MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………
2.Đối tượng và khách thể nghiên cứu…………………………………
2.1 Đối tượng nghiên cứu: ……………………………………………………
2.2 Khách thể nghiên cứu……………………………………………………………
3. Giới hạn nghiên cứu……………………………………………………………….
4. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………………….
5. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………………….
6. Giả thuyết nghiên cứu………………………………………………………
7. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………
8. Cấu trúc luận văn……………………………………………………………………
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI……………………………
1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài về vấn đề giao tiếp và kỹ năng
giao tiếp sư phạm…………………………………………………………
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu ở trong nước về vấn đề giao tiếp và kỹ năng giao
tiếp sư phạm………………………………………………………….
1.2. Một số vấn đề lý luận về giao tiếp và giao tiếp sư phạm…………………
1.2.1. Khái niệm giao tiếp trong tâm lý học …………………………………….
1.2.2. Một số đặc điểm cơ bản của giao tiếp giữa người với người……….…….
1.2.3. Giao tiếp người – người trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định là điều kiện
không thể thiếu để hình thành và phát triển nhân cách……………….
1.2.4. Khái niệm giao tiếp sư phạm……………………………………………
1.3.Một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp sư phạm……………………….
1.3.1. Khái niệm kỹ năng trong tâm lý học……………………………………
1.3.2. Khái niệm kỹ năng giao tiếp……………………………………………
1.4. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp của giáo
sinh khi thực tập giảng dạy ở trường trung học cơ sở……………………
7
7
8
8
8
8
9
9
9
9
9
10
10
10
13
14
14
16
17
18
21
21
26
28
1.4.1. Khái niệm giáo sinh trong trường sư phạm………………………………
1.4.2. Khái niệm kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp của giáo sinh khi thực
tập giảng dạy ở trường Trung học cơ sở………………………………………………
1.4.3. Một số kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp cơ bản của giáo sinh khi
thực tập giảng dạy ở trường Trung học cơ sở…………………………………………
1.4.4. Kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp của giáo sinh khi thực tập giảng
dạy chủ yếu được hình thành và phát triển thông qua rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
trong quá trình đào tạo ở trường sư phạm…………………………………………….
1.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp khi
thực tập giảng dạy của giáo sinh ở trường THCS…………….………………………
1.5.1.Yếu tố khách quan………………………………………………………
1.5.2. Yếu tố chủ quan………………………………………………………………
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………
2.1. Tổ chức nghiên cứu………………………………………………………………
2.2. Các phương pháp nghiên cứu……………………………………………………
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu và văn bản…………………………………
2.2.2. Phương pháp quan sát………………………………………………………….
2.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi…………………………………………
2.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu……………………………………………………
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học…………………………….
2.3. Xây dựng thang đánh giá…………………………………………………
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ……………………. ………
3.1. Nhận thức của giáo sinh trường CĐSPNA về KNGTSP trong giờ lên lớp
3.2. Thực trạng về mức độ vận dụng thường xuyên và thành thạo những tri thức về
phương thức thực hiện sự tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS trong giờ lên
lớp của giáo sinh
3.2.1. Mức độ vận dụng thường xuyên và thành thạo các tri thức về phương thức
thực hiện sự tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng tạo
ấn tượng ban đầu trước khi diễn ra bài giảng trên lớp của giáo sinh ………
28
28
30
44
48
48
50
53
53
54
54
54
55
57
58
60
62
62
63
63
3.2.2 Mức độ vận dụng thường xuyên và thành thạo các tri thức về phương thức thực
hiện sự tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng lắng nghe
tích cực đối tượng giao tiếp trong giờ lên lớp của giáo sinh ………………………
3.2.3. Mức độ vận dụng thường xuyên và thành thạo các tri thức về phương thức
thực hiện sự tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng tự
chủ cảm xúc, hành vi, trong giờ lên lớp của giáo sinh
3.2.4. Mức độ vận dụng thường xuyên và thành thạo các tri thức về phương thức
thực hiện sự tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng sử
dụng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong giờ lên lớp của giáo sinh
3.2.5. Mức độ vận dụng thường xuyên và thành thạo các tri thức về phương thức
thực hiện sự tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng đặt
câu hỏi dẫn dắt học sinh thảo luận trong giờ lên lớp của giáo sinh
3.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp của
giáo sinh trường CĐSPNA
3.3.1.Yếu tố RLNVSPTX
3.3.2. Yếu tố động cơ nghề dạy học………………………………………………….
3.3.3. Ý thức tự khẳng định mình trước đồng nghiệp và trước học sinh trường THCS
của giáo sinh
3.3.4. Yếu tố KNGTSP trong giờ lên lớp của giáo viên trường THCS đang trực tiếp
hướng dẫn thực tập
3.3.5. Yếu tố KNGTSP trong giờ giảng dạy trên lớp của giảng viên trường Cao đẳng
Sư phạm Nghệ An
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………………………
69
76
82
88
96
97
98
100
101
102
104
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Các chữ viết tắt Xin đọc là
CĐSP Cao đẳng Sư phạm
CĐSPNA Cao đẳng Sư phạm Nghệ an
ĐLC Độ lệch chuẩn
ĐTB Điểm trung bình
GS Giáo sinh
GV Giáo viên
GVTHCS Giáo viên Trung học cơ sở
HS Học sinh
HSTHCS Học sinh Trung học cơ sở
KNGTSP Kĩ năng giao tiếp sư phạm
RLNVSP Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
RLNVSPTX Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên
RLNVSPTT Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tập trung
SL Số lượng
THCS Trung học cơ sở
TN Tự nhiên
TNTP Thiếu niên tiền phong
TNCS Thanh niên cộng sản
XH Xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG , BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Nhận thức của giáo sinh trường CĐSPNA về khái niệm KNGTSP trong
giờ lên lớp…………………………………………………………………………….
Bảng 3.2: Số lượng tên các KNGTSP trong giờ lên lớp cơ bản giáo sinh liệt kê đúng.
Bảng 3.3: Mức độ vận dụng thường xuyên các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và học sinh THCS để hình thành kỹ năng tạo ấn
tượng ban đầu trước khi diễn ra bài giảng trên lớp của giáo sinh …………………….
Bảng 3.4: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thức thực hiện sự tác
động qua lại giữa giáo sinh và học sinh THCS để hình thành kỹ năng tạo ấn tượng
ban đầu trước khi diễn ra bài giảng trên lớp của giáo sinh……………………………
Bảng 3.5. Mức độ vận dụng thường xuyên các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và học sinh THCS để hình thành kỹ năng lắng nghe
tích cực đối tượng giao tiếp trong giờ lên lớp của giáo sinh………………………….
