Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Nhận thức của người dân huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa về kế hoạch hóa gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 156 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC


MAI VĂN HẢI



NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN HUYỆN NGA SƠN
TỈNH THANH HÓA VỀ KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC










Hà Nội - 2009



2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC


MAI VĂN HẢI



NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN HUYỆN NGA SƠN
TỈNH THANH HÓA VỀ KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC


Chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 603180
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Mộc Lan




Hà Nội - 2009








4
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Chữ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
KHHGD
DS – KHHGD
CTVDS
CBCT
ĐTB
SL
TL
TN
STT
NXB
TH, THCS
THPT
TC, CĐ, ĐH
Kế hoạch hóa gia đình
Dân số - kế hoạch hóa gia đình
Cộng tác viên dân số
Cán bộ chuyên trách
Điểm trung bình
Số lượng
Tỷ lệ phần trăm
Thực nghiệm
Số thứ tự
Nhà xuất bản

Tiểu học, trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung cấp, cao đẳng, đại học









5

MỤC LỤC

Trang
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Đối tượng nghiên cứu 3
4. Khách thể và phạm vi nghiên cứu 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
6. Giả thuyết nghiên cứu 5
7. Phương pháp nghiên cứu 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6
1. Tình hình nghiên cứu công tác dân số kế hoạch hoá gia đình 7
1.1. Một số nghiên cứu về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình trên thế
giới 7
1.2. Nghiên cứu về dân số kế hoạch hoá gia đình ở Việt Nam 10

2. Khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu 12
2.1. Khái niệm nhận thức 13
2.2. Khái niệm gia đình và kế hoạch hóa gia đình 22
3. Một số nội dung liên quan trong đề tài. 29
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
2.1 Nghiên cứu lý luận 36
2.2. Nghiên cứu thực tiễn 36
2.2.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu 36
2.2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu 37
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 41
3.1. Thực trạng tình hình dân số và công tác KHHGD tại huyện Nga Sơn
tỉnh Thanh Hóa 41
3.2. Nhận thức của ngƣời dân về khái niệm KHHGD 42
3.3. Nhận thức của ngƣời dân về các nội dung của KHHGD 52
3.3.1. Nhận thức của người dân về độ tuổi kết hôn 52
3.3.2. Nhận thức của người dân về khoảng cách giữa hai lần sinh con 54
3.3.3. Nhận thức của người dân về số con nên có trong một gia đình 56
3.3.4. Nhận thức của người dân về độ tuổi không nên sinh thêm con 62
3.4. Nhận thức của ngƣời dân về lợi ích của việc thực hiện KHHGD và hậu
quả của gia tăng dân số đối với chất lƣợng cuộc sống 65
3.4.1. Nhận thức của người dân về lợi ích của thực hiện KHHGD 65
3.4.2. Nhận thức của người dân về hậu quả của sự gia tăng dân số đến chất
lượng cuộc sống 77
3.5. Nhận thức của ngƣời dân về các biện pháp tránh thai 80
3.6. Nhận thức của ngƣời dân về nguồn thông tin KHHGD 84
3.7. Hành vi thực hiện KHHGD và tƣơng quan giữa mức độ nhận thức với
hành vi thực hiện KHHGD của khách thể nghiên cứu 93
3.8. Một số yếu tố tác động tới nhận thức của ngƣời dân về KHHGD 100
3.8.1. Yếu tố nhóm nghề nghiệp tác động tới nhận thức của người dân về
KHHGD 100


6
3.8.2. Yếu tố trình độ học vấn tác động tới nhận thức của người dân vềKHHGD 103
3.9. Kết quả thử nghiệm tác động nâng cao nhận thức của ngƣời dân về
KHHGD 105
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 108
Kết luận 108
Kiến nghị 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC 116
Phụ lục 1. Phiếu trưng cầu ý kiến người dân 116
Phụ lục 2. Phiếu trưng cầu ý kiến CTVDS 122
Phụ lục 3. Bảng phỏng vấn sâu CTVDS và CBCT 124
Phụ lục 4. Tài liệu thực nghiệm 125
Phụ lục 5. Kết quả xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 131

7
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia đông dân và có tỷ lệ tăng dân số khá nhanh. Dân số
Việt Nam hiện nay ước tính khoảng hơn 85,2 triệu người; trung bình mỗi năm
tăng khoảng 1,1 triệu người. Theo ước tính, đến năm 2024, dân số nước ta có
khoảng 100 triệu người; đến năm 2050, có khoảng 115 triệu người và các
chuyên gia hy vọng rằng dân số Việt Nam sẽ ổn định ở con số này. Việt Nam là
nước đông dân đứng thứ 13 trên thế giới, đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam
Á. Mật độ dân số nước ta là 254 người/km
2
, cao gấp 5 lần mật độ dân số các
nước phát triển và cao gấp 2 lần mật độ dân số Trung Quốc - nước đông dân

nhất thế giới. Cho đến nay, trên thế giới chỉ có 4 nước có dân số nhiều hơn và
mật độ dân số cao hơn nước ta là Ấn Độ, Nhật Bản, Băng-la-đét và Phi-líp-pin.
Chất lượng dân số Việt Nam, nhìn chung là thấp. Mặc dù dân số nước ta khá trẻ,
tỷ lệ người biết chữ và tuổi thọ cao, nhưng tỷ lệ suy sinh dưỡng ở trẻ sơ sinh
cao, dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai thiếu, chênh lệch mức sống giữa các nhóm
dân cư lớn, chất lượng lực lượng lao động thấp, đời sống người già chưa được
bảo đảm, chất lượng sống của người dân còn thấp và có sự chênh lệch giữa các
vùng Chỉ số phát triển con người của Việt Nam mới đứng thứ 109 trong số
177 nước được so sánh [34].
Chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình đã được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm giải quyết từ rất sớm. Ngày 26/12/1961, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
ký quyết định thành lập Ban sinh đẻ có kế hoạch (ngày 26/12 được lấy làm ngày
dân số Việt Nam). Năm 1984 xuất phát từ nhận thức muốn cuộc vận động
KHHGĐ có bài bản và thành công phải xuất phát từ chính sách dân số, nên đã
chuyển Uỷ ban bảo vệ chăm sóc trẻ em và sinh đẻ kế hoạch thành Uỷ ban quốc
gia DS-KHHGĐ… Trên cơ sở những chủ trương đó, ở tất cả các cấp chính
quyền đều có các uỷ ban dân số gia đình và trẻ em để thực hiện công tác dân số
kế hoạch hoá gia đình; bên cạnh đó các ban ngành đoàn thể, phương tiện truyền

