Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Tổ chức và hoạt động kho mở tại Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội phục vụ đào tạo theo tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 125 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ HỒNG LÝ



TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA KHO MỞ TẠI TRUNG TÂM
THÔNG TIN THƢ VIỆN TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHỤC VỤ ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC THÔNG TIN THƢ VIỆN





Hà Nội - 2014
ii

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ HỒNG LÝ



TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA KHO MỞ TẠI TRUNG TÂM
THÔNG TIN THƢ VIỆN TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHỤC VỤ ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ
Chuyên ngành : Khoa học Thông tin - Thư viện
Mã số : 60 32 02 03




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC THÔNG TIN THƢ VIỆN


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HUY CHƢƠNG


Hà Nội - 2014
iii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Huy Chương -
Người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và thực
hiện đề tài.
Tôi xin được tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến các giảng viên và cán bộ khoa
Sau đại học Trường Đại học KHXH & NV đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể cán bộ Trung tâm Thông tin Thư viện -
Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong
gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã luôn khuyến khích động viên tôi trong suốt
thới gian qua để tôi hoàn thành được luận văn này.
Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được
sự đóng góp chân thành của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả


Lê Thị Hồng Lý
1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 6
CHƢƠNG 1: KHO MỞ VỚI CÔNG TÁC PHỤC VỤ ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ
TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN THƢ VIỆN ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI 12
1.1. Lý luận chung về kho mở 12
1.1.1. Khái niệm kho mở 12
1.1.2. Phƣơng pháp sắp xếp tài liệu trong kho mở 14
1.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc tổ chức và hoạt động kho mở 16
1.1.4. Ý nghĩa của kho mở trong hoạt động thông tin thƣ viện 18
1.2. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội với phƣơng thức đào tạo theo tín chỉ 20
1.2.1. Khái quát về sự ra đời và phát triển của Trƣờng 20
1.2.2. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ của Trƣờng 20
1.2.3. Chức năng và nhiệm vụ của Trƣờng 22

1.2.4. Yêu cầu của đào tạo theo tín chỉ đối với Trƣờng 23
1.3. Trung tâm Thông tin Thƣ viện trƣớc nhiệm vụ đào tạo theo tín chỉ của Trƣờng 26
1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm 26
1.3.2. Cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ của Trung tâm 28
1.3.3. Cơ sở vật chất của Trung tâm 30
1.3.4. Vốn tài liệu của Trung tâm 31
1.3.4.1. Đặc điểm vốn tài liệu 31
1.3.4.2. Phát triển vốn tài liệu phục vụ đào tạo theo tín chỉ của Trung tâm 34
1.4. Đặc điểm nhu cầu tin của ngƣời dùng tin dƣới tác động của việc đào tạo theo tín
chỉ 36
1.5. Vai trò của kho mở trong việc đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ của Trường 41
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG KHO MỞ
TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN THƢ VIỆN ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI 44
2.1. Công tác tổ chức kho mở tại Trung tâm 44
2.1.1. Cơ cấu tổ chức kho mở 44
2.1.2. Công tác định ký hiệu xếp giá cho tài liệu 45
2.1.2.1. Ký hiệu phân loại 46
2.1.2.2. Mã hóa tên tác giả/tên sách. Năm xuất bản 50
2

2.1.3. Phƣơng pháp sắp xếp tài liệu trên giá 51
2.1.4. Nhân lực phục vụ tại kho mở 55
2.1.5. Cơ sở vật chất cho kho mở 56
2.1.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức kho mở 58
2.1.6.1. Ứng dụng trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu 59
2.1.6.2. Ứng dụng trong tra cứu tài liệu (OPAC) 61
2.1.6.3. Ứng dụng trong quy trình lƣu thông (mƣợn/trả tài liệu) 62
2.1.6.4. Ứng dụng trong quy trình quản lí NDT 62
2.2. Thực trạng hoạt động kho mở tại Trung tâm 64
2.2.1. Công tác phục vụ ngƣời dùng tin 64

2.2.1.1. Thời gian phục vụ 64
2.2.1.2. Quy trình phục vụ 65
2.2.2. Công tác đào tạo ngƣời dùng tin tại kho mở 69
2.2.3. Công tác bảo quản tài liệu 72
2.3. Nhận xét chung về công tác tổ chức và hoạt động kho mở 73
2.3.1. Ƣu điểm 73
2.3.2. Nhƣợc điểm 77
2.3.3. Nguyên nhân 80
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG KHO MỞ TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN THƢ VIỆN ĐẠI HỌC
LUẬT HÀ NỘI 81
3.1. Nâng cao chất lƣợng kho sách của Trung tâm 81
3.1.1. Bổ sung đầy đủ tài liệu theo nhu cầu bạn đọc 81
3.1.2. Thanh lọc, thanh lý tài liệu lạc hậu, thay thế tài liệu rách nát. 81
3.1.3. Chú trọng tu bổ, bảo quản tài liệu hƣ hỏng nhẹ. 82
3.2. Cải tiến quy trình định ký hiệu và tổ chức sắp xếp kho 83
3.2.1. Hoàn thiện công cụ định ký hiệu xếp giá 83
3.2.2. Điều chỉnh việc xếp tài liệu trên giá 85
3.3. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin 85
3.3.1. Mở rộng diện tích kho 85
3.3.2. Ứng dụng công nghệ hiện đại 86
3.3.2.1. Trong quản lý, mƣợn trả tài liệu 86
3.3.2.2. Trong bảo quản tài liệu 88
3

3.3.3. Trang bị thiết bị an ninh thƣ viện 90
3.3.4. Bổ sung tủ gửi đồ 91
3.4. Nâng cao trình độ và tăng cƣờng cán bộ thƣ viện, đào tạo ngƣời dùng tin 91
3.4.1. Nâng cao trình độ và tăng cƣờng cán bộ phục vụ tại kho mở 91
3.4.1.1. Nâng cao trình độ cán bộ thƣ viện 91

3.4.1.2. Tăng cƣờng cán bộ bảo quản tài liệu 93
3.4.2. Chú trọng đào tạo ngƣời dùng tin 94
3.4.2.1. Đào tạo kiến thức thông tin 94
3.4.2.2. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của ngƣời dùng tin khi sử dụng tài liệu 95
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98