Bảng 3.6: Mức độ vận dụng thành thạo tri thức về phương thức thực hiện sự tác động
qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng lắng nghe tích cực đối
tượng giao tiếp trong giờ lên lớp của giáo sinh ……………………………………….
Bảng 3.7: Mức độ vận dụng thường xuyên các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và học sinh để hình thành kỹ năng tự chủ cảm xúc,
hành vi trong giờ lên lớp của giáo sinh ……………………………………………….
Bảng 3.8: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thức thực hiện sự tác
động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành
vi trong giờ lên lớp của giáo sinh …………………………………………………….
Bảng 3.9: Mức độ vận dụng thường xuyên các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và học sinh THCS để hình thành kỹ năng sử dụng
phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong giờ lên lớp của giáo sinh …………….
62
62
64
66
70
72
76
78
82
Bảng 3.10: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thức thực hiện sự tác
động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng sử dụng phương tiện
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong giờ lên lớp của giáo sinh……………………………
Bảng 3.11: Mức độ vận dụng thường xuyên các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng đặt câu hỏi dẫn
dắt học sinh thảo luận trong giờ lên lớp của giáo sinh ………………………………
Bảng 3.12: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thực thực hiện sự tác
động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng đặt câu hỏi dẫn dắt
học sinh thảo luận trong giờ lên lớp của giáo sinh…………………………………….
Bảng 3.13: Giáo sinh tự đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến kỹ năng giao
tiếp sư phạm trong giờ lên lớp khi thực tập giảng dạy của họ ………………………
Bảng 3.14 : Động cơ nghề dạy học của giáo sinh trường CĐSPNA …………………
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.4: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và học sinh THCS để hình thành kỹ năng tạo ấn
tượng ban đầu trước khi diễn ra bài giảng trên lớp của giáo sinh…………………
Biểu đồ 3.6: Mức độ vận dụng thành thạo tri thức về phương thức thực hiện sự tác
động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng lắng nghe tích cực
đối tượng giao tiếp trong giờ lên lớp của giáo sinh ………………………………
Biểu đồ 3.8: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng tự chủ cảm xúc,
hành vi trong giờ lên lớp của giáo sinh ……………………………………………
Biểu đồ 3.10: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thức thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng sử dụng phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong giờ lên lớp của giáo sinh………………………
Biểu đồ 3.12: Mức độ vận dụng thành thạo các tri thức về phương thực thực hiện sự
tác động qua lại giữa giáo sinh và HSTHCS để hình thành kỹ năng đặt câu hỏi dẫn
dắt học sinh thảo luận trong giờ lên lớp của giáo sinh……………………………
Biểu đồ 3.13: Giáo sinh tự đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến kỹ năng
84
89
91
96
99
67
73
79
85
92
giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp khi thực tập giảng dạy của họ …………………
97
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân cách con người hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động
và trong mối quan hệ giao tiếp với người khác. Nhu cầu giao tiếp được xem như là
một nhu cầu bẩm sinh của con người, con người sinh ra và lớn lên luôn có nhu cầu
giao tiếp với người khác. Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các quan hệ
xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời cũng
qua giao tiếp mà con người thể hiện mình, được đánh giá và tự đánh giá theo các
chuẩn mực xã hội. Giao tiếp giúp con người thu thập thông tin, tác động đến đối tác
trong quá trình giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ của cuộc sống cũng như hoạt
động nghề nghiệp. Như vậy, giao tiếp có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống
và trong mọi hoạt động của con người. Giao tiếp là mặt đặc trưng nhất trong đời
sống tâm lí của con người, nó không những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự
hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách mà còn đảm bảo cho con người
đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Trong nghề dạy học, giao tiếp không những có vai trò quan trọng trong sự hình
thành và phát triển nhân cách người GV mà còn là bộ phận cấu thành chủ yếu trong
cấu trúc năng lực sư phạm của người GV. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản
nhất để tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục. Nếu không có giao tiếp thì không
thể hướng hoạt động sư phạm của thầy và trò vào việc đạt được mục đích giáo dục.
Do đó, ở trường sư phạm, mỗi giáo sinh phải được đào tạo và chủ động tự đào tạo
cho mình về KNGTSP. KNGTSP là một trong những kỹ năng quan trọng giúp GV
thực hiện được mục tiêu chính của quá trình dạy học và giáo dục là truyền thụ
những kinh nghiệm mà loài người đã tích lũy cho thế hệ trẻ. Đào tạo giáo sinh trở
thành những GV có KNGTSP ở trình độ cao là việc làm vô cùng quan trọng để
nâng cao chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, việc đào tạo kỹ năng nói chung, KNGTSP nói riêng hiện nay chưa
được nhiều trường sư phạm, trong đó có trường CĐSPNA, quan tâm một cách đầy
đủ. Chính vì vậy, giáo sinh đi thực tập sư phạm hoặc khi đã tốt nghiệp ra trường đi
dạy học họ còn thiếu rất nhiều kỹ năng đảm bảo cho sự thành công trong nghề
nghiệp của mình, dẫn đến xuất hiện những hiện tượng thô bạo trong cách ứng xử
với HS. Chẳng hạn, ở Hà Tĩnh có trường hợp GV bắt HS liếm ghế vì HS đó đã
phạm lỗi viết lên ghế ngồi của GV. Ở Nghệ An có GV xử phạt HS bằng cách cho
lớp trưởng dùng roi đánh 100 cái vào mông những HS bị phạt dẫn đến hậu quả các
em phải vào trạm y tế với những vết tím bầm trên cơ thể. Ở thành phố Hồ Chí Minh
một thầy giáo đã dùng roi quất 90 roi vào 5 em HS lớp 8 do các em làm thiếu bài
tập toán, v.v…
Vì vậy, việc đào tạo KNGTSP cho giáo sinh là vô cùng cần thiết để góp phần
nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên trong tương lai. Tiếc rằng do trình độ và
thời gian nghiên cứu đều còn hạn hẹp nên chúng tôi không thể tiến hành nghiên cứu
vấn đề này một cách toàn diện, chỉ có thể tập trung nghiên cứu: “Kỹ năng giao tiếp
sư phạm trong giờ lên lớp của giáo sinh khi thực tập giảng dạy tại trường THCS”.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp
khi thực tập giảng dạy của giáo sinh.
2.2. Khách thể nghiên cứu
- Giáo sinh năm thứ ba tại các khoa Xã hội và khoa Tự nhiên: 204 người
- Các giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An: 120 người
- Các giáo viên THCS trực tiếp hướng dẫn giáo sinh thực tập giảng dạy tại
trường của mình: 102 người
- Học sinh THCS là lớp trưởng và lớp phó phụ trách học tập tại các lớp có giáo
sinh thực tập giảng dạy: 104 người
Tổng cộng số lượng khách thể là 530 người.
