Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.79 MB, 129 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGHIỆP THỊ HẢI






SỰ BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP
TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGHIỆP THỊ HẢI




SỰ BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP
TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TSKH. Đỗ Văn Khang


Hà Nội - 2012

1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2
1. Tính cấp bách của đề tài 2
2. Tình hình nghiên cứu 3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 6

6. Đóng góp của luận văn 6
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6
Chương 1: 8
SỰ BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP TRONG 8
NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH CỔ ĐẠI HY LẠP 8
1.1. Các khái niệm về nghệ thuật liên quan đến sự phân tích cái đẹp 8
1.1.1. Bản chất của nghệ thuật 8
1.1.2. Hình tượng nghệ thuật 12
1.1.3. Hình tượng nghệ thuật tạo hình 15
1.2. Thành tựu biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật Cổ đại Hy Lạp 27
Chương 2: 48
SỰ BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT 48
TẠO HÌNH PHỤC HƯNG 48
2.1 Sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình Phục Hưng sơ kỳ (từ 1420 – 1480) 50
2.2 Sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật tạo hội họa Phục Hưng thịnh kỳ (1480 – 1520)
62
2.3. Sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình Phục Hưng hậu kỳ và chủ nghĩa Thủ
pháp (từ sau năm 1520) 115
KẾT LUẬN 122


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Cái đẹp là một phạm trù vừa mang tính lý luận lại vừa mang tính thực
tiễn. Một mặt, cái đẹp là phạm trù mỹ học, mặt khác, cái đẹp còn là hiện tượng
đẹp. Cái đẹp luôn gắn với những triết lý thanh cao, những lý luận sâu sắc thúc
đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện hoàn mỹ. Ngoài ra, cái đẹp lại được biểu
hiện dưới dạng các sự vật hiện tượng góp phần làm phong phú đời sống xã hội,
cho cuộc sống thêm đa dạng và linh hoạt. Cho nên, ngay từ thời Cổ Đại Hy

Lạp Socrate đã đặt câu hỏi cho Hypiat: “Đẹp là gì? Cái gì là đẹp?”.
Được coi là phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học, cái đẹp đã chi
phối toàn bộ các phạm trù khác như: cái bi kịch, cái hài kịch, cái trác
tuyệt,… Tuy nhiên, không phải lúc nào cái đẹp cũng được đặt đúng vị trí
của nó!
Cái đẹp phát triển cao nhất trong nghệ thuật. Đến lượt nó, nghệ thuật
trở thành phương tiện biểu đạt quan niệm về nhân sinh, thế đạo. Nghệ thuật
được thể hiện bằng ngôn ngữ hình tượng, nó sẽ vượt thoát được tính siêu hình
trở thành minh triết tạo ra sự nghiền ngẫm sâu sắc từ bên trong mỗi con người
mà Phật gọi là “ngộ”.
Nghệ thuật tạo hình (hội họa và điêu khắc) nằm trong bảy loại hình
nghệ thuật chủ yếu. Thông qua ngôn ngữ tạo hình, nghệ sỹ diễn đạt thành
công một tác phẩm mang tính nhân văn và tính triết lý sâu sắc, cho dù các
hình tượng đó có thể là cảm quan trừu tượng hoặc tượng trưng. Các tác phẩm
cũng thể hiện rõ nét về tư tưởng, nhân sinh quan của tác giả, đồng thời mang
đến cho người tiếp nhận hưởng thụ thông điệp ấy.
Thế kỷ XXI là thế kỷ hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa diễn ra trên
diện rộng toàn thế giới. Con người sống trong thời đại tin học và kinh tế tri
thức, nên ngày càng ý thức được vai trò của nghệ thuật. Ngày nay nghệ thuật
liên tục tác động vào đời sống, với những kích cỡ mới, và những phương tiện