4

DANH MỤC BẢNG BIỂU

SƠ ĐỒ
NỘI DUNG
TRANG
1.1
Cơ cấu tổ chức Trường Đại học Luật Hà Nội

21
1.2
Cơ cấu tổ chức Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học
Luật Hà Nội
28
BIỂU ĐỒ
1.1
Mức độ đáp ứng nhu cầu tài liệu đối với bạn đọc tại
Trung tâm
35
1.2
Mức độ thường xuyên tới Trung tâm của NDT
38
1.3
Tỉ lệ phần trăm số người dùng tin trả lời phiếu điều tra
41
BẢNG BIỂU
1.1
Đội ngũ cán bộ, viên chức của Trung tâm
30
1.2
Các CSDL tính đến tháng 12/2012
34
1.3
Mức độ thường xuyên đến Trung tâm của bạn đọc
40
1.4
Số lượng NDT trả lời phiếu điều tra
41
2.1

Chủ đề tài liệu Luật Tài chính
53
2.2
Chỉ dẫn xếp giá môn Lý luận chung
54
2.3
Đánh giá của bạn đọc về cách thức tổ chức kho tài liệu
55
2.4
Trang thiết bị nội thất kho mở
56
2.5
Số lượng NDT hiện tại tính đến tháng 12/2012
63
2.6
Đánh giá của bạn đọc về chất lượng vốn tài liệu của
Trung tâm
75
2.7
Đánh giá của bạn đọc về mức độ đáp ứng nhu cầu tài
liệu của Trung tâm
75
2.8
Đánh giá của bạn đọc về diện tích phục vụ của Trung
tâm
77
2.9
Đánh giá cuả NDT về hệ thống mạng, đường truyền tại
Trung tâm
78

HÌNH
2.1
Ký hiệu xếp giá của tài liệu
45
2.2
Nhãn màu Tài liệu Luật Lao động
53
2.3
Tạo dữ liệu xếp giá bằng sinh số ĐKCB tự động
60

5

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

1. Các chữ cái viết tắt tiếng Việt
Chữ đầy đủ
CBTV
Cán bộ thư viện
CSDL
Cơ sở dữ liệu
CNTT
Công nghệ thông tin
ĐHLHN
Đại học Luật Hà Nội
ĐKCB
Đăng ký cá biệt
KHPL
Ký hiệu phân loại
KHTG

Ký hiệu tác giả
NCT
Nhu cầu tin
NDT
Người dùng tin
TTTT-TV
Trung tâm Thông tin Thư viện
TT – TV
Thông tin – Thư viện
2. Các chữ cái viết tắt tiếng Anh
AACR2
Anglo – American Cataloguing Rules 2
nd
(Quy tắc biên mục Anh Mỹ ấn phẩm lần thứ 2)
BBK
Bibliotechno Bibliograficheskaja Klassifikacija
(Bảng phân loại thư viện – thư mục Xô Viết)
DDC
Dewey Decimal Classification
(Bảng phân loại thập phận Dewey)
OPAC
Online Public Access Catalogs
(Mục lục truy cập công cộng trực tuyến)
LIBOL
Library Online
(Phần mềm quản trị thư viện tích hợp)



6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành quả của cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đưa nhân loại dần tiến
đến xã hội thông tin và mục tiêu xa hơn nữa là xã hội tri thức. Xã hội thông tin là
nền tảng của xã hội tri thức, là phương tiện để xây dựng xã hội tri thức, là chìa khóa
để tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn. Trong xã hội đó, thông tin trở thành nguồn tài
nguyên chủ yếu đem lại sức mạnh, tạo thế cạnh tranh giữa các quốc gia. Một xã hội
thông tin đã hình thành và nó đòi hỏi con người cần thay đổi cách thức tiếp cận và
làm chủ tri thức để có thể đáp ứng được những yêu cầu của công việc cũng như của
xã hội.
Bên cạnh đó, hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang từng bước đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện được chủ trương trên thì con người chính
là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công. Trong sự phấn đấu chung đó thì
sự nghiệp giáo dục đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học giữ một vai trò quan trọng
trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Đảng ta đã xác định
cần phải đổi mới hệ thống giáo dục, mục đích là nhằm nâng cao hơn nữa khả năng
học tập suốt đời cho mọi công dân; đào tạo ra lực lượng lao động có khả năng tiếp
cận và giải quyết công việc một cách chủ động, sáng tạo và linh hoạt. Chính vì vậy,
Đảng đã xác định “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Trường Đại học Luật Hà Nội là trường đại học công lập thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tổ chức đào tạo trung
cấp, đại học và sau đại học các chuyên ngành luật học, nghiên cứu khoa học, truyền
bá pháp lí và tư vấn pháp luật lớn nhất của cả nước. Năm 2008, thực hiện đề án đổi
mới giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường đã chuyển đổi phương
thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ ở tất cả các chuyên ngành, hệ đào tạo
đại học và sau đại học với mục đích “lấy người học làm trung tâm” nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học của giảng viên, sinh viên trong trường. Để trường Đại học
Luật Hà Nội đạt được mục tiêu trong đào tạo và có thể tạo ra được những sản phẩm

có chất lượng, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao thì điều quan trọng nhất đối
với cán bộ, giáo viên và sinh viên trong toàn trường là phải nắm bắt được thông tin,
tài liệu phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập một cách nhanh
chóng, kịp thời, chính xác và đầy đủ.
7

Một bộ phận giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu,
giảng dạy và học tập của cán bộ, giáo viên và sinh viên trong trường là Trung tâm
Thông tin Thư viện. Trong những năm vừa qua, Trung tâm đã được đầu tư khá đầy
đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như nguồn lực thông tin nhằm phục vụ tốt
cho công tác đào tạo theo tín chỉ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, Trung tâm đã
từng bước nghiên cứu và đổi mới rất nhiều hoạt động, trong đó hoạt động được
quan tâm nhất là công tác tổ chức phục vụ bạn đọc, bởi đây là nhiệm vụ là hàng đầu
của mỗi cơ quan thông tin thư viện. Nhằm đáp ứng tốt nhiệm vụ đào tạo theo tín
chỉ, ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ trong Trung tâm đã từng bước nghiên
cứu, đổi mới phương thức phục vụ từ kho đóng sang kho mở (kho tự chọn), nhờ đó
hiệu quả phục vụ của Trung tâm được tăng lên đáng kể, bạn đọc chủ động trong
việc lựa chọn tài liệu phù hợp với nhu cầu của mình, do đó, nhu cầu tin được đáp
ứng một cách nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên trong quá trình làm việc, tôi
nhận thấy việc tổ chức kho mở của Trung tâm cũng còn nhiều bất cập, chưa thực sự
khoa học và đôi khi chưa thân thiện với người dùng tin. Mặt khác, trong quá trình
hoạt động, Trung tâm vẫn còn gặp phải một số khó khăn như: thiếu thiết bị giám sát
dành cho kho mở, đội ngũ cán bộ chưa chuyên nghiệp, chưa thống nhất trong xử lý
nghiệp vụ, vốn tài liệu chưa thật sự đầy đủ Điều đó đã làm giảm hiệu quả hoạt
động cũng như chất lượng phục vụ của thư viện. Là cán bộ đang làm việc tại phòng
phục vụ của Trung tâm, nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới công tác
phục vụ nhằm đáp ứng phương thức đào tạo theo tín chỉ của trường, tôi quyết định
chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động kho mở tại Trung tâm Thông tin Thư viện
Trường Đại học Luật Hà Nội phục vụ đào tạo theo tín chỉ” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ Khoa học Thư viện của mình.