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chỉ nghiên cứu KNGTSP trong giờ lên lớp của giáo sinh khoa Tự
nhiên và khoa Xã hội trường CĐSPNA khi thực tập giảng dạy ở trường THCS.
4. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra thực trạng mức độ kỹ năng giao tiếp sư phạm trong giờ lên lớp của giáo
sinh trường CĐSPNA khi thực tập giảng dạy ở trường THCS (cao, trung bình hay
thấp). Từ đó đề ra một số kiến nghị nhằm giúp giáo sinh nâng cao, phát triển kỹ
năng này.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Khái quát một số văn bản và tài liệu lý luận về giao tiếp, kỹ năng giao tiếp
nói chung và KNGTSP nói riêng liên quan đến đề tài. Trên nền tảng đó xây dựng cơ
sở lý luận định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn KNGTSP trong giờ lên lớp khi
thực tập giảng dạy tại trường THCS của giáo sinh nhằm hiện thực hoá mục tiêu mà
đề tài đề ra.
5.2. Chỉ ra thực trạng mức độ KNGTSP trong giờ lên lớp khi thực tập giảng dạy
của giáo sinh khoa Xã hội, khoa Tự nhiên trường CĐSPNA. Phân tích nguyên nhân
của thực trạng này.
5.3. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao KNGTSP trong giờ
lên lớp khi thực tập giảng dạy của giáo sinh trường CĐSPNA.
6. Giả thuyết nghiên cứu
KNGTSP trong giờ lên lớp khi thực tập giảng dạy của đa số giáo sinh trường
CĐSPNA mới chỉ đạt mức độ trung bình. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng
này, song theo chúng tôi có hai nguyên nhân chính: thứ nhất, do việc tổ chức hoạt
động RLNVSPTX cho giáo sinh của trường CĐSPNA còn có nhiều điều bất cập;
thứ hai, do động cơ nghề nghiệp của giáo sinh còn chưa phát triển mạnh.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học (sử dụng chương trình
SPSS).
8. Cấu trúc luận văn:
Luận văn gồm có ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung (gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài; chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu;
chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn) và phần kết luận, kiến nghị.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay việc nghiên cứu vấn đề giao tiếp và KNGTSP đã được đề cập
đến trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước
thuộc các lĩnh vực như: tâm lý học, xã hội học, giáo dục học, sư phạm học…
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài về vấn đề giao tiếp và kĩ
năng giao tiếp sư phạm
Ngay từ thời cổ đại hai nhà triết học Xôcrat và Platon đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của giao tiếp trong đời sống con người. Theo hai ông đối thoại được coi là
một sự giao tiếp có trí tuệ phản ánh mối quan hệ xã hội của con người, là nơi bộc lộ
đời sống tâm hồn của con người.
Sang thế kỷ XIX, giao tiếp đã được đánh giá như một vấn đề quan trọng đặc biệt
trong sự hình thành, phát triển về mặt xã hội của con người. Mác và Ăng ghen đã
đề cập đến giao tiếp với tư cách là một trong những phạm trù quan trọng nhất của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lần đầu tiên, phạm trù này xuất hiện trong các bản thảo
kinh tế - triết học của Mác vào năm 1844 và trong tác phẩm “tình hình giai cấp công
nhân ở Anh” của Ănghen. Ở đây giao tiếp được hiểu như “một quá trình thống nhất,
hợp tác, tác động qua lại giữa người và người”, trích theo [29, tr. 366].
Trong tác phẩm “Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học”, tác
giả B.Ph.Lomov đã bàn đến khá nhiều về vấn đề giao tiếp. Ông đã chỉ rõ giao tiếp
là phạm trù cơ bản của tâm lý học, chức năng và cấu trúc của giao tiếp, đặc điểm
của các quá trình tâm lý trong điều kiện giao tiếp.
Ở Liên Xô nhiều tác giả nổi tiếng đã nghiên cứu về vấn đề giao tiếp.
X.L.Rubinstein đã khảo sát giao tiếp dưới góc độ hiểu biết lẫn nhau giữa người và
người [38]. B.G.Ananhev khi nghiên cứu về giao tiếp đã thừa nhận giao tiếp là một
trong ba dạng hoạt động của con người, ngang với lao động và nhận thức [1,
tr.322]. A.N.Leonchiev cho rằng giao tiếp và lao động là hai dạng cơ bản của hoạt
động của con người [28, tr.370, 414].
Nhà triết học tâm lý học người Đức Cac Giatxpe (1883 - 1969) đã đưa ra lý
thuyết giao tiếp hiện sinh, thuyết này cho rằng con người cần phải giao tiếp với
nhau một cách sống động, liên tục qua các cuộc tranh luận về các vấn đề xã hội, đó
là điều kiện cho sự tồn tại của con người. Giao tiếp hiện sinh là cuộc trò chuyện
giữa những người gần gũi về các vấn đề quan trọng đối với họ.
Các tác giả Maes, Jeanne D.; Weldy, Teresa G. and Icenogle, Majorie L khi
nghiên cứu kĩ năng giao tiếp cần thiết nhất đối với sinh viên khi mới tốt nghiệp bắt
đầu làm việc đã cho rằng kĩ năng giao tiếp bằng lời là quan trọng nhất đối với họ.
Nó được biểu hiện ở những hành động: Biết làm theo chỉ dẫn; lắng nghe; chuyển tải
thông điệp và phản hồi. Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn, các tác giả kết luận những
sinh viên mới đi làm ở họ có 3 kỹ năng phổ biến nhất: Giao tiếp bằng lời, giải quyết
vấn đề và năng động. Không tìm thấy sự khác biệt giữa các ngành nghề khác nhau
[59].
D.J.Mc Nerney (1994) đưa ra lời khuyên khi phát triển nguồn nhân lực cần đặc
biệt quan tâm đến rèn luyện kỹ năng giao tiếp nhất là kỹ năng nghe, đọc và viết
[60].
J.Sean.McCleneghan (2006) nghiên cứu vai trò của kỹ năng giao tiếp trong quan
hệ của con người. Tác giả chia kỹ năng giao tiếp thành một số kỹ năng như: Kỹ
năng nghe, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng đọc hiểu, kỹ năng quan sát, nhận thức các
vấn đề xã hội, kỹ năng nói; kỹ năng quản lý thời gian [51, tr.43]. Tác giả nhấn mạnh
tầm quan trọng của các kỹ năng giao tiếp trên trong việc thiết lập các mối quan hệ
của con người.
Owen Hargie đã đánh giá toàn vẹn các kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân và
trình bày những quan điểm lý thuyết quan trọng nhất trong cuốn Skilled
Interpersonal Communication: Research, Theory and Practice [54].
