Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Vấn đề lối sống của sinh viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 104 trang )


103
Đại học quốc gia Hà Nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị





Đào Văn Mừng






Vấn đề lối sống của sinh viên
trường đại học Sư phạm Kỹ thuật
Hưng yên hiện nay



Luận văn thạc sĩ Triết học














Hà Nội - 2006

104
Đại học quốc gia Hà Nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị




Đào Văn Mừng




Vấn đề lối sống của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
Hưng yên hiện nay




Chuyên ngành
: Triết học

Mã số: 60.22.80



Luận văn Thạc sĩ Triết học

Người hướng dẫn khoa học
: GS.TS. Nguyễn Văn Huyên




Hà Nội - 2006



1
Mục lục
Mở đầu
3
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về lối sống 8
1.1. Khái niệm lối sống 8
1.2. Yêu cầu về lối sống trong thời đại ngày nay 26
Chương 2. Thực trạng lối sống của sinh viên Trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật Hưng Yên
40
2.1. Những ưu điểm của lối sống sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Hưng Yên 40
2.2. Mặt hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng lối sống
sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên 57
Chương 3. Phương hướng và giải pháp xây dựng lối sống sinh viên Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên hiện nay

. 73
3.1. Phương hướng xây dựng lối sống sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Hưng Yên 73
3.2. Những giải pháp xây dựng lối sống sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Hưng Yên hiện nay. 79
Kết luận
91
Danh mục tài liệu tham khảo
96


2
Bảng quy ước các chữ viết tắt trong luận văn


ĐCSVN: Đảng cộng sản Việt Nam
ĐHSPKT: Đại học sư phạm Kỹ thuật
ĐTNCS: Đoàn thanh niên cộng sản
ĐVT: Đơn vị tính
CTQG: Chính trị quốc gia
CNCS: Chủ nghĩa cộng sản
CNH-HĐH: Công nghiệp hoá hiện đại hoá
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
HSSV: Học sinh sinh viên
NXB: Nhà xuất bản
PTSX: Phương thức sản xuất
QHSX: Quan hệ sản xuất
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


XHTB: Xã hội tư bản

3
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục lối sống lành mạnh cho sinh viên là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác giáo dục Đại học và Cao đẳng. Mục
đích của sự nghiệp giáo dục đó là tạo ra những con người có phẩm chất
tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội. Trong quá trình vận
dụng tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh vào việc xây dựng
lối sống mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu
cơ bản của giáo dục là: “coi trọng bồi dưỡng cho học sinh viên khát
vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giầu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản
thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc,trau dồi cho học sinh, sinh
viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại”
[6, tr.207].
Hiện nay xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội nước ta. Trong nước, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), một mặt đang
đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế xã hội, mặt khác cũng làm nảy
sinh nhiều tiêu cực có khả năng can thiệp, tác động, phá vỡ những giá trị
văn hoá truyền thống, làm băng hoại các giá trị đạo đức. Hơn nữa, các
thế lực phản động trong nước và quốc tế, “với diễn biến hoà bình"
không chỉ tấn công mạnh mẽ vào chính trị mà còn tấn công vào các lĩnh
vực văn hoá, đạo đức, lối sống, trong đó đối tượng chủ yếu là thanh
thiếu niên, sinh viên. Trên thực tế, một bộ phận sinh viên đang suy thoái
về đạo đức, chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, thiếu hoài bão, sống
không có lý tưởng. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) khoá IX xác định:

"Tăng cường quản lý Nhà nước, hoàn thiện cơ chế chính sách và giải

4
pháp, đẩy mạnh việc xây dựng nếp sống, lối sống văn hoá, văn minh
hình thành các giá trị con người mới, giá trị xã hội mới làm cơ sở cho
đất nước phát triển nhanh và bền vững” [5, tr.94] .
Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật (ĐHSPKT) Hưng Yên mới
được thành lập trên cơ sở của trường Cao đẳng Sư phạm kỹ thuật I.
Trường không chỉ có chức năng, nhiệm vụ đào tạo cán bộ khoa học kỹ
thuật và cử nhân sư phạm cho Tỉnh, khu vực, mà còn có nhiệm vụ quan
trọng khác là xây dựng những con người có tài, có đức; trong đó, việc
giáo dục lối sống cho sinh viên được xem là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của toàn trường. Ngoài các chương trình, giáo trình, giáo
khoa, các tài liệu phục vụ công tác giảng dạy - đào tạo khác của trường,
việc xây dựng các chương trình nghiên cứu khoa học, hệ thống các đề
tài nghiên cứu để giáo dục phẩm chất đạo đức cho sinh viên cũng được
nhà trường đẩy mạnh. Nghiên cứu lối sống sinh viên vì vậy là một đề tài
không thể thiếu trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề giáo dục lối sống nói chung và lối sống sinh viên trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời gian qua
đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Với các khía cạnh và phương
pháp tiếp cận khác nhau, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu giải quyết
nhiều nội dung phong phú của vấn đề lối sống, trong đó có lối sống của
sinh viên nước ta thời gian qua. Điểm qua một vài công trình như:
- “Lối sống XHCN và xu thế toàn cầu hoá”. Nxb Khoa học xã hội,
2001 của Thanh Lê.
- Lối sống thanh niên đô thị hiện nay. Nxb Văn hoá thông tin Hà
Nội, 1993 của Lê Thị Hà.

- Giáo dục nhân văn vì sự phát triển con người, Tạp chí Cộng sản,
số 3/1991 của Nguyễn Văn Huyên.