3
mới. Vì vậy, hiểu bản chất đúng đắn của cái đẹp, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ
thuật tạo hình sẽ góp phần hiểu sâu sắc hơn nữa đời sống tinh thần nói riêng
và nâng cao trình độ văn hóa nói chung của mỗi người, góp phần xây dựng lối
sống lành mạnh, văn minh.
Từ đó nảy sinh tính cấp thiết về việc cần đổi mới nền văn hóa đất nước,
đổi mới quan niệm về cái đẹp, đặc biệt là sự thể hiện cái đẹp trong nghệ thuật
tạo hình, nên Luận văn mạnh dạn chọn “Sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ
thuật tạo hình” làm đề tài thạc sĩ để làm cơ sở cho những bước đi tiếp trong

sự nghiệp khoa học cơ bản của bản thân ở chuyên ngành Mỹ học.
2. Tình hình nghiên cứu
Mỹ học từ lâu đã được coi là triết học của nghệ thuật, trong đó cái đẹp
giữ vị trí trung tâm. Có rất nhiều các nhà khoa học đã nghiên cứu về cái đẹp
dưới nhiều góc độ khác nhau,
- PGS. TSKH. Đỗ Văn Khang – người sáng lập ra trường phái mỹ học
bản thể ở Việt Nam, nguyên chủ nhiệm bộ môn Mỹ học và Đạo đức học của
khoa Triết học, trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn đã nghiên cứu
sâu về cái đẹp qua các tác phẩm sau:
1. Mỹ học Mác – Lênin (1984), cùng với giáo sư Đỗ Huy, Nxb Đại học
và TCCN. Đây là cuốn sách mỹ học đầu tiên do người Việt Nam viết. Nội
dung của cuốn sách biểu hiện một cách có hệ thống các quan điểm mỹ học
Mác – Lênin, trong đó lấy cái đẹp là một phạm trù cơ bản và trung tâm của
mỹ học. Công trình đã đưa ra định nghĩa có tính khoa học sâu sắc về bản chất
cái đẹp.
2. Lịch sử mỹ học Nguyên thủy và Cổ Đại Hy Lạp, Nxb Văn Hóa, 1985.
Sách đặt cơ sở cho quá trình nghiên cứu lịch sử mỹ học thế giới và Việt Nam.
3. Mỹ học đại cương (1989), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Cuốn sách
này tiếp tục hoàn thiện tư tưởng mỹ học mác xít và được chắt lọc thêm dành
cho mọi đối tượng sử dụng.

4
4. Nghệ thuật học (2001), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Đây là cuốn
sách đi sâu vào quy luật cái đẹp trong quá trình phát triển của nghệ thuật.
Sách cũng đã làm rõ nội dung: Mỹ học là triết học của nghệ thuật và nghệ
thuật là nơi chuyển tải lẽ sống và cảm hứng sáng tạo của con người nói chung
và nghệ sĩ nói riêng.
5. Lịch sử Mỹ học (trọn bộ), 2010, Nxb Giáo dục Việt Nam. Sách có
sự cộng tác của GS.TS Đỗ Huy; TS Nguyễn Thu Nghĩa; ThS Đỗ Thị Minh
Thảo. Tác phẩm công phu này đã thâu tóm diễn tiến của Mỹ học từ thời kỳ

nguyên thủy tới hiện đại. Sách đặc biệt khảo sát thành tựu cái đẹp qua các
thời đại. Sách có cả một chương nói về sự hình thành và phát triển của Mỹ
học Việt Nam.
7. Nguyễn Phúc, Lịch sử nghệ thuật tạo hình thế giới, Nxb Văn hóa, Hà
Nội 1990. Tác phẩm này chủ yếu nói về lịch sử nghệ thuật tạo hình hiện đại
trên thế giới, trong đó có các trào lưu: chủ nghĩa Tượng trưng, chủ nghĩa Siêu
thực, chủ nghĩa Lập thể, chủ nghĩa Dã thú, chủ nghĩa Ấn tượng.
8. Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực, Tsecnưsepxki,
bản dịch của Nxb Văn hóa – Nghệ thuật Bộ văn hóa, 1962. Sách này trình bày
một quan điểm mới về cái đẹp khi gắn cái đẹp với cuộc sống mà trước đây
I.Kant và F.Hegel mới chỉ gắn cái đẹp với nghệ thuật.
9. Cái đẹp – Một giá trị, GS.TS Đỗ Huy, Nxb Thông tin lý luận – 1985.
Sách nghiên cứu sâu về giá trị thẩm mỹ, tức là nghiên cứu thước đo thẩm mỹ
mà thước đo ấy theo GS.TS Đỗ Huy là cái đẹp!
10. Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, GS.TS Đỗ Huy, Nxb
Khoa học xã hội, 2001. Mỹ học là khoa học mở rộng tầm hiểu biết về phương
diện thẩm mỹ của con người và giúp mỗi người tự hoàn thiện nhân cách của
mình. Mỹ học Mác-Lênin là một khoa học kỳ diệu, nó là công cụ phương
pháp luận giúp con người trong quá trình thâm nhập sâu vào văn hoá thẩm
mỹ, có khả năng chống cái xấu, cổ vũ, đánh giá khả năng và khẳng định cái