Geoffrey Beattie đã nghiên cứu về vấn đề giao tiếp không lời trong cuốn Visible
thought: The New Psychology of Body Language [50].
Mathew Mckay, Ph.D.Martha Davis, Ph.D.Patrick Fanning trong nghiên cứu
của mình các tác giả đã cho rằng kỹ năng giao tiếp được phát triển từ từ với sự nỗ
lực thực hành và học tập để hiểu người khác và truyền đạt ý tưởng của bản thân.
Các ông đã đề cập đến các kỹ năng giao tiếp: nghe tích cực, đọc ngôn ngữ cơ thể,
phát triển kỹ năng giải quyết xung đột, nói chuyện với trẻ em, giao tiếp với các
thành viên gia đình, nói trước công chúng, xử lí các tương tác nhóm, được phỏng
vấn cho công việc và đươc người phỏng vấn [57].
Tác giả V.A.Cruchetxki, trong tác phẩm “Những cơ sở của tâm lý học sư phạm -
tập 2” đã đề cập đến giao tiếp sư phạm là một trong những năng lực mà giáo viên
phải có. Theo ông năng lực giao tiếp là những năng lực tiếp xúc với trẻ em, kĩ năng
tìm được cách đối xử đúng đắn đối với học sinh, thiết lập được với trẻ em những
mối liên hệ qua lại hợp lý theo quan điểm sư phạm, biết cách đối xử khéo léo về
mặt sư phạm [8, tr.234].
Tác giả V.P.Dakharov trong quá trình nghiên cứu giao tiếp sư phạm, đã chỉ ra
rằng để có kỹ năng giao tiếp cần có các kỹ năng sau: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ
trong giao tiếp, kỹ năng biết cân bằng nhu cầu của chủ thể và đối tượng giao tiếp,
kỹ năng nghe và biết lắng nghe, kỹ năng tự chủ cảm xúc và hành vi, kỹ năng tự
kiềm chế và kiểm tra đối tượng giao tiếp, kỹ năng diễn đạt dễ hiểu, ngắn gọn, mạch
lạc, kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục trong giao
tiếp, kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp. Ông đã xây dựng trắc nghiệm thăm dò
những kỹ năng giao tiếp nhằm phát hiện những khả năng tiềm tàng về giao tiếp của
mỗi người. Trong phần rèn luyện kỹ năng giao tiếp sư phạm, mỗi sinh viên sẽ được
tiến hành trắc nghiệm này để biết được chỗ mạnh, chỗ yếu của bản thân trong quan
hệ giao tiếp.
Tác giả A.Cubanova và M.Rakhmatulina đã chỉ ra một quá trình giao tiếp sư
phạm bao gồm ba thành phần lớn: Nhóm các kỹ năng định hướng trước khi giao
tiếp sư phạm, nhóm các kỹ năng tiếp xúc xảy ra trong quá trình giao tiếp sư phạm,
nhóm các kỹ năng độc đáo hướng quá trình giao tiếp sư phạm đến các định hướng
giá trị khác nhau mà giáo viên cần hướng đến.
Nhìn chung vấn đề lý luận và thực tiễn về giao tiếp và kỹ năng giao tiếp sư
phạm đã được nhiều nhà khoa học ở nước ngoài đề cập đến với nhiều nội dung khác
nhau, bổ sung cho nhau, làm cho vấn đề nghiên cứu ngày càng đi vào chiều sâu.
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu ở trong nước về vấn đề giao tiếp và kỹ
năng giao tiếp sư phạm
Giao tiếp là một vấn đề được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam, bao gồm cả những
công trình nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tiễn. Có thể kể tên một số công
trình bàn đến vấn đề giao tiếp như: “Tâm lý học xã hội” của Trần Hiệp, “Tâm lý
học đại cương” của Nguyễn Quang Uẩn, “Kỹ năng giao tiếp ” của Trịnh Xuân
Dũng, “Ứng xử sư phạm” của Nguyễn Văn Hộ, Trịnh Trúc Lâm, “Giao tiếp sư
phạm” của Ngô Công Hoàn và Hoàng Anh .v.v…
Tác giả Ngô Công Hoàn và Hoàng Anh đã nghiên cứu KNGTSP và chia
KNGTSP gồm có 5 nhóm sau: Kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều
khiển quá trình giao tiếp, kỹ năng nhận biết những dấu hiệu bề ngoài của học sinh
và kỹ năng sử dụng các phương tiện giao tiếp [22, tr.91- 108].
Trong cuốn “Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm”của tác giả
Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Kế Hào và cuốn “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học
sư phạm” của Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng đã đề cập đến năng
lực giao tiếp sư phạm được biểu hiện dưới dạng các kỹ năng: Kỹ năng định hướng
giao tiếp, kỹ năng định vị, kỹ năng làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân, kỹ
năng sử dụng phương tiện giao tiếp.
Tác giả Trịnh Trúc Lâm và Nguyễn Văn Hộ trong cuốn “Ứng xử sư phạm” đã
chỉ ra rằng, để đảm bảo cho hoạt động giáo dục của người GV có hiệu quả thì người
GV phải có nhiều kỹ năng, trong đó KNGTSP là quan trọng nhất. KNGTSP giúp
GV biết cách giao tiếp với đối tượng giáo dục của mình và những lực lượng xã hội
có liên quan đến quá trình giáo dục [27, tr.34].
Tác giả Hoàng Anh: “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên”, (luận án TS
tâm lý) đã nêu ra ba nhóm kỹ năng giao tiếp sư phạm bao gồm: Nhóm kỹ năng định
hướng giao tiếp, nhóm kỹ năng điều khiển bản thân, nhóm kỹ năng điều chỉnh đối
phương [3, tr.38].
Nguyễn Thanh Bình “Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp sư phạm” (1997),
(luận án PTS tâm lý học) đã đưa ra thực trạng một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp
sư phạm của sinh viên với HS phổ thông trung học khi đi thực tập.
Từ những công trình trên có thể thấy rằng vấn đề giao tiếp và KNGTSP đã được
nhiều tác giả trong nước và nước ngoài nghiên cứu, bàn luận đến. Tuy nhiên
nghiên cứu sâu vấn đề KNGTSP trong trong giờ lên lớp của giáo sinh khi thực tập
giảng dạy như một vấn đề độc lập thì chúng tôi chưa thấy có công trình nào nghiên
cứu. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Kỹ năng giao tiếp sư phạm
trong giờ lên lớp của giáo sinh khi thực tập giảng dạy tại trường THCS” (nghiên
cứu điểm tại trường CĐSPNA) nhằm góp phần nâng cao, bồi dưỡng kỹ năng này
cho giáo sinh ngay trong quá trình đào tạo ở trường.
