Nam phát triển lành mạnh đúng định hướng, đóng góp vào quá trình xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo cần thiết đối với các
cơ quan báo chí, đã và đang chuyển sang cơ chế tự chủ về tài chính. Các nhà
quản lý, lãnh đạo các cơ quan báo chí có thể tham khảo các kết quả khảo sát,
tổng hợp thực tiễn của luận văn để từ đó có những điều chỉnh trong công tác
quản lý cũng như xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất nội dung thông tin.
Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo bổ ích đối với người
học chuyên ngành báo chí và có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng tài liệu
báo chí truyền thông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, bảng số liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:

Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận về báo chí trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN.
Chƣơng 2. Tác động của cơ chế tự chủ tài chính đối với nội dung
thông tin trên báo in.

6
Chƣơng 3. Giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế
tác động tiêu cực với nội dung thông tin trên báo in khi thực hiện cơ chế
tự chủ tài chính.
Nội dung
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ VÀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm
1.1.1. “Báo chí”, “Báo in”
“Báo chí” là một bộ phận của truyền thông đại chúng (Mass media)
nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung tâm, giữ vai trò nền tảng và có khả năng
quyết định đến tính chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác
động của truyền thông đại chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng
báo chí để chỉ truyền thông đại chúng; và ngược lại, nói đến truyền thông đại
chúng trước hết phải nói đến báo chí.
Theo các nhà nghiên cứu, báo chí là một mặt của đời sống xã hội, từ
khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng quá trình phát triển của con
người. Trong quá trình đó, báo chí có những tác động to lớn đối với xã hội thể
hiện trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống…
Trong các loại hình báo chí, báo in là loại hình báo chí ra đời sớm nhất.
Báo in là tên gọi của loại hình báo chí với những ấn phẩm xuất bản
định kì, được thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, ngôn ngữ phi văn tự (bao gồm
báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn) chuyển tải nội dung thông tin
thời sự, phát hành rộng rãi và định kỳ nhằm phục vụ công chúng – nhóm đối
tượng nào đó với mục đích nhất định. [15, tr.101]
Báo in được hình thành và phát triển dựa trên 4 điều kiện căn bản: sự

phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu khách quan về thông tin của con người
trong xã hội, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kĩ thuật – công nghệ, sự
giao lưu kinh tế giữa nước này với nước khác.
Báo in có vị trí, vai trò, ý nghĩa riêng, có đặc điểm, ưu thế, hạn chế
riêng và độc lập, bình đẳng với các loại hình báo chí khác.

7
Tháng 3/2012, cả nước có 786 cơ quan báo in với 1.016 ấn phẩm. Tính
đến hết tháng 12/2013 cả nước có thêm 52 cơ quan báo in, tăng thêm gần 100
ấn phẩm. Số lượng bản báo phát hành trên thị trường đạt 836 triệu bản
(2)
.
Những con số này đã phần nào cho thấy được sự phát triển không ngừng của
báo in trong cơ chế thị trường hiện nay.
Trong những năm qua, báo in nước ta không ngừng được nâng cao chất
lượng cả về hình thức và nội dung, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông
tin của nhân dân. Tuy còn một số hạn chế nhất định nhưng những hoạt động
phong phú, sôi động của báo in đã gặt hái những thành công bước đầu trong
đó có sự phát triển của các hoạt động kinh tế, kinh doanh. Những thay đổi đó
rất cần được tìm hiểu, nghiên cứu cụ thể để có định hướng chung cho nền báo
chí Việt Nam.
1.1.2. Thông tin
Khái niệm “thông tin” được bắt nguồn từ chữ Latinh informetio, gốc
của từ tiếng Anh information. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau khi sử
dụng thuật ngữ này.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa “thông tin” có nghĩa là
thông báo tin tức. Thông tin giúp làm tăng hiểu biết của con người, là nguồn
gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định.
Trong lý luận báo chí, “thông tin” tồn tại hai cách hiểu: Một là tri thức,
tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Hai là sự loan

báo cho mọi người biết. [37, tr.55]. Cách hiểu thứ nhất chính là dùng “thông
tin” như danh từ, thông tin thể hiện đặc trưng cơ bản của báo chí là phải mang
đến các vấn đề, sự kiện cho công chúng. Còn theo cách hiểu thứ hai “thông
tin” được dùng như động từ nghĩa là sử dụng các phương tiện kỹ thuật để
truyền đạt kết quả sáng tạo của nhà báo ra thế giới xung quanh. Nó thể hiện
đặc trưng, chức năng của báo chí.
Khái niệm “thông tin” là cơ sở, nền tảng của hoạt động báo chí cho
nên khi nghiên cứu lý luận báo chí cần chú ý đến ý nghĩa của thuật ngữ này.