2.Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nhiều cơ quan thông tin thư viện đã tổ chức các
buổi hội nghị, hội thảo bàn về vấn đề tổ chức và phục vụ kho mở. Hiện đã có một số
chuyên gia cũng như cán bộ thư viện nghiên cứu về vấn đề này trên các khía cạnh
như: vấn đề ký hiệu xếp giá, áp dụng bảng phân loại, cách thức tổ chức kho đăng
trên các báo tạp chí của ngành hay tài liệu hướng dẫn như:
+ Vũ Văn Sơn, “Áp dụng ký hiệu tác giả cho sách trong kho mở ở Việt
Nam”, Tạp chí Thông tin & Tư liệu, (Số 2), 2001 tr. 15-21
8

+ Nguyễn Thị Hòa, “Vấn đề ký hiệu xếp giá cho kho sách trong kho mở”/
Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động thông tin – thư viện H., 2002.
+ Trương Thị Kim Thanh, “Kho tài liệu tự chọn: Phương pháp xây dựng và tổ
chức phục vụ - một vài kinh nghiệm ở Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Quốc
gia Hà Nội”/ Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động thông tin thư viện H., 2002.
+ Lê Việt Phương, “Một vài suy nghĩ trong việc xây dựng kho tài liệu tự
chọn và triển vọng kho tài liệu tự chọn”/ Hội thảo khoa học và thực tiễn hoạt động
thông tin thư viện H., 2002.
+ Nguyễn Thị Đào, “Vấn đề tổ chức kho mở trong các thư viện hiện nay”,
Tạp chí Thông tin Tư liệu, (Số 3), 2008 tr.23-27.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều bài viết về vấn đề tổ chức kho mở được đăng
trên các website như:
+ Trần Thị Thu Thủy (2010), Tổ chức kho mở: Những khó khăn và tồn tại
trong quản lý, , truy cập ngày 6/12/2012
+ Dương Thúy Hương (2008), Kinh nghiệm tổ chức và quản lý kho tại một
số Thư viện thành viên CLB Thư viện, , truy cập ngày 6/12/2012.
Ngoài ra, cũng có một số luận văn đã nghiên cứu về đề tài kho mở như:
+ Cung Thị Bích Hà (2009), “Tăng cường công tác tổ chức và hoạt động kho
mở của thư viện Tạ Quang Bửu trường Đại học Bách Khoa Hà Nội”, Đại học Văn
hoá Hà Nội

+ Trần Thị Hải (2011), Tổ chức và hoạt động kho mở phục vụ đào tạo theo
tín chỉ tại Thư viện trường Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội.
+ Đinh Thị Thu Huyền (2011), Nghiên cứu mô hình tổ chức kho mở tại thư
viện các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội, Đại học Văn hoá Hà Nội.
+ Phạm Thị Quỳnh Lan (2007), Nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động kho
mở tại các thư viện tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Đại học Văn hóa Hà Nội.
+ Phạm Thiên Thu (2011), Tổ chức và hoạt động kho mở tại Trung tâm
Thông tin Thư viện Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội, Đại học Văn hóa Hà Nội.
Tại Trung tâm Thông tin thư viện Đại học Luật Hà Nội có một số công trình
nghiên cứu của các tác giả đề cập đến vấn đề tổ chức và quản lí thư viện:
+ Đàm Viết Lâm (1996), Hoàn thiện công tác thư viện trường Đại học Luật
Hà Nội, Đại học Văn hoá Hà Nội
9

+ Lê Thị Hạnh (2005), Hoạt động tổ chức, quản lý thư viện trường Đại học
Luật Hà Nội, Đại học Văn hoá Hà Nội
+ Phạm Thị Mai (2009), Nghiên cứu phát triển thư viện điện tử trong các
trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Hà Nội.
+ Lê Thị Tuyết Mai (2012), Ứng dụng CNTT trong hoạt động thông tin
thư viện tại Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội, Đại học Văn
hoá Hà Nội
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài “ Tổ chức và hoạt
động kho mở tại Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội phục
vụ đào tạo theo tín chỉ”. Đây là đề tài hoàn toàn mới, không trùng lặp với đề tài
nào trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở khảo sát thực trạng tổ chức và hoạt động của kho mở tại Trung

tâm Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội, đánh giá những ưu điểm, những hạn
chế còn tồn tại. Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của thư
viện nhằm phục vụ người dùng tin một cách hiệu quả nhất.
3.2 Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về kho mở; nghiên cứu về phương thức đào tạo
theo tín chỉ; nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ, cơ
cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin của Trung tâm;
vai trò của kho mở trong việc đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ của Trường.
- Phân tích thực trạng công tác tổ chức và hoạt động kho mở tại Trung tâm
Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kho mở tại Trung tâm
Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội
4. Giả thiết nghiên cứu
Hiện nay, công tác phục vụ theo hình thức kho mở tại Trung tâm Thông tin
Thư viện Đại học Luật Hà Nội cũng như các cơ quan thông tin thư viện khác còn
nhiều bất cập như: cách thức tổ chức sắp xếp kho, thiếu các trang thiết bị, cơ sở vật
chất hiện đại dành cho kho mở, phong cách phục vụ của cán bộ thư viện chưa
10

chuyên nghiệp Do đó, chất lượng công tác tổ chức và hiệu quả hoạt động của thư
viện chưa cao. Nếu những vấn đề trên được chú trọng giải quyết thì hiệu quả hoạt
động của thư viện sẽ được nâng cao.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Tổ chức và hoạt động kho mở tại Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học
Luật Hà Nội.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Kho mở của Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà
Nội.
Thời gian: Từ năm 2007 đến nay.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1 Cơ sở lý luận phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của luận văn, tác giả vận
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên cơ sở các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục đào tạo để nghiên cứu tầm quan trọng của
công tác phục vụ bạn đọc trong hoạt động thông tin thư viện nhằm đáp ứng một
cách tốt nhất phương thức đào tạo theo tín chỉ của các trường đại học.
6.2 Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế và bảng hỏi
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp
Phương pháp so sánh, thống kê
7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
7.1 Về mặt lý luận
Luận văn góp phần hoàn thiện và phát triển lý luận về công tác tổ chức kho
tài liệu nói chung và kho mở nói riêng trong hoạt động thông tin thư viện.
11