5
- Sự hình thành nhân phẩm con người với tư cách chủ thể sáng
tạo. Tạp chí Triết học, số 04/1997 của Nguyễn Văn Huyên.
- “Tìm hiểu lối sống của sinh viên Hà Nội trong điều kiện kinh tế
thị trường”. Đề tài KX 07, Hà Nội 1997 do Thái Duy Tuyên làm chủ
biên.
- Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn mực giá trị xã hội để hoàn
thiện phát triển con người. Tạp chí Thông tin lý luận, số 03/1998 của
Huỳnh Khái Vinh.v.v…
Các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề cơ
bản về lối sống và sự biến đổi của lối sống dưới tác động của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Trong đó, với những đặc thù của mình,
thanh niên, sinh viên là đối tượng chịu sự tác động toàn diện và sâu sắc
nhất từ các yếu tố khách quan của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay. Vì vậy nhiều đề tài đã cố gắng tập trung nghiên cứu đối tượng này.
Tuy nhiên, nhìn chung các kết quả được rút ra vẫn còn mang tính khái
quát, chú trọng nhiều vào thanh niên, sinh viên ở đô thị mà chưa quan
tâm đúng mức thanh niên, sinh viên ở các vùng nông thôn. Hoặc có chia
tách một cách tương đối để nghiên cứu thì vẫn tồn tại ở những mảng
khối lớn, mà chưa thấy nhiều đề tài đi sâu vào các vấn đề có phạm vi
nhỏ nhưng tính cụ thể và triệt để cao.
Cho đến nay, chúng tôi chưa thấy một đề tài nào bàn về lối sống
của sinh viên ĐHSPKT Hưng Yên và xây dựng lối sống sinh viên
ĐHSPKT Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
*
Mục đích

:
Trên cơ sở nội dung và bản chất của lối sống theo quan điểm mác
xít, luận văn tiến hành khảo sát thực trạng lối sống sinh viên ĐHSPKT
Hưng Yên và đề ra phương hướng, giải pháp xây dựng lối sống sinh
viên ĐHSPKT Hưng Yên hiện nay.

6
*
Nhiệm vụ
: - Làm rõ quan điểm mác xít về lối sống và yêu cầu
xây dựng lối sống lành mạnh cho thanh niên, sinh viên trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta.
- Phân tích thực trạng lối sống của thanh niên, sinh viên ĐHSPKT
Hưng Yên hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng lối sống cho sinh viên ĐHSPKT Hưng Yên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
: Lối sống của sinh viên Đại học và Cao
đẳng hệ chính quy của trường ĐHSPKT Hưng Yên.
* Phạm vi nghiên cứu:
Lối sống của sinh viên ĐHSPKT Hưng
Yên trong các hoạt động cơ bản: Học tập, hoạt động chính trị - xã hội.
Đời sống văn hoá tinh thần và những ảnh hưởng của lý tưởng, đạo
đức, truyền thống, cơ chế thị trường, môi trường học tập, gia đình…
Luận văn không đặt vấn đề nghiên cứu lối sống của mỗi cá nhân
sinh viên, hay một nhóm sinh viên cụ thể nào, mà chỉ tập trung nghiên
cứu sinh viên ĐH- CĐ chính quy của trường ĐHSPKT Hưng Yên.
Các số liệu được nêu trong luận văn chỉ có tác dụng làm rõ hơn
những đặc điểm và phản ánh thực trạng lối sống của sinh viên mà thôi.

5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
* Cơ sở lý luận
:
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan
điểm của Đảng ta về lối sống, đồng thời kế thừa một cách có chọn lọc ý
tưởng của các tác giả đi trước về vấn đề này.
* Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản
:
Lịch sử - logíc,
phân tích - tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn, điều tra xã hội học.
6
. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
:
* đ
óng góp của luận văn:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn bản chất và những đặc trưng
cơ bản của lối sống nói chung, lối sống của sinh viên ở Hưng Yên nói
riêng; giúp cho nhà trường và các cơ quan hữu quan trong việc vận

7
dụng, xây dựng lối sống hiện nay cho sinh viên đang sống và và học tập
trong các trường đóng ở địa bàn nông thôn.
- Khảo sát thực trạng lối sống của sinh viên ĐHSPKT Hưng Yên
hiện nay làm cơ sở thực tế cho việc xây dựng chương trình, kế hoạch và
giải pháp cụ thể để xây dựng lối sống cho sinh viên trường ĐHSPKT
Hưng Yên trong những năm tới.
*
ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:


Góp phần làm sáng tỏ những lý luận về lối sống XHCN, đồng
thời khái quát những giá trị thực tiễn về lối sống của sinh viên ĐHSPKT
Hưng Yên, làm tài liệu tham khảo để xây dựng các chương trình giáo
dục lối sống, đạo đức của sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương 6 tiết.
Chương 1
. Một số vấn đề lý luận về lối sống.
Chương 2.
Thực trạng lối sống của sinh viện trường ĐHSPKT
Hưng Yên hiện nay.
Chương 3
. Phương hướng và một số giải pháp xây dựng lối sống
sinh viên ĐHSPKT Hưng Yên hiện nay.

