Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Thời báo kinh tế Việt Nam và công cuộc hội nhập quốc tế ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.22 KB, 111 trang )


1
















































Đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn




Lê quốc bình




Thời báo kinh tế việt nam và công cuộc

hội nhập quốc tế ở n-ớc ta


chuyên ngành : quan hệ quốc tế học
mã số: 60.31.40



luận văn thạc sĩ ngành quốc tế học




Ngi hng dn khoa hc

Pgs.TS. lê thanh bình









hà nội- 2008


2
MỤC LỤC


Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
04


1. Ý nghĩa khoa học và lý do chọn đề tài luận văn

04

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

07

3. Đối tƣợng nghiên cứu

10

4. Phƣơng pháp nghiên cứu và cấu trúc đề tài

10

Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ VỚI CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN
QUỐC GIA


12


1- Lý luận chung về báo chí và hội nhập

12
1.1 - Báo chí gắn liền với sự phát triển lịch sử xã hội
12
1.2- Hội nhập và hội nhập kinh tế quốc tế
13
2- Báo chí và báo chí chuyên về kinh tế với hội nhập
21
2.1- Vai trò của báo chí thế giới với công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
21
2.2- Báo chí Mỹ và Nhật Bản
23
2.3-Báo chí Châu Âu
25
2.4- Báo chí ở Châu Mỹ La tinh
26
2.5- Báo chí ở Châu Á và ASEAN
26
3- Báo chí Việt Nam trong thời hội nhập
27
3.1- Chính sách hội nhập qua nghị quyết các kỳ đại hội Đảng
27
3.2- Quan niệm về thông tin hội nhập kinh tế quốc tế
32
3.3- Vai trò của thông tin hội nhập kinh tế trên báo chí Việt Nam
35
Chƣơng 2
VAI TRÒ CỦA THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


41

3
I- Vai trò của Thời báo Kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
41
1- Bức tranh kinh tế nhiều chiều thông qua một số chuyên mục
41
2- Vấn đề thông tin kinh tế trên Thời báo Kinh tế Việt Nam
52
II- Thời báo Kinh tế Việt Nam - Phƣơng pháp truyền tải thông tin
55
1- Phương pháp truyền tải thể loại tin
55
2- Loại bài phản ánh và phương thức thể hiện
58
3- Cách thức trình bày kiểu loại bài phỏng vấn
59
4- Cách thức trình bày dạng phóng sự điều tra
61
5- Chuyên luận - kiểu bài đánh giá, nhận định về những vấn đề kinh tế chiến
lược trong giai đoạn hội nhập

65
6- Sự định hình và những đặc trưng riêng của thông tin về hội nhập kinh tế
quốc tế trên Thời báo Kinh tế Việt Nam

72
Chƣơng 3
ĐỔI MỚI THÔNG TIN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRÊN THỜI BÁO

KINH TẾ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI


76
I- Hoàn cảnh mới và yêu cầu mới
76
II- Thời báo Kinh tế Việt Nam - những ƣu điểm
77
III- Nhận xét về hạn chế và giải pháp bƣớc đầu
82
1- Những mặt hạn chế
83
2- Những giải pháp bước đầu
85

KẾT LUẬN

92

PHỤ LỤC


95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
110



4
PHẦN MỞ ĐẦU

I – Ý nghĩa khoa học và lý do chọn đề tài luận văn:
Hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan của thời đại chúng ta. Trên tất
cả các phƣơng tiện thông tin đại chúng nói riêng, trong đời sống xã hội nói
chung, những cụm từ nhƣ “toàn cầu hoá”, “hội nhập kinh tế quốc tế” ngày
càng trở nên phổ biến, thông dụng. Ngay trong văn kiện Đại hội IX của
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế
khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy
hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau. Quan hệ song
phương và đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh
tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các
đại dịch ”. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa
hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của
các nƣớc đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế công
bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cƣờng quốc kinh tế, các công ty
xuyên quốc gia. Đối với nƣớc ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong
thời gian tới đƣợc nâng lên một bƣớc mới, gắn với thực hiện các cam kết
quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải đủ sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và
khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân
công lao động quốc tế Trong phần quan điểm phát triển của Chiến lƣợc
Đảng ta cũng chỉ rõ: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và khẳng định thêm: “Độc lập tự chủ về
kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế
quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập, tự
chủ ”. Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ, trƣớc hết là độc lập, tự chủ về
đƣờng lối phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công

5
nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở
vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức
cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; giữ

vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng
phó đƣợc với những tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu
quả các cam kết hội nhập quốc tế. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả, không
ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao
hiệu quả hợp tác với bên ngoài; tăng cƣờng vai trò và ảnh hƣởng của nƣớc ta
đối với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đại hội IX cũng đề ra những định
hƣớng và nhiệm vụ rõ ràng về: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc
tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường. Chính phủ cùng các bộ ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây
dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và
chương trình hành động cụ thể phát huy tính chủ động của các cấp, các
ngành và các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế”. Trong quá trình
toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ hiện nay nhất là khi Việt Nam chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) thì
nhiệm vụ phải đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập và phát triển nền kinh
tế đất nƣớc đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp bách đòi hỏi chúng ta phải
huy động sức mạnh tổng lực của cả dân tộc, trên mọi lĩnh vực. Trong Nghị
quyết số 07/NQ-TW về một số nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế thì nội dung đầu tiên trong 9 nhiệm vụ Đảng ta nhấn mạnh đó

6
là: “Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các
tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng
lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất, nhất quán về
hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu

dài của nền kinh tế nước ta, nâng cao niềm tin và khả năng cũng như quyết
tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ”. Từ nghị quyết
của Đảng, ta thấy rằng công tác tuyên truyền, truyền thông có một vị trí then
chốt, ảnh hƣởng rất lớn đến hiệu quả của quá trình hội nhập quốc tế trong đó
báo chí nói chung, báo chí chuyên về kinh tế nói riêng đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Trong bối cảnh mới của đất nƣớc giai đoạn hội nhập nền kinh tế,
hiển nhiên là báo chí chuyên về kinh tế sẽ trở thành một “kênh” thông tin
chính thống mang tính chuyên biệt không thể thiếu. Báo chí kinh tế không
chỉ mở cánh cửa ra các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, kéo gần
những bức tranh kinh tế đa dạng, muôn màu sắc của thế giới phơi bày trên
trang báo Việt đồng thời nó còn góp phần cung cấp những thông tin cần
thiết, quan trọng để bạn bè năm châu hiểu rõ hơn về toàn cảnh kinh tế Việt
Nam, gián tiếp mời gọi và “tƣ vấn” cho họ cách thức đầu tƣ hiệu quả. Giữa
vô số những vấn đề liên quan đến báo chí kinh tế trong giai đoạn hội nhập
nhƣ: Báo chí Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển; Vai trò của báo
chí kinh tế trong thời kỳ hội nhập; Những kinh nghiệm làm báo trong điều
kiện kinh tế thị trƣờng; Mối quan hệ giữa báo chí với doanh nghiệp và doanh
nghiệp với báo chí chúng tôi đã quyết định lựa chọn một đề tài luận văn tốt
nghiệp tƣơng đối hẹp, có đối tƣợng nghiên cứu cụ thể (gần gũi với môi
trƣờng công việc gắn với bản thân hàng ngày) mang tên: “Thời báo kinh tế
Việt Nam và công cuộc hội nhập quốc tế ở nước ta”. Hi vọng với đề tài
này, các nhà hoạch định chính sách, các nhà chuyên môn, các nhà quản lý
kinh tế sẽ có thêm một tài liệu hữu ích để tham chiếu trong việc xây dựng