8
thông đại chúng đều vào cuộc, tích cực vận động người dân thực hiện tốt công
tác DS-KHHGD. Chính điều đó đã mang lại những kết quả tốt đẹp trong việc
giảm tỉ lệ gia tăng dân số ở nước ta vào thập niên 90 của thế kỷ trước. Năm
1990, Uỷ ban Quốc gia DS-KHHGD Việt Nam được trao giải thưởng Quốc tế
về Dân số của Liên hiệp quốc.
Trong những năm gần đây, hiệu quả của công tác DS-KHHGD có dấu
hiệu giảm xuống, điều đó thể hiện ở tốc độ gia tăng dân số của nước ta cao trở
lại nhất là từ khi Pháp lệnh dân số được ban hành (6-2003) với nội dung mỗi cặp
vợ chồng có quyền “Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách
giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập,

lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ
sở bình đẳng” (trích điều 10 Pháp lệnh dân số của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
6-2003). Ngay khi Pháp lệnh dân số ra đời, cùng với việc Uỷ ban quốc gia DS-
KHHGD hợp nhất với Uỷ ban bảo vệ chăm sóc trẻ em Việt Nam thành Uỷ ban
dân số gia đình và trẻ em tỉ lệ tăng dân số của nước ta cao trở lại, năm 2003 tỉ lệ
gia tăng dân số của nước ta là 2,12% đến năm 2004 là 2,23% (Theo báo điện tử
Vietnamnet.vn, ngày 19-11-2008). Nguyên nhân của việc tỉ lệ dân số tăng nhanh
trở lại chủ yếu do người dân chưa nhận thức đúng nội dung của Pháp lệnh dân
số như “Nhà nước không còn quản lý công tác DS – KHHGD nữa” hay “từ nay
sinh đẻ thoải mái không hạn chế” [11].
Bên cạnh đó, người dân vẫn còn mang nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ,
đông con là nhà có phúc hoặc cố để có “thằng cu chống gậy”, sinh con để “nối
dõi tông đường”… Những đặc điểm tâm lý này đã ăn sâu vào niềm tin, nếp nghĩ
của mỗi người, thậm chí có không ít người dân khi được hỏi về việc quan niệm
con trai, con gái bày tỏ quan niệm với họ “nam nữ là bình đẳng”, con trai hay
con gái đều được, nhưng trong thâm tâm, trong hành vi của mình, họ vẫn cố để
có con trai mặc dù có thể là sinh con thứ 3, thứ 4. Có thể nói, đây là những điều
cản trở rất lớn đến việc tuyên truyền, vận động người dân thực hiện tốt công tác
dân số kế hoạch hóa gia đình.

9
Huyện Nga Sơn là huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thanh Hoá, tính
đến quý IV năm 2008 tổng số dân trên địa bàn huyện là 150.558 người, tỷ lệ
tăng dân số hàng năm trên toàn huyện là 2,1 %. Rõ ràng đây là tỉ lệ tăng dân số
rất cao so với mực tiêu giảm tỉ lệ gia tăng dân số của nước ta xuống còn 1,14%
trong giai đoạn 2006 - 2010 như quyết định số 170/2007/QĐTTg ngày 8 – 11 –
2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc
gia DS – KHHGD giai đoạn 2006 – 2010.
Từ thực trạng trên, câu hỏi đặt ra người dân đã nhận thức được vấn đề
thực hiện kế hoạch hoá gia đình như thế nào? Xuất phát từ lý do như vậy, chúng

tôi chọn đề tài nghiên cứu: Nhận thức của ngƣời dân huyện Nga Sơn tỉnh
Thanh Hóa về kế hoạch hóa gia đình với mong muốn góp một phần vào việc
nâng cao nhận thức của người dân về kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn huyện
Nga Sơn – Thanh Hóa.
2. Mục đích nghiên cứu
- Phát hiện thực trạng nhận thức của người dân trong độ tuổi sinh đẻ về kế
hoạch hoá gia đình từ đó đề xuất một số kiến nghị về việc nâng cao nhận thức,
góp phần thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ gia tăng dân số ở huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
- Nhận thức của người dân về kế hoạch hoá gia đình.
4. Khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: 320 người, bao gồm:
- 300 người dân trong độ tuổi sinh đẻ (từ 18 – 49 tuổi) trên địa bàn huyện
Nga Sơn. Trong đó:

10
+ 100 người dân thuộc các xã làm kinh tế biển như nuôi trồng, đánh bắt
thuỷ hải sản, làm chiếu cói xuất khẩu…
+ 100 người dân thuộc các xã làm kinh tế thuần nông nghiệp (trồng trọt và
chăn nuôi).
+ 100 người dân thuộc các xã loại hình kinh tế dịch vụ, và các ngành nghề
phi nông nghiệp khác (kinh doanh, buôn bán, cán bộ các cơ quan nhà nước).
- 20 cán bộ làm việc tại Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em và cán bộ làm
cộng tác viên dân số của huyện Nga Sơn.
4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành khảo sát các
khách thể là người dân sống trên địa bàn huyện Nga Sơn, Thanh Hóa trong
khoảng từ 18 – 49 tuổi.
- Giới hạn về thời gian nghiên cứu: từ tháng 11 - 2007 đến tháng 9 - 2009.

- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Đây là
địa bàn có dân số đông và tỉ lệ gia tăng dân số thuộc loại cao của tỉnh Thanh Hóa.
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi
đề cập đến thực trạng nhận thức của người dân về kế hoạch hoá gia đình được
quy định trong Pháp lệnh dân số và các văn bản hướng dẫn của Nhà nước cũng
như các tổ chức liên quan về công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
- Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề DS, KHHGD ở trong nước và
ngoài nước.

11
- Làm rõ các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu như:
+ Nhận thức, nhận thức về KHHGD, các mức độ nhận thức và thực hiện
KHHGD, một số nhân tố liên quan tới nhận thức về KHHGD của người dân.
5.2 Khảo sát thực trạng
- Nhận thức của người dân về KHHGD.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người
dân về KHHGD.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nhận thức của người dân về kế hoạch hóa gia đình còn chưa sâu sắc, chủ
yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ biết chứ chưa thực sự hiểu đầy đủ, đúng đắn về
kế hoạch hoá gia đình.
Có nhiều nhân tố tác động đến nhận thức của người dân như trình độ học
vấn, nghề nghiệp.
Nếu có sự tuyên truyền, giáo dục về nội dung của KHHGD đến từng
người dân thì nhận thức của người dân về vấn đề này sẽ được nâng cao.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

- Phương pháp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê toán học.

12
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình
1.1. Một số nghiên cứu về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình trên
thế giới
Từ những năm 50 của thế kỷ XX, nhiều nước trên thế giới đã bắt đầu
nhận thức được hậu quả của sự bùng nổ dân số trên thế giới và quan tâm giải
quyết vấn đề này. Ấn Độ được coi là nước tiên phong, sau Ấn Độ, có nhiều
nước cũng tích cực tham gia triển khai công tác này, đặc biệt là các nước trong
khu vực Châu Á và một số khu vực khác trên thế giới.
Người đầu tiên nhắc nhở về sự cần thiết của công tác dân số kế hoạch hoá
gia đình là bà Alva Mydral (người Mỹ) vào năm 1941, bà khẳng định: “một
chính sách dân số sáng suốt tỉnh táo là cần thiết cho việc thực hiện chính sách xã
hội” (theo Bản tin Giáo dục dân số 15-16-17-18/1991. Bộ Giáo dục – đào tạo -
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam. Đề án VIE/88/P10 lưu hành nội bộ). Đây
được coi là mốc đánh dấu sự ra đời của một lĩnh vực khoa học chuyên nghiên
cứu về dân số. Cũng trong năm 1941, hai tác giả Phrank Lolimer và Erdrick
Osborn (người Mỹ) nêu ý kiến nhấn mạnh sự cần thiết đưa giáo dục các vấn đề
dân số vào chương trình môn xã hội học của nhà trường. Năm 1940, Tổng giám
đốc UNESSCO đã nhấn mạnh: “Dân số quá đông có thể gây ảnh hưởng tiêu cực
tới nền văn minh tương lai và tốc độ của nó. Ông lưu ý nhiệm vụ của
UNESSCO là phải giúp mọi người nhận thức được sự nghiêm trọng của các vấn
đề do hậu quả của gia tăng dân số gây ra. Ý kiến của ông đã có tác dụng tích cực
vào hoạt động của Liên hiệp quốc trong việc hợp tác với các cơ quan khác tổ
chức hội nghị dân số thế giới. Các vấn đề liên quan tới DS thế giới, dĩ nhiên
mang tính chất toàn cầu, nhiều nước bày tỏ sự quan tâm chung tới sự tác động

của sự gia tăng dân số và sự phân bố dân số đối với sự phát triển [1-20]

13
Từ ngày 31/8-10/9/1954, Hội nghị dân số thế giới lần thứ I được tổ chức
tại Rome đề cập tới nội dung về chính sách và quản lý kế hoạch hoá gia đình.
Một thập kỷ sau, Hội nghị dân số thế giới lần thế II được tổ chức tại Bengrat
ngày 30/8-10/9/1965 bàn về các vấn đề mức sinh sản và kế hoạch hoá gia đình
với 103/487 báo cáo xoay quanh các vấn đề trên.
Cũng trong thời gian những năm 60 của thế kỷ XX, ở Mỹ đã có sự thay
đổi cơ bản về chính sách dân số và KHHGD khi Tổng thống Mỹ Johnson tuyên
bố “đầu tư 5 USD vào kiểm soát dân số có giá trị như 100 USD đầu tư vào tăng
trưởng kinh tế”.
Năm 1968 Đại hội đồng UNESCO đã tuyên bố mục đích các hoạt động
của UNESCO trong lĩnh vực dân số phải là sự thúc đẩy hiểu biết và những trách
nhiệm to lớn mà sự gia tăng dân số đặt ra với mỗi cá nhân, mỗi quốc gia và cả
cộng đồng quốc tế. Từ năm 1970 – 1972 UNESCO đã ủy nhiệm cho Tổng giám
đốc giúp đỡ các nước hội viên biên soạn chính sách DS – KHHGD, tổ chức và
thực hiện các phương tiện thông tin, giáo dục, tuyên truyền để mọi người nhận
thức rõ hơn bản chất, nguyên nhân và hậu quả của sự gia tăng dân số và tiến
hành các hoạt động đẩy mạnh giáo dục dân số.
Hội nghị dân số thế giới lần thứ III tại Bucaret từ 19-30/8/1974 đã tập
trung đưa ra tư liệu quốc tế đầu tiên về chính sách dân số và vạch ra kế hoạch
toàn cầu cho hành động về dân số. Khu vực châu Á được coi là khu vực nhạy
bén và quan tâm nhiều tới vấn đề gia tăng dân số. Tháng 9 – 1979 Hội nghị dân
số và giáo dục dân số khu vực được tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) với sự
tham gia của 13 quốc gia đã nhất trí cao trong việc vạch ra những tư tưởng chiến
lược, soạn thảo chương trình, vạch ra các nội dung để đưa vào chương trình học
ở nhà trường đồng thời đưa ra các tuyên bố về dân số.
Hội nghị dân số thế giới lần thứ IV từ 6-14/8/1984 tại Mêxicô đã tập
trung xem xét các vấn đề và chính sách liên quan đến mức sinh đẻ và gia đình,