8
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về lối sống

1.1. Khái niệm lối sống
Cho đến nay, xung quanh thuật ngữ lối sống vẫn còn tồn tại nhiều
quan niệm khác nhau. Do đó, việc làm sáng tỏ và đi đến sự thống nhất
khái niệm lối sống có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi trên cơ sở sự thống
nhất đó, mới có thể xây dựng được các chuẩn mực, các thang giá trị, để
định hướng cho công tác giáo dục đạo đức, lý tưởng và xây dựng lối
sống lành mạnh cho con người.
1.1.1. Một số quan niệm khác nhau về lối sống
:

+ Quan niệm về lối sống của một số học giả tư sản phương Tây:
Các nhà triết học, xã hội học phương Tây đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về lối sống. Tuy nhiên, do đứng trên lập trường tư sản cho
nên họ không đặt vấn đề nghiên cứu lối sống trong một hệ thống đầy
đủ,toàn diện, phổ biến, mà thường di vào những hiện tượng, biểu hiện
cụ thể. Theo họ, lối sống chính là cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân,
hay một nhóm xã hội, được biểu hiện ở khả năng đảm bảo ở mức độ nào
đó, mà trước hết là mức độ tiêu dùng. Từ những lập luận như vậy, các
nhà nghiên cứu coi lối sống tư sản chính là thước đo, là chuẩn mực cho
các lối sống khác, đó là giới hạn cuối cùng của sự tiến bộ của lịch sử.
Xuất phát từ lập trường và phương hướng tiếp cận phiến diện đó, các
nhà nghiên cứu lối sống tư sản đã cố tình bỏ qua bản chất đối kháng giai
cấp của lối sống, nhằm tìm cách thoát khỏi sự kiềm toả khách quan của
mối quan hệ giữa lao động và tư bản, từ đó hạ thấp vai trò của lao động
trong việc hình thành bản chất của lối sống nhằm che đậy bản chất bóc
lột của giai cấp Tư sản. Chẳng hạn, theo tác giả MácVeber (nhà xã hội
học người Đức) thì, lối sống thể hiện vị trí của các nhóm xã hội; theo đó

9
khái niệm lối sống dùng để phản ánh kiểu sống của một nhóm xã hội cụ
thể. Nhóm xã hội được xem như một chỉnh thể hình thành từ các yếu tố
tâm lý, danh dự, và khả năng tiêu thụ những hàng hoá khác nhau. Ví dụ,
nhóm xã hội thông qua phương tiện, đi lại bằng ô tô, mô tô, xe đạp…;
nhóm xã hội theo mức lương, thu nhập; nhóm xã hội du lịch, nghỉ
ngơi.v.v… [15, tr.25].
Như vậy, đối tượng khảo sát để nghiên cứu lối sống của các tác
giả tư sản được xác định một cách phiến diện. Những đối tượng đó
không tồn chứa các nội dung cơ bản nhất để có thể khái quát được một
cách đầy đủ về bản chất của lối sống.
+ Một số quan niệm về lối sống ở Liên Xô trước đây:

Căn cứ vào tài liệu kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, một số
nhà triết học ở Liên Xô cũ đặt vấn đề nghiên cứu lối sống như một
phạm trù chuyên biệt. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”,
C.Mác và Ăngghen viết: “Phương thức sản xuất xét không đơn thuần,
theo khía cạnh là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân,
mà hơn thế nó là một hình thức hoạt động nhất định của sự biểu hiện đời
sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ. Những cá
nhân biểu hiện đời sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó
họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ với cái mà họ
sản xuất ra cũng như cách họ sản xuất” [14, tr.269]. Theo đó thì lối sống
không chỉ là sự biểu hiện, là sự khái quát các hoạt động sống của con
người mà điều quan trọng là nó có cơ sở hình thành từ những điều kiện,
và các mối quan hệ kinh tế-xã hội của một phương thức sản xuất
(PTSX) nhất định. PTSX quyết định cách thức hoạt động sản xuất của
con người, và đến lượt nó, chính cách thức hoạt động sản xuất này lại
quy định lối sống của họ.

10
Theo quan niệm của các nhà triết học Liên Xô cũ, quan hệ kinh tế
là quan hệ cơ bản nhất trong sự hình thành lối sống. Tuy nhiên, nếu chỉ
dừng lại ở quan hệ kinh tế thuần tuý thì chưa thể lý giải được bản chất
và cơ sở hình thành lối sống. Cơ sở hình thành lối sống chính là sự tổng
hợp của toàn bộ các mối quan hệ xã hội nằm trong cơ cấu cuả một Hình
thái kinh tế - xã hội xác định. “Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ
như thế nào thì họ là như thế ấy”. Tức là trong hoạt động sống của con
người không chỉ đơn thuần là hoạt động sản xuất vật chất, cùng với nó,
hoạt động sáng tạo đời sống tinh thần đã tạo ra nhiều mối quan hệ xã hội
khác nhau, và chính sự tương tác giữa các điều kiện, các mối quan hệ xã
hội đó đã hình thành nên lối sống của con người. Chính do sự phức tạp
của các quan hệ xã hội mà rất khó tìm kiếm được sự thống nhất trong

quan niệm về lối sống. Thậm chí, ngay trong quan niệm mác xít về lối
sống cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Chẳng hạn, tiến sĩ Triết
học (Liên Xô) M.N Rutkêvich. Trong bài viết “Lối sống XHCN và sự
phát triển của nó” (1977) đã nêu: “Lối sống là một tổng thể, một hệ
thống nhưng đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các
giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [16, tr.27]. Hoặc nhà nghiên cứu
(người Hunggari Z.Dunốp lại cho rằng: “Lối sống trước hết là những
điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về mặt sinh học cũng như
về mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hành vi hàng ngày, ổn định và điển
hình của con người” [1, tr.6]. Cũng bàn về lối sống, G.Glezerman, một
nhà nghiên cứu người Liên Xô khác lại cho rằng: “Lối sống là những
nét cơ bản, nói lên những đặc điểm của các hoạt động sống của xã hội,
dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh
tế -xã hội nhất định” [16, tr.17].v.v…