7
chính sách của mình nhằm mục tiêu phục vụ công cuộc hội nhập và phát
triển kinh tế đất nƣớc. Ngƣời thực hiện đề tài cũng mong muốn tạo ra đƣợc
một cách thức mới trong việc tiếp cận ấn phẩm báo chí kinh tế để đồng
nghiệp, bạn bè cùng tham khảo, trao đổi nâng cao kinh nghiệm hoạt động
nghiệp vụ; để những ngƣời làm công tác giảng dạy và nghiên cứu về báo chí

có thêm tài liệu mới bên cạnh những gì họ đã có. Và hơn hết, việc trực tiếp
đi sâu vào khảo sát một tờ báo kinh tế cụ thể sẽ giúp chúng tôi rút ra đƣợc
những kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tờ báo
chuyên về kinh tế và bản thân đối tƣợng đƣợc nghiên cứu là Thời báo Kinh
tế Việt Nam.
II - Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về vai trò của lĩnh vực thông tin, truyền thông nói chung;
báo chí nói riêng đối với công cuộc hội nhập quốc tế đã trở thành đề tài hấp
dẫn trong nhiều công trình của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, cán bộ
giảng dạy, nhà báo tại những trƣờng đào tạo báo chí, những cơ quan quản lý
thông tấn và các tòa soạn. Những công trình ấy không chỉ có ích đối với sinh
viên ngành báo chí, các phóng viên, biên tập viên, ngƣời làm công tác quản
lý báo chí mà còn là tài liệu nghiên cứu, phục vụ cho công tác giảng dạy
chuyên ngành báo và những ai quan tâm đến báo chí trong thời đại ngày nay.
Theo nhƣ những tài liệu mà chúng tôi có thì nội dung của các công trình
nghiên cứu khá phong phú, đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề nhƣ: Những
thao tác nghiệp vụ trong quá trình xây dựng tác phẩm báo chí hiện đại; Tiếp
cận công chúng báo chí từ góc nhìn xã hội học và kinh tế học; Nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ chuyên ngành trên báo chí; Những đóng góp của các tờ báo
trƣớc đây vào sự phát triển của truyền thông đại chúng Việt Nam hiện nay;
Trách nhiệm xã hội và trách nhiệm đạo đức của nhà báo; Vai trò của nhà báo
trong thời kỳ hội nhập; Sự phát triển của các loại hình báo chí - truyền thông

8
và xu hƣớng mới của chúng; Thời cơ và thách thức của báo chí hiện nay
Một số tác giả cụ thể nhƣ PGS.TS Lê Thanh Bình trong cuốn “Quản lý và
phát triển báo chí - xuất bản” (NXB Chính trị Quốc gia, H, 2004) đã đề cập
đến các vấn đề lý luận chung về báo chí - xuất bản, nêu lên thực trạng tình
hình báo chí - xuất bản Việt Nam và thế giới những năm gần đây, từ đó đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nƣớc trong lĩnh vực báo chí - xuất bản. Cũng tác giả Lê Thanh Bình trong
chuyên khảo “Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa, xã hội” (NXB Văn
hóa Thông tin, H, 2005), bằng những nghiên cứu sâu và tƣơng đối toàn diện
về các phƣơng tiện thông tin, truyền thông đại chúng hiện đại đã khảo cứu,
phân tích nhiều vấn đề mà báo chí, truyền hình, internet cùng các hoạt động
nhƣ truyền thông kinh tế, truyền thông môi trƣờng, truyền thông văn hóa,
truyền thông dân số tham gia tích cực vào đời sống kinh tế xã hội trong
thời hội nhập. Ông cũng đã dành nhiều trang viết để xem xét, nghiên cứu, so
sánh vai trò truyền thông đại chúng một số quốc gia, khu vực trên thế giới
trong tiến trình phát triển của lịch sử. “Cơ sở lý luận báo chí” (NXB
ĐHQGHN, H, 2004) là một cuốn sách lý luận của nhà nghiên cứu, GS. Hà
Minh Đức. Đây là một cuốn giáo trình chính thức đƣợc dùng để giảng dạy
cho sinh viên chuyên ngành báo chí ở một số đơn vị đào tạo nhƣ Khoa Báo
chí (Trƣờng ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN), Học viện Báo chí Tuyên truyền,
Khoa Ngữ văn - Báo chí (Trƣờng ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP.HCM)
Cuốn sách là sự tổng hợp những kiến thức lý luận chung nhất về báo chí; vai
trò, chức năng, phƣơng pháp viết các thể loại báo chí cơ bản ở nƣớc ta. Dƣới
góc độ ngôn ngữ của từng thể loại báo chí cụ thể với những kỹ thuật triển
khai, ứng dụng linh hoạt, phong phú trong những hoàn cảnh khác nhau, cuốn
“Ngôn ngữ báo chí” (NXB ĐHQGHN, H, 2005) của tác giả Vũ Quang Hào
thực sự là chiếc chìa khóa hữu ích giúp cho ngƣời đọc đặc biệt là đối tƣợng

