ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHAN THUỲ LINH
QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Hà Nội – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHAN THUỲ LINH
QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60 31 40
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thành Nam
Hà Nội – 2011
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
U
PHẦN MỞ ĐẦU 5 U
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 8
5. Cấu trúc Luận văn 8
Chương 1:
KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TRONG LỊCH SỬ 9
1.1 Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trước năm 1945 9
1.2 Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1945 đến năm 1975 11
1.3. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1975 đến năm 1995 14
1.4 Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa quan hệ đến khi
Hiệp định thương mại song phương được ký kết 23
Chương 2: THỰC TIỄN QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ NHỮNG NĂM
ĐẦU THẾ KỶ XXI 31
2.1 Các mối quan hệ chủ yếu trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những năm
đầu thế kỷ XXI 31
2.1.1 Quan hệ Chính trị, Ngoại giao 31
2.1.2 Quan hệ Kinh tế 46
2.1.3 Quan hệ An ninh, Quốc phòng 55
2.1.4 Quan hệ Văn hoá, Giáo dục, Y tế 60
1
2.2 Những vấn đề còn tồn tại trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những năm
đầu thế kỷ XXI 69
2.2.1 Vấn đề Nhân quyền 69
2.2.2 Vấn đề Chất độc da cam 70
2.2.3 Vấn đề POW/MIA 75
2.2.4 Cộng đồng Người Việt Nam ở Hoa Kỳ 77
2.3 Đánh giá khái quát quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời gian qua 79
2.3.1 Những thuận lợi trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 79
2.3.2 Những khó khăn trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 82
Chương 3: TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ 85
3.1 Triển vọng quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 85
3.1.1 Chiều hướng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ 85
3.1.2 Chiều hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam 88
3.2 Các nhân tố chi phối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời gian tới . 91
3.3 Một số kiến nghị về chính sách của Việt Nam đối với quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ trong thời gian tới 94
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
2
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Splitter.
A watermark is added at the end of each output PDF file.
To remove the watermark, you need to purchase the software from
/>
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài:
Ngày 12/7/1995,Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại
giao, đến nay đã được mười sáu năm. Thời gian qua đã chứng kiến rất
nhiều những tiến triển tích cực trong quan hệ hai nước theo khuôn khổ
“Đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi” đem lại nhiều lợi íc
h thiết thực cho cả
đôi bên, góp phần gìn giữ hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực
Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương.
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam và Hoa Kỳ đã và đang có
triển vọng tốt trong quan hệ ngoại giao. Quan hệ hai nước đã phát
triển khá nhanh chóng và sôi động trên nhiều lĩnh vực với những nỗ
lực của đôi bên nhằm đẩy nhanh hơn nữa sự hợp tác có hiệu quả về
nhiều mặt.
Để làm rõ thê
m quá trình hình thành và phát triển của mối quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, tác giả đã chọn đề tài “Quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ những năm đầu thế kỷ XXI” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ.
Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ những nhân tố tác động
trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những năm đầu thế kỷ XXI trên
cơ sở tì
m hiểu về lịch sử quan hệ ngoại giao hai nước, qua đó đưa ra
một số dự báo về triển vọng quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời
gian tới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, cuốn sách, bài
báo, bài viết, tham luận về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ như:
* Sách:
- “Việt Nam – Hoa Kỳ quan hệ thương mại và đầu tư” của GS.
TS Nguyễn Thiết Sơn (2004).
- “Góp phần tìm
hiểu lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ” của
PGS. TS Phạm Xanh (2010).
* Luận văn Thạc sĩ:
- “Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam giai đoạn 1945 –
1954” của Nguyễn Duy Quận (2006).
2
- “Thay đổi và nhất quán trong chính sách của Mỹ đối với Việt
Nam: từ nhiệm kỳ II của Clinton tới nhiệm kỳ I của Bush con” của
Nguyễn Bích Ngọc (2008).
- “Hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ trong vấn đề giải quyết hậu quả
bom mìn còn sót lại sau chiến tranh tại Việt Nam” của Trần Gia
Quang (2009).
Tuy nhiên các công trình trên chỉ tập trung nghiên cứu, phân
tích về một khía cạnh nào đó (chính trị, kinh tế) hoặc một giai đoạn
trong quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ. Bước sang thế kỷ XXI, tình hình
quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, đặc biệt từ sau sự
kiện 11/9/2001 phần nào có tác động đến quan hệ hai nước, vì vậy
người viết đã chọn giai đoạn này để nghiên cứu, trên cơ sở sưu tầm,
tổng hợp các tư liệu một cách có hệ thống và khoa học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Như tên gọi của đề tài, đối tượng ng
hiên cứu của Luận văn này
là quá trình vận động trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những năm
đầu thế kỷ XXI.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu:
Luận văn vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử
đồng thời áp dụng một số lý thuyết Quan hệ quốc tế để giải quyết mặt
lý luận khi nghiên cứu về qu
an hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
5. Cấu trúc Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong lịch sử
Chương 2: Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những năm đầu thế kỷ XXI
Chương 3: Triển vọng quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
Chương 1:
KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TRONG LỊCH SỬ
1.1 Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trước năm
1945:
Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, người Mỹ chủ
yếu nhìn nhận về Việt Nam như một nước phong kiến nửa thuộc địa
ở Đông Dương dưới sự cai quản của thực dân Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939 - 1945) Nhật nhảy
3
vào Đông Dương (tháng 9/1940) và cuộc chiến tranh Châu Á – Thái
Bình Dương nổ ra (tháng 12/1941). Để bảo vệ lợi ích, Hoa Kỳ không
thể đứng ngoài cuộc chiến mà phải “đặt vấn đề tương lai của Đông
Dương trong một khung cảnh khác hẳn chiến lược của Hoa Kỳ dự
tính trong Chiến tranh thế giới thứ hai”.
1.2 Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1945 đến năm 1975:
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết th
úc (1939 – 1945) với
thắng lợi của phe Đồng Minh đã tạo cơ hội cho Hoa Kỳ trở thành một
cường quốc, có vai trò chi phối các nước tư bản khác trên thế giới.
Đặc điểm nổi bật của thế giới sau chiến tranh lần thứ hai là sự
xuất hiện hai siêu cường đối lập nhau là phe Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) do Liên Xô đứng đầu và phe Tư bản chủ nghĩa (TBCN) do
Hoa Kỳ đứng đầu.
Cũng
thời gian này, khu vực Đông Nam Á được hầu hết các nước
lớn quan tâm, các mối quan hệ quốc tế ở đây đan xen lẫn nhau hết sức
phức tạp. Để thực hiện chiến lược ngăn chặn cộng sản ở khu vực này,
một mặt Hoa Kỳ tiến hành hất cẳng Pháp, can thiệp trực tiếp vào Đông
Dương, mặt khác Hoa Kỳ tìm cách thúc đẩy các nước đồng
minh
phương Tây và các nước trong khu vực nhanh chóng tiến tới thành lập
một tổ chức phòng thủ khu vực Đông Nam Á.
Năm 1954, Pháp thất bại ở Việt Nam và phải ký hiệp định
Genève (tháng 7/1954), Hoa Kỳ nhảy vào thay chân Pháp ở Miền
Nam Việt Nam. Với âm mưu đè bẹp cách mạng Việt Nam và “đẩy lùi
Miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, qua năm đời Tổng thống
(D.Eisenhower, F.Kennedy, B.Johnson, R.Nixon, G.Ford), Hoa Kỳ
đã điều hành
bốn kế hoạch chiến lược thực dân mới và chiến tranh
xâm lược (“chiến tranh đơn phương”, “chiến tranh đặc biệt”, “chiến
tranh cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh”) bằng tất cả những chính
sách can thiệp: chính sách kinh tế, chính sách chính trị đến chính
sách tột cùng là trực tiếp can thiệp bằng quân sự. Tuy nhiên, nhân
dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng, kiên cường, anh dũng chiến đấu
và cuộc kháng chiến chống
Mỹ của nhân dân Việt Nam đã kết thúc
thắng lợi vang dội bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào mùa
xuân năm 1975.