5
đẹp, cái cao cả, cái anh hùng một cách đúng đắn. Cuốn sách đã cung cấp một
số kiến thức cơ bản về mỹ học Mác-Lênin như chủ thể, khách thể, nghệ thuật
và giáo dục thẩm mỹ
11. Bàn về cái đẹp, N.Đimitriêva, bản dịch của Nxb Văn hóa – Nghệ
thuật – Hà nội 1962, tác giả nghiên cứu cái đẹp rất sâu theo quan điểm mỹ
học Mác – Lênin (cái đẹp cải tạo cuộc sống)
12. Bàn về cái đẹp, N.Khápsencô, bản dịch của Nxb Thanh niên, 1982,
tiếp tục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, nhưng gắn với công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu sâu về sự biểu hiện mỹ học
trong nghệ thuật tạo hình thì còn rất ít, vì vậy học viên mạnh dạn với những
kiến thức đã học và sự trau dồi kiến thức nghiên cứu về sự biểu hiện cái đẹp
trong nghệ thuật tạo hình đặc biệt trong Cổ Đại và Phục Hưng để tìm cơ sở
triết học của hình tượng và coi đó là hướng đi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Luận văn đi sâu vào tính tính quy luật của việc biểu hiện cái đẹp trong
nghệ thuật tạo hình – một nghệ thuật chuyên sâu khám phá con người, từ
ngoại hình đến nội tâm. Thành tựu của nghệ thuật tạo hình rất rộng, Luận văn
chỉ giới hạn ở thành tựu của hai giai đoạn Cổ Đại Hy lạp và Phục Hưng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm sáng tỏ phạm trù cái đẹp, tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật nói
chung, nghệ thuật tạo hình nói riêng; đặc biệt luận văn giới hạn vào một số
tác phẩm tiêu biểu thời kỳ Cổ Đại Hy lạp và Phục Hưng để làm nổi bật thành
tựu về sự biểu hiện cái đẹp của nghệ thuật tạo hình.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình
thông qua các giá trị nghệ thuật.

6
- Phạm vi nghiên cứu: phạm trù cái đẹp trong đời sống và trong nghệ
thuật tạo hình. Luận văn giới hạn vào nghệ thuật điêu khắc và nghệ thuật hội
họa của hai thời kỳ Cổ đại Hy Lạp và Phục Hưng, vì đây là hai giai đoạn tiêu
biểu nhất của nghệ thuật tạo hình. Luận văn cũng quan tâm đến tính chất của
thời đương đại trong khái niệm nghệ thuật tạo hình vì khái niệm này ngày nay
đã được mở rộng rất nhiề u, ví dụ như nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trang trí,
nghệ thuật đồ họa,…
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Cơ sở lý luận và phương pháp luận:
Dựa trên cơ sở triết học Mác trong thuyết “Bản chất con người là sáng
tạo theo quy luật cái đẹp”. Luận văn còn dựa trên những quy luật đặc thù của
sáng tạo hình tượng nghệ thuật.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vừa dùng phương pháp lịch đại và phương pháp đồng đại.
Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp để đi sâu vào
nghiên cứu các tác phẩm, tìm biểu tượng cái đẹp, giá trị thẩm mỹ trong hình
tượng nghệ thuật.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần đi sâu nghiên cứu sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ
thuật tạo hình. Đặc biệt thành tựu của nó trong nghệ thuật Cổ Đại Hy Lạp và
Phục Hưng để tìm ra cơ sở mỹ học trong nghệ thuật nhằm góp phần chứng
minh mỹ học là triết học của nghệ thuật.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Với mục tiêu nghiên cứu sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình,
thể hiện chủ yếu trong hai giai đoạn Hy Lạp Cổ đại và Phục Hưng, luận văn
góp phần khẳng định giá trị của cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình, khẳng định
mỹ học là triết học của nghệ thuật.