9
sinh viên chuyên ngành báo chí có thể tiếp cận với các bƣớc để hoàn thiện
hiệu quả một tác phẩm báo chí. Nhà báo lão thành Hữu Thọ sau mấy chục
năm gắn bó với sự nghiệp báo chí đã chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp kinh
nghiệm làm báo của mình trong những tình huống cụ thể bằng một số bài
viết sắc sảo đăng trên các tờ báo nhƣ Nhân Dân, Lao Động, Tiền Phong
(năm 2005). Nhà báo Trần Quang trong một số công trình nghiên cứu của
mình đƣợc đăng tải trong thời gian qua đã xem xét vai trò của báo chí ở tầm

vĩ mô nhƣ một tác nhân quan trọng để thúc đẩy phát triển cả kinh tế và văn
hóa, xã hội. Ông cũng là một trong số ít những tác giả đề cập đến vai trò của
thông tin kinh tế trên báo chí, cũng nhƣ việc định hƣớng thông tin ấy theo
chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nhất là trong giai đoạn đất
nƣớc đang bƣớc vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. PGS.TS Tạ
Ngọc Tấn trong cuốn sách “Truyền thông đại chúng” (NXB Chính trị Quốc
gia, H, 2004) đã cung cấp cho ngƣời đọc những hiểu biết cơ bản, có hệ
thống về các phƣơng tiện truyền thông đại chúng hiện đại, các nguyên tắc,
phƣơng pháp chính nhằm quản lý, điều hành, phát huy tốt vai trò, sức mạnh
của các loại hình phƣơng tiện truyền thông đại chúng đặc biệt là báo chí
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc. Cuốn sách cũng cung cấp
một cách khá đầy đủ về những thông tin liên quan đến hoạt động của hệ
thống báo chí trong sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội đất nƣớc. Bên
cạnh những công trình, những cuốn sách mà chúng tôi đã nêu, còn có nhiều
bài viết, công trình, ấn phẩm của các tác giả nhƣ PGS.TS Nguyễn Văn Dững
(Học viện Báo chí Tuyên truyền), PGS.TS Đinh Hƣờng, PGS.TS Dƣơng
Xuân Sơn, ThS. Bùi Tiến Dũng (Trƣờng ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN) cũng
nghiên cứu về lý luận báo chí nói chung và các nguyên tắc báo chí nói riêng.
Tuy nhiên ở tất cả các công trình này thì yếu tố lý thuyết, lý luận chung về
báo chí vẫn đóng vai trò “nhạc trƣởng” và chƣa có hẳn sự đào sâu, đầu tƣ

10
cho một đối tƣợng là một tờ báo cụ thể. Những nội dung liên quan đến thông
tin kinh tế trên báo chí dù có đƣợc nhắc tới nhƣng cũng chỉ dƣới hình thức là
dẫn chứng hay ví dụ minh họa cho những vấn đề lý thuyết, lý luận báo chí.
Thông qua việc khảo sát các công trình của nhiều tác giả đi trƣớc, chúng tôi
nghĩ rằng việc lựa chọn đề tài “Thời báo kinh tế Việt Nam và công cuộc hội
nhập quốc tế ở nước ta” là hoàn toàn mới và hy vọng sẽ có đƣợc những
khám phá, tìm tòi mới.
III - Đối tượng nghiên cứu:

Đối tƣợng tiếp cận chính của đề tài này là những ấn phẩm báo chí
chuyên về kinh tế ở Việt Nam giai đoạn tính từ sau khi Đảng ta có chính
sách đổi mới đến nay và nghiên cứu sâu, chi tiết về một tờ báo cụ thể đó là
Thời báo Kinh tế Việt Nam.
IV - Phương pháp nghiên cứu và cấu trúc đề tài
Chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu đề tài “Thời báo kinh tế Việt Nam
và công cuộc hội nhập quốc tế ở nước ta” theo thời gian đồng đại và lịch đại
tức là xem xét tờ báo trong thời điểm hiện tại và trong cả tiến trình hình
thành, phát triển và trƣởng thành của nó. Các phƣơng pháp đƣợc chúng tôi
sử dụng là thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp để từ đó khái quát thành
những nhận xét, đánh giá.
Luận văn cấu trúc gồm có 3 phần:
Phần I: Chúng tôi đi vào nội dung lý luận về vai trò của báo chí đối
với chiến lƣợc phát triển của mỗi quốc gia. Phần này dành thời gian phân
tích những lý luận chung về báo chí và vai trò của nó ở các quốc gia khác
nhau trong đó tập trung vào một số vấn đề lý thuyết, so sánh các lý luận về
vai trò của báo chí của các nƣớc trên thế giới với Việt Nam, đặc biệt nhấn
mạnh vào các tờ báo chuyên về kinh tế.

11
Phần II: Đây là phần nội dung chính của đề tài. Khai thác, đánh giá
vai trò của Thời báo Kinh tế trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Phần này tập trung vào phân tích các đóng góp cụ thể của báo chí kinh tế
đăng tải, tuyên truyền phục vụ chính sách hội nhập và phát triển của Đảng
và Nhà nƣớc. Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát cụ thể một cơ quan báo chí
trong nƣớc đó là tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam với rất nhiều các ấn phẩm
khác nhau; xem xét tôn chỉ, mục đích, đặc thù, thế mạnh của tờ báo và vai
trò thực tiễn của nó đối với công cuộc hội nhập, phát triển. Tờ Thời báo
Kinh tế Việt Nam sẽ đƣợc xem xét trong mối tƣơng quan, so sánh với các tờ
báo chuyên về kinh tế khác ở trong nƣớc, để từ đó rút ra những lợi thế, thuận

lợi và cả những hạn chế, khó khăn nảy sinh trong quá trình tờ báo hoạt động,
phát triển.
Phần III: Sau khi phân tích cụ thể từ những nguyên tắc lý luận chung
đến việc nghiên cứu chuyên khảo tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam, rút ra đƣợc
những nhận xét về thế mạnh và hạn chế của tờ báo này chúng tôi sẽ đồng
thời đƣa ra một số giải pháp cụ thể kiến nghị tới các cơ quan có thẩm quyền
và trực tiếp tới lãnh đạo tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam với mong muốn tờ
báo sẽ ngày càng phát triển, phát huy tốt hơn nữa vai trò là một tờ báo
chuyên về kinh tế hàng đầu đối với công cuộc hội nhập và phát triển của
nƣớc ta.







12
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ VỚI CHIẾN
LƢỢC PHÁT TRIỂN QUỐC GIA
1- Lý luận chung về báo chí và hội nhập
1.1 - Báo chí gắn liền với sự phát triển lịch sử xã hội
Các nhà khoa học đã chứng minh đƣợc rằng, chính lao động và ngôn
ngữ đã giúp cho tổ tiên của loài ngƣời hoàn thiện và hình thành nên con
ngƣời có ý thức. Cùng với sự hình thành, ổn định và phát triển của xã hội
loài ngƣời, nhu cầu trao đổi thông tin giữa các cộng đồng và các cá nhân
ngày càng trở nên cấp thiết. Từ những hình thức trao đổi thông tin đơn giản,
khi mà các quan hệ sản xuất, các phƣơng thức kinh tế của loài ngƣời càng
phát triển thì xã hội càng phát triển và khi ấy các hình thức thông tin cùng