14
phân bố dân cư và di dân, dân số, tài nguyên, môi trường và sự phát triển, chính
sách về sức khỏe…
Cùng với chương trình hành động của Liên hiệp quốc, các nước phát triển
cũng xem xét giáo dục dân số và KHHGD là cần thiết để ứng phó với những
thách thức của gia tăng dân số, khủng hoảng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên môi
trường thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Giáo dục dân số và KHHGD được
coi là một phấn không thể thiếu được trong kế hoạch phát triển quốc gia, một số
nước đã coi đây là chính sách số 1 cần giải quyết. Khu vực châu Á cũng đạt
được nhiều kết quả tốt, trong đó 5 quốc gia Hồng Công, Nhật Bản, Singapo, Úc,
Niu Di Lân được coi là thành công trong chương trình KHHGD. Các nước khác
như Trung Quốc đưa ra chính sách 1 con năm 1978 và hạ tỉ lệ từ 2,5% xuống
1,21%; Hàn Quốc đặt mục tiêu hạ tỉ lệ sinh xuống 1% vào năm 1993; Thái Lan
đã đạt tốc độ gia tăng dân số còn 1% là những quốc gia khá thành công trong
công tác DS – KHHGD [10-8].
Nói tóm lại, qua một số sự kiện nêu trên, chúng ta thấy được vấn đề dân
số kế hoạch hoá gia đình luôn là mối quan tâm của nhân loại. Trong quá tình
phát triển của công tác này, nhiều nước đã hoàn thiện từng bước về nội dung,
yêu cầu, biện pháp, cũng như học hỏi kinh nghiệm hoạt động có hiệu quả của
các nước để xây dựng chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình của quốc gia
mình.
1.2. Một số nghiên cứu về dân số kế hoạch hoá gia đình ở Việt Nam
Dân số nước ta tăng nhanh, mỗi năm có thêm khoảng 1 triệu người (tương
đương dân số một tỉnh) gây nên sức ép nhiều mặt với sự phát triển của đất nước;
bình quân đất đai canh tác trên đầu người là 0,11 ha (thế giới là 0,27 ha) với diện
tích canh tác như vậy, khó có thể đủ đảm bảo lương thực, dù có tăng năng suất.
Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận ra tầm quan trọng của công tác dân số, kế

15

hoạch hoá gia đình đối với sự phát triển đất nước. Năm 1963, nước ta đã tiến
hành cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch nhằm giải quyết vấn đề dân số trước
mắt và lâu dài; công tác dân số trở thành nghị quyết đại hội đảng, trở thành chỉ
tiêu kế hoạch của Nhà nước và các địa phương trong cả nước.
Ngày 16/10/1963 chỉ thị 99TTg của Chính phủ thành lập Uỷ ban bảo vệ
bà mẹ và trẻ em ở tất cả các cấp từ trung ương tới địa phương để chỉ đạo cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Sau khi đất nước thống nhất, vấn đề DS – KHHGD được đặt ra cấp bách
hơn. Nhiều chính sách, biện pháp tác động trong việc khuyến khích, động viên
người dân làm tốt công tác DS - KHHGD, các dịch vụ y tế được triển khai rộng
khắp phục vụ công tác DS - KHHGD ngày càng tiện lợi, phù hợp cho người dân.
Trong phương hướng nhiệm vụ qua các kỳ Đại hội Đảng đều nhấn mạnh mọi
ngành, mọi cấp phải coi cuộc vận động thực hiện công tác DS – KHHGD là
công tác có tầm quan trọng to lớn, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội, góp phần
tích cực vào việc nâng cao đời sống nhân dân.
Ngày 11/4/1984, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra quyết định
thành lập Uỷ ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch ở cấp trung ương và
địa phương. Sau này Uỷ ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch đổi tên
thành Uỷ ban quốc gia DS – KHHGD.
Cùng với những chủ trương chính sách trên, từ những năm 80 của thế kỷ
trước, công tác DS – KHHGD được triển khai rộng khắp tới mọi đối tượng, từ
trẻ thơ tới người cao tuổi. Chương trình giáo dục dân số được thí điểm tại các
tỉnh thành gồm Hà Nội, Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh,
Long An với 215 lớp thí điểm gồm 4 ngành học (mẫu giáo, phổ thông, bổ túc
văn hóa và sư phạm) với 10 000 học sinh. Bộ Giáo dục đã xây dựng chương
trình giáo dục DS, giáo dục giới tính cho từng ngành học, biên soạn và mở lớp
huấn luyện cho đội ngũ giáo viên. Việc thực hiện giáo dục dân số đã góp phần
thực hiện chính sách dân số của Đảng và Nhà nước ta.