11
Những quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu mác xít về
lối sống chủ yếu biểu hiện ở hình thức và cách đặt vấn đề. Nhưng điểm
thống nhất là ở chỗ, tất cả các quan điểm đó đều tiếp cận vấn đề từ
PTSX và Phương pháp duy vật lịch sử.
+ Một số quan niệm về lối sống ở Việt nam trước đây:
ở Việt Nam trước đây cũng đã xuất hiện những quan niệm khác
nhau về lối sống. Mặc dù các quan điểm được nêu lên không mâu thuẫn
nhau, nhưng tính thống nhất giữa chúng vẫn chưa biểu hiện một cách rõ
nét. Chẳng hạn quan điểm của các tác giả trong tập bài giảng “Văn hoá
xã hội chủ nghĩa” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khi bàn
về lối sống có nêu: “Lối sống là một phạm trù xã hội học, khái quát toàn
bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá
nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định ;

biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ,
trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn
hoá” [7, tr.218]. Cũng bàn về lối sống nhưng quan điểm của các nhà
khoa học thuộc đề tài cấp Nhà nước KX06-13, được nêu trong báo cáo
tổng kết chương trình KX-06 (1991-1995) như sau: “Lối sống, trong
một chừng mực nhất định, là cách ứng xử của những con người cụ thể
trước những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi
trường là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác
động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, của các nhóm xã hội và
cộng đồng dân cư” [3, tr.12] v.v…
Định nghĩa về lối sống trong “Văn hoá xã hội chủ nghĩa” có phạm
vi bao quát rất lớn, nhưng nó vẫn chưa đề cập được đầy đủ lối sống của
con người trong mối quan hệ với tự nhiên. ứng xử với tự nhiên trong
thời đại ngày nay thậm chí phải được đặt dưới góc nhìn của phạm trù
đạo đức. Trong khi đó, ở định nghĩa của các nhà khoa học thuộc đề tài

12
KX06-13 được tiếp cận từ phương diện môi trường sống, lại chủ yếu đề
cao môi trường sống. Đành rằng, môi trường là khách thể cơ bản quy
định sự hình thành lối sống, nhưng vai trò của chủ thể trong quá trình
tiếp nhận sự tác động của các điều kiện từ môi trường khách quan cũng
có vị trí quan trọng.
Bên cạnh các quan điểm nêu trên còn có nhiều định nghĩa khác
nhau về lối sống, chính điều đó đã nói lên tính phức tạp trong nghiên
cứu lối sống.
1.1.2. Nội dung của lối sống theo quan niệm mácxít

Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi phải xem
xét, nghiên cứu lối sống từ nhiều nội dung khác nhau của đời song xã
hội. Thông qua việc phân tích những nội dung cơ bản sau đây chúng ta

sẽ có cái nhìn đầy đủ về lối sống.
Thứ nhất
: Nội dung kinh tế của lối sống.
Lối sống của một cá nhân, tập thể, một cộng đồng xã hội không
phải là một hiện tượng bẩm sinh, tự nhiên mà nó được hình thành trên
cơ sở của các quan hệ sản xuất (QHSX) nhất định cùng với các cơ sở
kinh tế tương ứng . Lối sống theo quan niệm mácxít hình thành và phát
triển trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất và nền tảng kinh tế xã hội
XHCN. Chính điều đó đã quy định, ảnh hưởng và chi phối trực tiếp đến
lối sống của con người và xã hội.
Đối với con người, hoạt động lao động sản xuất vật chất là biểu
hiện hàng đầu của lối sống. Trong quá trình lao động, các mối quan hệ
giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên được hình
thành. Khi đó, tồn tại xã hội chính là sản phẩm của quá trình hoạt động
sống của con người. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất là mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể tác động, Tính
mục đích của dạng hoạt động thực tiễn đó tự nó đã hình thành và phản

13
ánh đầy đủ về các nguyên tắc ứng xử của con người đối với tự nhiên.
Trong quan hệ ứng xử này, lối sống của con người trong PTSXTBCN
khác biệt so với lối sống của con người ở PTSXXHCN. Tính kế hoạch
trong việc xây dựng các chương trình kinh tế, bên cạnh đảm bảo hiệu
quả sản xuất còn phải tính đến yếu tố tái tạo. Bảo vệ sự cân bằng sinh
thái là một điểm nổi bật trong lối sống theo quan niệm mácxít.
Ngược lại, vì mục đích lợi nhuận đã hình thành trong lối sống tư
sản một thái độ thiếu tôn trọng giới tự nhiên, không giải quyết một cách
triệt để bài toán về mối quan hệ giữa khai thác và tái tạo, giữa sản xuất
và môi trường. Tuy nhiên đó chỉ mới là một mặt của sản xuất. Mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên không đặt cơ sở cho việc giải thích vị trí

của con người trong hệ thống các QHSX. Điều này chỉ có thể giải thích
được bằng cách phân tích mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất.
Sản xuất không phải là mục đích tự thân, mà xuất phát từ đòi hỏi
thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Trong sản
xuất, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Phụ thuộc
vào hình thức sở hữu nào mà chúng ta có thể biết cơ cấu của một xã hội
nhất định, và từ đó cũng chỉ ra các cơ sở quy định lối sống của con
người và xã hội đó.
Nội dung lối sống theo quan niệm mácxít chỉ xem xét con người
với tư cách là chủ thể tự do. Trong đó, một cá nhân cụ thể vừa là người
lao động, đồng thời cũng vừa là chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Đây là đặc
trưng cơ bản nhất, quy định sự khác biệt giữa lối sống XHCN và lối
sống tư bản chủ nghĩa. Trong các xã hội tồn tại chế độ chiếm hữu tư bản
và tư liệu sản xuất thì lao động và sở hữu tách rời nhau do đó xuất hiện
yếu tố “lưỡng tính” trong lối sống - Lối sống của người chủ và lối sống
của người làm thuê. Trong quan niệm mácxít, lao động và sở hữu thống