phát triển tƣơng ứng: công nghệ in ra đời, báo viết đến đƣợc tay công chúng,
rồi phát thanh, truyền hình xuất hiện và ngày càng khẳng định vai trò của
mình đối với xã hội. Nhƣ vậy, ngành thông tin đại chúng trong đó có báo chí
chính là một trong những hình thái của ý thức xã hội, là sản phẩm của đời
sống kinh tế - xã hội của con ngƣời và có tác động trở lại rất quan trọng đối
với tiến trình phát triển xã hội.
Báo chí là một trong những sản phẩm phổ biến và tiêu biểu của xã hội
hiện đại. Từ đầu thế kỷ XVII cho đến nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
báo chí đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp lớn, sức tiêu thụ mở
rộng ra toàn xã hội, đặc biệt là ở các quốc gia đã tiến hành công nghiệp hóa.
Đọc báo đã trở thành một thói quen, một hình thái sinh hoạt xã hội và báo
chí là sản phẩm không thể thiếu của một cộng đồng, phần nào đó là thƣớc đo
trình độ phát triển của một đất nƣớc. Trong suốt 3 thế kỷ qua, báo chí gần
nhƣ đã hoàn thiện đƣợc việc sản xuất, không ngừng mở rộng đối tƣợng bạn

13
đọc, nghe, nhìn. Sự phát triển của báo chí gắn kiền với những thành tựu của
khoa học kỹ thuật nhƣ in ấn, thiết kế, chế bản, kỹ thuật truyền tin, ảnh ; sự
phát triển của nền giáo dục (dân trí) và mức sống đƣợc nâng cao
Báo chí vừa đƣợc coi nhƣ một sản phẩm công nghiệp lại vừa đƣợc coi
nhƣ một sản phẩm của sự sáng tạo trí tuệ. Là sản phẩm của công nghiệp, nó
phải tuân theo quy luật thị trƣờng, phải chú trọng đến việc cải tiến quản lý xí
nghiệp, kỹ thuật thiết kế, chế bản, chất lƣợng giấy, mực, in ấn, nghiên cứu
khách hàng và coi trọng việc phát hành, quảng cáo vốn là khâu rất quan
trọng vì nó tốn kém. Là sản phẩm của trí tuệ, nó phải chú trọng đến thị hiếu
ngƣời đọc, luôn cải tiến hình thức diễn đạt và trình bày. Chức năng xã hội
của báo cũng rất đa dạng. Ngoài việc truyền đạt thông tin, báo chí giúp cho
độc giả có kiến thức tổ chức thời gian sinh hoạt (giờ tàu, xe, thời tiết, rao
vặt, giờ các buổi biểu diễn văn hóa, giá cả, lãi suất, tiết kiệm ), giúp cho cá
nhân hòa nhập hơn vào cộng đồng xã hội. Báo chí tạo ra sự đối thoại của độc

giả với thế giới, phá vỡ nỗi cô quạnh của con ngƣời, đôi khi còn giải tỏa tâm
lý cho ngƣời đọc khi tạo ra đƣợc những giấc mơ nào đó, để quên đi những
giới hạn câu thúc và căng thẳng của đời thƣờng. Nhƣ vậy, dù là của tƣ nhân,
báo chí cũng vô hình chung làm chức năng dịch vụ công cộng.
Báo chí luôn gắn bó chặt chẽ với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của dân tộc. Do sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội nói
chung và các media (bao gồm báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình )
nói riêng của các nƣớc, các khu vực trên thế giới, lĩnh vực truyền thông đại
chúng đã hình thành nên một trật tự không bình đẳng. Nhiều nƣớc phát triển
có nền công nghiệp truyền thông mạnh đã mang tham vọng độc quyền thông
tin, chiếm lĩnh thị trƣờng văn hóa - thông tin nƣớc khác, nhất là các nƣớc
kém phát triển. Vì vậy, khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế, các nƣớc này phải có chính sách bảo vệ, củng cố bản sắc văn

14
hóa dân tộc nhằm loại bỏ các yếu tố độc hại, không phù hợp với truyền
thông của quốc gia, dân tộc mình. Cuộc đấu tranh của từng nƣớc để bảo vệ,
củng cố bản sắc văn hóa dân tộc trở thành cấp bách trƣớc sự xâm nhập ồ ạt
của các sản phẩm báo chí và truyền thông ngoại lai.
Trong từng nƣớc phƣơng Tây và trong từng doanh nghiệp báo chí in,
vấn đề trƣớc mắt sẽ là làm sao xử lý đƣợc khối lƣợng thông tin đồ sộ từng
ngày, từng phút đổ dồn đến, nhất là thông tin kinh tế. Vấn đề khác nữa là
mối đe doạ của các ngành truyền hình đang làm cho ngƣời ta ngày càng ngại
đọc báo in, nghĩa là “lƣời” động não. Cuối cùng và cũng là vấn đề muôn
thuở đó là về chất lƣợng của các tờ báo lớn, nơi thƣờng phát hiện và quy tụ
những tài năng đa dạng.
Báo chí đang ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế,
văn hoá - xã hội của mỗi đất nƣớc và cộng đồng quốc tế. Sự ra đời báo chí là
do nhiều nhân tố thúc đẩy nhƣ nhu cầu đòi hỏi thông tin trong xã hội, trình
độ văn minh của xã hội, sự phát triển tiến bộ khoa học - kỹ thuật, các yếu tố

kinh tế - chính trị Nhìn chung, báo chí của mỗi quốc gia phát triển theo
một hƣớng khác nhau, vừa chịu ảnh hƣởng, tác động của dòng chảy báo chí
thế giới với những kinh nghiệm bề dày nền văn minh nhân loại, vừa mang
những đặc điểm riêng của quốc gia và dân tộc mình. Mỗi cơ quan báo chí
đều là nơi đại diện, ngƣời phát ngôn, phản ánh quyền lợi của một hay một số
tổ chức, lực lƣợng nào đó, chẳng hạn nhƣ: các đảng phái chính trị, các tổ
chức kinh tế - xã hội, các hiệp hội thƣơng mại, nghề nghiệp, văn hoá, tôn
giáo Báo chí chịu sự chi phối của các nguyên tắc nhất định, gọi là các
nguyên tắc báo chí nhƣ tính khuynh hƣớng, tính khách quan, tính nhân dân,
tính nhân bản, tính dân tộc, tính quốc tế, tính thời đại. Báo chí có các chức
năng chính là: chức năng tƣ tƣởng (nâng cao nhận thức, tự giác cho công
chúng và cộng đồng; định hƣớng dƣ luận xã hội đúng hƣớng, lành mạnh,