2
Số liệu do Bộ Thông tin và Truyền thông công bố tháng 1/2014

8
Mỗi lĩnh vực có cách tiếp cận, nhận thức khái niệm này khác nhau. Trong
công tác báo chí, muốn có nhận thức đúng đắn về thông tin cần xác định được
mục đích của hoạt động báo chí đồng thời nêu lên định hướng có tính nguyên
tắc cho những hoạt động thực tiễn.
Thông tin trong hoạt động báo chí được Afanaxiep định nghĩa: “Thông
tin là phần tri thức được sử dụng để định hướng, tác động đến những hành
động tích cực và quản lý xã hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm
phẩm chất, sự hoàn thiện và sự phát triển hệ thống.” [37, tr.59].
Báo chí luôn có vai trò định hướng về nhiều mặt, trong đó định hướng
thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó bắt nguồn từ chức năng, vai trò
của báo chí. Báo chí được coi là tiếng nói của Đảng, của nhà nước, của các tổ
chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân. Báo chí có nhiệm vụ bảo vệ, tuyên
truyền đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện tiếng nói của nhân dân lao
động. Đồng thời xây dựng đời sống tinh thần trong sáng, lành mạnh và phong
phú trong xã hội, hình thành tư tưởng tích cực trong xã hội.
1.1.3. Cơ chế tự chủ tài chính
Cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, cơ chế tự chủ tài chính vẫn

còn mới mẻ với đa số cơ quan báo chí Việt Nam. Phần lớn hoạt động của các
tờ báo vẫn còn dựa vào nguồn ngân sách của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng rất
nhanh chóng sau đó, nhiều tờ báo trong nước đã nắm bắt được cơ hội và xu
thế để tăng doanh thu, hướng tới tự chủ tài chính. Trong khi đó, Nhà nước ta
cũng đã đẩy mạnh thực hiện chủ trương xóa bỏ bao cấp đối với những cơ
quan báo chí không nhất thiết phải bao cấp, đồng thời tạo điều kiện để báo chí
có thể đa dạng các hoạt động kinh tế theo đúng quy định pháp luật.
Cơ chế tự chủ tài chính là cơ chế theo đó các đơn vị sự nghiệp được
trao quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về các khoản thu, khoản chi của
đơn vị mình. Đó là quyền tự quyết định độc lập về việc sử dụng nguồn vốn
cũng như được tạo quỹ từ những nguồn khác, được quyền khai thác các
nguồn kinh phí và sử dụng các kết quả tài chính theo quy định của pháp luật.
Tức là đơn vị tự chịu trách nhiệm, tự cân đối nguồn thu – chi, tự hạch toán tài

9
chính đảm bảo cho các hoạt động của đơn vị mình một cách thường xuyên.
Mục đích chính của cơ chế tự chủ tài chính là phải trao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho đơn vị trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy,
sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao;
phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho
xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao
động. Mặt khác, qua trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm thực hiện
mạnh mẽ hơn chủ trương xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ cho xã hội; huy
động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự
nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước. Và cơ chế tự chủ
tài chính đã thể hiện những được những mặt tích cực trong công cuộc cải cách
nền tài chính công của Chính phủ.
Tại chương V, khoản 2, Điều 17c quy định về Tài chính của cơ quan
báo chí trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí số
12/1999/QH10 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khoá X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/1999 có ghi rõ:
Cơ quan báo chí được tổ chức hoạt động kinh doanh, dịch vụ phù hợp
với chuyên môn, nghiệp vụ của mình theo quy định của Chính phủ và các quy
định khác của pháp luật để tạo thêm nguồn thu đầu tư trở lại cho việc phát
triển báo chí. Cơ quan báo chí phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với các hoạt
động kinh doanh, dịch vụ.
Cơ quan báo chí được hưởng các chế độ ưu đãi về thuế, ưu đãi về phí
đối với hoạt động xuất bản, phát hành báo chí theo quy định của pháp luật.
Hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công đang
được thực thi theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính
phủ (Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập) và
Thông tư số 71/2006/TT-BTC của Bộ Tài Chính ngày 09/08/2006 hướng dẫn
thực hiện nghị định số 43, gần đây là Thông tư số 150/2010/TT-BTC ngày