7
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên
cao học chuyên ngành Triết học, các sinh viên nghiên cứu về mỹ học, nghệ
thuật học,
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo thì trong phần Nội
dung luận văn gồm 2 chương 5 tiết.



8
Chương 1:
SỰ BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP TRONG
NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH CỔ ĐẠI HY LẠP

1.1. Các khái niệm về nghệ thuật liên quan đến sự phân tích cái đẹp
1.1.1. Bản chất của nghệ thuật
Hiện nay có hai quan niệm chính về nghệ thuật:
Thứ nhất, dựa trên quan niệm về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác
và Ph.Ănghen đi tới quan niệm cho rằng “nghệ thuật là một hình thái ý thức
xã hội đặc thù”. Quan điểm này chưa nói hết được bản chất của nghệ thuật, vì
nghệ thuật không chỉ thuộc lĩnh vực ý thức mà còn thuộc lĩnh vực cảm nhận;
nó còn là một lực lượng thực tế có thể làm thay đổi thể chế, thay đổi quan
niệm sống của con người.
Thứ hai, dựa trên lý thuyết về chất thể của cái đẹp, đi tới quan niệm cho
rằng, nghệ thuật bao chứa ở trong nó ít nhất ba chất thể.
- Nghệ thuật là một phương thức khám phá chân lý bằng các hình
tượng cảm quan sinh động.
- Nghệ thuật là một lực lượng thực tế có sức mạnh xóa bỏ cái cũ, xây
dựng cái mới. Trong chiến trường, nó có sức ạnh như cả một đoàn quân. Tác
phẩm Thần tự do trên chiến lũy của E.Đơlacơroa danh họa người Pháp là một
điển hình.
- Nghệ thuật là nơi phát lộ tài nghệ bậc cao của một con người, của sự
khéo léo và anh minh của cả một dân tộc và một thời đại. (Câu thơ của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tặng Nguyễn Hoàng, nhờ đó mà dân ta được nửa
nước; được đồng bằng sông Cửu Long, một vựa lúa khiến Việt Nam trở thành
nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới; Những bài thơ cổ động nhân dân
đứng dậy làm cách mạng của Bác Hồ; Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch


9
đọc trước quốc dân đồng bào ngày 02-9-1945 tại quảng trường Ba Đình lịch
sử).
Quan niệm như vậy là cơ bản nhất vì nếu cho nghệ thuật là sự sáng tạo
ra những sản phẩm vật thể hoặc phi vật thể chứa đựng những giá trị lớn về tư
tưởng - thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa làm rung động cảm xúc, tư tưởng
tình cảm cho người thưởng thức.
Nói đến nghệ thuật còn phải nói đến sự tồn tại của nó trong đời sống
thẩm mỹ. Nghệ thuật góp phần quan trọng tạo nên đời sống thẩm mỹ, nhưng
không thể đồng nhất. Đời sống thẩm mỹ hình thành trong quá trình vận động
của bản thân thực tại con người. Nó có tính tự sinh và tự ý thức, thậm chí nó
còn có thể tồn tại ở những dạng khác nhau ngay trong tự nhiên. Còn nghệ
thuật và các giá trị của nó do nghệ sĩ sáng tạo ra một cách có ý thức. Nghệ
thuật không chỉ là kết quả của sự khái quát hóa và cá thể hóa một cách tài
nghệ các mặt khác nhau của đời sống, mà còn biểu thị cách nhìn nhất định về
các giá trị căn bản của đời sống.
Giá trị thẩm mỹ của nghệ thuât đem lại không chỉ đáp ứng các nhu cầu
xã hội, mà nó còn có tác dụng cải hoán, thúc đẩy xã hội, làm cho nó luôn ở
trạng thái vận động theo hướng đi lên. Bởi vì, thông qua các điển hình nghệ
thuật sáng tạo ra, con người bị cuốn hút một cách đầy hấp dẫn vào việc nhận
thức ra chân lý đời sống.
Vai trò của nghệ thuật còn bộc lộ ra rõ khi xã hội bất ngờ xuất hiện
những bước ngoặt khó hiểu, thoạt nhìn có vẻ vô cùng phi lý. Bước ngoặt đó
xảy ra trong lúc cuộc sống có những nghịch cảnh, vì nó bị quá nhiều động lực
quy định lẫn nhau, đến mức bằng phương pháp quen thuộc, ta sẽ không tài
nào lần ra đầu mối của một cuộn chỉ rối. Chính lúc này, nghệ thuật đảm
nhiệm trọng trách soi sáng, phát quang và giải mã.
Như vậy, các tác phẩm nghệ thuật không chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ riêng,
ý nghĩa của nó toát ra từ toàn bộ năng lực thâu tóm bản chất đời sống, có tác