4
1.3. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ năm 1975 đến năm 1995:
Đây là giai đoạn khó khăn trong quan hệ giữa hai nước.
Hoa Kỳ đã rút quân về nước song hội chứng Việt Nam vẫn đè
nặng lên họ. Chính quyền Hoa Kỳ thực hiện chính sách bao vây cấm
vận, cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và kinh tế với Việt Nam.
Từ năm 1989 đến năm 1991, CNXH đã lần lượt sụp đổ ở các
nước Đôn
g Âu và ở Liên Xô, thế cân bằng chiến lược trên phạm vi toàn
cầu đã thay đổi, đặt các nước, trước hết là các nước lớn trước yêu cầu
cần điều chỉnh chiến lược. Hoa Kỳ cũng buộc phải điều chỉnh chính sách
đối với các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Ngày 9/4/1991 tại
New York, Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách các vấn đề Châu Á
R.Solomon trao cho đại diện của V
iệt Nam Trịnh Xuân Lãng bản lộ
trình bốn bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Đây là bước
tiến mới trong chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991), Việt Nam xác định
nhiệm vụ đối ngoại trong thời kỳ mới với chủ trương “hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không p
hân biệt chế độ
chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại
hoà bình”. Chủ trương này đã tác động đến quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ theo chiều hướng tích cực.
Ngày 20/1/1993 Bill Clinton chính thức nhậm chức Tổng
thống Hoa Kỳ. Ngày 3/2/1994 Tổng thống B.Clinton đã tuyên bố
chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và
đồng ý mở cơ quan liên lạc giữa hai nước. Tháng 5/1994 Hoa Kỳ và
Việt Nam ký kết Hiệp địn
h Lãnh sự. Ngày 8/10/1994 Quốc hội Hoa
Kỳ thông qua nghị quyết khuyến nghị huỷ bỏ lệnh cấm viện trợ cho
Việt Nam. Tính đến cuối năm 1994 buôn bán giữa hai nước đạt con
số là 220 triệu USD, đầu tư của Hoa Kỳ đã vươn lên vị trí thứ 13
trong việc đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Ngày 11/7/1995 Tổng thống B.Clinton tuyên bố Hoa Kỳ chính
thức bình thường hoá qua
n hệ với Việt Nam “Một thế hệ trước đây
đã có những đánh giá khác nhau về cuộc chiến tranh đã từng chia rẽ
chúng ta hết sức gay gắt… Bước đi này cũng sẽ giúp đất nước chúng
ta tiến lên phía trước về một vấn đề chia rẽ người Mỹ với nhau quá
5
lâu rồi”. Đáp lại, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt khẳng định trong
Tuyên bố ngày 12/7/1995 “Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoan
nghênh quyết định ngày 11 tháng 7 năm 1995 của Tổng thống Bill
Clinton và sẵn sàng cùng Chính phủ Hoa Kỳ thoả thuận một khuôn
khổ hợp tác mới cho quan hệ giữa hai nước”. Ngày 28/7/1995 Hoa
Kỳ và Việt Nam tuyên bố chính thức mở cơ quan liên lạc tại thủ đô
của mỗi nước, đánh dấu q
uan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã chính thức
bước sang một trang mới, tạo điều kiện để Việt Nam mở rộng quan
hệ và nâng cao vị thế trên trường quốc tế, đóng góp tích cực vào xu
thế chung là hoà bình và hợp tác vì lợi ích phát triển của thế giới.
1.4 Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ khi bình thường hóa quan hệ
đến khi Hiệp định thương mại song phương được ký kết:
Sau khi bình thường hoá quan hệ, hai nước đã thiết lập và duy
trì mối quan hệ tích cực và
toàn diện trên các lĩnh vực.
* Quan hệ chính trị ngoại giao:
Hai nước tiếp tục có những bước phát triển tốt đẹp thông qua
các chuyến thăm của cả hai bên. Sau hai năm bình thường hoá quan
hệ ngoại giao, hai nước đã chính thức trao đổi Đại sứ (năm 1997).
Sau năm năm, ngày 13/7/2000 Hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ được ký kết, đánh dấu việc hoàn tất quá trình bình thường
hoá toàn diện quan hệ giữa hai nước.
Chuyến thăm chính thức của Tổng thống Bill Clint
on đến Việt
Nam (11 – 19/11/2000) có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình quan
hệ hợp tác giữa hai nước. Như vậy, đến năm 2000 quan hệ chính trị
ngoại giao giữa Việt Nam – Hoa Kỳ đã tiến triển tích cực.
* Quan hệ Thương mại:
Năm 2000, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam –
Hoa Kỳ được ký kết sau hơn 4 năm đàm phán đã mang lại những lợi
ích to lớn cho cả hai nước, đánh dấu sự phát triển mối quan hệ
thương mại toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Như vậy, việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ đã tạo điều kiện để Việt Nam
mở rộng quan hệ quốc
tế, nâng cao vị thế bước vào thế kỷ XXI, đóng góp tích cực vào xu
thế củng cố hoà bình và hợp tác hữu nghị vì lợi ích phát triển của khu
vực và quốc tế.
6
Chương 2:
THỰC TIỄN QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
2.1 Các mối quan hệ chủ yếu trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
những năm đầu thế kỷ XXI:
2.1.1 Quan hệ Chính trị, Ngoại giao:
* Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống George Walker
Bush:
Bước sang thế kỷ XXI, Hoa Kỳ vẫn là một siêu cường với các
yếu tố:
- Về chính trị: Hoa Kỳ trở th
ành một nhân tố không thể bỏ qua
trong quá trình hoạch định chính sách của hầu hết các nước và có vai
trò quyết định trong phần lớn các cơ chế đa phương trên thế giới. Hoa
Kỳ còn là một thành viên thường trực có quyền phủ quyết của Hội
đồng Bảo an của Liên Hợp Quốc, đồng thời cũng là quốc gia thành
viên quan trọng nhất của các định chế tài chính quốc tế như WB,
IMF, WTO.
- Về kinh tế: Hoa Kỳ vẫn là nền kinh tế phát triển số một thế
giới, là quốc gia quan trọng bậc nhất của khu vực kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương, nơi được dự báo sẽ là trung tâm phát triển của thế
giới trong thế kỷ XXI.
- Về quân sự: Hoa Kỳ là một trong những cường quốc quân sự
hàng đầu thế giới, là quốc gia nắm giữ quyền lãnh đạo của liên
minh
quân sự lớn nhất thế giới là NATO.
- Về văn hoá: Điện ảnh, giáo dục của Hoa Kỳ có sức hấp dẫn
và thu hút mạnh mẽ nhiều nước trên thế giới.
Tuy nhiên, sự kiện nổi bật có tác động lớn nhất đối với quan hệ
quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI là cuộc tấn công khủng bố vào Hoa
Kỳ ngày 11/9/2001. Sự kiện 1
1/9 làm vấn đề chống khủng bố trở thành
mối quan tâm hàng đầu, buộc Hoa Kỳ phải điều chỉnh và triển khai
chiến lược toàn cầu mới. Ngày 20/9/2002 Tổng thống G.W.Bush công
bố Chiến lược an ninh quốc gia mới.
Chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam là một bộ phận nằm
trong chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ và luôn mang tính hai mặt.