10
27/9/2010 (Hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với các cơ quan báo chí).
Ngay từ năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giao Bộ Tài chính
hướng dẫn các cơ quan chủ quản báo chí chỉ đạo các cơ quan báo chí thuộc
quyền bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện qui chế chỉ tiêu nội bộ. Từ đó, tạo điều
kiện phát huy hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính, thực hiện dân chủ, công khai,
minh bạch trong quản lý chi tiêu.
Cho đến thời điểm hiện nay, nhiều cơ quan báo chí đã hoàn toàn tự chủ
về mặt tài chính, tự đảm bảo được nguồn lực cho các hoạt động chuyên môn
cũng như phát triển quy mô của tờ báo.
Xét về khía cạnh tài chính, cơ quan báo chí tự trang trải về tài chính
cũng là một dạng doanh nghiệp và cũng phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp
theo quy định của Nhà nước. Cho đến trước ngày 1/1/2014, mức thuế áp dụng
với thu nhập từ hoạt động quảng cáo và từ các hoạt động kinh doanh hàng

hoá, dịch vụ khác của các cơ quan báo chí là 25%. Thu nhập từ hoạt động
quảng cáo không cho bù trừ chi phí với hoạt động phát hành. Mức thuế cao
như vậy không tạo điều kiện cho cơ quan báo chí được hoạt động tốt.
Chính vì vậy, Bộ Tài chính đã đề xuất phương án điều chỉnh chính sách
thuế đối với hoạt động báo chí trên nguyên tắc: Các báo được dùng thu nhập
từ hoạt động quảng cáo để bù đắp chênh lệch chi phí. Nếu khoản chi từ hoạt
động xuất bản, phát hành lớn hơn thu sẽ được bù bằng nguồn thu từ quảng
cáo.
Ngày 19/6/2013, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, thu nhập của cơ quan
báo chí từ hoạt động báo in, kể cả quảng cáo trên báo in theo quy định của
Luật Báo chí; thu nhập của cơ quan xuất bản từ hoạt động xuất bản theo quy
định của Luật Xuất bản được ưu đãi áp dụng thuế suất 10%.
Trong kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
giải thích: so với các loại hình khác, hoạt động của báo in còn gặp nhiều khó
khăn vì chi phí đầu vào ngày càng cao và phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ

11
chính trị, phục vụ vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Cho nên, trong bối cảnh hiện
nay, luật mới chỉ giữ phạm vi ưu đãi cho báo in.
1.2. Một số vấn đề lý luận về tác động của cơ chế tự chủ tài chính với nội
dung thông tin báo in
1.2.1. Chức năng của báo in trong nền kinh tế thị trường
Hệ thống báo chí của nước ta hiện nay bao gồm các loại hình: báo in,
báo phát thanh, báo hình, báo điện tử. Báo in giống như các loại hình báo chí
khác đều có những chức năng thông tin, chức năng tư tưởng, chức năng quản
lý, giám sát xã hội, chức năng phát triển văn hóa và giải trí, chức năng kinh tế.
Thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng cao và do đó, báo chí ra đời
và phát triển là để đáp ứng nhu cầu thông tin cho xã hội.

Là một phương tiện thông tin thời sự, báo chí thông tin, bình luận
nhanh chóng, kịp thời và liên tục những sự kiện, hiện tượng, những vấn đề
mới xảy ra hoặc những vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống. Bởi vậy, ngay từ
những buổi đầu, nhiều nước trên thế giới đã dùng từ ngữ có hàm nghĩa “mới”
để chỉ tin tức, báo chí (“news” trong tiếng Anh, “tân văn” trong tiếng
Nga…). Ngày nay báo chí đã phát triển thành nhiều loại hình nhưng đều có
chung chức năng nổi bật là chức năng thông tin.
Ngoài tính thời sự, nhanh chóng, kịp thời, thông tin trên báo chí còn
yêu cầu phải chính xác, trung thực, phong phú; thông tin phải phù hợp với hệ
thống giá trị văn hoá và đạo lý của dân tộc, thông tin phù hợp với sự phát
triển và phục vụ sự phát triển.
Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên suốt của báo chí. Với khả năng
tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào xã hội, hoạt động
báo chí nói chung có vai trò và ý nghĩa rất lớn trong công tác tư tưởng.
Nâng cao tính tự giác của quần chúng nhân dân và giáo dục chính trị tư
tưởng là những chức năng có tính mục đích hết sức quan trọng trong hoạt
động tư tưởng của báo chí.