15
hợp quy luật; giáo dục hình thành ý thức coi trọng văn hoá dân tộc, quảng bá
hệ tƣ tƣởng thống trị và tổ chức liên kết hành động công chúng rộng rãi);
chức năng góp phần quản lý, giám sát xã hội; chức năng khai sáng, giải trí,
thông tin các tri thức khoa học, kinh tế, văn hoá
Thực tiễn chứng minh rằng, xuất hiện từ thế kỷ XVII, nhƣng phải đến
giữa thế kỷ XIX, do nhu cầu cung cấp thông tin cho các báo về tin tức thị
trƣờng, nhờ có sự phát minh về điện tín cùng các tiến bộ khác về khoa học -
công nghệ, các hãng thông tấn chuyên lo thu thập tin tức đã ra đời; hình
thức, nội dung báo chí liên tục đƣợc hoàn thiện; quảng cáo ngày càng thâm
nhập rộng rãi trên các media nói chung và báo chí nói riêng để đáp ứng
nhu cầu cho thị trƣờng thông tin.
Có thể khẳng định, thế kỷ XX và XXI là thời đại bùng nổ thông tin,
nền kinh tế tri thức ngày càng triển vọng, nhiều loại hình báo chí mới xuất
hiện nhƣng báo in vẫn có vị trí đáng kể trong đời sống kinh tế - xã hội Có
thể rút ra một số nhận xét về các xu hƣớng đang xảy ra đối với hoạt động
báo chí là: xu hƣớng khu vực hoá, địa phƣơng hoá báo ngày, vị trí báo chủ

nhật nâng lên, đa dạng hoá báo định kỳ. Khuynh hƣớng khu vực hoá, địa
phƣơng hoá báo chí thể hiện rất rõ, do sự phi tập trung hoá của các ngành
kinh tế và sự phồn vinh của các khu vực. Có thể dẫn chứng nƣớc Pháp, quốc
gia châu Âu có nền báo chí lâu đời, nhiều khi báo địa phƣơng có vai trò
quan trọng hơn cả báo “toàn quốc” với những tin tức khu vực về mọi mặt và
các “tiểu thời sự”. Ngoài báo hàng ngày mang tính chất thông tin chung còn
có các báo hàng ngày chuyên trách về kinh tế nhƣ ở Mỹ có tờ Wall Street
Journal, ở Anh có tờ Financial Times, ở Pháp có tờ Les Echos, La Vie
Économique, hay chuyên về thể thao nhƣ tờ L’ Equipe (ở Pháp) với số phát
hành 25 vạn bản/ngày cũng rất đƣợc giới doanh nghiệp và quần chúng quan
tâm

16
1.2- Hội nhập và hội nhập kinh tế quốc tế
a/ Khái niệm hội nhập: Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
học, Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản KHXH - Trung tâm Từ điển học,
1994, không có mục từ “Hội nhập”. Xem bộ Từ điển Tiếng Việt Tƣờng giải
và Liên tƣởng, Nguyễn Văn Đạm biên soạn, Nhà xuất bản VHTT, ấn hành
năm 1993, cũng không thấy có khái niệm này. Đến Từ điển tiếng Việt, ấn
phẩm của Viện Ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ
điển học, 2000, từ “Hội nhập” đã đƣợc cập nhật với định nghĩa: Hội nhập là
“hòa mình vào một cộng đồng lớn (nói về quan hệ giữa các dân tộc, các
quốc gia)”. Ví dụ: Hội nhập vào cộng đồng quốc tế là một yêu cầu của thời
đại. Lần xuất bản năm 2003, mục từ “Hội nhập” vẫn đƣợc giữ nguyên nghĩa
nhƣ trên.
Trong tiếng Anh, “Hội nhập” (Integrational) với tiếp đầu ngữ, có
nghĩa: từ cái này đến cái kia. Ví dụ: international: quốc tế; interplane: giữa
các hành tinh với mặt trời. Integration, tức hội nhập, tham gia vào một cộng
đồng lớn (Từ điển Anh - Việt, Lê Khả Kế chủ biên, Nhà xuất bản TP.HCM,
2004).

Theo lý luận quốc tế học, hội nhập thuộc về hai phạm trù lịch sử và
phạm trù quan hệ quốc tế. “Hội nhập” (Integrational) là một hiện tƣợng lịch
sử xuất hiện từ lâu với dẫn chứng là sự hình thành các quốc gia, dân tộc,
cùng với nó là sự hình thành chủ nghĩa quốc gia. Nhƣ vậy, “Hội nhập” là
một phạm trù lịch sử. Trong lịch sử, hiện tƣợng này tiếp tục diễn ra nhƣng
với diễn biến khác hẳn, đó là hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế (international integrational) là hiện tƣợng xuất hiện
trong quan hệ giữa các quốc gia. Khác với hội nhập nói trên, hội nhập ngày
nay ít có khả năng dẫn đến hình thành quốc gia mới mà thƣờng là một hình
thức thể chế liên quốc gia hoặc siêu quốc gia. Hội nhập quốc tế diễn ra từ

17
sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất và đặc biệt mạnh mẽ sau khi kết thúc
Chiến tranh Lạnh. Cho đến nay, hội nhập đã trở thành một xu thế lớn trong
đời sống quốc tế, chi phối mạnh mẽ mọi quan hệ quốc tế, ảnh hƣởng sâu sắc
lên mọi quốc gia.
Ở Việt Nam, trƣớc thời kỳ đổi mới, thuật ngữ “Hội nhập các nước Xã
hội chủ nghĩa”, “Hội nhập kinh tế các nước thành viên SEV” xuất hiện dƣới
ảnh hƣởng của những nghiên cứu ở Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa
khác. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khó khăn của nƣớc ta khi đó cộng với tính
chất một chiều trong quan hệ kinh tế Việt Nam - SEV nên việc nghiên cứu
hội nhập dƣới góc độ quốc tế học hầu nhƣ không đáng kể. Vào nửa đầu thập
kỷ 90 (thế kỷ XX), trong quá trình Việt Nam chuẩn bị gia nhập ASEAN,
thuật ngữ này bắt đầu đƣợc sử dụng rộng rãi trong các văn bản chính sách
đối ngoại, trong các công trình nghiên cứu và trên các phƣơng tiện thông tin
đại chúng. Đến khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN - bƣớc hội nhập
quan trọng đầu tiên của nƣớc ta trong thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu hội
nhập quốc tế nói chung, hội nhập Việt Nam - ASEAN nói riêng mới đƣợc
triển khai mạnh mẽ. Cho đến Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam thì
hội nhập quốc tế đã trở thành một đƣờng lối đối ngoại quan trọng.