14
nhất với nhau, vì vậy mà hình thành một lối sống mới khác về chất so
với lối sống các xã hội trước đó. Một lối sống mà người lao động được
tham gia vào toàn bộ đời sống sản xuất vật chất, đặc biệt là vấn đề quản
lý sản xuất. Dưới các dạng thức khác nhau, sự tham gia đó đã tạo nên
một đời sống dân chủ thực sự, thể hiện trong việc bàn bạc, trao đổi, đề
xuất các quyết sách phát triển kinh tế xã hội. Dưới hình thức tập thể,
người lao động thực sự được giải phóng và họ có điều kiện phát huy hết
mọi khả năng của mình. Bàn về điều này, Lênin viết “Vấn đề là làm thế
nào cho người công nhân giác ngộ cảm thấy rằng mình không những
làm chủ nhà máy mà còn là đại diện cho đất nước nữa. Họ cảm thấy
mình có trách nhiệm” [10, tr.459].

Trong nội dung của lối sống theo quan niệm mácxít còn có vấn đề
nhu cầu và lợi ích của mỗi công dân. Nếu quan hệ sở hữu cho phép xác
định vị trí của con người trong xã hội, thì nhu cầu và lợi ích là động cơ
thúc đẩy các hoạt động và quyết định lối sống của con người và các
chiều hướng đa dạng trong sinh hoạt của chính con người.
Nhu cầu và lợi ích vận động và biến đổi dưới sự tác động của sự
phát triển của PTSX. CNXH ra đời trên cơ sở phủ định PTSX tư bản,
mở đường cho việc cải tạo xã hội cũ đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.
Điều đó cũng cho phép loại bỏ dần các nhu cầu nảy sinh từ sự đối kháng
về mặt lợi ích giữa các giai cấp. Song trùng với quá trình đó, các nhu
cầu và lợi ích của người lao động cũng biến đổi một cách căn bản trên
cơ sở nền kinh tế phát triển có kế hoạch, có định hướng, mở ra khả năng
đa dạng hoá các loại nhu cầu trong quần chúng lao động. Ví dụ, nhu cầu
về văn hoá, giải trí.v.v…
Sản xuất luôn hướng đến sự đa dạng hoá các loại hàng hoá, đó là
hướng đến việc đáp ứng về nhu cầu đa dạng của con người. Việc giải
phóng con người khỏi chế độ người bóc lột người cũng đồng thời giải

15
phóng các nhu cầu cho họ. Tư tưởng giải phóng con người một cách
toàn diện của chủ nghĩa Mác-Lênin đặt ra yêu cầu phải giải phóng và
phát triển toàn diện các nhu cầu. Bởi vì, chỉ khi có điều kiện thoả mãn
các nhu cầu lành mạnh thì con người mới có thể phát triển một cách
toàn diện. Trong hệ thống các nhu cầu thì nhu cầu quan trọng nhất đồng
thời cũng là quyền lợi của con người đó là nhu cầu lao động. Lao động
là cơ sở trực tiếp hình thành lối sống xét ở khía cạnh cá nhân. Bởi vì lao
động một mặt trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu cơ bản
nhất của con người, mặt khác nó là cơ sở để hoàn thiện nhân cách và lối
sống của mỗi con người cụ thể.
ở một khía cạnh khác, lối sống theo quan niệm mácxít cũng phụ

thuộc ở những mức độ nhất định và tính hiệu quả của một chế độ phân
phối nhất định. Cơ chế phân phối thành quả lao động là điều kiện để giải
thích cơ sở kinh tế lối sống của con người trong lĩnh vực tiêu dùng và
đời sống hàng ngày. Dưới chế độ XHCN, việc phân phối của cải vật
chất được thực hiện chủ yếu thông qua hai hình thức cơ bản, đó là phân
phối theo lao động và phân phối theo quỹ tiêu dùng xã hội. Tuỳ thuộc
vào từng giai đoạn phát triển khác nhau của thời kỳ quá độ mà thực hiện
một cách đúng đắn giữa phân phối theo lao động và phân phối từ quỹ
tiêu dùng xã hội.
Như vậy, nội dung kinh tế trong quan niệm mácxít về lối sống
không chỉ biểu hiện một cách trực tiếp bởi QHSX mà còn biểu hiện
trong các quan hệ phân phối và tiêu dùng. Quan hệ tổ chức và phân
công lao động không đóng vai trò quan trọng trong nội dung kinh tế của
lối sống trong chế độ XHCN. Bởi vì như phân tích trên, lao động và sở
hữu luôn thống nhất với nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
việc xây dựng các chiến lược, các kế hoạch phát triển kinh tế nhằm nâng
cao hơn nữa trình độ sản xuất của xã hội và từng bước cải thiện môi
trường sống của quần chúng lao động đáp ứng ngày càng cao và đa