7.2 Về mặt thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng công tác tổ chức và hoạt động của kho
mở, đưa ra những giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của kho mở tại Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội.
8. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Định lƣợng: Dự kiến kết quả nghiên cứu và bố cục của luận văn có độ dày
khoảng 100 trang trên khổ giấy A4
Định tính: Luận văn sẽ tiến hành hệ thống hóa lý luận về kho mở. Nghiên
cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề tổ chức và hoạt động kho mở. Nhận dạng được thực
trạng tổ chức và hoạt động kho mở tại Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Luật
Hà Nội. Đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu trong việc tổ chức và hoạt động kho

mở tại Trung tâm. Đề xuất bốn giải pháp về nâng cao chất lượng kho sách thư viện;
cải tiến quy trình định ký hiệu và tổ chức sắp xếp kho; tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, ứng dụng công nghệ thông tin và tăng cường đào tạo lại cán bộ thư viện, đào
tạo người dùng tin nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ người dùng tin tại kho mở của
Trung tâm
9. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Kho mở với công tác phục vụ đào tạo theo tín chỉ tại Trung tâm
Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức và hoạt động kho mở tại Trung tâm
Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động kho mở tại Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội







12

Chương 1: KHO MỞ VỚI CÔNG TÁC PHỤC VỤ ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ
TẠI TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
1.1 Lý luận chung về kho mở
1.1.1 Khái niệm kho mở
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, sự bùng nổ
của cách mạng thông tin, các cơ quan thông tin thư viện đã và đang từng bước đổi
mới hoạt động của mình để có thể đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của bạn

đọc. Có thể nói, phục vụ bạn đọc là một chức năng chính và là nhiệm vụ hàng đầu
của mỗi cơ quan thông tin - thư viện (TT – TV). Do đó, hiệu quả phục vụ cũng
chính là thước đo để đánh giá khả năng hoạt động và sự phát triển của mỗi thư viện,
cơ quan thông tin. Làm thế nào để nâng cao chất lượng phục vụ và đáp ứng một
cách tốt nhất các yêu cầu của bạn đọc luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với
các cơ quan TT - TV. Vì thế, các cơ quan TT - TV đã không ngừng tìm tòi và đổi
mới trong công tác phục vụ của mình, từng bước nghiên cứu và đổi mới phương
thức phục vụ từ kho đóng sang kho mở (kho tự chọn), nhờ đó hiệu quả phục vụ
từng bước tăng lên đáng kể.
Kho mở được tổ chức đầu tiên tại Mỹ vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, sau đó lan truyền sang Châu Âu và thế giới. Ngay từ những năm 70,
khái niệm Kho mở đã được các nhà Thư viện học của Thư viện Quốc gia Liên Xô
mang tên V.I Lê nin định nghĩa như sau: Kho mở là phương thức phục vụ cho phép
bạn đọc tiếp cận kho tàng sách báo của thư viện, tạo điều kiện cho họ xem và chọn
sách trực tiếp trên giá. Đồng thời hình thức đó tạo điều kiện thuận lợi cho thư viện
tuyên truyền tích cực, giúp thông báo một cách thiết thực và có hệ thống cho các
nhà chuyên môn về thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật các kinh nghiệm
sản xuất tiên tiến [12]
Theo “Từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học Anh – Việt” do dịch giả
Phạm Thị Lệ Hương, Lâm Vĩnh Thế và Nguyễn Thị Nga biên dịch từ cuốn “The
ALA Glossary of Library and Information Science” năm 1996 đã giải nghĩa từ: Kho
sách mở (Open stack) là chỉ bất cứ kệ sách nào của thƣ viện mà độc giả không
bị giới hạn khi sử dụng tài liệu để trên kệ sách [15]
Có thể nói, Kho mở (Kho tự chọn) ngày nay không còn xa lạ với bạn đọc của
thư viện. Khi bạn vào bất cứ một hiệu sách hay một siêu thị, thay vì phải thông qua
nhân viên bán hàng để lấy những hàng hóa mình có nhu cầu, bạn có thể đến từng
13

khu vực hàng hóa, tự chọn cho mình những hàng hóa mình cần. Điều đó sẽ giúp cho
bạn rút ngắn được thời gian lựa chọn hàng hóa và có cảm giác thích thú khi tự tay

lựa chọn những món đồ bạn thích. Kho mở trong thư viện là kho độc giả trực tiếp
vào kho lựa chọn tài liệu mà họ cần, không phải tra cứu qua mục lục. Đây là hình
thức độc giả rất hứng thú. Bạn đọc đến nhiều hơn vì dễ thỏa mãn, không phải tra
tìm, không phải viết phiếu và điều quan trọng hơn cả là không phải chờ đợi mất thời
gian. Bạn đọc sẽ thật thoải mái và đầy hứng thú khi được tiếp xúc trực tiếp với kho
tàng tri thức của nhân loại và tự thỏa mãn nhu cầu đọc của mình. Nói cách khác,
“Kho mở thực tế có thể coi như một mục lục phân loại khổng lồ trong đó mỗi cuốn
sách là một “tở phiếu mục lục” sinh động mà qua đó người đọc có thể xem lướt nội
dung của một số tài liệu có cùng nội dung, xếp cạnh nhau, để lựa chọn được tài liệu
thích hợp nhất, mà những thông tin thư mục trên tờ phiếu bình thường không giúp
họ xác định, đánh giá rõ nội dung như vậy”[25]
“Kho mở là kho tài liệu, nơi độc giả tự do chọn lựa và sử dụng những cuốn
sách, những tài liệu mà học cần. Họ tự phục vụ bản thân ở mọi khâu: chọn sách,
báo… tha hồ đọc lướt các tên sách có cùng chủ đề được sắp xếp gần nhau, tự do lấy
tài liệu xuống, rồi lại xếp lên giá, nếu thấy nội dung đó không phù hợp với nhu cầu,
công bằng mà nói, độc giả có cảm giác thư viện là nhà, sách được sẵn sàng trên giá
để phục vụ họ”[13]
Trong những năm gần đây, ngành thông tin thư viện trên thế giới và Việt nam
đã có những bước tiến vượt bậc và thay đổi hầu như hoàn toàn về phương thức phục
vụ, tất cả đều có chung quan điểm “mở”, thể hiện của nó là thư viện với hình thức
kho mở
Ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây mới tổ chức kho mở. Từ cuối năm
1998, khi Câu lạc bộ thư viện Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, phong trào cải tạo thư viện tại các thư
viện thành viên đã đẩy lên mạnh mẽ, hầu hết các thư viện đã tiến hành tổ chức quản
lý và phục vụ theo hình thức kho mở. Tuy nhiên, mở đến mức độ nào lại tùy thuộc
vào điều kiện hay đặc điểm của thư viện. Hiện nay, kho mở được tổ chức ở nhiều
loại hình thư viện khác nhau: Thư viện công cộng, thư viện chuyên ngành, đa
ngành: Thư viện Quốc gia Việt Nam, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ,
Trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên…