b/ Những nội dung cơ bản của khái niệm hội nhập:
- Mọi hiện tƣợng đƣợc gọi là hội nhập đều là quá trình kết hợp các phần tử,
đơn vị vào trong một chỉnh thể nào đó. Sự kết hợp này chính là sự vận động
chủ yếu trong quá trình hội nhập. Đây là nội dung cơ bản nhất.
- Trong quan hệ quốc tế, các đơn vị cơ bản ở đây chính là quốc gia. Vì thế,
hội nhập quốc tế có thể đƣợc hiểu là quá trình kết hợp các quốc gia riêng rẽ
vào một chỉnh thể mới. Chỉnh thể ở đây là một hệ thống với cơ cấu riêng,
luật lệ riêng và những tƣơng tác liên quốc gia mới. Trong chỉnh thể này, các
quốc gia là những thành tố có sự tƣơng tác với nhau chặt chẽ, sự thay đổi

18
của quốc gia này có thể dẫn đến sự thay đổi của quốc gia kia cũng nhƣ cả hệ
thống và ngƣợc lại.
- Ở cấp độ hội nhập phổ biến hiện nay là khu vực thƣơng mại tự do, ít nhất
các quốc gia tham gia đều mất đi một phần chủ quyền là cần thiết để cơ cấu
chung có hiệu lực và đem lại những đặc tính mới cho hệ thống, có lợi cho
các nƣớc thành viên. Điều này cũng làm cho tƣơng tác liên quốc gia thay
đổi, sự phụ thuộc lẫn nhau trở nên mạnh mẽ hơn và qua đó cũng dễ đạt đƣợc
hơn. Đây là điểm thay đổi đáng chú ý nhất của các quốc gia khi tham gia hội
nhập.
Hợp tác và hội nhập không là cách biệt, cả hai đều phản ánh quá trình
tƣơng tác giữa các chủ thể trong quan hệ quốc tế nhằm cùng nhau tìm kiếm
lợi ích chung, trong đó tăng cƣờng hợp tác là cách thức duy nhất để tiến tới
hội nhập và hội nhập là hình thức cao nhất của hợp tác.
c/ Điều kiện và nguyên tắc hội nhập:
Không phải cứ kết hợp các quốc gia vào cùng một chỉnh thể nào đó
thì gọi là hội nhập. Hội nhập là một quá trình lâu dài, phức tạp và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Sự kết hợp đó phải đƣợc diễn ra trong những điều kiện phù
hợp và theo những nguyên tắc nhất định. Đây là yếu tố không thể thiếu trong
quá trình hội nhập và chúng là một phần nội dung khái niệm hội nhập. Các

nguyên tắc hội nhập quan trọng nhất đó là:
- Hội nhập phải diễn ra trong điều kiện hòa bình và nhằm mục tiêu đạt đƣợc
hòa bình. Tham gia hội nhập là vì hòa bình và phát triển.
- Bình đẳng hai hoặc nhiều bên đều có lợi là điều kiện quan trọng của hội
nhập.
- Sự cụ thể hóa điều kiện hòa bình và bình đẳng chính là nguyên tắc tự
nguyện và đồng thuận. Tự nguyện tạo nên tính bền vững, còn đồng thuận

19
đảm bảo cho sự thống nhất về ý chí, sự đoàn kết và tƣơng đồng về lợi ích -
vốn là những yếu tố tạo nên động lực hội nhập.
Tất cả các điều kiện và nguyên tắc trên đều có cùng cơ sở quy định
chung là lợi ích quốc gia. Hòa bình là lợi ích cơ bản của mọi quốc gia. Các
quốc gia tự nguyện tham gia hội nhập chỉ khi thấy đƣợc lợi ích của mình
trong đó. Tính đồng thuận là sự phù hợp giữa những lợi ích quốc gia với
nhau và với lợi ích chung của cả hệ thống. Nhƣ vậy lợi ích quốc gia chính là
cơ sở quy định tạo nên những điều kiện và nguyên tắc này. Việc đảm bảo
các điều kiện và nguyên tắc đó chính là nhằm đảm bảo lợi ích cơ bản của
quốc gia trong quá trình hội nhập.
d/ Hội nhập kinh tế quốc tế
Trong vấn đề hội nhập, có hai lĩnh vực cần phân biệt và làm rõ, đó là
hội nhập chính trị và hội nhập kinh tế. Nếu hội nhập chính trị là sự tiến tới
thiết lập một chính thể chính trị giữa các quốc gia thì hội nhập kinh tế là tiến
tới thiết lập một công đồng kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay thực chất là tự do hóa các hoạt
động thƣơng mại, tài chính, đầu tƣ với biểu hiện đan xen, gắn bó và phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia dƣới những cơ chế điều tiết
chung. Nội dung của hội nhập đƣợc thể hiện thông qua các quan hệ xuất
nhập khẩu hàng hóa và trao đổi thƣơng mại các dịch vụ ở quy mô, phạm vi
khác nhau (toàn cầu, khu vực ).

Trong cuộc hội thảo “Doanh nghiệp Việt Nam với các yêu cầu của
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” do Uỷ ban quốc gia về hội nhập kinh tế
quốc tế tổ chức, ông Trịnh Minh Anh - Phó chánh văn phòng Ủy ban quốc
gia về hội nhập kinh tế quốc tế cho rằng: Bản chất và yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay (khi chúng ta đang thực hiện lộ trình
của AFTA. Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ và đang đàm phán gia nhập

20
WTO) là gắn kết nền kinh tế Việt Nam với các tổ chức kinh tế quốc tế, là
việc Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh
tế, tài chính quốc tế, thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thƣơng mại, đầu tƣ
(gồm cắt giảm thuế quan, giảm và bỏ hàng rào phi thuế quan - tức là các
chính sách bảo hộ trong nƣớc, giảm các hạn chế đối với thƣơng mại, dịch
vụ, đầu tƣ ). Việc tuân thủ các yêu cầu về lộ trình mở cửa thị trƣờng hàng
hóa, dịch vụ, đầu tƣ và thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam
đã cam kết với các tổ chức kinh tế quốc tế lại đặt trong một yêu cầu nội tại
của Việt Nam là hội nhập chủ động nhƣng phát huy nội lực, bảo đảm độc
lập tự chủ, giữ gìn bản sắc dân tộc, tăng cƣờng sức mạnh quốc gia đặt ra
những khó khăn, thách thức vô cùng lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Các ảnh hƣởng nhìn thấy trƣớc mắt là ảnh hƣởng tới nguồn thu ngân sách
nhà nƣớc, làm mất đi sự ƣu đãi với các sản phẩm kinh doanh có điều kiện.
Sản phẩm có đặc quyền đƣợc bảo hộ hiện nay (nhƣ điện, bƣu chính viễn
thông, xăng dầu ) không thực hiện đƣợc việc thu thuế theo tỉ lệ nội địa hóa
một số sản phẩm cơ khí hiện nay. Và vì thế, đƣơng nhiên đặt các doanh
nghiệp Việt Nam vào cuộc chơi cạnh tranh cực kỳ gay gắt. (Theo bài
“Doanh nghiệp Việt Nam trong lộ trình hội nhập: Bán được hàng khó hơn
vạn lần sản xuất hàng hóa!”, Tiền phong, số 73, ngày 11/4/2002).
Đối với Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế vừa mới lạ vừa phức tạp.
Việt Nam tiến hành hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và
thế giới dƣới tác động đồng thời của những điều kiện khách quan và chủ

quan, trong đó yếu tố độc lập, tự chủ, xây dựng một nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững là động lực mạnh mẽ thúc đẩy bƣớc đƣờng hội nhập của
đất nƣớc.