16

Tại hội thảo chiến lược dân số kế hoạch hoá gia đình (ngày 9-12-1993)
mục tiêu được đề ra trong công tác này là mỗi gia đình có từ 2 đến 2,1 con, để
làm được điều này có 7 giải pháp đưa ra để thực hiện mục tiêu đưa ra. Đại hội
toàn quốc hội Kế hoạch hoá gia đình Việt Nam lần I (2-3-1993) với sự tham dự
của 53 tỉnh thành đã đưa ra đích phấn đầu đến năm 1995 mỗi tỉnh thành xây
dựng được 20-30% số xã phường có chi hội Kế hoạch hoá gia đình góp phần thực
hiện thành công các mục tiêu công tác dân số kế hoạch hoá gia đình [8 - 10].
Bên cạnh đó, trong những năm qua, để phục vụ cho công tác dân số kế
hoạch hoá gia đình, nhiều công trình nghiên cứu về công tác này cũng được tiến
hành.
Tác giả Đỗ Thịnh trong cuốn sách “Học vấn và mức sinh” (nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội, 1997) đã phân tích mối quan hệ giữa học vấn và mức sinh
trên các phạm vi khác nhau từ cả nước đến các vùng các tỉnh và các huyện. Tác
giả Trần Cao Sơn trong cuốn sách “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa dân số
và sự phát triển” (nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997) đã đề cập đến
một số vấn đề như: dân số và phát triển một số tộc người, mối quan hệ giữa dân
số và việc làm, dân số và vấn đề nguồn nhân lực, vai trò của nam giới trong việc
giảm mức sinh, đồng thời trong cuốn sách này, tác giả cũng đề cập tới vấn đề dân
số và phát triển của một số quốc gia trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Cũng liên quan đến nội dung trên, tác giả Lương Xuân Quỳ, trong cuốn
sách “Bùng nổ dân số - Hậu quả và giải pháp” (nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
1992) đã nêu lên tình hình dân số thế giới, tình hình dân số Việt Nam và chỉ rõ
con đường lựa chọn duy nhất là kiên trì đẩy mạnh KHHGD; trong cuốn sách
này, tác giả cũng đưa ra kinh nghiệm của một số địa phương trong thực hiện
công tác KHHGD.
Tiếp tục chủ đề trên, tác giả Lê Thi trong cuốn sách “Gia đình, phụ nữ
Việt Nam với dân số, văn hoá và sự phát triển bền vững” (nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2004) đã phân tích vai trò của gia đình, của người mẹ với sự

17

phát triển dân số, văn hoá và môi trường; bên cạnh đó, các vấn đề như bình đẳng
giới, lao động nữ ở nông thôn và thành thị, gia đình truyền thống và hiện đại,
tiêu chuẩn cho người phụ nữ hiện nay, hôn nhân và hạnh phúc gia đình, công
dung ngôn hạnh và một vài nét đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta… cũng được tác giả
bàn luận, phân tích.
Trong cuốn sách dịch, “Các phương pháp đánh giá chương trình kế hoạch
hoá gia đình” của tác giả Ross John (nhà xuất bản Thanh niên, 1996) đã nêu lên
cơ sở dân số học và tương tác qua lại với các yếu tố chương trình, sự chấp nhập
và sử dụng hiệu quả các biện pháp tránh thai, phương pháp đánh giá chương
trình KHHGD …
Tác giả Trần Trọng Thuỷ trong cuốn sách “Tâm lý học dân số” (Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008) đã đề cập đến vấn đề tâm lý học của hành
vi sinh đẻ ở cấp độ cá nhân, gia đình và xã hội. Ở cấp độ xã hội, tác giả nghiên
cứu mặt tâm lý – đạo đức của vấn đề sinh đẻ, tâm lý học và chính sách dân số,
ảnh hưởng của lối sống đô thị đến vấn đề sinh đẻ, việc tuyên truyền về dân số và
quá trình thích ứng xã hội đối với việc hạ thấp tỉ lệ sinh đẻ. Ở cấp độ gia đình,
tác giả nghiên cứu về các mối quan hệ qua lại trong gia đình và vấn đề sinh đẻ,
thái độ của hai vợ chồng đối với vấn đề số con trong gia đình. Ở cấp độ cá nhân,
tác giả đề cập đến nhu cầu về con cái, tâm thế, động cơ của hành vi sinh đẻ và
nhân cách bố mẹ với vấn đề sinh đẻ [18].
Như vậy, chúng ta thấy, công tác kế hoạch hoá gia đình ở nước ta được
quan tâm giải quyết từ rất sớm. Điều đó thể hiện ở các văn bản, chủ trương của
Nhà nước liên quan đến dân số KHHGD cũng như các phong trào vận động toàn
dân thực hiện KHHGD. Trong những năm qua, các đề tài nghiên cứu, sách báo
về vấn đề này cũng thường xuyên được tiến hành cho thấy sự quan tâm của toàn
xã hội đến vấn đề dân số, KHHGD.


18
2. Khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu

2.1. Khái niệm nhận thức
2.1.1. Định nghĩa nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người
(nhận thức, tình cảm, hành vi). Nhận thức là sự phản ánh chủ quan về thế giới
khách quan vào đầu óc con người. Để có thể tồn tại và phát triển, con người phải
nhận thức được bản chất của thế giới khách quan cũng như bản thân mình để từ
đó, con người tỏ thái độ, tình cảm và hành động. Nhận thức là quá trình đạt tới
chân lý khách quan và nhận thức của con người có thể ở các mức độ khác nhau,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Mức độ thấp là nhận thức cảm tính
bao gồm cảm giác và tri giác, trong đó nhận thức của con người phản ánh những
thuộc tính bề ngoài đang trực tiếp tác động vào giác quan con người; mức độ
cao là nhận thức lý tính, còn gọi là tư duy, trong đó con người phản ánh cái bản
chất bên trong, những mối quan hệ có tính quy luật. Nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng hoạt
động nhận thức của con người [22].
Theo V.I. Lênin, “nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi con
người, nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh mà là
một quá trình, cả một chuỗi trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành ra các khái
niệm, quy luật và chính các khái niệm, quy luật này bao quát một cách có điều
kiện, gần đúng tính quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động, phát
triển” [23 - 192]. Như vậy, chúng ta thấy nhận thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc con người, sự phản ánh này là quá trình biện chứng dựa
trên hoạt động tích cực của chủ thể. Tính tích cực của chủ thể nhận thức thể hiện
không chỉ ở sự tác động của chủ thể diễn ra trong quá trình sáng tạo, trong đó
chủ thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy luật của khách thể. Lênin đã tổng
kết quy luật nhận thức đó như sau: “Từ trực sinh động đến tư duy trừu tượng và

19
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức hiện thực khách quan”.