16
dạng của con người về các loại nhu cầu vật chất và tinh thần nhằm hoàn
thiện lối sống XHCN là mục đích cao nhất. Bởi vì đó vừa là cơ sở hình
thành lối sống vừa là nền tảng để xây dựng và phát triển con người toàn
diện.
Thứ hai
: Nội dung chính trị của lối sống theo quan niệm mác xít
Với tư cách là chủ thể sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, điều đó đã đưa quần chúng lao động bước vào đời sống
chính trị với một thái độ tích cực và có tính tổ chức cao. Nội dung chính
trị của lối sống theo quan niệm mác xít biểu hiện thông qua hệ thống

chính trị xã hội XHCN. Là một thành tố quan trọng trong kết cấu của
kiến trúc thượng tầng XHCN, hệ thống chính trị bị quy định bởi kết cấu
của cơ sở hạ tầng XHCN, do đó nguồn gốc sâu xa của nó chính là quan
hệ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy nhiệm vụ chính trị quan
trọng nhất của người lao động là bảo vệ địa vị thống trị của QHSX
XHCN thông qua hệ thống chính trị và bộ máy quyền lực của nó. Một
trong những đặc trưng cơ bản của lối sống theo quan niệm mác xít là sự
tham gia quản lý xã hội của người lao động, không chỉ thông qua quyền
lực Nhà nước mà còn ở các tổ chức, các đoàn thể xã hội khác: Đoàn
thanh niên, các tổ chức Công đoàn, các Hội v.v…
Tuy nhiên, mọi hoạt động của các tổ chức, các đoàn thể xã hội,
phải tìm đến được sự thống nhất vì mục tiêu chung và phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tức là các chương trình hành động, điều
lệ hoạt động của các hội, các đoàn thể phải được triển khai trên cơ sở
các nghị quyết, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt
khác, để làm cho đời sống chính trị sôi nổi hơn, Đảng phải luôn luôn tạo
điều kiện để khuyến khích các tổ chức, các đoàn thể xã hội phát huy
tính chủ động, sáng tạo trong quá trình hoạt động của chúng.
Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của
tập thể, của xã hội, mà thực chất trong quan niệm mác xít thì sự hướng

17
tới mục đích, nhiệm vụ chung của mỗi cá nhân đối với xã hội, tự nó đã
biểu hiện lối sống cá nhân ở trong đó rồi. Nội dung lối sống theo quan
niệm mác xít đòi hỏi tất cả mọi cá nhân đều có quyền lợi và nghĩa vụ
xây dựng hệ thống chính trị, bộ máy công quyên để đại diện cho hàng
triệu quần chúng lao động trực tiếp quản lý và bảo vệ chế độ XHCN.
Tức là ở đây đã có sự thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong mỗi
cá nhân. Điều này đối lập với hệ thống chính trị của chủ nghĩa tư bản
khi tìm cách tách rời nghĩa vụ và quyền lợi. Trong đó quyền lợi chỉ có

thể là của giai cấp thống trị còn nghĩa vụ là thuộc về phía những người
lao động. Sự tách rời đó đã vi phạm nghiêm trọng tinh thần của tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp (1789). “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”. Để giải quyết triệt để sự đối lập đó C.Mác và
Ăngghen viết “Thay cho xã hội tư sản, với những giai cấp và đối kháng
giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [13,
tr.146]. Phê phán quan điểm của các tác giả tư sản khi họ cho rằng: Sự
thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ dường như là xâm phạm đến
quyền tự do thiêng liêng của cá nhân, Lênin viết “Sống trong một xã hội
mà lại thoát khỏi xã hội đó để được tự do là điều không thể được” [11,
tr.127]. Mưu toan tách rời tự do cá nhân khỏi nghĩa vụ đối với xã hội là
quan niệm chủ quan, phiến diện, nhằm che đậy bản chất bóc lột của Chủ
nghĩa tư bản.
Nội dung chính trị của lối sống theo quan niệm mácxít biểu hiện ở
một chế độ chính trị dân chủ thực sự, trong đó ý chí và quyền lực của
quần chúng lao động là nội dung chính trị cơ bản nhất của lối sống
XHCN. Hoạt động chính trị của con người diễn ra rất phong phú và đa
dạng nó thể hiện tính phong phú và đa dạng của các phương thức quản
lý của Nhà nước XHCN và cả chế độ XHCN.

18
Để nâng cao nhận thức và tính tích cực của người lao động, cần
phải tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, mở rộng quyền cho công dân
tham gia vào mọi hoạt động các tổ chức chính trị - xã hội, tạo thành một
lẽ sống thường trực trong lối sống của con người XHCN.
Thứ ba
: Nội dung đạo đức của lối sống theo quan niệm mácxít.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội cho nên nó bị chi phối bởi

các hình thái ý thức xã hội khác, đặc biệt là ý thức chính trị. Đạo đức
trong chế độ XHCN là một mặt cấu thành lối sống XHCN, nó phản ánh
ở các quan hệ ứng xử của những người lao động với nhau, và thái độ
của họ đối với môi trường sinh thái cũng như những hành động áp bức,
ăn bám của giai cấp bóc lột. Bàn về đạo đức trong quan hệ giai cấp,
C.Mác và Angghen viết: “Xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã
có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc
bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập
giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức giai cấp” [12, tr.137].
Đạo đức theo quan niệm mácxít là đạo đức cách mạng của giai cấp công
nhân, nó được hình thành và phát triển trong suốt quá trình vận động
cách mạng của giai cấp công nhân. Hạt nhân cơ bản của đạo đức cách
mạng XHCN là chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Đó là thứ đạo đức phản ánh
mối quan hệ kinh tế- xã hội mới, không còn áp bức giai cấp; thay vào đó
là quan hệ bình đẳng, tự do, là yêu cầu giải phóng con người một cách
triệt để.
Mặt khác, nội dung đạo đức của lối sống theo quan niệm mácxít
cũng đòi hỏi phải giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân
và tập thể. Và ngược lại, sự phát triển của tập thể phụ thuộc vào chất
lượng của từng cá nhân. ở đây không có chỗ cho tư tưởng đề cao quá
mức chủ nghĩa cá nhân, tách rời và đi tới đối lập với lợi ích tập thể. Một
trong những nguyên tắc của đạo đức cộng sản chính là ý thức tập thể, nó