7
Một mặt vừa cải thiện quan hệ với Việt Nam để phục vụ cho chiến
lược của Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và dành lợi
ích kinh tế cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ; mặt khác Hoa Kỳ vẫn tiếp
tục thực hiện “diễn biến hoà bình” thông qua “can dự” với khẩu hiệu
“dân chủ và nhân quyền” để áp đặt nhằm đưa Việt Nam vào quỹ đạo
của Hoa Kỳ.
Đối với Việt Na
m, chính sách của Việt Nam đối với Hoa Kỳ là
một bộ phận trong chính sách của Việt Nam đối với các nước lớn.
Đại hội IX (4/2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
“Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển đóng vai trò
quan trọng trong quan hệ quốc tế nhất là trong lĩnh vực kinh tế”.
Đến đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Na
m xác định “Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
Việc phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đáp ứng lợi ích
thiết thực của Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam mở
rộng quan hệ quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bước ngoặt lịch sử trong quan hệ hai
nước là chuyến thăm
chính thức Hoa Kỳ của Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải (19 –
24/6/2005). Đây là chuyến thăm Hoa Kỳ đầu tiên của người đứng
đầu Chính phủ Việt Nam.
Sự hiện diện của Tổng thống G.W.Bush tại Hà Nội tháng
11/2006 trong khuôn khổ các cuộc họp của các nhà Lãnh đạo Diễn
đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 14
và đã phát biểu trong cuộc họp báo tại Việt Nam: "Chúng t
ôi muốn
nói rằng Việt Nam bây giờ là một đất nước hoà bình, ổn định và hữu
nghị. Nhân dân Việt Nam muốn đoàn kết, hữu nghị với nhân dân Hoa
Kỳ. Hai dân tộc đều muốn hoà bình, đoàn kết, hữu nghị phải cùng
nắm tay nhau đi tới tương lai". Đến chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ
của Chủ tịch nước Nguyễn Min
h Triết vào tháng 6/2007, Tổng thống
G.W.Bush đã khẳng định “Chúng tôi muốn có quan hệ tốt với Việt
Nam”. Tiếp đến là chuyến thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng (ngày 25/6/2008) “Hai nhà lãnh đạo nhất trí rằng quan hệ Việt
8
Nam – Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ hữu nghị tích
cực và đang phát triển, tôn trọng lẫn nhau, và cùng cam kết hợp tác
nhiều mặt mang tính xây dựng trên nhiều vấn đề để góp phần làm
sâu rộng quan hệ vì lợi ích lâu dài của hai nước”. Như vậy, thông
qua các chuyến thăm với các cuộc đối thoại cởi mở hai nước đã tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau, giảm t
hiểu sự khác biệt, đưa quan hệ hai
nước đi vào hợp tác thực chất hơn trên nguyên tắc “Đối tác xây dựng,
hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau
và cùng có lợi”.
* Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Barack
Obama:
Ngày 20/1/2009, Thượng Nghị Sĩ Barack Obama chính thức
tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ.
Chiến lược An ninh Quốc gia
mới (ngày 27/5/2010) của Tổng
thống B.Obama có phần mềm dẻo và linh hoạt hơn so với thời Tổng
thống G.W. Bush.
Đối với Việt Nam, Chính quyền B.Obama thừa nhận nền tảng
quan hệ từ thời Tổng thống G.W.Bush đã được xây dựng trên nhiều
lĩnh vực, khuôn khổ quan hệ đã định hình, đó là tiếp tục thúc đẩy hợp
tác nhiều mặt với Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo
dục đào tạo, khoa
học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, trong khi vẫn tác
động chuyển hóa Việt Nam thông qua các vấn đề dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo
Ngày 22/7/2010 Ngoại trưởng Hoa Kỳ H.Clinton thăm Việt Nam
và gặp gỡ với các nhà Lãnh đạo Việt Nam để thảo luận tiến trình hợp tác
giữa hai nước, trong đó đề cập đến nhiều khía cạnh hợp tác sâu rộng như
thương mại, giáo dục, không phổ biến vũ kh
í hạt nhân… Chuyến thăm
này cũng trùng với thời điểm kỷ niệm 15 năm bình thường hoá quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ. Hai bên nhất trí đưa quan hệ hai nước lên một tầm
cao mới theo hướng tăng cường liên kết, hữu nghị, hợp tác chống biến
đổi khí hậu và nước biển dâng. Ngày 29/10/2010 Ngoại trưởng H.
Clinton trở lại Hà Nội với tư cách là khách mời tham dự Hội nghị cấp
cao Đô
ng Á (EAS). Ngoại trưởng nhấn mạnh sự cam kết của Hoa Kỳ
đối với việc mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ với Việt Nam.
9
Nhận lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ B.Obama, Thủ tướng
Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự Hội nghị Thượng đỉnh về
An ninh hạt nhân toàn cầu tại Washington D.C, Hoa Kỳ vào tháng
4/2010. Thủ tướng Việt Nam đã cùng với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ
để thảo luận các biện pháp tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị và
hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới.
Trong dịp dự cuộc họp Đại hội đồng Li
ên Hợp Quốc về kiểm
điểm các mục tiêu Thiên niên kỷ tại Hoa Kỳ tháng 9/2010, Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết đã cùng Tổng thống B.Obama đồng chủ trì
Hội nghị cấp cao ASEAN – Hoa Kỳ lần thứ hai. Hoa Kỳ và ASEAN
đã ra tuyên bố chung tăng cường thúc đẩy hợp tác, nghiên cứu thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược hướng tới một khuôn khổ hợp tác
ASEAN và
Hoa Kỳ "ASEAN đánh giá cao cam kết của Hoa Kỳ ở
mức cao nhất với các nước thành viên ASEAN”.
Ngày 17/6/2011 cuộc Đối thoại Chính trị - An ninh - Quốc
phòng Hoa Kỳ - Việt Nam lần thứ 4 đã được tổ chức ở thủ đô
Washington để thảo luận các vấn đề an ninh song phương và khu vực.
Từ ngày 10 – 13/11/2011 Chủ tịch nước Việt Nam Trương
Tấn Sang tham dự Hội nghị các nhà lãnh đạo Diễn đàn Hợp tác
kinh
tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 19 tại Hawaii – Hoa
Kỳ. Bên cạnh các hoạt động chính thức của APEC, Chủ tịch nước và
các Bộ trưởng Việt Nam có nhiều hoạt động song phương với Hoa
Kỳ và các thành viên của APEC. Ngày 11/11/2011, tại Trung tâm
Đông Tây, một trong những trung tâm nghiên cứu chính sách lớn, uy
tín hàng đầu của Hoa Kỳ tại Châu Á - Thái Bình Dương, Chủ tịch
nước Việt Nam đã có bài phát biểu trước hơn 200 đại biểu là các nhà
nghiên cứu, học giả và sinh viên Hoa Kỳ về chính sách đối ngoại của
Việt Nam và quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Chủ tịch nước khẳng định
Việt Nam coi trọng quan hệ với Hoa Kỳ, mong muốn tăng cường
quan hệ với Hoa Kỳ cả trên bình diện song phương và đa phương.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã dự Đối thoại diễn đàn
doanh nghiệp Việt - Mỹ với đại diện gần 200 d
oanh nghiệp Hoa Kỳ
và Việt Nam. Cũng trong khuôn khổ APEC 19, trao đổi với Ngoại
trưởng Clinton, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng khẳng định
10
Việt Nam luôn coi trọng quan hệ với Hoa Kỳ như một đối tác hàng
đầu có ý nghĩa chiến lược, ngược lại Ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng
khẳng định Hoa Kỳ mong muốn thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác
nhiều mặt với Việt Nam trong đó có việc nâng tầm quan hệ, hướng
tới quan hệ đối tác chiến lược.