10
dụng điều chỉnh hành vi của bản thân đời sống. Heghen đã viết: “Nghệ thuật
có mục đích thức tỉnh mọi tình cảm, mọi nguyện vọng và mọi dục vọng có thể
có đang ngủ ở trong ta làm cho con tim tràn đầy. Nó làm cho con người có
giáo dưỡng hay chưa được giáo dưỡng cảm thấy trước tất cả những gì mà
tâm hồn con người có thể chứa đựng, cảm thấy và tạo nên ở những nơi sâu
thẳm và huyền bí nhất của y, tất cả những gì có thể làm con tim người xúc
cảm sâu sắc và bộc lộ các khả năng và các phương diện của nó. Nghệ thuật
cần phải đem đến cho tình cảm và sự chiêm ngưỡng một sự thưởng thức có
tính chất huy hoàng của cái cao thượng, của cái vĩnh viễn và cái chân thực
đồng thời thưởng thức mọi cái chủ yếu và cao quí mà tinh thần có được ở
trong tư duy và ở trong ý niệm” [6; 119].
Nói đến đời sống nghệ thuật là nói đến việc làm phát lộ những tài năng
và việc thiện nghệ hóa xã hội. Nghệ thuật mài sắc óc quan sát, làm nhạy bén
năng lực phát hiện vấn đề, năng lực soi sáng các vấn đề còn chưa rõ, năng lực
tổ chức và cấu tạo chất liệu, năng lực truyền thêm vào chất liệu những cảm
xúc mạnh mẽ và mới mẻ làm cho bản thân thực tại đang là “thực tại tự nó”
trở thành “thực tại cho ta” đầy hấp dẫn. Nhờ tổ hợp đủ mọi tính vật chất như
âm thanh, màu sắc, diện mạo, tính cách, ngôn từ một cách tài nghệ mà đối
tượng mỹ học của nghệ thuật luôn có tính vật chất được thăng hoa thành tinh
thần và trở thành cái có giá trị lâu bền trong đời sống, gắn bó với cuộc sống.
Như vậy, ưu thế của nghệ thuật so với chất liệu thẩm mỹ khách quan là
ở chỗ nó bộc lộ được trình độ cao của sự sáng tỏ, tính sâu sắc, tính ưu đẳng,
tính dự đoán và năng lực khái quát thông qua cách biểu hiện giàu cảm xúc và
rất hoàn chỉnh những đặc tính, bản chất của lịch sử con người.
Trong đời sống thẩm mỹ, nghệ thuật không chỉ làm thức dậy những
tình cảm phong phú ẩn chứa bên trong tâm hồn con người, làm thanh khiết
hóa tâm hồn, hướng con người vào sự tu thiện, mà còn làm cho hoạt động
thẩm mỹ của con người được phân biệt rõ rệt so với các hoạt động khác. Hoạt


11
động khoa học nêu lên các phát kiến của các nhà bác học trong một vấn đề
nào đó của đời sống vật chất và tinh thần. Khoa học là những suy nghĩ
nghiêm ngặt qua hệ thống những khái niệm và hệ thống logic, nghệ thuật
khác khoa học ở chỗ nghệ thuật dùng hình tượng cảm quan để biểu hiện, soi
sáng chính cái nền tảng cơ bản của sự sống bên trong con người.
Với ý nghĩa ấy, nghệ thuật còn là dấu hiệu độc đáo của ý thức xã hội.
Nếu các phát kiến về khoa học có thể làm thay đổi thế giới quan của con
người (phát kiến của Đácuyn về nguồn gốc của các loài làm lật nhào quan
điểm thần học về bàn tay sáng tạo của Chúa trời), thì nghệ thuật có thể đưa sự
thay đổi của thế giới quan đó đến tận cùng của nó.
Nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra, nhưng các tiêu chuẩn để đánh giá
nghệ thuật lại được định hình bởi môi trường thẩm mỹ xã hội. Do đó, giá trị
thẩm mỹ của nghệ thuật trở thành có ý nghĩa khách quan. Có thể nói, tác giả
là người viết sách, xã hội có thể tiếp nhận hoặc cự tuyệt nó, người tạo ra cuốn
sách là tác giả, người tạo ra số phận cuốn sách là xã hội.
Nghệ thuật có số phận của nó, có sinh và có thành, khép và mở ra, nó
cũng vui mừng và đau khổ. Nghệ thuật còn lôi kéo số phận con người lại gần
nhau, gửi những “thông điệp”, truyền từ đời này đến đời khác để chia sẻ buồn
vui với nhau.
Về tác dụng của nghệ thuật trong đời sống thẩm mỹ, Hegel có một cách
diễn tả rất hay, “Chúng tôi khẳng định nghệ thuật có nhiệm vụ bộc lộ cái chân
thực dưới hình thức cảm quan, miêu tả cái thế đối lập đã được nói và được
hòa giải ở trên kia và mục đích cuối cùng của nó tóm lại là biểu hiện và phát
hiện” [6; 232].