Tác giả Nguyễn Khắc Viện, trong cuốn Từ điển tâm lý học, Nhà xuất bản
thế giới, 2001 đưa ra cách hiểu về nhận thức như sau: Nhận thức là quá trình
hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, nhận biết và hiểu
biết thế giới khách quan [21 - 256]. Quá trình ấy diễn ra ở các mức độ:
- Kinh nghiệm hằng ngày về sự vật, hiện tượng và người khác, mang tính
tự phát, thường hỗ hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.
- Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với
ý thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng, sai.
Dưới góc độ tâm lý học, nhận thức là sự phản ánh những thuộc tính của
sự vật, hiện tượng, mối quan hệ của chúng trong hiện thức khách quan thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Sống trong điều kiện tự nhiên và môi trường
xã hội, đòi hỏi con người phải nhận thức được những quy luật của tự nhiên và
các quy luật xã hội để hoạt động nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo
chính bản thân con người. K.K. Platonov định nghĩa “nhận thức là một quá trình
tiếp nhận những tri thức chân thực trong thế giới khách quan, trong quá trình
hoạt động thực tiễn xã hội” [33].
Trong cuốn Từ điển tâm lý học do tác giả Vũ Dũng chủ biên, nhận thức là
hiểu được một điều gì đó, tiếp thu được những kiến thức về điều nào đó, hiểu
biết những quy luật về những hiện tượng, quá trình nào đó…[3 - 553].
Nhận thức là hoạt động gồm nhiều quá trình khác nhau, biểu hiện ở những
mức độ khác nhau và mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách
quan. Nhận thức bao gồm các quá trình cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng
tượng. Quá trình này phản ánh và tái tạo lại hiện thực ở trong tư duy con người.
Như vậy, quá trình nhận thức được hiểu là quá trình tiếp cận, tiến đến gần chân
lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ nắm hết

20
toàn bộ hiện thực, quá trình này diễn ra liên tục và không bao giờ ngừng bởi
hiện thực khách quan là vô cùng và luôn luôn phát triển [29-67].
2.1.2. Bản chất của nhận thức

- Nhận thức là một quá trình tâm lý phản ánh bản thân hiện thực khách
quan. Nhận thức là một quá trình tâm lý có nghĩa là nhận thức có mở đầu, diễn
biến, và kết thúc. Ở con người, quá trình này thường gắn với mục đích nhất định
nên nhận thức con người là một hoạt động có mục đích.
Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực
khách quan. Sự phản ánh đó có thể là thuộc tính bề ngoài hoặc các thuộc tính,
quy luật bản chất bên trong của sự vật hiện tượng; nhận thức không chỉ phản ánh
thế giới xung quanh mà còn phản ánh chính bản thân con người; không chỉ phản
ánh hiện tại mà còn phản ánh cả cái đã qua và cái sẽ tới.
Sản phẩm của hoạt động nhận thức là cơ các hình ảnh, khái niệm, quy
luật về sự vật hiện thượng được nhận thức. Hoạt động này là cơ sở của các
hoạt động khác của con người. Nhận thức đúng làm cơ sở cho tình cảm, ý chí,
quan điểm, lập trương, tư tưởng và hành động đúng.
- Nhận thức mang bản chất xã hội, lịch sử: Hoạt động nhận thức bao giờ
cũng phải dựa vào tri thức đã có, dựa vào kinh nghiệm của nhân loại đã tích luỹ
được, tức là dựa vào kết quả của hoạt động nhận thức mà xã hội loài người đã
đạt được ở trình độ phát triển lịch sử lúc đó.
Nhận thức phải sử dụng vốn từ ngữ do các thế hệ trước sáng tạo ra với tư
cách là phương tiện biểu đạt, khái quát và gìn giữ kết quả hoạt động nhận thức
của loài người.

21
Mặt khác, quá trình nhận thức được thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội, nghĩa là
ý nghĩ của con người được hướng vào giải quyết các vấn đề bức xúc do xã hội
đặt ra.
Nhận thức con người mang tính chất lịch sử, bởi bề rộng của sự khái quát
và chiều sâu của việc phát hiện ra bản chất của sự vật hiện tượng được quy định
không chỉ do khả năng của cá nhân, mà còn do kết quả của hoạt động nhận thức mà
loài người đã đạt được, do kho tàng tri thức có liên quan và trí tuệ của nhân loại.
Như vậy, kiến thức của mỗi người được hình thành và phát triển trong quá

trình hoạt động nhận thức tích cực của bản thân họ, nhưng nội dung và tính chất
của kiến thức được quy định bởi trình độ nhận thức chung, tồn tại trong một giai
đoạn phát triển xã hội lúc đó. Nhận thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội -
lịch sử.
2.1.3. Các mức độ nhận thức
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong tâm lý học về mức độ nhận thức.
- Theo quan điểm của các nhà tâm lý học hoạt động, nhận thức được xem
là một quá trình. Do quá trình nhận thức ở mỗi người thường gắn với mục đích
nhất định nên nhận thức được xem là một hoạt động đặc trưng của con người.
Hoạt động nhận thức là một hoạt động tâm lý phức tạp, đa dạng và có nhiều mức
độ khác nhau. Căn cứu vào tính chất phản ánh, các nhà tâm lý học chia toàn bộ
hoạt động nhận thức thành hai mức độ: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
+ Nhận thức cảm tính: là mức độ nhận thức đầu tiên, mức độ thấp nhất,
trong hoạt động nhận thức của con người. Nhận thức cảm tính bao gồm cảm
giác và tri giác. Cảm giác là hình thức phản ánh thấp, tri giác là hình thức phản
ánh cao hơn trong cùng bậc thang nhận thức cảm tính. Cảm giác và tri giác có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chi phối lẫn nhau trong mức độ nhận thức cảm
tính về thế giới.