12
Báo chí nước ta hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, nên mọi thông tin đều phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu thông tin của
công chúng, cũng như nhu cầu tuyên truyền lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng đồng thời giáo dục tư tưởng, lý tưởng xã
hội và con người.
Báo chí phải quan tâm tới việc thông tin một cách đầy đủ, sinh động
đời sống thực tiễn, phân tích các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng và
chỉ ra các biểu hiện, giá trị cụ thể của những mối quan hệ đó.
Hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng trên báo chí được thực hiện qua
thông tin sự kiện có tính thuyết phục như tập trung phản ánh những điển hình
trong xã hội, phê phán những cái tiêu cực một cách khách quan, trung thực,

thẳng thắn. Nhờ đó đem đến cho công chúng nhận thức đúng đắn, phù hợp
với đường lối của Đảng và Nhà nước.
Chức năng quản lý, giám sát xã hội:
“Quản lý xã hội là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý vào khách
thể quản lý nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của xã hội đạt hiệu quả và mục
đích đề ra.” [37,tr.83]
Báo chí nước ta đã thực hiện chức năng quản lý xã hội một cách có
hiệu quả, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa.
Chức năng này được thực hiện bằng việc cung cấp thông tin theo cả hai chiều
để đảm bảo mối liên hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
Với khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời trong phạm vi toàn xã
hội, báo chí là phương tiện tối ưu để truyền đến khách thể quản lý những
quyết định, chỉ thị, hướng dẫn, đảm bảo cho các chính sách, chủ trương, các
quyết định quản lý được nhận thức đúng đắn và đầy đủ trong quần chúng
nhân dân. Đồng thời hướng dẫn tư tưởng và hoạt động, uốn nắn những lệnh
lạc hay cổ vũ mọi người tập trung thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch. Mặt khác,
báo chí phản ánh diện mạo đời sống hiện thực một cách thời sự, nóng hổi, trở
thành yếu tố liên kết thông tin, vừa là động lực khơi dậy tiềm năng của chủ
thể quản lý và khách thể.

13
Chức năng quản lý của báo chí biểu hiện thông qua tác động vào dư
luận xã hội, tác động vào nhận thức của nhân dân. Cho nên, báo chí chỉ đạo
thông qua việc đăng tải chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước qua
việc thông tin, thông qua thuyết phục là chủ yếu.
Chức năng giám sát đựơc báo chí phương Tây tuyệt đối hoá thành
quyền lực thứ tư, sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng lại giám
sát cả ba quyền này. Đảng ta quan niệm rằng, báo chí là vũ khí sắc bén của
Đảng và Nhà nước, là công cụ lợi hại trong cuộc đấu tranh phò chính trừ tà, là
tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân.

Trong Nghị quyết Trung ương 6 (khoá VIII) lần 2, Đảng ta xác định
báo chí là một trong 4 hệ thống giám sát xã hội quan trọng. Đặc thù giám sát
của báo chí là giám sát bằng dư luận xã hội, bằng tai mắt của nhân dân. Đó là
sự giám sát mọi nơi, mọi lúc.
Chức năng phát triển văn hoá và giải trí:
Các sản phẩm báo chí góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, phổ
biến và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như giao lưu văn hoá
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhờ đề cập đến nhiều lĩnh vực tri
thức khác nhau, báo chí đã nâng cao trình độ hiểu biết, hình thành một nền
văn hóa toàn diện, lành mạnh, tiên tiến.
Cuộc sống càng hiện đại thì nhu cầu giải trí càng cao nhất là trong bối
cảnh kinh tế thị trường, công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nhờ vào khoa học kĩ
thuật – công nghệ ngày càng hiện đại, người dân có thể được đáp ứng nhu cầu
giải trí và cập nhật tri thức mọi lúc mọi nơi nhờ báo chí từ các chương trình ca
nhạc, phim truyện, các tác phẩm văn học - văn nghệ đến các tin tức, sự kiện
Cùng với những nội dung trên là việc đáp ứng các nhu cầu xã hội thông qua
quảng cáo, chỉ dẫn, dự báo thời tiết, thông báo giá cả thị trường… ngày càng
có ý nghĩa xã hội to lớn.
Chức năng kinh tế:
Báo chí ngày nay có chức năng đặc biệt là chức năng kinh tế và sản
phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa. Tức là, sản phẩm báo chí cũng có giá trị