1.2. Một số vấn đề lý luận về giao tiếp và giao tiếp sư phạm
1.2.1 Khái niệm giao tiếp trong tâm lý học
Giao tiếp là một phạm trù nền tảng của khoa học tâm lý, chiếm một vị trí rất
quan trọng trong toàn bộ các vấn đề của tâm lý học. Giao tiếp đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành và biểu hiện tâm lý người. Giao tiếp không chỉ là đối
tượng nghiên cứu của tâm lý học mà nó còn được nhiều ngành khoa học xã hội
nghiên cứu.
Trong cuốn bản thảo kinh tế - triết học của Mác vào năm 1844 và trong tác
phẩm “Tình hình giai cấp công nhân ở Anh ” của Ănghen, giao tiếp được hiểu như
“một quá trình thống nhất, hợp tác, tác động qua lại giữa người và người” [31,
tr.136].
Theo B.Ph.Lomov trong cuốn “Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm
lý học”, giao tiếp được xem là hình thái đặc trưng của sự tác động qua lại giữa
người này và người khác như là tác động qua lại của các chủ thể. Ở đây, không đơn
giản nói về hành động, về tác động của một chủ thể lên một chủ thể khác (mặc dù
khía cạnh này không bị loại trừ), mà cụ thể về sự tác động qua lại [30, tr.317].
A.A.Leonchiev đưa ra định nghĩa: Giao tiếp là một hệ thống những quá trình có
mục đích và động cơ, bảo đảm sự tương tác giữa người này và người khác trong
hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội của nhân cách, các quan hệ tâm lý
và sử dụng phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ, trích theo [22, tr.6].
G.M. Andreeva định nghĩa giao tiếp là quá trình bao gồm ba mặt có quan hệ hữu
cơ với nhau, đó là mặt thông tin, mặt tri giác của con người đối với con người, mặt
tác động qua lại của con người với nhau [2].
Theo Từ điển tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện, giao tiếp là truyền đi, phát đi
một thông tin từ một người hay một nhóm cho một người hay một nhóm khác, trong
mối quan hệ tác động lẫn nhau (tương tác). Thông tin hay thông điệp được nguồn
phát mà người nhận phải giải mã, cả hai bên đều vận dụng một mã chung [48,
tr.130].
Theo Từ điển tâm lý học của Vũ Dũng, giao tiếp là quá trình thiết lập và phát
triển tiếp xúc giữa các cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp hành động. Giao tiếp
bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược hoạt động
thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. Giao tiếp có ba khía cạnh chính: Giao
lưu, tác động tương hỗ và tri giác [11, tr.83].
Tác giả Trần Hiệp, trong cuốn “Tâm lý học xã hội” đã định nghĩa giao tiếp là
một trong những dạng thức cơ bản của hoạt động của con người. Nó làm tăng
cường hay giảm bớt khả năng thích ứng hành vi lẫn nhau trong quá trình tác động
qua lại [18, tr.170].
Tác giả Trần Thị Minh Đức, trong cuốn “Giáo trình Tâm lý học xã hội” đã định
nghĩa giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa người với người thông qua ngôn ngữ,
cử chỉ, tư thế, trang phục .v.v…[10, tr.140].
Trong cuốn “Giao tiếp sư phạm”, tác giả Ngô Công Hoàn, Hoàng Anh đã định
nghĩa giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con
người mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở các quá trình trao
đổi thông tin, nhận biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau [22,
tr.6].
Theo Nguyễn Quang Uẩn, trong cuốn “Tâm lý học đại cương”, giao tiếp là sự
tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về
thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay
nói khác đi giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người - người, hiện thực hóa
các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác [46, tr.49].
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Mỗi định nghĩa đều
được dựa trên một quan điểm riêng và có hạt nhân hợp lý của nó. Tuy nhiên các
định nghĩa đều nêu ra những dấu hiệu cơ bản của giao tiếp đó là:
- Giao tiếp là một hiện tượng tâm lý đặc thù của con người, nghĩa là chỉ riêng
con người mới có sự giao tiếp thật sự khi họ biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ
(nói, viết, hình ảnh nghệ thuật…) và được thực hiện chỉ trong xã hội loài người.
- Giao tiếp diễn ra giữa chủ thể này và chủ thể khác (chủ thể - chủ thể) với
những đặc điểm tâm lý, sinh lý, xã hội…tham gia vào quá trình giao tiếp. Tất cả các
đặc điểm của chủ thể giao tiếp đều ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp.
- Mục đích của quá trình giao tiếp là nhằm để thỏa mãn nhu cầu nào đó - nhu
cầu trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc và tri giác lẫn nhau…
- Phương tiện giao tiếp là ngôn ngữ và hệ thống phi ngôn ngữ.
Trên cơ sở tìm hiểu các định nghĩa của nhiều tác giả khác nhau, chúng tôi hiểu:
Giao tiếp là sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa người và người, thông
qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau
nhằm đạt tới những mục tiêu đề ra từ trước.
1.2.2. Một số đặc điểm cơ bản của giao tiếp giữa người và người
- Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa chủ thể và chủ thể.
Trong giao tiếp, cá nhân vừa là chủ thể vừa là khách thể. B. Ph.Lomov cho rằng
nét đặc thù của giao tiếp so với hoạt động có đối tượng vì nó là hoạt động chủ thể -
chủ thể. Bởi vì các cá nhân trong giao tiếp là các cặp “chủ thể - đối tượng” luôn đổi
chỗ cho nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau một cách tích cực, sống
động, phức tạp, tinh tế, tạo thành “các chủ thể giao tiếp”.
- Ngôn ngữ (các dạng khác nhau) là công cụ không thể thiếu trong giao tiếp
giữa người và người.
Trong quá trình giao tiếp, con người muốn trao đổi thông tin, tình cảm… với
nhau thì phải sử dụng phương tiện, công cụ. Công cụ cơ bản nhất, không thể thiếu
trong giao tiếp giữa người và người là ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ thể hiện qua
ngôn ngữ nói và viết. Có thể nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vạn năng bởi vì:
trước hết, ngôn ngữ mang tính phổ thông và phổ biến (ngôn ngữ là tín hiệu chung
cho một cộng đồng cùng nói chung một thứ tiếng chứ không phải của từng cá
nhân); thứ hai, ngôn ngữ có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác
nhau mà người nói có nhu cầu (từ nhu cầu trao đổi tình cảm đến những nhu cầu trao
đổi tri thức, kinh nghiệm…) từ đó thúc đẩy, điều chỉnh hành động của con người.
- Giao tiếp giữa người và người là điều kiện không thể thiếu để tiến hành
hoạt động.