Bên cạnh những điểm sáng trong hợp tác song phương, hợp tác
giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ trên khuôn khổ đa phương trong nhiều vấn
đề quốc tế và khu vực đang từng bước phát triển phù hợp với lợi ích
của hai nước.
Với những sự kiện nêu trên, có thể thấy Hoa Kỳ không chỉ
mong muốn quan hệ hai nước ngày càng mở rộng và phát triển mà
còn ủng hộ Việt Nam hội nhập và nâng cao vị thế quốc tế.
2.1.2 Quan hệ Kinh tế:
Quan hệ kinh
tế Việt Nam – Hoa Kỳ là điểm nổi bất nhất trong
quan hệ hai nước từ khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao.
* Về Thương mại:
Với Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
(BTA, ký ngày 13/7/2000 và có hiệu lực ngày 10/12/2001), Hoa Kỳ
đã dành cho Việt Nam Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) vào tháng 12/2006, dỡ bỏ mọi rào cản đối với hợp tác kinh tế
song phương, thúc đẩy nhanh chóng hàng hoá Việt Nam thâm nhập
thị trường
Hoa Kỳ. Việc Việt Nam gia nhập WTO (có hiệu lực từ
7/1/2007) đã tạo ra tiền đề cho quan hệ hai nước tiến đến bình thường
hoá đầy đủ.
Về kinh tế - thương mại, khi Việt Nam và Hoa Kỳ ký Hiệp
định thương mại song phương năm 2000, kim ngạch buôn bán giữa
hai nước đạt hơn 1 tỷ USD, đến năm 2010 con số này đã tăng lên
18,6 tỷ USD, sáu tháng đầu năm 2011 thương mại Việt Nam –
Hoa
Kỳ đã đạt 9,938 tỷ USD, do đó nhìn về tổng thể mục tiêu kim ngạch
thương mại hai nước đạt 20 tỷ USD năm 2011, tăng 10% so với năm
2010 là hoàn toàn có thể. Như vậy có thể thấy, so với năm 1995 tổng
kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đến năm
2011 tăng hơn 3.300%. Ngược lại, Việt Nam với một nền kinh tế
năng động, t
hị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng cũng được Hoa
11
Kỳ coi là một đối tác quan trọng về kinh tế, thương mại và đầu tư
phát triển; Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam trong những năm qua.
Quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có thể phát triển một
cách mạnh mẽ và đầy đủ nếu Việt Nam thuyết phục được Hoa Kỳ
dành Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập chung (GSP) c
ho Việt Nam
cũng như đàm phán ký kết Hiệp định Đầu tư song phương (BIT) với
Hoa Kỳ để mở đường cho các tập đoàn Hoa Kỳ vào Việt Nam, từ đó
thúc đẩy buôn bán song phương, tiến tới ký một Hiệp định Thương
mại tự do song phương (FTA) toàn diện với Hoa Kỳ, phối hợp trong
việc tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Quan hệ kinh tế, thương mại với H
oa Kỳ đã có những đóng
góp quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam.
* Về đầu tư:
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, môi trường đầu tư được cải thiện
các công ty Hoa Kỳ đã quan tâm hơn đến việc đầu tư tại Việt Nam.
Theo thống kê của Việt Nam, năm 2009 Hoa Kỳ đã trở thành
đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam với tổng
số
vốn đăng ký được cấp phép là khoảng 5,9 tỉ USD. Năm 2010 Hoa Kỳ
đứng thứ 7/92 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án còn hiệu lực tại
Việt Nam với 556 dự án, tổng số vốn đầu tư đăng ký là 13,075 tỷ
USD. Sáu tháng đầu năm 2011, Hoa Kỳ có 579 dự án đầu tư còn hiệu
lực tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 13,251 tỷ USD,
trong đó lĩnh vực dịch vụ với 131 dự án, lĩnh vực công nghiệp và x
ây
dựng với 254 dự án, số còn lại đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp có mặt tại 35/64 địa phương của Việt Nam.
Bên cạnh các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài, Hoa Kỳ là
một đối tác quan trọng trong việc cung cấp các nguồn ngoại tệ, kiều
hối giúp Việt Nam có thể cân bằng cán cân thanh toán trong điều
kiện nhập siêu. Khối lượng kiều hối chuyển về Việt
Nam trong năm
2010 là 8 tỷ USD, trong số này đa phần là bắt nguồn từ Hoa Kỳ.
Có thể nói trong bức tranh tổng thể quan hệ song phương Việt
Nam – Hoa Kỳ, lĩnh vực kinh tế thương mại và đầu tư là mảng màu
sáng nhất, đạt được nhiều thành quả to lớn và thiết thực. Song, xét cả
về lượng và chất, đó mới chỉ là bước khởi đầu khiêm tốn. Với nỗ lực
12
của cả Việt Nam và Hoa Kỳ, hai nước sẽ đạt được những tiến bộ hơn
nữa trong tương lai.
2.1.3 Phát triển quan hệ An ninh, Quốc phòng:
Quan hệ quốc phòng giữa hai nước được chính thức bắt đầu
vào năm 2000 sau chuyến thăm của Bộ trưởng quốc phòng W.Cohen
đến thăm Việt Nam. Sau sự kiện ngày 11/9/2001, vấn đề chống
khủng bố đã trở thành mối quan tâm chung của hai nước.
Trong nhiệm kỳ của Tổng
thống G.W.Bush, quan hệ an ninh
quốc phòng giữa hai nước được đẩy mạnh, thể hiện qua các chuyến
thăm của những người đứng đầu Bộ Quốc phòng hai bên. Ngày
29/12/2006 Tổng thống G.W.Bush ra quyết định dỡ bỏ cấm vận với
việc bán các quân dụng không sát thương cho Việt Nam. Tiếp đó Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Hoa Kỳ tháng 6/2008, hai bên đã có
Tuyên bố về Đối thoại Chí
nh trị - An ninh - Quốc phòng Việt Nam –
Hoa Kỳ. Tháng 4/2010 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự Hội
nghị Thượng đỉnh về An ninh Hạt nhân toàn cầu tại Hoa Kỳ cùng
Tổng thống Hoa Kỳ B.Obama và trên 40 nhà lãnh đạo thế giới trao
đổi quan điểm về những biện pháp có hiệu quả nhất nhằm siết chặt
chất liệu hạt nhân, chống buôn lậu hạt nhân và khủng bố hạt nhân
.
Đối thoại chính sách quốc phòng cấp thứ trưởng lần thứ 2 đã diễn ra
tại Hoa Kỳ vào ngày 19/9/2011. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ thúc đẩy
hợp tác quốc phòng song phương một cách thiết thực, vì lợi ích mỗi
bên và duy trì hoà bình khu vực. Cuộc đối thoại thường niên Chính
trị - An ninh - Quốc phòng Hoa Kỳ - Việt Nam lần thứ tư đã được tổ
chức ngày 17/6/2011 ở thủ đô Hoa Kỳ để thảo luận các vấn đề an
ninh son
g phương và khu vực. Hai bên tái khẳng định cam kết tăng
cường quan hệ song phương trên cơ sở, tôn trọng lẫn nhau, đảm bảo
một khu vực Châu Á - Thái Bình Dương hoà bình, ổn định và phát
triển. Hai bên đã trao đổi về những diễn biến gần đây tại Biển Đông,
nhất trí việc duy trì hòa bình, ổn định, an toàn và tự do hàng hải ở
Biển Đông là phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế; mọi
tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông phải được giải quyết thôn
g qua
con đường ngoại giao và hợp tác, không gây sức ép hay sử dụng vũ
lực.