21
2- Báo chí và báo chí chuyên về kinh tế với hội nhập
2.1- Vai trò của báo chí thế giới với công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập và phát triển đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới. Nó đem đến cho các quốc gia cả những mặt tích cực và tiêu cực, nó chi
phối tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, quan hệ quốc tế, truyền thông đại
chúng nói chung và báo chí nói riêng có một vị trí đặc biệt trên xa lộ thông
tin hiện đại.
Công cuộc hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát
triển và xã hội hoá các lực lƣợng sản xuất, đem lại sự tăng trƣởng kinh tế
cao; góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, nhất là tăng trƣởng trong
các chế tác và dịch vụ xã hội mà báo chí là một dịch vụ đƣợc chào đón và xã
hội yêu cầu rất nhiều một khi đời sống vật chất, tinh thần ngày càng cao.
Hội nhập quốc tế cũng gây sức ép mãnh liệt và gay gắt về sự cạnh
tranh, báo chí cũng nằm trong bối cảnh đó nên buộc phải tập trung cải tiến
các yếu tố hàng đầu nhƣ chất lƣợng, thời gian, yếu tố nâng cao giá trị gia
tăng để có sức cạnh tranh và hiệu quả cao. Mặt khác, công cuộc hội nhập
quốc tế mở ra những địa bàn mới, những thị trƣờng mới, hình thức thể hiện
và phong cách, thể loại mới trong báo chí cùng những đối tác mới, hiệu quả
mới mẻ về kinh tế và xã hội.
Thông qua nhiều nhân tố trong đó có truyền thông đại chúng mà đặc
biệt là báo chí đã góp phần thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các dân tộc,
các khu vực, kích thích các luồng và các dạng giao lƣu, làm cho con ngƣời ở
mọi châu lục ngày càng hiểu biết nhau hơn, nắm đƣợc sự kiện thời sự cập

nhật khắp nơi và có thể chủ động góp phần tác động nhanh chóng đến những
sự kiện đó.
Trong tiến trình hội nhập, báo chí đã góp phần quảng bá, chia sẻ trên
quy mô, phạm vi rộng lớn những thông tin về những thành quả mới, những

22
phát minh sáng tạo về khoa học - công nghệ, về quản lý, sản xuất, kinh
doanh - dịch vụ , đƣa kiến thức, kinh nghiệm đến với các dân tộc, thậm chí
đến từng gia đình, từng ngƣời dân, nhà khoa học, nhà quản lý tạo điều kiện
mở rộng cho nhiều ngƣời tham gia cách mạng khoa học kỹ thuật, dọn đƣờng
cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bƣớc sang giai đoạn mới của quá trình
hội nhập, nhu cầu về thông tin trong xã hội đòi hỏi mạnh mẽ và kịp thời hơn,
tức là một thế giới nơi sẽ xảy ra thông tin liên tục đƣợc phổ biến rộng rãi
trên toàn cầu. Internet, báo điện tử ngày nay chính là hình ảnh báo trƣớc về
các xa lộ thông tin trong tƣơng lai. Đó là những mạng có dung lƣợng lớn mà
mọi ngƣời có thể truy cập và mạng có khả năng truyền tải từ một vị trí đến
bất kỳ nơi nào nối mạng trên thế giới, đồng thời mọi mạng thông tin đƣợc số
hoá (giọng nói, âm thanh, văn bản, hình ảnh ). Theo ƣớc tính, lƣợng thông
tin trao đổi mỗi ngày qua các nhóm hội thoại trên Internet tƣơng đƣơng với
hàng ngàn trang báo khổ lớn.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng gây ra những tác động tiêu cực và
truyền thông đại chúng cũng góp phần vào những tác động đó, cụ thể là: Hội
nhập sẽ làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu
nghèo trong từng nƣớc và giữa các nƣớc. Riêng truyền thông đại chúng cũng
có sự phân bố không đều, bất hợp lý giữa các khu vực, các nƣớc: trong khi
rất nhiều nƣớc bị lệ thuộc thì quyền thu, phát, chi phối thông tin lại nằm
trong tay một số nƣớc lớn. Quá trình hội nhập có thể gây ảnh hƣởng, làm thu
hẹp quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của các Nhà nƣớc, các dân tộc.
Chỉ cần đƣờng lối, chính sách của một quốc gia mắc sai lầm thì tác hại của
sự tranh chấp và xung đột quyền lực sẽ thêm nặng nề, nghiêm trọng. Trong

thực tiễn, khi nền kinh tế thị trƣờng phát triển, doanh nghiệp tƣ nhân có
thêm vai trò, vị trí mới, quá trình dân chủ hoá mở rộng với sự ủng hộ, tham
gia tích cực của truyền thông đại chúng sẽ làm Nhà nƣớc thay đổi, phạm vi

23
ảnh hƣởng, điều tiết không chỉ dựa trên quyền lực mà còn dựa trên sự
thƣơng lƣợng, sự đồng thuận, sự trao đổi. Quá trình hội nhập sẽ đặt các nƣớc
đang phát triển trƣớc những thách thức mà vƣợt qua thắng lợi thì thu đƣợc
nhiều thành tựu, có thêm cơ hội phát triển, còn ứng phó thất bại thì sẽ mất
mát lớn. Mức độ phản ứng, e ngại đối với quá trình hội nhập ở các dân tộc
không giống nhau. Ngƣời ta sẽ lên án xu hƣớng hội nhập khi họ coi nó là
nguyên nhân đe doạ tiềm tàng về khả năng đồng nhất văn hoá theo tiêu
chuẩn hoá trên quy mô toàn cầu tức là nó gây ra hiện tƣợng mất gốc, mất
bản sắc và mất đi những mối quan hệ liên đới xã hội. Bên cạnh đó, một số
nhà nghiên cứu còn nêu lên một số vấn đề, đặc điểm của quá trình hội nhập
rất đáng quan tâm. Nhà nghiên cứu Salman Rushdie cho rằng: “Các nền văn
hoá phải chăng thực sự tồn tại như những thực thể tách biệt, thuần khiết, co
cụm? Trọng tâm ý tưởng hiện đại phải chăng là sự hoà quyện, pha trộn,
thêm thắt ” (Báo Le Monde ra ngày 20/3/1999).
Xu thế hội nhập quốc tế và khu vực đã hình thành từ mấy chục năm
qua và ngày càng biểu hiện rõ nét với những mối quan hệ rất đa dang và
phức tạp. Tại châu Mỹ Latinh, các sáng kiến về hội nhập khu vực đƣợc
nghiên cứu, triển khai theo hƣớng tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập
vào tiến trình toàn cầu hoá và dần đáp ứng đƣợc khá nhiều điều kiện cạnh
tranh mới nảy sinh. Ngƣợc lại, ở châu Á thì chính quá trình hội nhập với
việc nâng cao mức tăng trƣởng và trình độ phát triển kinh tế đã làm nảy sinh
cũng nhƣ thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực.
2.2- Báo chí Mỹ và Nhật Bản
Hiện nay Mỹ và Nhật là những nƣớc có nền báo chí phát triển mạnh
nhất thế giới, trong đó Mỹ bao giờ cũng chiếm ƣu thế hơn. Chƣa kể đến