Nét đặc trưng của hoạt động của con người là hoạt động cùng nhau, trong đó
con người luôn phải trao đổi thông tin, phối hợp để thống nhất mục đích, thống nhất
cách thức đạt được mục đích chung. Giao tiếp giúp con người thu thập thông tin, tác
động đến đối tác trong quá trình giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ của cuộc sống
cũng như hoạt động nghề nghiệp. Vì vậy quá trình hoạt động của con người không
thể thiếu giao tiếp.
- Giao tiếp mang tính lịch sử- xã hội, chịu sự chi phối của các điều kiện do xã
hội tạo ra, các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội.
Con người luôn luôn sống và làm việc trong các nhóm, các cộng đồng xã hội
nhất định (bản chất xã hội của con người). Chính đời sống xã hội, chính sự lao động
phối hợp cùng nhau đó đã dẫn đến sự tất yếu phải thường xuyên có sự giao lưu, sự
thiết lập những mối quan hệ với nhau, sự tác động lẫn nhau của con người. Giao
tiếp của con người được điều chỉnh bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá
và phụ thuộc vào tập quán của từng địa phương, từng dân tộc theo các chuẩn mực
đạo đức. Bởi vì con người vừa là thành viên tích cực của các quan hệ xã hội với tư
cách tự tạo lập nên các quan hệ xã hội như chính trị, kinh tế, văn hoá vừa phải
hoạt động tích cực cho sự tồn tại, phát triển của các mối quan hệ xã hội và đồng thời
vừa chịu sự chi phối, tác động của chính các mối quan hệ xã hội đó.
1.2.3. Giao tiếp giữa người và người trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất
định là điều kiện không thể thiếu để hình thành và phát triển nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại trong sự giao tiếp với những
nhân cách khác. Bởi vì, cơ chế chủ yếu của sự phát triển tâm lí, nhân cách con
người là cơ chế lĩnh hội nền văn hoá xã hội. Chỉ có qua giao tiếp thì cá nhân mới có
thể lĩnh hội được các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị của xã hội, đồng thời
cũng qua giao tiếp mà mỗi cá nhân được đánh giá, được nhìn nhận theo quan điểm
của xã hội. Giao tiếp giữa con người và con người được diễn ra trong các hoat động
thực tiễn khác nhau (vui chơi, học tập, giải trí, lao động nghề nghiệp ) của con
người. Cuộc sống của con người là dòng chảy các hoạt động. Ở mỗi giai đoạn phát
triển của đời mỗi người có nhiều hoạt động khác nhau, trong đó có hoạt động được
coi là hoạt động chủ đạo- hoạt động chi phối, quyết định tới việc tạo ra những nét
mới trong tâm lý của chủ thể hoạt động. Đối với độ tuổi trưởng thành hoạt động
nghề nghiệp (lao động) là hoạt động chủ đạo chi phối đến sự hình thành phát triển
tâm lý, nhân cách của con người. Vì vậy có thể nói giao tiếp giữa con người và con
người trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định là điều kiện không thể thiếu để
hình thành và phát triển nhân cách. Trong nghiên cứu này của mình, chúng tôi quan
tâm tới sự hình thành, phát triển tâm lý, nhân cách người thầy giáo thông qua giao
tiếp sư phạm giữa các chủ thể trong công tác giáo dục.
1.2.4. Khái niệm giao tiếp sư phạm
1.2.4.1 Định nghĩa giao tiếp sư phạm
Tác giả A.A. Lêônchiev đã khẳng định: Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính
nghề nghiệp của giáo viên với học sinh ở trên lớp và ngoài giờ lên lớp, dẫn theo
[22, tr.14].
Tác giả Ngô Công Hoàn và Hoàng Anh định nghĩa: Giao tiếp sư phạm là giao
tiếp có tính chất nghề nghiệp giữa GV với HS trong quá trình giảng dạy (giáo
dưỡng) và giáo dục, có chức năng sư phạm nhất định, tạo ra các tiếp xúc tâm lý, xây
dựng bầu không khí tâm lý thuận lợi cùng với các quá trình tâm lý khác (chú ý, tư
duy …) tạo ra kết quả tối ưu của quan hệ thầy trò trong nội bộ tập thể HS và trong
hoạt động dạy cũng như hoạt động học [22, tr.14].
Trong cuốn giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, tác giả
Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Quang Uẩn quan niệm rằng: Giao tiếp sư phạm được hiểu
là sự tiếp xúc giữa người thầy giáo và học sinh, là sự tiếp xúc giữa nhà giáo và
những người khác có mối quan hệ hợp tác trong việc giáo dục học sinh. Đây cũng
chính là hoạt động hình thành, phát triển và vận hành các quan hệ người người [47,
tr.121].
Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm “Giao tiếp sư phạm là sự tiếp xúc giữa giáo
viên và học sinh nhằm truyền đạt và lĩnh hội những tri thức, vốn sống, kinh nghiệm,
kỹ năng, kỹ xảo hành động nghề, xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở học
sinh”[21, tr.28].
Quan niệm của tác giả Nguyễn Thanh Bình cho rằng giao tiếp sư phạm là quá
trình tiếp xúc tâm lý, trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, cảm xúc, nhận thức và
tác động qua lại lẫn nhau, nhằm thiết lập mối quan hệ giáo dục giữa nhà giáo dục
với đối tượng giáo dục [6, tr.26].
Trong cuốn Tâm lý học sư phạm đại học, tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành
Nghị quan niệm giao tiếp sư phạm là những nguyên tắc, những biện pháp và kỹ xảo
tác động lẫn nhau giữa nhà giáo dục với tập thể sinh viên mà nội dung của nó là trao
đổi thông tin, chỉ ra các tác động giáo dục- học tập, tổ chức mối quan hệ lẫn nhau
và cũng là sự “truyền lại nhân cách” nhà giáo dục cho người học. Quá trình đó diễn
ra nhờ vào việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ [41, tr.150].
Tóm lại, các tác giả đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về giao tiếp sư phạm
nhưng tất cả đều có điểm chung là khẳng định giao tiếp sư phạm đó là quá trình tiếp
xúc trao đổi thông tin, cảm xúc giữa những người có quan hệ hợp tác trong công tác
giáo dục học sinh nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
Tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khác nhau này trên cơ sở lí luận về giao
tiếp vừa trình bày trên chúng tôi hiểu: Giao tiếp sư phạm là quá trình tác động qua
lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa nhà giáo dục và người được giáo dục (đối tượng
giáo dục), giữa các nhà giáo dục với nhau (có mối quan hệ hợp tác trong hoạt
động giáo dục) qua đó tri giác lẫn nhau, trao đổi thông tin, tình cảm, ý nghĩ…
nhằm thực hiện tốt, có hiệu quả mục tiêu giáo dục là phát triển toàn diện nhân
cách cho người được giáo dục.