Như vậy, qua các khái niệm trên, ta có thể hiểu một cách đơn giản: Kho mở là
phương thức tổ chức phục vụ mà ở đó bạn đọc trực tiếp vào kho lấy những tài liệu
14

họ cần, tạo điều kiện, cho phép họ xem trước và chọn tài liệu trực tiếp trên giá. Hình
thức tổ chức phục vụ bằng kho mở trong ngành TT – TV đã và đang tạo ra một xu
thế chung trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam một bước đi vững chắc về
phương thức phục vụ mới.
1.1.2. Phƣơng pháp sắp xếp tài liệu trong kho mở
Trong bất cứ một kho tài liệu nào, cơ sở thích hợp nhất để tổ chức kho tài liệu
phụ thuộc vào nhu cầu, mục đích tổ chức vốn tài liệu. Mỗi cách sắp xếp lại có
những ưu nhược điểm riêng. Tuy nhiên, việc sắp xếp tài liệu theo chủ đề chiếm ưu
thế hơn cả.
Từ cuối thế kỷ 19, phân loại đã có chức năng của một phương tiện xếp giá
trong phần lớn các thư viện. Nhiều bảng phân loại đã được phát triển nhằm mục
đích này. Mục đích đầu tiên của việc biên soạn các bảng phân loại là sắp xếp tài liệu
một cách tối ưu trên giá với nguyên tắc là dung hòa được những yêu cầu logic trong
mối liên kết các cuốn tài liệu về mặt nội dung trí tuệ với những yêu cầu kiểm soát
về thứ tự tài liệu tạo điều kiện tìm kiếm được thuận tiện và dễ dàng.
Việc sắp xếp tài liệu trên giá theo trật tự bảng phân loại tạo điều kiện xác định
vị trí của từng tài liệu và quản lý kho một cách dễ dàng. Dựa trên việc sắp xếp tài
liệu theo trật tự của các lớp phân loại, người ta có thể tổ chức thư viện chuyên
ngành hoặc tổ chức thành các phòng đọc chuyên ngành. Tổ chức kho mở theo một
bảng phân loại về cơ bản cũng theo đúng những nguyên tắc của việc tổ chức mục
lục phân loại. Trước hết phải phân loại tài liệu, sau đó căn cứ vào ký hiệu hay chỉ số
phân loại mà tập hợp sắp tài liệu trên giá (thay vì phiếu mô tả trong mục lục phân
loại) theo từng bộ môn khoa học hay ngành hoạt động thực tiễn có liên quan tới nội
dung tài liệu. Đầu các giá kệ gắn các nhãn tiêu đề cho từng nhóm tài liệu thuộc về
mục lục phân loại, ngoài ra còn có những tiêu đề con phản ánh từng mục nhỏ cụ thể
được dán lên từng ngăn giá kệ.

Việc sử dụng các cấp phân loại, các phân loại tổng quát hay chi tiết để nhóm
hợp tài liệu tùy thuộc vào số lượng tài liệu có trong kho và trong từng mục nói
riêng. Đối với các thư viện chuyên ngành, người ta thường sử dụng các cấp phân
loại rất chi tiết của đề mục tương ứng trong một Bảng phân loại chuyên ngành
Nếu số lượng tài liệu trong một mục quá lớn thì cần chia chi tiết hơn nữa,
nghĩa là chi tiết hóa các mục bằng cách sử dụng các cấp phân loại sâu hơn. Nếu số
lượng tài liệu trong cùng một mục quá ít thì có thể hợp nhất một mục bằng cách sử
dụng cấp phân loại rộng hơn. Nói chung, trong kho mở, số lượng các tiêu đề được
15

sử dụng ít hơn so với phiếu tiêu đề trong mục lục phân loại. Người ta cũng ít sử
dụng các trợ ký hiệu (trừ ký hiệu ngôn ngữ nếu sắp xếp tài liệu trong kho theo ngôn
ngữ) do ký hiệu xếp giá sẽ dài, khó ghi vào nhãn tài liệu
Trong kho mở, khi tài liệu được sắp xếp theo môn loại, dựa theo nội dung chủ
đề, mọi cuốn tài liệu không còn phân biệt khổ cỡ, tài liệu cùng chủ đề lại được sắp
xếp dựa trên ký hiệu xếp giá, được tạo ra bằng cách sử dụng ký hiệu phân loại
(KHPL) (rút ra từ Bảng phân loại mà thư viện sử dụng) kết hợp với ký hiệu tác giả
hoặc ký hiệu tên sách (số Cutter)
 Ký hiệu phân loại
Ký hiệu phân loại là dạng ngôn ngữ tư liệu được các nhà thư viện học, thư
mục học quy ước để biểu đạt cho các khái niệm, các vấn đề. KHPL được sử dụng để
đánh chỉ số cho các tài liệu theo môn ngành tri thức. Ký hiệu phân loại được xem
như một công cụ để xếp tài liệu lên giá trong kho mở. Việc phân loại tài liệu nhằm
hai mục tiêu là: giúp bạn đọc nhận dạng và xác định vị trí của cuốn sách thông qua
ký hiệu xếp giá; và nhóm tất cả các tài liệu có cùng một nội dung vào một chỗ. Ký
hiệu phân loại trong nhãn xếp giá chi tiết, cụ thể đến mức độ nào còn tùy thuộc vào
khối lượng tài liệu có trong kho nói chung và trong từng đề mục, chuyên ngành
khoa học nói riêng. Thực tế, tổ chức kho ở trong và ngoài nước cho thấy bất cứ một
bảng phân loại nào cũng đều có thể sử dụng để sắp xếp tài liệu trên giá. Các Bảng
phân loại thập phận Dewey (DDC), hay Bảng phân loại thư viện – thư mục Xô Viết