13
Tuy nhiên mối quan hệ an ninh quốc phòng giữa Việt Nam –
Hoa Kỳ mới chỉ dừng ở giai đoạn ban đầu, bởi vẫn còn nhiều yếu tố
cản trở như: thiếu lòng tin, yếu tố lịch sử, sự khác biệt về hệ thống
trang thiết bị. Song với nỗ lực của cả hai phía, quan hệ an ninh quốc
phòng Việt Nam - Hoa Kỳ đã có bước phát triển tích cực, góp phần
xây dựng Châu Á - Th
ái Bình Dương thành một khu vực hoà bình, ổn
định và phát triển.
2.1.4 Quan hệ Văn hoá, Giáo dục, Y tế:
* Về giáo dục đào tạo:
Hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo đang
tiến triển với nhiều kết quả tích cực. Số lượng sinh viên Việt Nam
theo học tại các trường đại học, cao đẳng tại Hoa Kỳ trong năm học
2009 - 2010 tăng nhẹ từ 12.823 lên 13.112, tăng 2,3% so với năm học
2008 - 20
09. Việt Nam giữ vị trí thứ 9 và có số lượng sinh viên lớn
nhất so với các nước khác ở Đông Nam Á. Năm học 2010 – 2011 số
lượng sinh viên Việt Nam đang theo học tại Hoa Kỳ tăng 14%, từ
13.112 lên 14.888 sinh viên, giữ vị trí thứ 8 trong số các nước có
nhiều sinh viên du học nhất ở Hoa Kỳ. Việt Nam luôn tạo điều kiện
cho sinh viên học tập tốt tại đây. Hoa Kỳ cũng sẵn sàng hỗ trợ để xây
dựng các trường đại học của Hoa Kỳ ở Việt Nam hoặc cá
c trường đại
học Việt - Mỹ tại Việt Nam.
Với mục tiêu của Chính phủ Việt Nam đào tạo hơn 20.000 tiến
sĩ từ nay đến năm 2020, trong đó một nửa được đào tạo tại nước
ngoài, Hoa Kỳ sẽ là điểm đến của nhiều
sinh viên Việt Nam.
* Về lĩnh vực y tế:
Từ năm 2000 đến nay, quan hệ hợp tác giữa hai nước có nhiều
khởi sắc.
Hoa Kỳ là nước có nền y học hiện đại, có nhiều điều kiện thuận
lợi để hợp tác và hỗ trợ Việt Nam, hiện đứng trong top 10 quốc gia có
nhiều công ty đăng ký hoạt động trong lĩnh vực dược tại Việt Nam.
Năm 2003, lần đầu tiên Ch
ính phủ hai nước đã ký văn bản thoả
thuận về chương trình dự phòng và chăm sóc bênh nhân có
HIV/AIDS tại Việt Nam giai đoạn 2003 - 2008 với trị giá là 20 triệu
14
USD. Hoa Kỳ cũng chọn Việt Nam là một trong 15 quốc gia được ưu
tiên nhận viện trợ từ “Kế hoạch Cứu trợ khẩn cấp AIDS của Tổng
thống” (PEPAR) trị giá 15 tỷ USD để chống lại đại dịch HIV/AIDS
trên toàn cầu.
Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 7/2010, Ngoại trưởng
Hoa Kỳ đã ký Hiệp ước đối tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về
HIV/AIDS, Chính phủ hai nước cam kết hành động để chống lại căn
bệnh HIV/AI
DS. Năm 2010, viện trợ của USAID dành cho y tế Việt
Nam là 53 triệu USD. Đây là nỗ lực rất lớn của Chính phủ hai nước
kể từ khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao.
*Về Khoa học công nghệ:
Ngày 17/11/2000 trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng
thống B.Clinton, Chính phủ hai nước đã ký kết hiệp định về hợp tác
khoa học và công nghệ.
Cuối năm 2010, Hoa Kỳ đã ký Biên bản với Cục Khoa học
Công nghệ và môi trường thuộc Bộ Quốc phòng về việc khắc phục
hậu quả CĐDC, hợp tác tẩy độc dioxin quanh sân bay Đà Nẵng vào
tháng 7/2011 và kết thúc vào tháng 10/2013.
Hợp tác về khoa học công nghệ đang được xúc tiến trong các
vấn đề chuyển giao công nghệ, thăm dò, dự báo, đào tạo… Việt Nam
đã tiếp nhận một trung tâm dự báo biến đổi khí hậu do Chính phủ
Hoa Kỳ hỗ trợ. Hai bên đang tiếp tục bàn thảo để hợp tác trong một
số lĩnh vực về khoa học kỹ thuật mà Việt Nam quan tâm.
Những chuyển biến lớn nhất trong quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ những năm đầu thế kỷ XXI là sự gia tăng mật độ và cường độ các
cuộc gặp cấp cao hàng năm với nhiều giải pháp thúc đẩy hợp tác toàn
diện. Với những chuyến thăm của Tổng thống B.Clinton (năm 2000),
Tổng thống G.W.Bush (năm 2006) tới Việt Nam;
Thủ tướng Phan
Văn Khải (năm 2005), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (năm
2007), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (năm 2008 và 2010), Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang (2011) thăm Hoa Kỳ đã thăm Hoa Kỳ đã tăng
cường quan hệ giữa hai nước. Về kinh tế - thương mại, khi Việt Nam
và Hoa Kỳ ký hiệp định thương mại song phương năm 2000, kim
15
ngạch buôn bán giữa hai nước đạt 1 tỷ USD, và tăng lên mức 1,5 tỷ
USD năm 2001, nhưng đến năm 2010 con số này đã tăng lên 18,6 tỷ
USD, 6 tháng đầu năm 2011 đạt 9,938 tỷ USD. Về giáo dục, hiện có
hơn 14.000 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ, Việt Nam
chủ trương tiếp tục tạo điều kiện tốt cho sinh viên đại học cũng như
sau đại học sang Hoa Kỳ học tập. Hai
nước tiếp tục tích cực hợp tác
trong lĩnh vực hỗ trợ nhân đạo, phòng chống thiên tai, y tế, văn
hoá…. Đại sứ quán Hoa Kỳ tham gia hỗ trợ người dân Việt Nam bị
thiệt hại bởi lũ lụt ở miền Trung, hỗ trợ Hà Nội trùng tu Ô Quan
Chưởng nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Ngày 23 -
24/10/2011 Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam lần đầu tiên đã
biểu diễn trước hơn 1.0
00 khán giả Hoa Kỳ với những tác phẩm âm
nhạc đặc sắc của Việt Nam và thế giới.
2.2 Những vấn đề còn tồn tại trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
những năm đầu thế kỷ XXI:
2.2.1 Vấn đề Nhân quyền:
Trong những năm qua chi phối mạnh nhất trong tuyên truyền
và vận động chống Việt Nam chính là các nhóm thù địch, tập hợp
trong các tổ chức chính trị phản động
(như Chính phủ Việt Nam tự
do của Nguyễn Hữu Chánh, Đảng nhân dân hành động của Nguyễn
Sĩ Bính, Nguyễn Xuân Ngãi…), các hội hữu ái (Hội cựu tù nhân
chính trị ở các địa phương, Hội hữu ái không quân, hải quân…), các
tổ chức tôn giáo (Tin lành, Công giáo, Phật giáo, Cao đài, Hoà
hảo…), các tổ chức nhân quyền (Uỷ ban tự do tôn giáo cho Việt
Nam, Tổ chức cứu người vượt biên SOS, một số tổ chức người
Thượng…). Hoạt động c
hống Việt Nam được tiến hành trên diện
rộng, từ gây rối, bạo loạn trong nước, vận động chống chế độ Việt
Nam đến vu cáo Việt Nam trong vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo.