1.2.4.2. Một số đặc điểm của giao tiếp sư phạm
- Các chủ thể trong giao tiếp sư phạm.
Trong hoạt động giáo dục, để đạt được mục tiêu đề ra, ta thấy nổi lên các hình
thức giao tiếp sư phạm sau: giao tiếp giữa GV và HS; giữa GV và GV; giữa GV,
HS với những người khác có quan hệ hợp tác trong hoạt động giáo dục (là những
thành viên trong gia đình, xã hội); giữa HS với HS. Tất cả những nhân vật nói tới
trong các hình thức giao tiếp sư phạm vừa nói ở trên đều là chủ thể trong giao tiếp
sư phạm, đều có mục tiêu chung là phấn đấu vì sự phát triển toàn diện nhân cách tốt
đẹp của HS. Trong phạm vi nội dung nghiên cứu đã được giới hạn, trong đề tài của
mình, chúng tôi chủ yếu quan tâm nghiên cứu KNGTSP của giáo sinh trong giờ
thực tập giảng dạy trên lớp tại trường THCS.
- Học sinh, sinh viên vừa là chủ thể vừa là đối tượng trong giao tiếp sư phạm.
Giao tiếp sư phạm là hoạt động diễn ra nhằm thực hiện tốt, có hiệu quả mục tiêu
phát triển nhân cách người được giáo dục. Vì vậy, trong hoạt động giao tiếp sư
phạm, người được giáo dục (HS, sinh viên) là đối tượng còn người giáo dục sẽ đóng
vai trò là chủ thể (người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển). Đồng thời giao tiếp sư
phạm là quá trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Bởi vì
HS, sinh viên không chỉ đóng vai trò là người bị tác động, bị giáo dục mà bản thân
họ còn là những con người chủ động, có ý thức, có chủ kiến, có ảnh hưởng trực
tiếp, quyết định tới kết quả của quá trình giao tiếp này. Nói cụ thể HS, sinh viên
cũng chính là chủ thể trong giao tiếp sư phạm. Tóm lại, trong giao tiếp sư phạm,
HS, sinh viên vừa là chủ thể đồng thời vừa là đối tượng .
- Tri thức khoa học cơ bản, tri thức khoa học nghiệp vụ, những phẩm chất
nhân cách của các chủ thể trong quá trình giao tiếp đều là những công cụ,
phương tiện không thể thiếu trong quá trình giao tiếp sư phạm.
Như vừa nói ở trên, trong giao tiếp sư phạm, các chủ thể giao tiếp (nhà giáo dục)
đều phấn đấu cho một mục đích chung là phát triển toàn diện nhân cách học sinh.
Trong giao tiếp sư phạm, về nguyên tắc nhà giáo dục đặc biệt là giáo viên (nhà giáo
dục được đào tạo một cách chuyên nghiệp và có ảnh hưởng lớn tới mục tiêu giáo
dục) phải dùng nhân cách của chính mình như một công cụ, phương tiện tác động
vào học sinh, giáo dục nhân cách cho các em. Đó là phẩm chất chính trị, là sự giác
ngộ về lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng yêu mến trẻ, là lối sống, đạo đức Đây
chính là lí do mà K.D.Uxinki đã khẳng định: "dùng nhân cách để giáo dục nhân
cách". Trong quá trình giao tiếp với học sinh, ngoài nhân cách của chính mình, tri
thức khoa học cơ bản và tri thức khoa học nghiệp vụ cũng là công cụ, phương tiện
cực kì quan trọng của nhà giáo dục. Bởi có tri thức khoa học cơ bản thì nhà giáo
dục mới có thể tổ chức, hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
để phát triển nhân cách. Và có tri thức khoa học nghiệp vụ sư phạm thì nhà giáo dục
mới có phương pháp, cách thức giao tiếp sư phạm có hiệu quả, phù hợp với từng
đối tượng học sinh, sinh viên để đạt được mục tiêu giáo dục.
- Giao tiếp sư phạm diễn ra trong và ngoài giờ lên lớp
Giao tiếp sư phạm giữa GV và HS có thể diễn ra trong giờ lên lớp hoặc ngoài
giờ lên lớp. Giao tiếp sư phạm giữa GV và HS trong giờ lên lớp có chức năng chủ
yếu là dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn, điều khiển, điều chỉnh của GV, HS tích cực, chủ
động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ mà loài người đã phát hiện ra.
Đây là một trong những hình thức giao tiếp cơ bản nhất, quan trọng nhất giữa GV
và HS nhằm tạo dựng cơ sở cho sự phát triển nhân cách của cả trò lẫn thầy. Giao
tiếp sư phạm giữa GV và HS ngoài giờ lên lớp có chức năng chủ yếu nhằm mở
rộng, khắc sâu, vận dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ HS đã tiếp thu
được trong giờ lên lớp thông qua việc tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng
khác nhau nhằm biến chúng (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ HS đã tiếp thu
được trong giờ lên lớp) thành tài sản riêng, thành nhân cách của các em. Để hoạt
động giáo dục đạt được chất lượng và hiệu quả cao, hai hình thức giao tiếp sư phạm
giữa GV và HS vừa nói tới ở trên, phải được phối hợp tổ chức một cách nhịp nhàng
với các hình thức giao tiếp sư phạm khác giữa GV, HS với các chủ thể khác có liên
quan đến việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
1.3. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng giao tiếp
1.3.1. Khái niệm kỹ năng trong tâm lý học
1.3.1.1. Định nghĩa kỹ năng
Có nhiều tác giả nước ngoài và tác giả trong nước đã nghiên cứu và đưa ra
những quan điểm khác nhau về “kỹ năng”. Hiện nay có hai loại quan niệm về kỹ
năng:
- Hướng quan niệm kỹ năng như mặt biểu hiện của năng lực:
Theo tài liệu trên trang web kỹ năng là năng lực hay
khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử
dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống [44].
A.V.Petropxki quan niệm “Kỹ năng là năng lực sử dụng các tri thức hay khái
niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc tính bản chất của
các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý luận hay thực tiễn nhất
định”, trích theo [24, tr. 78].
Các tác giả K.K.Platonov và G.G.Golubev cho rằng kỹ năng là năng lực của con
người khi thực hiện một công việc có kết quả trong những điều kiện mới, trong một
khoảng thời gian tương ứng và trong cấu trúc của kỹ năng không chỉ có tri thức, kỹ
xảo mà còn có cả tư duy sáng tạo nữa, trích theo [33, tr.38].
Theo Từ điển tâm lý học của tác giả Vũ Dũng, kỹ năng là năng lực vận dụng có
kết quả những tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực
hiện những nhiệm vụ tương ứng. Ở mức độ kỹ năng, công việc hoàn thành trong
điều kiện hoàn cảnh không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác chưa thuần thục
và còn phải tập trung chú ý căng thẳng. Kỹ năng được hình thành qua luyện tập [11,
tr 131-132].