19
biểu hiện ở thái độ, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân trước tập
thể. ở đây mọi cá nhân đều coi lao động vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa
vụ và đồng thời cũng là vinh dự của bản thân mình trước xã hội. Đấu
tranh chống lại tư tưởng ăn bám và bóc lột, chống những biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân là một hành vi xuyên suốt thời kỳ quá độ trong lối
sống theo quan niệm mácxít. Bởi vì trong thời kỳ quá độ, sự đan xen

giữa cái cũ và cái mới, giữa các hình thức sở hữu khác nhau, điều đó tất
yếu sẽ dẫn đến những thái độ, những tâm trạng… không giống nhau, tức
là tồn tại những tư tưởng, tâm lý đạo đức khác nhau. Tuy nhiên, đạo đức
XHCN với những giá trị của nó cùng với sự chi phối của cơ sở hạ tầng
XHCN luôn là thứ đạo đức bao trùm trong lối sống XHCN thời kỳ quá
độ. Quan niệm mácxít cũng luôn coi trọng công tác giáo dục ý thức đạo
đức cho quần chúng. Vượt lên những hành vi thông thường, đạo đức
còn được khái quát thành những quy luật, những phạm trù, tư tưởng, trở
thành những công cụ để nhận thức.
Trên cơ sở làm sáng tỏ bản chất của đạo đức XHCN mới có thể
xây dựng được những quy tắc ứng xử, những hệ chuẩn luân lý để mọi
người có thể dễ dàng nhận thức và hành động theo đúng tinh thần nôị
dung đạo đức của lối sống theo quan niệm mácxít.
Thứ tư
, Nội dung văn hoá tinh thần của lối sống theo quan niệm
mác xít
Nội dung văn hoá tinh thần của lối sống theo quan niệm mácxít
trước hết khẳng định, quần chúng lao động là chủ thể sáng tạo các giá trị
văn hoá tinh thần, và đồng thời cũng là đối tượng của công tác giáo dục
và định hướng các hoạt động văn hoá. Sự phát triển của văn hoá là một
tất yếu khách quan. Bởi vì ở một khía cạnh nào đó, sự phát triển của nội
dung văn hoá tinh thần của lối sống theo quan niệm mácxít trước hết
khẳng định quần chúng lao động là chủ thể sáng tạo các giá trị văn hoá.

20
Trong mọi thời đại, sản xuất vật chất bao giờ cũng là hoạt động cơ
bản nhất của con người, nhờ hoạt động đó mà con người mới tạo ra
những giá trị vật chất ở những mức độ khác nhau, đáp ứng ngày càng
đầy đủ nhu cầu vật chất của chính con người. Trong quá trình sản xuất,
cùng với việc chế tạo và cải tiến công cụ lao động phục vụ cho mục đích

sản xuất thì đồng thời con người cũng tạo ra những giá trị văn hoá (vật
thể) đầu tiên của mình. Tuy nhiên, một trong những đặc tính cơ bản của
con người là không chỉ thoả mãn nhu cầu vật chất mà còn hướng đến
thoả mãn nhu cầu về tinh thần. Hơn nữa, con người không bao giờ chấp
nhận sự đơn điệu, lối mòn trong hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần.
Một đời sống tinh thần đa dạng và phong phú luôn là mục đích hướng
tới của con người, và vì vậy sáng tạo và phát triển các giá trị văn hoá
nói chung trong hoạt động hiện thực của con người là một động lực cơ
bản thúc đẩy văn hoá phát triển. Sự đa dạng trong hoạt động thực tiễn
quy định sự đa dạng của đời sống văn hoá tinh thần. Đúng như C.Mác
và Ăngghen viết: “…rõ ràng là sự phong phú thực sự về tinh thần của cá
nhân là hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những liên hệ hiện
thực của họ ” [14, tr.94].
Mặt khác, khi con người là chủ thể sáng tạo các giá trị văn hoá
tinh thần, thì đồng thời con người cũng chính là đối tượng của văn hoá
giáo dục.
Với mục tiêu giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người
phát triển một cách toàn diện, hài hoà, quan niệm mácxít yêu cầu phải
xây dựng một hệ thống giáo dục mới khác hẳn về chất so với các nền
giáo dục khác. Nội dung của nền giáo dục mới - nền giáo dục XHCN sẽ
tác động sâu sắc đến lối sống của con người. Với một nội dung giáo dục
sâu sắc, tính định hướng về tư tưởng chính trị XHCN, mối liên hệ chặt