22
Nội dung phản ánh của nhận thức cảm tính là những thuộc tính trực quan,
cụ thể bên ngoài của sự vật, những mối liên hệ và quan hệ về mặt không gian,
thời gian chứ chưa phải là những thuộc tính bản chất, bên trong, những mối
quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng trong thế giới. Phương
thức phản ánh trong nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp bằng các giác
quan, chứ chưa phải phản ánh gián tiếp, khái quát bằng ngôn ngữ. Sản phẩm của
hoạt động nhận thức cảm tính là những hình ảnh cụ thể trực quan về thế giới,
chứ chưa phải là những khái niệm và quy luật về thế giới.
Những đặc điểm trên đây cho thấy nhận thức cảm tính mới chỉ là mức độ
nhận thức ban đầu, sơ đẳng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người.

Nhận thức cảm tính có vai trò quan trọng trong đời sống tâm lý con người, nó
cung cấp nguyên vật liệu cho các hoạt động tâm lý bậc cao.
+ Nhận thức lý tính: Nhận thức lý tính là mức độ cao hơn nhận thức cảm
tính. Nội dung phản ánh của nhận thức lý tính là thuộc tính bên trong, những
mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con
người chưa biết. Nhận thức lý tính bao gồm 2 quá trình: tư duy và tưởng tượng.
Nhận thức lý tính có đặc điểm chung là: thuộc nhận thức cao, có những đặc
điểm mới về chất so với nhận thức cảm tính. Nó mang tính khái quát, gián tiếp.
Nhận thức lý tính chỉ nảy sinh trong “hoàn cảnh có vấn đề” nghĩa là khi con
người gặp những tình huống, hoàn cảnh mà những kinh nghiệm, vốn kiến thức
cũ không giải quyết được. Để nhận thức, con người cần phải vượt ra khỏi phạm
vi những hiểu biết cũ và đi tìm những cái mới, mục đích mới. Nhận thức lý tính
có khả năng đi sâu vào sự vật, hiện tượng nhằm vạch ra những thuộc tính chung,
những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa chúng. Chính nhờ phản ánh cái
khái quát, các quy luật mà nhận thức lý tính giúp con người không chỉ nhận thức
thế giới mà còn có khả năng cải tạo thế giới. Ở mức độ nhận thức lý tính, con
người nhận thức thế giới một cách gián tiếp - nhận thức bằng ngôn ngữ. Nhờ
phương tiện ngôn ngữ và khả năng phản ánh khái quát, phản ánh gián tiếp thế
giới mà con người có khả năng vạch ra các thuộc tính bản chất, các mối quan hệ

23
có tính quy luật, dự đoán được chiều hướng phát triển và diễn biến của chúng
để nhận thức và cải tạo chúng.
Nhận thức lý tính có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ. Bởi vì muốn phản
ánh được những thuộc tính bản chất, những mối quan hệ có tính quy luật của
hàng loạt sự vật, hiện tượng trong thế giới, muốn phản ánh gián tiếp thế giới thì
nhận thức lý tính của con người phải sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện. Có thể
coi mối quan hệ giữa nhận thức lý tính và ngôn ngữ như mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức. Quá trình nhận thức lý tính được diễn ra bằng cách chủ thể
tiến hành những thao tác trí tuệ như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá

và khái quát hoá.
Nhận thức lý tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính. Nó là
hai mức độ khác nhau của quá trình nhận thức; chúng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, bổ sung cho nhau trong hoạt động nhận thức của con người. Nhận
thức cảm tính cung cấp những thông tin ban đầu cho nhận thức lý tính, là cơ sở
cho nhận thức cảm tính. Nhận thức cảm tính và lý tính đều nảy sinh từ thực tiễn
và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng đắn của nhận thức.
- Quan điểm của K.Warner Schaise về mức độ nhận thức:
K. Warner Schaise (1877 – 1978) cho rằng, sự phát triển trí tuệ diễn ra do
sự thừa nhận của con người về cái gì là có ý nghĩa và quan trọng trong cuộc đời
mình. Năm giai đoạn trong lý thuyết của K. Warner Schaise đã vạch ra cả một
loạt những sự chuyển hóa từ “cái gì tôi cần biết” tìm hiểu ý nghĩa và mục tiêu
cuối cùng nó dẫn đến “sự thông thái tuổi già”. Những kinh nghiệm cuộc sống
thực là những ảnh hưởng quan trọng đến sự tiến bộ này.
Mô hình nhận thức của K. Warner Schaise gồm các giai đoạn sau: 1. Thu
nhận (tuổi trẻ em và thiếu niên): các thông tin và kỹ năng học được là do riêng
mình, không phải do hoàn cảnh, nó là sự chuẩn bị tham gia vào xã hội. 2. Thành
đạt (từ 19 – 20 đến đầu những năm 30 tuổi) con người thu nhận không lâu hơn

24
những kiến thức chỉ là cho mình, nhưng sử dụng những gì mà mình biết để trở
thành có năng lực độc lập. Lúc này, họ làm tốt nhiệm vụ phù hợp với mục đích
của cuộc sống mà họ đã đặt ra cho mình. 3. Trách nhiệm (cuối những năm 30
đến đầu những năm 40 tuổi): con người có liên quan đến những mục tiêu lâu dài
và những vấn đề thực tế của cuộc sống thực mà nó tựa như được liên tưởng với
các trách nhiệm của họ với những người khác. 4. Giai đoạn điều hành (30, 40
tuổi cho đến trung niên): con người có trách nhiệm đối với các hệ thống xã hội
(như nhà nước, công ty…) nhiều hơn là đối với gia đình, họ cần tích hợp các
mối liên hệ phức tạp ở một vài mức độ sau đó. 5. Giai đoạn tích hợp (tuổi già):
Những người già cả đã trải qua một số quan hệ xã hội và trách nhiệm, hoạt động

nhận thức của họ có thể bị giới hạn bởi những biến đổi sinh học có sự lựa chọn
nhiều hơn về những nhiệm vụ mà họ sẽ phải nỗ lực cho chúng. Ở giai đoạn này
con người có suy nghĩ về mục đích của cái mà họ làm và không băn khoăn về
những nhiệm vụ không có ý nghĩa với họ.
Lý thuyết của K.Warner Schaise về nhận thức có hạt nhân hợp lý của nó ở
chỗ ông khẳng định kinh nghiệm sống có vai trò quan trọng đối với tư duy của
con người.
- Quan điểm của Benjamin Bloom về các mức độ nhận thức:
B.S. Bloom và các cộng sự trong cuốn sách “Hệ phân loại các mục tiêu sư
phạm, lĩnh vực nhận thức” đã chia nhận thức của con người thành 6 mức độ từ
thấp lên cao như sau:
+ Mức 1: Nhận biết (Knowledge) đưa vào trí nhớ và phục hồi lại thông tin
của cùng một đối tượng nhận thức, ở mức độ này, nhận thức của con người có
thể nhắc lại được các sự kiện, định nghĩa các nội dung
+ Mức 2: Hiểu (Comprehension) ở mức độ này, có thể thuyết minh, giải
thích, chứng minh những kiến thức đã lĩnh hội (phục hồi ngữ nghĩa thông tin