- Hướng quan niệm kỹ năng như là kỹ thuật thực hiện hành động.
Trong cuốn "Những cơ sở của tâm lý học sư phạm" A.V.Cruchetxki cho rằng:
"Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động - những cái con người đã nắm
vững"[8].
Trong cuốn “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm”, các tác giả
A.V.Petropxki và V.A.Cruchetxki cho rằng: Kỹ năng là phương thức thực hiện
hành động đã được con người nắm vững không cần tính đến kết quả hành động, cơ
sở hình thành kỹ năng là tri thức. Kỹ năng được hình thành bằng con đường luyện
tập. Kỹ năng tạo khả năng cho con người thực hiện hành động không chỉ trong
những điều kiện quen thuộc mà cả cho những điều kiện đã thay đổi [36].
Theo Từ điển tiếng việt, kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào
thực tiễn [37].
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Kế Hào [47, tr.67] và Lê Văn Hồng,
Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng [23, tr.131] cùng quan niệm kỹ năng là khả năng
vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương thức) để giải quyết một nhiệm vụ
mới.
Các tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Hải Khoát, Nguyễn Quang Uẩn cho rằng:
Kỹ năng là một hệ thống các hành động thể lực và trí tuệ, các biện pháp và cách
thức mà nhờ đó, một dạng hoạt động nào đó được thực hiện và đạt tới mục đích đề
ra [9].
Tóm lại, các tác giả xem xét kỹ năng dù theo quan điểm nào cũng đều đề cập
đến vấn đề khả năng vận dụng tri thức đã biết thông qua rèn luyện để giải quyết có
hiệu quả một hành động nào đó theo mục đích đã đề ra.
Từ những tìm hiểu về các khái niệm kỹ năng của nhiều tác giả như đã trình bày
trên, chúng tôi cho rằng: Kỹ năng là khả năng vận dụng có kết quả những tri thức
về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội thông qua rèn luyện để thực
hiện những nhiệm vụ tương ứng đã đặt ra từ trước.
1.3.1.2. Các mức độ của kỹ năng
Theo quan niệm của Bloom mà tác giả Nguyễn Thiện Thắng đã mô tả lại thì kỹ
năng có 4 mức độ [43, tr.14].
- Bắt chước: Quan sát và lặp lại hành động (lặp lại mẫu).
- Thao tác: Ở mức độ cao hơn, chủ thể thực hiện hành động theo sự hướng dẫn
bằng lời chứ không còn bằng hành động mẫu nữa.
- Hành động chuẩn xác: Mức độ thực hiện đúng, chuẩn xác hành động, thao tác
mà không cần quan sát mẫu hoặc nghe người khác chỉ dẫn, tất nhiên đòi hỏi sự nỗ
lực cố gắng cao của chủ thể hành động.
- Hành động tự nhiên: Mức độ thuần thục, thành thạo của hành động, thao tác
mà không cần sự cố gắng nhiều về thể lực cũng như trí lực.
Theo quan niệm của K.K.Platonov và G.G.Golubev mà tác giả Trần Quốc
Thành (1992) có đề cập trong bản tóm tắt luận án tiến sỹ “Kỹ năng tổ chức trò chơi
của Liên đội trưởng liên đội Thiếu niên Tiền phong Hồ chí Minh” thì kỹ năng giải
quyết tình huống sư phạm có 5 mức độ:
- Kỹ năng sơ đẳng: Con người ý thức được mục đích hành động và tìm cách
thực hiện hành động dựa trên vốn hiểu biết và kỹ xảo sinh hoạt đời thường, hành
động thực hiện bằng cách “thử” và “sai”.
- Biết cách làm nhưng không đầy đủ: có hiểu biết về phương thức thực hiện
hành động, sử dụng được các kỹ xảo chuyên biệt.
- Có kỹ năng chung: Có hàng loạt kỹ năng phát triển cao nhưng còn mang tính
chất đơn lẻ. Chúng cần thiết cho các hoạt động khác nhau.
- Có kỹ năng phát triển cao: Sử dụng sáng tạo vốn hiểu biết các kỹ xảo đã có, ý
thức được không chỉ mục đích hành động mà còn có cả động cơ lựa chọn cách thức
đạt mục đích.
- Các kỹ năng liên kết với nhau thành hệ thống, một số trở thành kỹ xảo cho
phép chủ thể thực hiện hành động rút gọn, tiết kiệm thao tác, vừa giải quyết các
hành động tương tự có sự sáng tạo cao.
Từ nghiên cứu các mức độ kỹ năng chúng tôi cho rằng kỹ năng có hai mức độ:
Kỹ năng sơ cấp và kỹ năng cấp cao.
- Kỹ năng sơ cấp: Là chỉ trình độ thực hiện các thao tác hành động của chủ thể
còn ở mức thấp, chưa thành thạo. Ở mức độ này chủ thể thực hiện thao tác hành
động cần có sự quan sát, bắt chước theo hành động mẫu hoặc hành động dưới sự
hướng dẫn trực tiếp bằng lời và chủ thể muốn thực hiện đúng, chuẩn xác hành động
thì cần phải có sự nỗ lực, tập trung, cố gắng cao. Loại kỹ năng này diễn ra trong
trường hợp hoàn cảnh và điều kiện thực hiện luôn cố định.
- Kỹ năng cấp cao: Là chỉ trình độ thực hiện các thao tác hành động của chủ thể
ở mức cao, thành thạo. Ở mức độ này chủ thể thực hiện đúng các hành động, thao
tác một cách thuần thục, thành thạo và sáng tạo mà không cần sự cố gắng nhiều về
thể lực cũng như trí lực. Loại kỹ năng này diễn ra cả khi hoàn cảnh và điều kiện
thực hiện có sự thay đổi.
1.3.1.3. Quá trình hình thành kỹ năng
Sự hình thành kỹ năng được nhiều nhà tâm lý học trong và ngoài nước quan
tâm.
X.I.Kixegov đã phân chia quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho sinh viên
thành 5 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Người sinh viên phải được giới thiệu cho biết hành động sẽ được
thực hiện như thế nào?
Giai đoạn 2: Diễn đạt các quy tắc lĩnh hội hoặc tái hiện lại những hiểu biết mà
dựa vào đó các kỹ năng, kỹ xảo được tạo ra.
Giai đoạn 3: Trình bày mẫu hành động,
Giai đoạn 4: Người sinh viên tiếp thu hành động một cách thực tiễn, nghĩa là
người sinh viên bắt đầu vận dụng các quy tắc một cách có ý thức.