14
và giá trị sử dụng, có giá thành, giá bán, cũng chịu sự chi phối của quy luật
cung cầu của thị trường… Thông tin do báo chí cung cấp là sản phẩm hàng
hóa đặc biệt bao gồm sản phẩm hàng hóa hữu hình (các tờ báo, tạp chí…) và
hàng hóa vô hình (dịch vụ quảng cáo…). Tính đặc biệt này thể hiện ở nhiều
khía cạnh, từ tổ chức sản xuất, sử dụng và tổ chức lao động cho đến định giá
bán, công chúng – khách hàng – thị trường, cách thức tiêu thụ, giá trị hàng
hóa và hiệu quả… thị trường của báo chí là thị trường dịch vụ thông tin. Giá

trị sử dụng của hàng hóa là đáp ứng các nhu cầu về thông tin của công chúng.
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại các vấn đề cơ bản: Sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Hoạt động kinh tế báo chí
truyền thông cũng phải giải quyết những vấn đề này mới thu được hiệu quả
kinh tế. Hai hoạt động quyết định cho nền kinh tế báo chí là cung cấp sản
phẩm hàng hóa báo chí truyền thông và dịch vụ quảng cáo trên các phương
tiện truyền thông. Xã hội càng phát triển thì yêu cầu thông tin báo chí càng
tăng lên, do đó nhu cầu về sản phẩm hàng hóa báo chí cũng tăng lên.
Hiện nay, vấn đề phát triển kinh tế báo chí đang là một vấn đề quan
trọng cần có nhận thức rõ ràng, đúng đắn từ cơ quan quản lý báo chí và các
nhà quản lý, lãnh đạo cơ quan báo chí. Thực hiện chức năng kinh tế báo chí
cần chú ý đến cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị - xã hội.
Tóm lại, các chức năng của báo chí quan hệ chặt chẽ, biện chứng với
nhau, bổ sung cho nhau. Thông tin là chức năng tiền đề, vì các chức năng
khác chỉ có thể được bảo đảm trên cơ sở làm tốt chức năng mang tính mục
đích này của hoạt động báo chí. Việc phân tích các chức năng của báo chí về
mặt lý luận là cơ sở để sử dụng có hiệu quả mối quan hệ thống nhất giữa
chúng trong hoạt động thực tiễn nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
1.2.2. Cơ chế tự chủ tài chính và các hoạt động kinh tế báo chí
Trong xu hướng phát triển của kinh tế thị trường và nhu cầu về thông
tin, tuyên truyền, quảng cáo của xã hội ngày càng đòi hỏi bức thiết thì các cơ
quan báo chí đồng thời với việc phải cạnh tranh để tăng số lượng phát hành,

15
chiếm thị phần cũng có nhiều điều kiện để tham gia kinh doanh, tăng nguồn
thu từ các hoạt động phát hành, quảng cáo, dịch vụ gia tăng khác… Nhờ đó
mà ngày càng nhiều cơ quan báo chí tự chủ về tài chính, chấm dứt bao cấp và
khoán ngân sách. Nói cách khác, để thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đòi hỏi
phải thực hiện các hoạt động kinh tế báo chí. Chính vì vậy đã dẫn đến sự hình

thành nền kinh tế báo chí. Điều đó là cần thiết và hợp quy luật trong điều kiện
Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
một nhanh hơn, rộng mở hơn.
Khái niệm kinh tế báo chí chủ yếu xuất hiện trên các phương tiện thông
tin đại chúng mà ít phổ biến trong các văn bản pháp lý.
“Kinh tế báo chí” là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, vận động theo các quy luật của kinh tế thị trường, theo đúng
pháp luật của Nhà nước. Trong luận văn này, “kinh tế báo chí” được hiểu là
tổng hợp các khoản thu – chi của cơ quan báo chí. Thông thường, các khoản
thu chủ yếu của cơ quan báo in bao gồm: thu từ phát hành ấn phẩm, từ quảng
cáo – truyền thông và các khoản thu ngoài mặt báo. Còn các khoản chi chủ
yếu của cơ quan báo in gồm: chi phí tiền lương, nhuận bút, chi phí in ấn phát
hành, chi phí văn phòng (trụ sở, điện, nước, thông tin liên lạc) và các chi phí
khác. Lợi nhuận của cơ quan báo chí là chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi
trong năm tài chính. Lợi nhuận này của cơ quan báo chí là phần lợi nhuận còn
lại sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ lâu, hoạt động kinh doanh,
dịch vụ của báo chí đã được luật pháp công nhận:
Các cơ quan báo chí được phép tổ chức các hoạt động kinh tế: Được tổ
chức hoạt động kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực in ấn, chế bản, phát hành
sách báo, quảng cáo, quay phim, nhiếp ảnh và kinh doanh các thiết bị, vật tư
liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ báo chí để tạo nguồn thu đầu tư trở lại
cho sự nghiệp phát triển báo chí. [11]
Cơ quan báo chí có nhu cầu mở rộng lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ ở
các lĩnh vực khác liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan báo chí