những lĩnh vực nhƣ điện ảnh, quảng cáo, các phƣơng tiện nghe nhìn khác,
internet cùng những tập đoàn truyền thông khổng lồ với quy mô, phạm vi

24
hoạt động rộng rãi thì chỉ riêng vị trí đầu bảng thế giới của một số tờ báo,
tạp chí cũng đủ thấy vị trí quan trọng của báo chí trong đời sống kinh tế -
văn hóa - xã hội của quốc gia này. Những tập đoàn báo chí lớn nhƣ News
York Time hay Wasington Post là ví dụ với hàng nghìn phóng viên tinh
nhuệ đƣợc đặt ở khắp nơi, số lƣợng báo phát hành hàng ngày lên tới hàng
trăm nghìn bản, nắm trong tay hàng chục ấn bản, tạp chí, phụ san, quảng
cáo Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, nhờ có hệ thống cơ sở
hạ tầng phát triển, tiềm lực kinh tế mạnh, việc số hóa sâu rộng, báo chí Mỹ
đã thực hiện chính sách mở rộng, chiếm lĩnh thị trƣờng rất quyết liệt. Bám
sát thị trƣờng, không ngừng cải tiến để thu hút sự quan tâm của độc giả, một
số tập đoàn báo chí lớn của Mỹ đã và đang lan rộng dần tầm ảnh hƣởng
khiến cho không ít đối thủ phải lo ngại. Ở một số quốc gia đã có hiện tƣợng
báo chí, quảng cáo, phim ảnh, âm nhạc, lối sống, phƣơng thức kinh doanh
bị chi phối, ảnh hƣởng bởi văn hóa Mỹ.
Ngoài Mỹ ra, Nhật Bản cũng đƣợc xếp là một trong những cƣờng
quốc về truyền thông đại chúng nói chung, báo chí nói riêng. Từ năm 1995
trở đi, bên cạnh báo in, Nhật đã đặc biệt chú ý đầu tƣ cho lĩnh vực Multi
Media, thành lập một loạt các đài truyền hình cáp (CATV), phát triển truyền
hình vệ tinh bằng tín hiệu số, phổ cập Internet và mở rộng các dịch vụ thông
tin. Bức tranh toàn cảnh về nền kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhật Bản đã
đƣợc các phƣơng tiện truyền thông đại chúng trong đó có báo chí đƣa ra
“khoe” với bạn bè quốc tế bằng những hình thức khác nhau, phong phú, đa
dạng. Bên cạnh những tờ báo bằng tiếng Nhật, số lƣợng các tờ báo in bằng
tiếng Anh trong những năm gần đây tăng nhanh khiến cho ảnh hƣởng của
Nhật Bản với nƣớc ngoài ngày càng lớn. Nhiều tờ báo lớn nhƣ Ashahi
Shimbun, Tokyo Time đã không chỉ nổi tiếng ở trong nƣớc mà còn “vƣợt

biên” ra khu vực và trên thế giới. Điều mà mọi ngƣời đều thừa nhận đó là

25
những thông tin đăng tải trên các tờ nhật báo, tạp chí chuyên về kinh tế của
Nhật Bản đƣợc độc giả trong và ngoài nƣớc đặc biệt quan tâm.
2.3- Báo chí Châu Âu
Hiện nay, Liên minh Châu Âu (EU) gồm 27 nƣớc và sẽ còn tiếp tục
tăng. Đó là một khối liên hợp các quốc gia có vai trò lớn đối với khu vực và
thế giới. Ảnh hƣởng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của EU đƣợc mở
rộng là có phần đóng góp quan trọng của nền báo chí ở các quốc gia này.
Chỉ cần nêu ra 1 dẫn chứng về nền công nghiệp báo chí của CHLB Đức
cũng có thể giúp chúng ta hình dung đƣợc về sức mạnh và ảnh hƣởng của
báo chí các nƣớc EU trong quá trình toàn cầu hóa. Chỉ tính riêng trong khối
EU, Đức là nƣớc có số lƣợng nhật báo lớn nhất với hơn 410 tờ, mỗi ngày
phát hành khoảng 25,5 triệu bản (trung bình là 331 bản/1.000 dân). Số lƣợng
các tờ báo thông tin kinh tế hoặc chuyên viết về kinh tế cũng chiếm một số
lƣợng đáng kể và có nhiều tờ báo khá nổi tiếng nhƣ: Sachsische zeitung,
Rheinische Post, Volksszeitung hay các tạp chí danh tiếng nhƣ Neue Post,
Kapital, Der Spiegel Bên cạnh sự đầu tƣ cho báo in, phát thanh, truyền
hình, Đức cũng giống nhƣ các nƣớc EU khác tích cực khai thác loại hình báo
chí điện tử, internet, multi media, viễn thông để bán tin tức , sản phẩm
truyền thông và các dịch vụ thông tin khác cho nƣớc ngoài mà chủ yếu là thị
trƣờng Đông Âu. Ngoài ra, Chính phủ Đức còn chủ động thông qua cơ quan
chức năng, hàng năm mời khoảng hơn 2.000 nhà báo nƣớc ngoài, các doanh
nhân thành đạt, tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế lớn, những nhân sĩ có vai
trò quan trọng đối với dƣ luận xã hội đến thăm, đồng thời tạo điều kiện để
họ tự tìm hiểu đất nƣớc này. Để tham gia tích cực vào quá trình hội nhập
quốc tế, có thể thấy rằng báo chí Đức và EU đều hƣớng vào các định hƣớng
dài hơi nhƣ: Đầu tƣ cho nguồn lực con ngƣời tức đội ngũ phóng viên, biên
tập viên tài năng, đa năng; Tăng tính hấp dẫn, chất lƣợng trong các vấn đề

×