Trong những năm gần đây Hoa Kỳ gia tăng việc gắn vấn đề nhân
quyền, tự do tôn giáo và quyền dân tộc thiểu số để gây sức ép với
Việt Nam. Bọn phản động lưu vo
ng, trong đó có Ksor Kok, lợi dụng
sự nhẹ dạ cả tin của đồng bào dân tộc, đã lừa gạt họ chạy sang
Campuchia, gây bạo loạn tại Tây Nguyên (năm 2002). Nhiều nhóm
Việt kiều cực đoan ở Hoa Kỳ tiếp tục tìm cách vận động Quốc hội
16
Hoa Kỳ ra các nghị quyết “phê phán” tình hình nhân quyền ở Việt
Nam và đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan
tâm đặc biệt về tôn giáo”.
Việc vẫn tồn tại những khác biệt về dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo là điều bình thường giữa hai quốc gia có thể chế chính trị, lịch
sử, truyền thống và trình độ phát triển kinh tế khác nhau.
2.2.2 Vấn đề Chất độc da cam:
Chiến tranh đã kết thúc
hơn 35 năm, nhưng đến nay nhiều
người Việt Nam vẫn đang tiếp tục phải gánh chịu hậu quả do chiến
tranh để lại.
Trong vòng 10 năm (1961 – 1971) quân đội Hoa Kỳ đã rải
khoảng 80 triệu lít các chất diệt cỏ trong đó có tới 61% chất da cam
đã được rải xuống khoảng 17% diện tích toàn Miền Nam Việt Nam
tương đương với khoảng 366 kg dioxin nhằm huỷ diệt cây cối để
phát hiện vị trí đóng quân
của quân đội Việt Nam. Đã có khoảng 4,8
triệu người dân Việt Nam bị phơi nhiễm CĐDC, trong đó có hơn 3
triệu người đang phải chịu đựng những nỗi đau thể xác.
Tháng 3/2000 trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống
B.Clinton, Hoa Kỳ đã đồng ý hợp tác nghiên cứu về tác hại của CĐDC.
Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng
thống G.W.Bush tháng 10/2006
hai bên đã ra bản Tuyên bố chung “Hoa Kỳ và Việt Nam đều nhất trí đẩy
mạnh hơn nữa nỗ lực hợp tác nhằm chỉ ra khu vực môi trường bị nhiễm
độc gần với nơi có chứa dioxin trước đây. Điều đó sẽ là đóng góp có giá
trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh hợp tác song phương giữa hai nước”.
Năm 2007, Quỹ Ford đã tuyên bố thà
nh lập và tài trợ Nhóm đối thoại
Mỹ - Việt về CĐDC với mục tiêu tìm kiếm các biện pháp giải quyết
những hậu quả về con người và môi trường do chất độc hoá học gây ra
tại Việt Nam. Ngày 8 - 9/8/2011, Hội Nạn nhân chất độc da cam Việt
Nam đã tổ chức Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất độc da cam lần thứ II,
vào dịp kỷ niệm 50 năm thảm họa
da cam Việt Nam (10/8/1961 -
10/8/2011).
Vấn đề CĐDC trước đây được xem là một trong những điểm
nhạy cảm và tế nhị trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, nhưng cùng
với đà phát triển quan hệ của hai nước, Việt Nam và Hoa Kỳ cũng đã
cởi mở hơn khi đề cập đến vấn đề này.
17
2.2.3 Vấn đề POW/MIA:
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt hơn 35 năm, song
những hậu quả để lại vẫn còn nặng nề và day dứt trong lòng cả xã hội
Việt Nam và xã hội Hoa Kỳ.
Vấn đề tù binh Hoa Kỳ ở Việt Nam (POW): Theo tinh thần và
nội dung của Hiệp định Paris (1973) Việt Nam đã trao trả hết toàn bộ
tù binh Hoa Kỳ bị bắt và giam giữ ở Việt Nam. Nhưng đến tháng
1/1993 khi Uỷ ban về POW/MIA của Thượng viện Hoa Kỳ công bố
bản báo cáo khẳng định rằng không có một bằng chứng nào chứng tỏ
có tù binh Hoa Kỳ còn sống và bị giam giữ ở Đông Nam Á thì vấn đề
POW mới thật sự kết thúc. Chính phủ Hoa Kỳ đã tập trung phối hợp
tìm kiếm tin tức về MIA và hài cốt, di vật của người bị chết (KIA).
Vấn đề Người Mỹ mất tích trong chiến tr
anh (MIA) ở Việt Nam
luôn là vấn đề thời sự, trong nhiều năm qua là một trong những yếu
tố tác động tới quan hệ giữa hai quốc gia bởi tính chất nhạy cảm về
nhân đạo và chính trị.
Đến nay, hai nước đã tiến hành được 915 đợt trao trả hài cốt
(năm 2010). Trước sau như một, với lòng nhân đạo, Chính phủ và
nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình để giải quyết các vấn đề về
MIA. Hoa Kỳ đã nhiều lần thừa nhận v
à đánh giá cao sự hợp tác có
hiệu quả về vấn đề này.
Ngược lại, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cũng cho phép Việt Nam
tiếp cận hệ thống dữ liệu về chiến tranh Việt Nam để Chính phủ Việt
Nam có thêm cơ sở cho việc tìm kiếm những người Việt Nam còn
mất tích trong chiến tranh. Các tổ chức cựu binh Hoa Kỳ đã cung cấp
nhiều thô
ng tin liên quan đến bộ đội Việt Nam mất tích và hỗ trợ tài
chính để nâng cao khả năng nhận dạng hài cốt.
2.2.4 Cộng đồng Người Việt Nam ở Hoa Kỳ:
Cộng đồng Người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và ở Hoa
Kỳ nói riêng đều là một bộ phận của dân tộc Việt Nam. Đạo lí người
Việt Nam ta có câu “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, Đảng và Nhà
nước
ta đã và đang tạo điều kiện cho Việt kiều có cơ hội đóng góp vào sự
nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Hiện nay có khoảng 68% người Việt có quốc tịch Hoa Kỳ. Đây
18
là cộng đồng người Việt lớn nhất ở nước ngoài chiếm tới hơn một
nửa tổng số người Việt trên toàn thế giới với khoảng 1,5 triệu người
Việt đang sinh sống và làm việc tại Hoa Kỳ. Đại bộ phận trong cộng
đồng này đều cố gắng duy trì bản sắc văn hóa, tính dân tộc của người
Việt Nam, nỗ lực trong việc góp phần thúc đẩy
bình thường hóa quan
hệ song phương. Hàng năm có khoảng trên dưới 300.000 lượt kiều
bào về nước thăm thân, du lịch, hợp tác đầu tư kinh doanh, trong đó
có khoảng 200 lượt chuyên gia, tri thức kiều bào về nước tham gia
nghiên cứu giảng dạy, giáo dục đào tạo đại học, trên đại học, hợp tác
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ … Trên 200 dự án Kiều
bào từ Hoa Kỳ đầu tư về nước với tổng vốn gần 3
tỉ USD. Năm 2010,
trong tình hình kinh tế thế giới còn khó khăn nhưng lượng kiều hối từ
các nơi trên thế giới gửi về Việt Nam vẫn ở mức gần 8 tỷ USD, kiều
hối gửi về từ Hoa Kỳ chiếm hơn 60% trong tổng số này. Ngày càng
nhiều kiều bào về nước tham gia vào các hoạt động giao lưu văn hoá,
biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao, du lịch hoặc hoạt động từ
thiện, nhân đạo giúp đỡ đồng bào bị thiên tai, ủng hộ quỹ vì người
nghèo, giú
p xây dựng trạm xá, trường học, cầu đường dân sinh ở
vùng sâu, vùng xa … những việc làm đó là rất đáng trân trọng.