(BBK), Bảng phân loại 19 lớp là những bảng phân loại được dùng phổ biến trong
công tác tổ chức kho mở ở nước ta.
 Ký hiệu tác giả
Theo định nghĩa trong đại từ điển của nhà xuất bản Random (Random House
Uniagridge Dictionary) xuất bản năm 1993: Số Cutter là một mã hóa kết hợp các
chữ số thập phân với các chữ cái lấy từ họ tác giả được sử dụng trong một hệ thống
sắp xếp theo chữ cái. Nói cách khác, số Cutter chính là hình thức biểu thị họ tên tác
giả một cách ngắn gọn với mục đích sắp xếp tài liệu theo bảng phân loại. Các ký
hiệu tác giả này do nhà thư viện học lỗi lạc người Mỹ là Charles Ammi Cutter biên
soạn vào cuối thế kỷ XIX nhằm sắp xếp sách trong kho thư viện theo tác giả.
Hiện nay, ký hiệu tác giả (KHTG) được các thư viện xác lâp theo nhiều cách
thức khác nhau. Cơ sở để xác định KHTG thì có thư viện dùng bảng chỉ số Cutter –
Sanborn 2, 3 chữ số, có thư viện tạo chỉ số tác giả theo chữ cái đầu tiên của tiêu đề
mô tả
16

1.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc tổ chức và hoạt động kho mở
Có thể nói, trong điều kiện đào tạo tín chỉ như hiện nay, kho mở là cách thức
phục vụ phù hợp và đem lại hiệu quả cao nhất cho mỗi thư viện. Hầu hết các thư
viện trên thế giới đều phục vụ bằng hình thức kho mở, tuy nhiên mở với mức độ
nào là còn tùy thuộc vào điều kiện hay hoàn cảnh đặc thù của từng thư viện ở mỗi
quốc gia khác nhau. Tạm thời có thể chia làm ba hình thức như sau:
- Mở và cho phép độc giả mang cả cặp sách vào kho sách một cách tự nhiên,
không có bất cứ một qui định nào gây trở ngại cho độc giả. Biện pháp để tránh hao
hụt tài liệu là thư viện được trang bị hệ thống máy móc bảo vệ như hầu hết các thư
viện Anh - Mỹ
- Mở nhưng độc giả phải gửi túi xách và chỉ vào kho sách với tay không nhằm
giảm thiểu sự thất thoát tài liệu. Hình thức này được áp dụng ở các nước Đông Nam
Á như Malaysia, Indonesia, Thailand,…
- Mở có hạn chế, độc giả tự chọn tài liệu nhưng muốn mang ra ngoài kho sách

thì phải làm một số thủ tục nhất định tức là có sự ngăn cánh giữa kho và phòng đọc.
Ngoài mục đích hạn chế mất mát sách báo, còn có thể tạo điều kiện cho độc giả
quen dần với phong cách tự phục vụ. Cách này rất phù hợp cho những thư viện
đang bắt đầu xây dựng và phát triển kho mở.
Nhìn chung, Kho mở có nhiều ưu điểm:
- Độc giả được trực tiếp tiếp cận với kho tài liệu. Họ không cần viết phiếu yêu
cầu, không mất thời gian chờ đợi. Họ có thể xem lướt để xác định tài liệu đó có cần
không hoặc nếu cuốn họ cần không có trên giá thì họ có thể lấy những cuốn sách
khác có nội dung tương tự. Cách tổ chức này dễ thỏa mãn nhu cầu độc giả, độc giả
thích thú nên đến thư viện nhiều hơn, hiệu quả phục vụ của thư viện tăng lên rõ rệt.
- Tài liệu trong kho mở thường được sắp xếp theo nội dung môn loại, do đó
giúp bạn đọc thuận tiện cho việc nghiên cứu và tập hợp tài liệu theo từng chuyên đề,
theo các chuyên ngành khoa học.
- Bạn đọc có thể tìm được tất cả các tài liệu có liên quan đến vấn đề mình đang
nghiên cứu, xem xét tài liệu nào phù hợp và tài liệu nào không phù hợp với yêu cầu
của mình.
- Tiết kiệm được nhân lực và công sức lao động của cán bộ thư viện tại các
bộ phận phục vụ. Cán bộ thư viện không phải đi lấy sách phục vụ bạn đọc mà chỉ
giới thiệu kho sách, tư vấn, hỗ trợ bạn đọc tìm được những cuốn sách phù hợp với
yêu cầu.
17

- Tạo điều kiện thuận lợi cho thư viện tổ chức triển lãm sách báo, tạp chí theo
chuyên đề.
Với những yếu tố thuận lợi trên, việc tổ chức kho mở phục vụ bạn đọc rất phù
hợp với phương châm tổ chức và hoạt động của thư viện ngày nay là thư viện mở.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên thì phương thức tổ chức này còn
những khó khăn như:
- Đòi hỏi phải có diện tích rộng, tài liệu phải thường xuyên được bổ sung và
cập nhật nên phải để chỗ trống trên giá, diện tích giữa các giá phải rộng rãi để bạn

đọc có thể đi lại và tìm kiếm tài liệu dễ dàng.
- Hình thức sắp xếp tài liệu không đẹp mắt vì sắp xếp theo môn loại nên các
tài liệu có kích cỡ to nhỏ khác nhau cũng được sắp xếp cạnh nhau.
- Việc bảo quản tài liệu và an toàn cho tài liệu là vấn đề khó khăn và phức tạp.
Bạn đọc tự lấy tài liệu đọc và tự xếp lên giá, không có sự kiểm soát chặt chẽ của cán
bộ thư viện nên vấn đề mất mát, xé, dọc tài liệu xảy ra khá phổ biến, tài liệu trên giá
xếp lộn xộn do sự vô ý thức của bạn đọc, đặc biệt ở các thư viện có diện tích lớn,
đội ngũ cán bộ mỏng, không có camera quan sát.
- Phải đầu tư kinh phí bổ sung và thay thế tài liệu mới để đáp ứng được nhu
cầu của bạn độc trong việc tìm kiếm và cập nhật thông tin.
- Phải đầu tư các thiết bị an ninh để đảm bảo cho kho sách: cổng từ, nhãn từ,
camera….
Qua một số ưu điểm và nhược điểm của kho mở, tác giả nghĩ đối với bất kỳ
một thư viện nào khi tiến hành xây dựng kho mở cũng phải nghiên cứu các yếu tố
tác động đến việc tổ chức và hoạt động kho mở như sau:
- Sắp xếp tài liệu trong kho mở: Toàn bộ tài liệu trong kho mở phải được sắp
xếp theo một bảng phân loại nhất định, không biệt khổ, cỡ, thể hiện mối liên hệ chặt
chẽ về mặt nội dung, chủ đề vốn tài liệu. Điều này tạo điều kiện cho bạn đọc cùng
một lúc xem được nhiều tài liệu về cùng một chủ đề, lựa chọn những cuốn sách phù
hợp với vấn đề họ quan tâm, nghiên cứu. Điều này thực sự kích thích nhu cầu đọc
của bạn đọc. Ngoài ra, việc tiếp cận trực tiếp với nhiều tài liệu cùng một lúc sẽ giúp
bạn đọc nảy sinh ý tưởng, nhu cầu mới.
- Vốn tài liệu: Phải có những tiêu chí, phương thức lựa chọn tài liệu đưa vào
kho mở. Tài liệu trong kho mở phải phù hợp với đối tượng, nhu cầu nghiên cứu
của độc giả. Điều quan trọng hơn cả là tài liệu phải thường xuyên được bổ sung,
cập nhật.
18