21
chẽ giữa giáo dục và thực tiễn, kết hợp giữa lý thuyết với thực hành…
đó là những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục XHCN.
Văn hoá trong lối sống XHCN còn biểu hiện ở thái độ học tập của
con người. Học tập không chỉ dừng lại ở việc “Tu thân” mà còn là nghĩa
vụ. Lênin khẳng định “Không có sách thì không có tri thức, không có tri
thức thì không có XHCN” .Người cũng yêu cầu “Học, học nữa và học

mãi”. Học tập được xem như là một phẩm chất cơ bản của lối sống, là
yêu cầu cao nhất của sự thoả mãn nhu cầu văn hoá tinh thần, là con
đường cơ bản nhất để vươn tới một đời sống văn hoá tinh thần phong
phú và cao đẹp. Trong khi đó, một số quan niệm duy vật tầm thường,
máy móc, lại hạ thấp vai trò của giáo dục, phủ nhận tính độc lập của văn
hoá tinh thần. Một số quan điểm khác lại quá đề cao vai trò của ý thức
tư tưởng, cho rằng: Trong điều kiện kinh tế thấp kém, bằng công tác văn
hoá tư tưởng vẫn có thể xây dựng được lối sống XHCN, và có thể đấu
tranh khắc phục được các tàn dư tiêu cực trong xã hội cũ. Đó là cách lập
luận duy tâm, hạ thấp vai trò quyết định của yếu tố kinh tế .
Quan niệm mácxít khẳng định: Trong khi thừa nhận vai trò quyết
định của yếu tố kinh tế thì cũng không được hạ thấp vai trò của văn hoá
tư tưởng. Đó là hai yếu tố cấu thành đời sống xã hội của con người, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa hai yếu tố trên là cơ sở để xây dựng lối sống
XHCN.
Trong văn hoá tinh thần, các giá trị văn hoá truyền thống của dân
tộc cũng ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống của con người.
Thay đổi điều kiện sống là một đặc tính của con người.Trong khi
khẳng định các giá trị mới được sáng tạo trong quá trình sản xuất đời
sống xã hội, quan niệm mácxít coi sự kế thừa các giá trị tích cực của
yếu tố truyền thống cũng là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng
lối sống cho con người. Hiện tượng phủ định cái cũ để xây dựng cái mới

22
là một hiện tượng tất yếu khách quan trong cách mạng xã hội. Lịch sử
vận động và phát triển của nhân loại chính là lịch sử của sự thay thế
PTSX này bằng PTSX khác, theo đó lối sống cũng biến đổi cho phù hợp
với các điều kiện của xã hội mới. Các giá trị truyền thống tồn tại trong
tư tưởng, tình cảm, trong những thói quen, những nếp sống cũ… được
kế thừa có chọn lọc và trở thành những hạt nhân tích cực cho việc xây

dựng lối sống mới.
Quan niệm mácxít cũng phê phán tư tưởng bảo thủ, cực đoan
trong việc kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc. Những giá trị được
kế thừa không chỉ phù hợp với sự phát triển của dân tộc mà nó còn phải
phù hợp xu thế chung của văn minh nhân loại. Mặt khác phải biết kế
thừa và phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại. Báo cáo chính trị Đại đại
biểu toàn quấc lần thứ V của Đảng có viết: “Nền văn hoá mới vừa kết
tinh và nâng cao lên một tầm cao mới những gì tốt đẹp trong truyền
thống hơn bốn nghìn năm của dân tộc Việt Nam của văn hóa Việt Nam,
vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả văn minh của loài người,
những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại” [7, tr.93].
Như vậy, sự kết hợp truyền thống dân tộc và văn minh hiện đại sẽ
làm cho lối sống của chúng ta vốn xuất phát từ nền sản xuất thấp kém sẽ
được phát triển và hoàn thiện hơn trong quá trình xây dựng CNXH.
Đồng thời, điều đó cũng trở thành động lực cơ bản để đấu tranh đẩy lùi
những truyền thống lạc hậu trong lối sống manh mún, nhỏ hẹp mang
tính đặc trưng của người Việt Nam.
Thứ năm
: Lý tưởng sống, một yếu tố cơ bản của lối sống theo
quan niệm mácxít.
Mặc dù không đưa ra một định nghĩa nào về lý tưởng, nhưng
thông qua các tác phẩm của mình đặc biệt là “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đề cập đến

23
một lý tưởng cao cả, đó là sự giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột,
là mưu cầu hạnh phúc cho mọi người.
Tiến sĩ Triết học (Nga) Ivanop định nghĩa: “Lý tưởng là cái vì nó
mà người ta sống, dưới ánh sáng của nó người ta thấy ý nghĩa của cuộc
đời” [16, tr.57]. Hồ Chí Minh cũng viết: “Suốt đời tôi, tôi chỉ có một

ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự
do, đồng bao ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Như vậy, có thể nói lý tưởng là mục tiêu của cuộc sống, được
phản ánh vào đầu óc con người, nó được chuẩn mực hoá ở mức cao
nhất, tốt đẹp nhất có khả năng lôi cuốn cuộc sống của mỗi cá nhân, định
hướng cho các hoạt động cá nhân trong suốt một thời gian dài để vươn
tới mục tiêu của cuộc sống. Với ý nghĩa đó, lý tưởng là một yếu tố quan
trọng có sức mạnh định hướng to lớn cho hoạt động của con người, vì
vậy nó là điều kiện cho việc hình thành lối sống của cá nhân, tập thể và
xã hội.
Lý tưởng XHCN là một lý tưởng cao đẹp nhất, mang tính khoa
học và hiện thực cao. Do đó, nó là nền tảng của nội dung lối sống theo
quan niệm mác xít.
1.1.3. Nội dung về lối sống theo quan niệm của Hồ Chí Minh và
Đảng ta
Quan niệm về lối sống của Hồ Chí Minh và Đảng ta được hình
thành trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá
dân tộc Việt Nam; vận dụng và phát triển một cách sáng tạo những quan
niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về lối sống.
1.1.3.1. Nội dung về lối sống theo quan niệm Hồ Chí Minh
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lối sống là một nội dung rộng
lớn. Nó biểu hiện ở tất cả các mặt: sản xuất đời sống vật chất; đời sống
chính trị - xã hội và văn hoá tinh thần, v.v…

×