2.3 Đánh giá khái quát quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời
gian qua:
2.3.1 Những thuận lợi trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ:
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ từ ngày chính thức thiết lập tới nay đã
được 16 năm
(7/1995 - 7/2011), một khoảng thời gian không dài so với
lịch sử mỗi nước, nhưng lại là một khoảng thời gian vô cùng ý nghĩa đối
với hai quốc gia đã từng là cựu thù của nhau trong quá khứ. Có nhiều yếu
tố thuận lợi trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ:
1. Lợi ích duy trì hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực
Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương. Đây là điểm tương
đồng lâu dài và lớn nhất về lợi ích giữa hai nước.
2. Trải qua ba đời Tổng thống
Hoa Kỳ là B.Clinton, G.W.Bush
và B.Obama, lãnh đạo hai nước đều quyết tâm thúc đẩy quan hệ song
phương nhằm đạt được các lợi ích chung về kinh tế, thương mại, đầu
tư, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo, an ninh quốc phòng, chống
khủng bố, giải quyết các vấn đề nhân đạo.
19
3. Trong quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam – Trung Quốc, Hoa Kỳ
vẫn coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Ngược lại, Hoa Kỳ
coi Việt Nam có vai trò quan trọng trong trật tự chính trị, quân sự
đang hình thành ở Châu Á – Thái Bình Dương. So với thăng trầm
trong quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc, quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam có
nhiều triển vọng để phát triển quan hệ hai nước lên mức cao và rộng
hơn lên một tầm cao mới.
4. Yếu tố T
rung Quốc: Những thách thức của Trung Quốc về
vấn đề Biển Đông trong thời gian qua đã tạo mối quan tâm chiến
lược chung giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tranh chấp chủ quyền biển
đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có từ lâu nhưng việc công bố
đường lưỡi bò đòi cho Trung Quốc 80% Biển Đông đã xâm phạm
vào Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đối với Hoa Kỳ, đây
là
một đòi hỏi quá đáng và “không phù hợp với luật quốc tế” bởi nếu
đường lưỡi bò được công nhận sẽ biến Biển Đông thành “cái hồ” của
Trung Quốc, tạo cản trở cho quyền tự do lưu thông hàng hải của Hoa
Kỳ trên vùng biển này. Tại APEC 19 (tháng 11/2011) Ngoại trưởng
Hoa Kỳ khẳng định, Hoa Kỳ tiếp tục hợp tác với tất cả các nước liên
quan đó
ng góp vào tự do hàng hải, ủng hộ việc giải quyết hoà bình
các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông trên cơ sở tôn trọng Luật pháp
quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm
1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phản đối
việc sử dụng vũ lực, ủng hộ các nước có quyền khai thác tài nguyên
trong vùng đặc quyền ki
nh tế của mình, hoan nghênh các nỗ lực tiến
tới hình thành Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
2.3.2 Những khó khăn trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ:
1. Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có nhiều khác biệt trong đó khác
biệt lớn nhất là thể chế chính trị giữa hai nước. Thể chế chính trị
TBCN của Hoa Kỳ khác với thể chế chính trị XHCN của Việt Nam
do đó lợi dụng
những vấn đề như tôn giáo, nhân quyền, một bộ phận
nhỏ trong giới cầm quyền Hoa Kỳ đã can thiệp vào quan hệ với Việt
Nam, gây ra không ít trở ngại trong phát triển quan hệ giữa hai nước
trong thời gian qua.
2. Sự nghi kỵ lẫn nhau: Do có sự đối đầu trong chiến tranh nên
trong mối quan hệ này, Việt Nam luôn cảnh giác trước Hoa Kỳ về
20
nguy cơ “diễn biến hoà bình” hoặc “âm mưu lợi dụng quyền tự do
dân chủ”. Quá khứ chiến tranh tiếp tục là một trở ngại không nhỏ
trong xây dựng và phát triển quan hệ hai nước. Ngày 12/5/2011
Chính phủ Hoa Kỳ đã tuyên bố với báo chí: “Từ ngày 13/6/2011 tại
thư viện Tổng thống Nixon ở California sẽ công khai bộ tài liệu tối
mật có thể tích 104.772 cm3 về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ giai
đoạn 1945 – 1967: nghiên cứu do Bộ Quốc phò
ng soạn thảo. Đây là
bộ tài liệu được soạn thảo theo lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Hoa Kỳ lúc bấy giờ là R.McNamara, ông đã phê duyệt tài liệu này
năm 1967. Bộ tài liệu được công khai giúp dư luận hiểu thêm về
quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, về cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt
Nam, là một đóng góp vào quá trình gác lại quá khứ, hướng tới tương
lai trong việc phát triển qua
n hệ giữa hai nước”.
3. Yếu tố Trung Quốc: Vì quyền lợi chiến lược, Trung Quốc
không muốn có một quan hệ hợp tác chặt chẽ Việt Nam – Hoa Kỳ ở
sát biên giới phía Nam của mình. Cả Hoa Kỳ và Việt Nam không
nước nào muốn khiêu khích với Trung Quốc. Nếu đối với Hoa Kỳ,
quan hệ thân hữu với Trung Quốc là một điều nên làm thì đối với
Việt Nam đó là một điều cần làm
. Là một nước nhỏ có biên giới với
một nước khổng lồ với một quan hệ lịch sử phức tạp, trong khi bang
giao với Hoa Kỳ, Việt Nam phải có những lựa chọn tế nhị vừa thắt
chặt quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, vừa đòi Trung Quốc tôn trọng
quyền tự chủ của Việt Nam trong quan hệ ngoại giao với các nước
khác nhằm mục tiêu bảo vệ chủ qu
yền và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Nhìn chung, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những năm đầu thế
kỷ XXI đã phát triển mạnh mẽ, tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn
nhau theo hướng hợp tác toàn diện trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Chương 3:
TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ
3.1 Triển vọng quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ:
3.1.1 Chiều hướng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ:
Để đánh giá triển vọng về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cần
dựa trên sự phân tích theo hướng vận động của các nhân tố chi phối
21
chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Các nhân tố tác động có thể chia thành hai nhóm:
- Nhân tố khách quan: bao gồm bối cảnh thế giới và tình hình
Châu Á – Thái Bình Dương.
- Nhân tố chủ quan: là các tính toán lợi ích của Hoa Kỳ và của
Việt Nam trong quan hệ hai nước.
Đối với Hoa Kỳ, chính sách với Việt Nam nằm trong tổng thể
chính sách Châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời có tính đến những
đặc điểm địa chính trị thuận lợi của Việt Nam trong khu vực.
Ngày
8/2/2011 Hoa Kỳ đã chính thức công bố văn kiện về
chiến lược quân sự quốc gia 2011 trong đó đối với khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, Hoa Kỳ xác định “Hoa Kỳ vẫn sẽ tiếp tục duy trì
sự hiện diện quân sự mạnh mẽ ở Đông Bắc Á như trong nhiều thập
kỷ. Nhưng Hoa Kỳ cũng sẽ đầu tư hơn nữa sự chú ý vào Đông Nam
Á và Nam Á, các tổ chức như ASEAN và các diễn đàn đa phương
khác nhằm
duy trì một sự hiện diện bền vững, đa dạng và sự tiếp cận
đầy đủ trong các hoạt động của khu vực".