12
Nếu tước bỏ yếu tố duy tâm, Hegel có những nhận xét thật sắc sảo, Hoạt

động thẩm mỹ, trong đó có hoạt động nghệ thuật liên quan trực tiếp đến thế
giới của cái Tôi tinh thần và có trách nhiệm với tự do bên trong của chủ thể.
Đời sống thẩm mỹ có trách nhiệm “di dưỡng” tâm hồn của chủ thể, làm cho nó
luôn phát triển và luôn luôn trăn trở về sứ mệnh và sự nghiệp của bản thân.
1.1.2. Hình tượng nghệ thuật
Hình tượng nghệ thuật là một hiện tượng vô cùng phức tạp mang tính
tổng hợp của ba yếu tố. Đó là hiện thực (thực tế trước người sáng tác), người
nghệ sĩ (chủ thể sáng tạo) và công chúng thưởng thức sản phẩm nghệ thuật
đó. Ba yếu tố trên tồn tại, hỗ trợ cho nhau để từ hiện thực, người sáng tác và
công chúng cùng xây dựng thành những hình tượng nghệ thuật và công chúng
thưởng ngoạn.
Thuật ngữ hình tượng trong nghệ thuật tạo hình được dùng theo hai
nghĩa khác nhau. Thứ nhất là để chỉ nhân vật, hình ảnh, sự vật,… trên tác
phẩm mỹ thuật. Thứ hai là nói lên đặc tính chung của phương tiện, phương
thức, cách thức để ngôn ngữ tạo hình phản ánh.
Hình tượng nghệ thuật tạo hình là hiện tượng phản ánh nhận thức, một
hiện tượng tâm lý sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật. Như vậy, hình tượng nghệ
thuật là một hình thức phản ánh đặc biệt về hiện thực, cho dù ở loại hình nghệ
thuật nào đi nữa thì tính hình tượng đều mang ý nghĩa như vậy. Nó đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên một nhân vật điển hình.
Khi bàn về hình tượng nghệ thuật, Heghen cho rằng: “Hình tượng nảy sinh
chủ yếu khi hai hiện tượng hay hai tình huống độc lập được kết hợp với nhau
khiến cho một cái làm thành ý nghĩa và cái kia là hình ảnh nhằm mục đích
làm cho ý nghĩa này tri giác được” [6; 640].
Hình tượng nghệ thuật không chỉ truyền đạt cái đẹp tới tình cảm và lý
trí của con người, góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng và tình cảm của con
người, mà còn quyết định nội dung tư tưởng, ghi dấu ấn thời đại của tác