- Cơ sở vật chất: Kho mở đòi hỏi phải có một không gian rộng để vừa tổ chức
kho, vừa tổ chức phục vụ. Ngoài ra, yêu cầu về cơ sở vật chất không thể thiếu trong

kho mở đó là các thiết bị an ninh thư viện (cổng từ, camera…) để hạn chế tình trạng
mất mát, hư hỏng cho tài liệu.
- Bảo quản tài liệu: Tài liệu trong kho mở rất dễ bị rách nát, hư hỏng do bạn
đọc thường xuyên tiếp xúc với tài liệu. Vì thế, vấn đề bảo quản tài liệu trong kho
mở phải được đặc biệt quan tâm.
- Bổ sung và thanh lọc tài liệu: Tài liệu phải thường xuyên được bổ sung, cập
nhật để đáp ứng tốt nhất yêu cầu của bạn đọc. Bên cạnh đó, tài liệu trong kho cũng
cần thiết phải được thanh lọc, loại bỏ những tài liệu cũ, lỗi thời, không còn giá trị
sử dụng.
- Hệ thống tra cứu: Phải linh hoạt và phản ánh đúng vị trí, tình trạng của tài
liệu, thường xuyên được cập nhật
- Cán bộ thư viện: Phải là những người nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có tinh
thần trách nhiệm cao, tận tình giúp đỡ bạn đọc trong việc tìm kiếm tài liệu. Bên
cạnh đó, người cán bộ thư viện cũng phải tăng cường khả năng quan sát và sắp xếp
tài liệu trên giá khi bạn đọc trả tài liệu về giá.
- Bạn đọc: Tổ chức kho mở là hình thức phục vụ tích cực của thư viện, với
phương châm: “Tất cả vì bạn đọc”. Kho mở chính là hình thức nâng cao ý thức sử
dụng thư viện của bạn đọc. Tuy nhiên, cán bộ thư viện cũng phải giáo dục, nâng cao
ý thức của bạn đọc trong việc sử dụng tài liệu, hướng dẫn bạn đọc chấp hành theo
các nội quy, quy định của thư viện
Phương thức tổ chức kho mở hiện đang được áp dụng rộng rãi ở các thư viện
trong và ngoài nước. Mặc dù có những ưu điểm và hạn chế nhất định nhưng khi tổ
chức kho mở, nếu các thư viện nghiên cứu kỹ các yếu tố tác động đến việc tổ chức
và hoạt động kho mở thì hiệu quả phục vụ của kho mở sẽ được nâng cao.
1.1.4. Ý nghĩa của kho mở trong hoạt động thông tin thƣ viện
Như chúng ta đã biết, phục vụ độc giả là chức năng căn bản của thư viện. Do
đó, hiệu quả phục vụ bạn đọc chính là thước đo để đánh giá khả năng hoạt động và
sự phát triển của một thư viện. Vì vậy, kho mở hình thành và phát triển do nhu cầu
khách quan của sự phát triển xã hội. Nhu cầu thông tin, nhu cầu tài liệu là nhu cầu
cấp thiết của con người trong hoạt động nghiên cứu khoa học, học tập và sản xuất.

Trong quá trình hoạt động của mình, họ luôn hướng vào hoạt động tìm kiếm thông
tin và những tài liệu cần thiết. Kho mở là điều kiện để khắc phục hàng rào thông tin,
19

tạo sự thuận lợi, phù hợp giữa tài liệu và người dùng tin, rút ngắn thời gian tìm tài
liệu, cập nhật thông tin mới nhất, thúc đẩy các quá trình phát triển khoa học công
nghệ, văn minh và tiến bộ loài người.
Với phương thức đào tạo theo tín chỉ, thời gian tự học, tự nghiên cứu của sinh
viên là chủ yếu thì nhu cầu về thông tin, tài liệu là rất lớn. Do đó, việc tổ chức kho
mở là hoàn toàn thích hợp, không những mang lại nhiều tiện lợi cho người dùng tin
mà còn có ý nghĩa lớn trong cả hoạt động thông tin thư viện nói chung. Kho mở
giúp bạn đọc tự tiếp cận tới tài liệu, tự tìm những tài liệu phù hợp với nhu cầu tin
của họ, giúp họ tiết kiệm được nhiều thời gian khi không phải chờ đợi thủ thư lấy
sách. Mặt khác, trong quá trình tự tìm tài liệu, khi tiếp xúc với các tài liệu khác,
người dùng tin sẽ nảy sinh ra những ý tưởng mới, kích thích trí sáng tạo của họ. Với
cán bộ thư viện, kho mở giúp cán bộ thư viện không phải tiếp nhận các phiếu yêu
cầu, không phải mất thời gian vào kho lấy sách mà vẫn đảm bảo việc phục vụ tốt
cho người dùng tin một cách nhanh chóng. Điều này đồng nghĩa với việc tổ chức
kho mở sẽ giảm đi được một nguồn nhân lực đáng kể cho thư viện bởi công việc
chính của cán bộ thư viện ở kho mở chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, trợ giúp
và xác định nguồn tin khi độc giả cần.
Tổ chức kho tài liệu nghiên cứu việc phân bổ, sắp xếp tài liệu để có thể bảo
quản, gìn giữ lâu dài và thuận tiện cho việc sử dụng. Việc này có ý nghĩa đối với tất
cả hoạt động của cơ quan thông tin thư viện. Việc phân bố tài liệu, quy định trật tự
sắp xếp trong kho tài liệu được tiến hành với mục đích là để tận dụng, sử dụng đến
mức tối đa vốn tài liệu trong thư viện, mặt khác, tổ chức kho tài liệu chính là để
phục vụ nhiệm vụ nâng cao trình độ của người dùng tin, từ đó góp phần thúc đẩy sự
phát triển chung của xã hội.
Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học Luật Hà Nội từ khi thành lập đến năm
2007 đã phục vụ bạn đọc theo hình thức kho đóng, nghĩa là bạn đọc muốn tiếp cận

tài liệu phải thông qua thủ thư và làm thủ tục mượn.
Ngày nay, với sự thay đổi và phát triển mạnh mẽ của xã hội, nhất là vai trò của
thư viện đã thay đổi, từ chỗ chỉ đơn thuần là nơi lưu trữ và phục vụ tài liệu thành
nơi mang tính chất phục vụ thông tin thì việc phục vụ theo kho đóng không còn phù
hợp. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải tổ chức lại công tác phục vụ bạn đọc theo hướng
tạo điều kiện cho độc giả tiếp cận với thông tin dễ dàng hơn, giúp họ có thể làm chủ
kho tàng tri thức của nhân loại và thuận lợi hơn trong việc lựa chọn những thông tin
phù hợp nhất cho mình, đó là công tác tổ chức phục vụ theo kho mở.
20