Tháng 11/2011, APEC 2011 - Hội nghị cấp cao lần thứ 19
của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương diễn ra tại
Honolulu, Hawaii – Hoa Kỳ, Ngoại trưởng Hilary Clinton khẳng định
"Cũng như cách mà Hoa Kỳ đã đóng vai trò trung tâm trong việc
hình th
ành nên cấu trúc trên khắp Đại Tây Dương – và để đảm bảo
rằng nó hiệu quả cho chúng tôi và tất cả mọi người – chúng tôi giờ
đây triển khai điều tương tự với Thái Bình Dương.” Chiến lược này
của Hoa Kỳ dựa trên 6 trụ cột: i) Tăng cường các quan hệ đồng minh
song phương; ii) Tăng cường quan hệ với các quốc gia mới nổi (trong
đó có các nước ASEAN và Trung Quốc); iii) Tăng cường can dự tại
các thể chế khu vực (ASEAN, ARF…);
iv) Mở rộng thương mại và
đầu tư trong khu vực; v) Tăng cường hiện diện quân sự tại khu vực;
vi) Thúc đẩy dân chủ và nhân quyền. “Tuyên bố Honollu - hướng tới
một nền kinh tế khu vực” đã được các lãnh đạo của Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) thông qua ngày
14/11/2011 trong đó thống nhất giảm thuế hải quan để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thế giới.
22
Như vậy có thể thấy Chính quyền B.Obama tiếp tục theo đuổi
mục tiêu: (i) Tăng cường vị thế, ảnh hưởng và bảo vệ lợi ích của Hoa
Kỳ ở khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng; (ii) Ngăn các nước lớn
khác giành ảnh hưởng và đe doạ lợi ích của Hoa Kỳ ở khu vực.
3.1.2 Chiều hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam:
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam
(1/2011) nhấn mạnh “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ ng
hĩa giàu mạnh. Nhiệm
vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi
cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất
nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Căn cứ vào các
cơ sở lợi ích và chính sách nêu trên cho thấy,
việc phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ là nhu cầu chung của cả
hai bên. Việt Nam cần mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ, ngược lại Hoa
Kỳ cũng coi trọng tăng cường quan hệ với Việt Nam.
Trên thực tế, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã phát triển cả
chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày 17/6/2011 cuộc đối thoại Chính trị,
An ninh, Quốc phòng Việt
Nam – Hoa Kỳ lần thứ tư đã được tổ chức
tại Hoa Kỳ để thảo luận các vấn đề an ninh song phương và khu vực.
Hai bên cũng thảo luận việc nâng tầm quan hệ song phương hướng
tới “quan hệ đối tác chiến lược”, một chủ đề về quan hệ đã được tái
khẳng định trong chuyến thăm của Ngoại trưởng H.Clinton tại Việt
Nam
vào tháng 10/2010. Trong Tuyên bố nhân kỷ niệm ngày Quốc
khánh Việt Nam (2/9/2011) Ngoại trưởng Hoa Kỳ H.Clinton viết:
"Mối quan hệ của chúng ta (Hoa Kỳ và Việt Nam) dựa trên sự tôn
trọng lẫn nhau và cùng nhau cam kết tăng cường ổn định và thịnh
vượng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục là
bạn và đối tác của Việt Nam khi chúng ta cùng tạo ra một tương lai
mới cho sự hợp tác của khu vực và toàn cầu”. Tại Hội nghị APEC
19
23
(tháng 11/2011), Chủ tịch nước Việt Nam đã có cuộc tiếp xúc với
Ngoại trưởng Hoa Kỳ, hai bên cùng mong muốn thúc đẩy quan hệ hai
nước phát triển trên nhiều lĩnh vực, trong đó có việc nâng tầm quan
hệ, hướng tới quan hệ đối tác chiến lược.
Để tiến trình xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa hai
nước ngày càng phát triển thì điều quan trọng nhất là phải xây dựng
lòng tin giữa hai nước, tiến hành trao
đổi thẳng thắn về nhiều lĩnh
vực nhằm thúc đẩy nhanh hơn tiến trình hợp tác quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ.
3.2 Các nhân tố chi phối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời
gian tới:
Nhìn lại quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ có thể nhận thấy những nhân tố thúc đẩy sự thiết lập lại quan hệ
giữa hai nước tiếp tục vận động cùng chiều và ngày càng trở nên rõ
ràng hơn. Bê
n cạnh đó sự vận động nội tại của cả hai nước cũng tạo
ra những tiền đề mới để quan hệ giữa hai bên có triển vọng ngày
càng tốt đẹp có thể theo chiều hướng sau:
Quan hệ chính trị tiếp tục khởi sắc nhờ sự ủng hộ của chính
giới Hoa Kỳ ngày càng tăng, một số vấn đề còn trở ngại như sự mặc
cảm v
à chống đối của một bộ phận Việt Kiều đang được tháo gỡ
bằng các chính sách cởi mở hơn của Việt Nam. Bên cạnh đó việc
Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong diễn đàn
chính trị thế giới và trong ASEAN cũng sẽ tạo điều kiện để hai nước
tiếp tục có những trao đổi về mục tiêu an ninh và sự thịnh vượng của
thế giới n
ói chung và khu vực nói riêng.
Quan hệ thương mại tiếp tục phát triển nhanh chóng tạo cơ sở
cho sáng kiến về một hiệp định tự do giữa hai nước. Với lợi thế của
những ngành sử dụng nhiều nhân công và nhu cầu của một thị trường
đang công nghiệp hoá, nền kinh tế Việt Nam sẽ thu được nhiều lợi
ích từ thị trường Hoa Kỳ.
3.3 Một số kiến nghị về chính sách của Việt Nam đối với qu
an hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời gian tới:
Khi xử lý các vấn đề phát sinh trong quan hệ Việt Nam – Hoa
Kỳ cần hết sức thận trọng và tỉnh táo theo phương châm “dĩ bất biến,
24
ứng vạn biến”, đảm bảo nguyên tắc: lợi ích dân tộc, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ. Mặt khác cần nhận thức được vị thế của Hoa Kỳ
trên thế giới, những mối quan tâm chiến lược của Hoa Kỳ ở Châu Á
và Đông Nam Á để xử lý các vấn đề nhạy cảm.
Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ những năm đầu thế kỷ XXI đã
được xây dựng trên cơ sở lợi ích lâu
dài, hai bên đang cùng nhau
hướng tới một chương mới trong lịch sử, góp phần duy trì hoà bình,
ổn định và phát triển tại Châu Á Thái Bình Dương.
KẾT LUẬN
Nhìn lại chặng đường mười sáu năm qua, quan hệ Việt Nam
– Hoa Kỳ đã có những bước tiến lớn, mang lại lợi ích thiết thực
cho hai nước, góp phần duy trì hoà bình, ổn định và phát triển ở
khu vực Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương. Với những nỗ
lực của cả đôi bên, đến
nay hai nước đang phấn đấu đưa quan hệ
lên tầm cao mới.
Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng phát triển dựa trên sự
tôn trọng, bình đẳng và hợp tác của cả hai bên trên rất nhiều phương
diện: chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục, an ninh, quốc
phòng, các vấn đề nhân đạo như MIA, giải quyết hậu quả CĐDC,
hợp tác trong khu vực và toàn cầu về ứng phó với biến đổi khí hậu,
chống khủng bố và không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Trong thời gian qua, thông qua các cuộc đối thoại cởi mở
thẳng thắn, hai nước đã có những cố gắng để tìm được tiếng nói
chung trong việc giải quyết những bất đồng, những tồn tại như vấn đề
dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hay các cuộc tranh chấp thương mại
(như vụ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá ba
sa và tôm ) và bước
đầu cũng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Trong những năm tiếp theo, Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục
củng cố quan hệ hợp tác song phương trên nhiều phương diện, đó là
mối quan hệ đối tác chiến lược sống động dựa trên sự tôn trọng lẫn
nhau, hợp tác, bình đẳng, mang lại lợi ích cho hai nước.