16
thì phải được sự đồng ý của cơ quan chủ quản và báo cáo cơ quan quản lý
Nhà nước về báo chí để biết. [11]
Trong cơ chế thị trường, sản phẩm của báo chí được coi là sản phẩm
hàng hóa đặc biệt. Tính “đặc biệt” được thể hiện ở chỗ sản phẩm báo chí là

kết tinh giá trị vô hình về thời gian, công sức, trí tuệ, không thể cân, đong, đo,
đếm như một hàng hóa bình thường được.[22, tr.367]. “Đặc biệt” còn ở chỗ
trong quá trình hoạt động, sản phẩm báo chí vừa hướng đến đáp ứng nhu cầu
xã hội mang lại lợi nhuận cho cơ quan báo chí trong khi vẫn phải đảm bảo
được định hướng tuyên truyền của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của quần
chúng nhân dân.
Hai chỗ dựa quyết định cho nền kinh tế báo chí là sản phẩm hàng hóa
báo chí truyền thông và dịch vụ quảng cáo trên các phương tiện truyền thông.
Xã hội càng phát triển thì yêu cầu thông tin báo chí càng tăng lên, do đó nhu
cầu về sản phẩm hàng hóa báo chí cũng tăng lên. Nền kinh tế tăng trưởng
nhanh dẫn đến nhu cầu ngày càng lớn về quảng cáo nhằm đưa hàng hóa, dịch
vụ đến người tiêu dùng.[46, tr.3]. Thị trường quảng cáo tại Việt Nam đang
tăng trưởng mạnh. Năm 2012, doanh thu quảng cáo trên các phương tiện
truyền thông ở nước ta đạt 20.400 tỷ đồng (tăng 2,2 lần so với năm 2008)
3
.
Hoạt động kinh tế báo chí ở Việt Nam cũng hết sức đa đạng. Những
hoạt động kinh tế chủ yếu mà các cơ quan báo in hiện nay thường tiến hành
đó là: Kinh doanh phát hành; Kinh doanh quảng cáo; Dịch vụ thông tin chỉ
dẫn, đào tạo, tư vấn; Các hoạt động kinh doanh ngoài mặt báo như thành lập
công ty, tổ chức sự kiện, cho thuê trụ sở, sản xuất kinh doanh các sản phẩm,
ấn phẩm truyền thông… Lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh này
là nguồn tài chính cho các khoản chi để đổi mới và hiện đại hóa công nghệ
làm báo, tăng sức cạnh tranh của tờ báo, nộp thuế cho Nhà nước…
Xét về cơ chế tài chính đối với hoạt động của cơ quan báo chí thì tại
Việt Nam hiện nay, hệ thống báo chí có thể phân loại thành 3 nhóm sau:

3
Theo Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế do Bộ Công thương thực hiện năm
2012


17
- Cơ chế sự nghiệp không có thu: Nhóm cơ quan báo chí có nguồn thu sự
nghiệp thấp, không có nguồn thu, được Nhà nước cấp ngân sách toàn bộ kinh
phí hoạt động thường xuyên. (Báo do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ
chi phí hoạt động)
- Cơ chế sự nghiệp có thu: Cơ quan báo chí có nguồn thu sự nghiệp tự
bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên, phần còn lại được ngân
sách nhà nước cấp (Báo tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động).
- Cơ chế tự chủ tài chính: Cơ quan báo chí có nguồn thu sự nghiệp tự bảo
đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, hoàn toàn tự chủ về mặt tài
chính, tự hạch toán, không sử dụng ngân sách nhà nước (Báo tự đảm bảo chi
phí hoạt động).
Nhiều cơ quan báo chí tham gia làm kinh tế, tự chủ về tài chính đã tổ chức
đa dạng các hoạt động kinh doanh nhằm tăng nguồn thu. Song báo chí phải
luôn xác định được rằng hoạt động kinh tế không phải mục đích chính, mà
bản chất của hoạt động báo chí là hoạt động chính trị, tư tưởng, tạo ra các tác
phẩm tinh thần để phục vụ nhu cầu tinh thần của xã hội. Do đó, báo chí cần
phải đáp ứng được mục đích tôn chỉ trong hoạt động của mình. Việc cơ quan
báo chí làm kinh tế chỉ là phương tiện để báo chí thực hiện tốt hơn mục đích
nhiệm vụ chính trị của mình.
Trong nền kinh tế thị trường và trong bối cảnh thương mại hóa toàn
cầu, báo chí cũng giống như nhiều lĩnh vực, nghề nghiệp khác có cơ hội mới
để phát triển. Khi lựa chọn hướng đi đổi mới để thích ứng với cơ chế thị
trường nhiều cơ quan báo chí thu những lợi ích không nhỏ từ quảng cáo và
thương mại. Biểu hiện rõ ràng nhất là nhiều cơ quan báo chí đã tự chủ về tài
chính, có nghĩa là không phải dựa vào ngân sách Nhà nước, tiền bán báo, tiền
đăng quảng cáo…dùng để bù đắp được các khoản chi, tái đầu tư cho sản xuất.
Khi xem báo chí là doanh nghiệp thì doanh nghiệp báo chí của chúng ta
hiện nay vẫn là doanh nghiệp nhà nước cho nên mục đích hướng tới của báo

chí không phải là lợi nhuận đơn thuần như ở các doanh nghiệp khác. Báo chí
cần giải quyết vấn đề hiệu quả lao động, hạch toán kinh tế khi thực hiện tự

18
chủ tài chính chứ không phải chỉ chạy theo lợi nhuận.
Sự phát triển kinh tế báo chí lành mạnh không nên đánh đồng với
“thương mại hóa báo chí” tiêu cực. Để làm rõ hơn vấn đề này, tác giả sẽ đi
sâu nghiên cứu lý luận về thương mại hóa báo chí ở phần sau.
Đối với các cơ quan báo chí tự hạch toán, tự chủ tài chính tức là tự
trang trải thu – chi hiện nay thì quảng cáo là nguồn thu chính, cơ bản và lâu
dài. Ở các nước phát triển, một cơ quan báo chí được coi là phát triển cân đối
thì nguồn thu từ quảng cáo chiếm khoảng 50% – 70% doanh thu. Bởi vậy việc
chú trọng tới nội dung để tăng độc giả và phát hành dẫn đến tăng khả năng thu
hút quảng cáo và dịch vụ trên báo chí cũng được chú trọng. Mức độ quảng
cáo thể hiện tốc độ phát triển của nền kinh tế, của sự cạnh tranh lành mạnh.
Đó mới là mặt tích cực của thương mại hóa.
Xét cho cùng, một trong những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của hoạt
động báo chí trong kinh tế thị trường là mâu thuẫn giữa lợi ích chính trị - văn
hóa – xã hội với lợi ích kinh tế. Có thể nói lợi ích kinh tế mang tính chất cục
bộ và trước mắt (…), còn lợi ích chính trị - văn hóa – xã hội là lợi ích toàn
cục và lâu dài. [15, tr.100]
1.2.3. Cơ chế tự chủ tài chính và tác động với nội dung thông tin báo
in
Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ quan báo chí trong đó
có báo in là hoàn toàn đúng đắn, hợp quy luật. Các cơ quan báo in thực hiện
tự chủ về tài chính không chỉ giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước
mà còn có điều kiện chủ động cho đầu tư phát triển cơ sở vật chất, phát triển
các hoạt động chuyên môn, tăng cường chất lượng cho nội dung thông tin.
Một trong những mục đích chính của cơ quan báo in khi thực hiện cơ chế tự
chủ tài chính là nhằm nâng cao chất lượng nội dung thông tin của tờ báo.

Trong điều kiện thực tế, quá trình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đã mang
lại những tác động nhiều chiều đối với nội dung thông tin của loại hình báo
chí này.
Do việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đòi hỏi các cơ quan báo in

×