25
trong những đối tượng khác nhau, thiết lập liên hệ ở những đối tượng khác
nhau).
+ Mức 3: Vận dụng (Application) có thể áp dụng kiến thức vào những
tình huống mới, khác với trong bài học (sử dụng các quy tắc, nguyên tắc, những
phác đồ để giải quyết một vấn đề nào đó).
+ Mức 4: Phân tích (Analysis) biết phân chia một toàn thể thành các bộ
phận, làm sáng tỏ mối quan hệ những cái bộ phận trong cái toàn thể.
+ Mức 5: Tổng hợp (Synthesis) biết sắp xếp, lắp ghép các bộ phận thành
cái thống nhất, các vấn đề nhỏ thành vấn đề lớn hơn.
+ Mức 6: Đánh giá (Evaluation) có thể nhận định, phán đoán về giá trị,
giá trị của các kiến thức đó.
Cách phân chia nhận thức của con người thành 6 mức độ có nhiều điểm

tương đồng với cách phân chia mức độ nhận thức của con người thành cảm tính
và lý tính như ta đã đề cập ở trên. Ở mức độ thấp, nhận thức của con người mới
chỉ dừng lại ở việc biết về một vấn đề nào đó, ở mức độ này, con người chỉ có
thể nhắc lại được, biết về vấn đề đó… Cao hơn nữa, nhận thức của con người có
thể đạt tới sự hiểu biết về nó như có thể thuyết minh, chứng minh những điều
mình đã lĩnh hội được. Khi nhận thức của con người đã tới mức độ cao, họ có
thể vận dụng những quy luật, kiến thức đã lĩnh hội đó vào cuộc sống, giải quyết
những tình huống cuộc sống đặt ra trên cơ sở những tri thức đã có. Khi đó, nhận
thức của con người hoàn toàn có thể đạt tới khả năng phân tích và tổng hợp vấn
đề đặt ra. Cũng trên cơ sở vận dụng, phân tích, tổng hợp những tri thức đã có,
con người có thể đánh giá vấn đề mà họ đã nhận thức, nhìn nhận giá trị, ý nghĩa
của vấn đề đó. Ở đây, việc phân chia mức độ nhận thức của con người thành các
mức độ phân tích, tổng hợp, đánh giá chỉ mang tính tương đối, bởi trong thực tế,
các mức độ này đan xen vào nhau cùng hướng tới mục tiêu nắm bắt bản chất và
cải tạo thế giới; chúng được vận dụng tùy hoàn cảnh và yêu cầu của hoạt động

26
nhận thức và cải tạo thế giới chứ không chỉ đơn giản là mức độ cao hay thấp
trong hoạt động nhận thức.
Căn cứ vào các quan điểm về nhận thức như trên, chúng tôi hiểu nhận
thức của người dân về kế hoạch hóa gia đình như sau: Nhận thức của ngƣời
dân về kế hoạch hóa gia đình là những hiểu biết về kế hoạch hóa gia đình
làm cơ sở cho việc định hƣớng, điều chỉnh thái độ và hành vi thực hiện kế
hoạch hóa gia đình của ngƣời dân.
Nhận thức của người dân về kế hoạch hóa gia đình thể hiện ở các mức độ
khác nhau từ biết đến hiểu và vận dụng những nội dung của kế hoạch hóa gia
đình vào cuộc sống.
Ở mức độ biết về kế hoạch hoá gia đình, người dân trong độ tuổi sinh đẻ
ở địa bàn nghiên cứu đã từng nghe, từng biết về KHHGD qua các phương tiện
truyền thông đại chúng, qua các buổi nói chuyện với cộng tác viên dân số ở cơ

sở, qua tiếp xúc với những người xung quanh Những thông tin người dân tiếp
nhận được còn mang tính đơn giản như chỉ biết sinh 1-2 con, họ chưa nắm được
những thông tin phức tạp hơn như khoảng cách sinh con hợp lý, lợi ích cụ thể
của việc thực hiện KHHGD, không biết hoặc chỉ biết tên của các biện pháp
tránh thai…
Ở mức độ hiểu, người dân không chỉ nghe nói đến KHHGD mà còn hiểu
đúng và các nội dung của nó, họ đã có thể phân tích để hiểu tại sao phải thực
hiện KHHGD, lợi ích, mục tiêu thực hiện KHHGD đối với từng gia đình và trên
bình diện quốc gia… Cụ thể là các mặt sau: hiểu được đầy đủ về bản chất, nội
dung của kế hoạch hóa gia đình; hiểu được mục tiêu của kế hoạch hóa gia đình;
những lợi ích và hậu quả của có và không thực hiện kế hoạch hóa gia đình đối
với từng gia đình và xã hội; lý giải được cơ chế của các biện pháp tránh thai…
Mức độ cao nhất là vận dụng những kiến thức mà người dân đã có về
KHHGD vào xây dựng cuộc sống của mình. Cụ thể, người dân có thái độ đồng
tình và thực hiện đầy đủ các mục tiêu, nội dung của kế hoạch hóa gia đình, hiểu
và áp dụng các biện pháp tránh thai.

×