1.2 Trƣờng Đại học Luật Hà Nội với phƣơng thức đào tạo theo tín chỉ
1.2.1 Khái quát về sự ra đời và phát triển của Trƣờng
Trường Đại học Luật Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 405/CP ngày
10 tháng 11 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở hợp nhất Khoa Pháp lí
của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Cao đẳng Pháp lí Việt Nam. Lúc
đó, Trường có tên là Trường Đại học Pháp lí Hà Nội. Do nhu cầu tăng cường đào
tạo cán bộ pháp lí, năm 1982 Bộ Tư pháp đã quyết định mở rộng quy mô Trường và
thống nhất một đầu mối đào tạo nguồn nhân lực pháp luật ở Việt Nam bằng cách sát
nhập Trường Trung học chuyên nghiệp Pháp lí I và Trường Cán bộ Toà án Hà Nội
vào Trường Đại học Pháp lí Hà Nội. Đáp ứng yêu cầu phát triển công tác đào tạo
cán bộ pháp luật trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, ngày 6/7/1993 Bộ Tư
pháp đã quyết định đổi tên Trường thành Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trong giai đoạn đầu, Trường gặp rất nhiều khó khăn: Tổ chức bộ máy của
Trường còn sơ khai, cơ sở vật chất nghèo nàn, địa điểm ở xa trung tâm Hà Nội (xã
Duyên Thái, huyện Thường Tín); quy mô tuyển sinh của Trường chỉ hạn chế ở 3
bậc đào tạo là trung cấp, cao đẳng và đại học với số lượng nhỏ.
Trải qua quá trình phấn đấu không ngừng của các thế hệ cán bộ, giảng viên,
Trường Đại học Luật Hà Nội đã phát triển khá toàn diện, vững chắc, xứng đáng là
cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật lớn nhất của cả nước với đội ngũ giảng viên là các
nhà khoa học có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, năng lực, phẩm chất tốt; cơ sở

vật chất khá khang trang, trang thiết bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ
pháp luật cho đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững.
Trường đã có đủ các bậc đào tạo: trung cấp, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ với các
chuyên ngành đào tạo đã được quy định.
1.2.2 Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ của Trƣờng
* Cơ cấu tổ chức
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Trường bao gồm: Đảng uỷ, Ban giám hiệu; Hội
đồng khoa học và đào tạo; 10 khoa, bộ môn trực thuộc Ban giám hiệu; 5 trung tâm;
12 phòng và đơn vị tương đương; các tổ chức đoàn thể.

21





















.








Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức Trường Đại học Luật Hà Nội
ĐẢNG ỦY
BAN GIÁM HIỆU
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC VÀ ĐÀO TẠO


Khoa Lý luận
Chính trị
Trung tâm Luật
So sánh
Phòng Hành chính
Tổng hợp
Công đoàn
Khoa Hành chính
Nhà nước

Trung tâm Đảm bảo
chất lượng đào tạo
Phòng Tổ chức
Cán bộ

Đoàn Thanh niên
Hội Sinh viên

Khoa Pháp luật
Hình sự

Trung tâm Tư vấn
Pháp luật
Phòng Đào tạo
Hội Cựu Chiến
binh
Khoa Pháp luật
Dân sự

Trung tâm Tin
học
Phòng Công tác
Sinh viên
Chi hội Luật gia
Phòng Quản lý
Khoa học
Trung tâm Thông
tin Thư viện
Khoa Pháp luật
Kinh tế

Khoa Pháp luật
Quốc tế

Phòng BT sách và

Trị sự tạp chí
Khoa Tại chức

Khoa Sau Đại học

Bộ môn Ngoại
ngữ

Bộ môn Giáo dục
Thể chất

Phòng Hợp tác
Quốc tế
Phòng Thanh tra
Đào tạo
Phòng Tài chính
Kế toán
Phòng Quản trị
Phòng Bảo vệ
Trạm Y tế
22

* Đội ngũ cán bộ
Hơn 30 năm qua, Trường Đại học Luật Hà Nội đã phát triển khá toàn diện,
vững chắc, xứng đáng là cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật lớn nhất của cả nước với
đội ngũ giảng viên là các nhà khoa học có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao,
năng lực, phẩm chất tốt; cơ sở vật chất khá khang trang, trang thiết bị hiện đại, đáp
ứng yêu cầu đào tạo cán bộ pháp luật cho đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế
và phát triển bền vững. Đến nay, đội ngũ giáo viên, cán bộ, viên chức của Trường
đã phát triển mạnh cả về số lượng, chất lượng.

Hiện tại, tổng số cán bộ, viên chức của Trường là 443 người. Trong đó, đội
ngũ giảng viên là 262 người, chiếm tỉ lệ 59,15% tổng số cán bộ, viên chức của
Trường; đội ngũ cán bộ, viên chức phục vụ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa
học là 181 người, chiếm tỉ lệ 40,85% tổng số cán bộ, viên chức.
1.2.3 Chức năng và nhiệm vụ của Trƣờng
Trường Đại học Luật Hà Nội là trường đại học công lập thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân của Việt Nam, là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tổ chức
đào tạo trung cấp, đại học và sau đại học các chuyên ngành luật học, nghiên cứu
khoa học, truyền bá pháp lí và tư vấn pháp luật. Trường chịu sự quản lí, chỉ đạo trực
tiếp của Bộ Tư pháp, sự quản lí nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trường là
đơn vị sự nghiệp, có con dấu và tài khoản tại kho bạc và ngân hàng theo quy định
của pháp luật.
Theo Quyết định số 420/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành ngày
19/01/2010, Trường có những nhiệm vụ và quyền hạn:
- Xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp kế hoạch công tác dài hạn, trung hạn
và hàng năm của Trường phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục và quy hoạch
mạng lưới các trường đại học của Nhà nước; tham gia xây dựng chiến lược, chính
sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển Ngành Tư pháp; xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch về tổ chức bộ máy, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lí biên chế, sử
dụng đội ngũ cán bộ, viên chức của Trường theo quy định của pháp luật và sự phân
cấp của Bộ Tư pháp.
- Chủ trì hoặc tham gia xây dựng, thẩm định các dự án, văn bản quy phạm
pháp luật, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật; các đề án, văn bản về đào
tạo, nghiên cứu khoa học phục vụ công tác của ngành và đất nước để Bộ trưởng ban
hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành.

×