13
phẩm. Có thể nói không có hình tượng nghệ thuật thì nghệ thuật không thể

tồn tại, bởi trong các tác phẩm nghệ thuật, tất cả những ý tưởng, ẩn ý cũng
như tình cảm của người nghệ sĩ đều được thể hiện bằng hình tượng. Như vậy
hình tượng thẩm mỹ nói chung và hình tượng nghệ thuật tạo hình nói riêng là
phương tiện đặc thù để giao tiếp thẩm mỹ.
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, nghệ thuật tạo hình lấy không
gian, đường nét hình khối, màu sắc dựa trên các chất liệu để xây dựng hình
tượng. Thông qua hình tượng được thể hiện trong tác phẩm đem đến cho
người xem không phải là bức tranh đời sống đứng yên mà luôn luôn sống
động, lung linh, huyền ảo, vừa vô hình vừa hữu hình, cụ thể đấy mà mơ hồ
đấy như mặt trăng đáy nước, bóng người trong gương, như không gian vốn ba
chiều nay thu lại trong không gian hai chiều của hội họa, như một mái chèo
trên hai thước chiếu sân khấu mà tác giả đã vẫy vùng trước đại dương. Như
vậy có thể thấy nghệ thuật tạo hình có đặc trưng ngôn ngữ biểu đạt riêng
không giống với các loại hình nghệ thuật khác.
Hình tượng nghệ thuật là một hình thức tư duy bao hàm cả yếu tố cảm
tính và lý trí. Nó bao hàm những yếu tố đặc tính của tri giác ghi lại, phản ánh
những đặc trưng cụ thể của nó, và tư duy lý tính chỉ mang tính phỏng đoán,
phản ánh một cách trừu tượng bản chất của những loại sự vật, hiện tượng có
những đặc trưng mang tính phổ biến chung. Còn hình tượng nghệ thuật là kiểu
thức phản ánh cái chung trong cái riêng, cái phổ biến trong cái cá biệt, cái hiện
thực trong cái mơ hồ, cái bản chất trong cái yếu tố hiện tượng. Như vậy, các tác
phẩm nghệ thuật chính là sự khái quát cao nhất các giá trị tinh tinh thần của
nhân loại, tư tưởng tình cảm, nền văn hóa xã hội của loài người trong thời kỳ
đó. Sau đó lại phải cá thể hóa sinh động thành tựu của hình tượng.
Những tác phẩm mỹ thuật lấy hình tượng nghệ thuật từ hiện thực cuộc
sống một cách chân thực luôn có tác dụng lớn lao về mặt nhận thức, gây ảnh
hưởng to lớn về mặt tư tưởng, tình cảm, thúc đẩy quần chúng hành động cũng

14
như cổ vũ phong trào lao động sản xuất và chiến đấu của nhân dân; như

những tác phẩm của Michelangello, Raphael, Leonardo da Vinci,… Thời
Phục Hưng, của Monet, Manet, Picasso,… Hay các tác phẩm của Tô Ngọc
Vân, Trần văn Cẩn, Nguyễn Phan Chánh, Diệp Minh Châu, nhà văn Nguyễn
Sáng,… Những hình tượng nghệ thuật nổi bật đôi khi vượt ra ngoài giới hạn
vốn có của nó trong từng thời điểm lịch sử nhất định, hòa nhập vào trong
thành phần những giá trị văn hóa nghệ thuật nói chung của toàn bộ nền văn
hóa tinh thần của thời đại đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật.
Xây dựng hình tượng nghệ thuật, nghệ sĩ phải tuân theo một quy tắc
thẩm mỹ nhất định. Đầu tiên là những cảm xúc, những ấn tượng về cuộc sống
có ảnh hưởng lớn đến số phận con người, được nghệ sỹ tiếp nhận và chuyển
vào tác phẩm. Như vậy, người nghệ sĩ sáng tạo ra các hình tượng nghệ thuật
không chỉ đơn thuần là đáp ứng nhu cầu hướng đến cái đẹp, mà còn có ý
nghĩa quan trọng hơn là để đáp ứng chính nhu cầu hoàn thiện bản thân, nhu
cầu chinh phục tự nhiên trong cuộc đấu tranh sinh tồn của con người. Khi mới
ra đời nghệ thuật là sự mô phỏng thế giới tự nhiên, thể hiện sự ngưỡng mộ,
kính trọng của con người với thế giới tự nhiên. Nghệ thuật lúc này chỉ là bộ
phận hợp thành của sự nhận thức chưa được phân loại của con người đối với
thế giới xung quanh. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của lao động sản xuất,
đời sống xã hội của nhân loại đã ngày một biến đổi, điều đó cũng đồng thời
làm cho các giá trị chuẩn mực đạo đức, các hình tượng nghệ thuật cũng có sự
biến đổi theo. Về vai trò của hình tượng nghệ thuật đối với cuộc sống. Như
vậy, các khái niệm “Chân – Thiện – Mỹ” trong tác phẩm nghệ thuật sẽ không
đầy đủ nếu không xây dựng được hình tượng thẩm mỹ.
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, nghệ thuật tạo hình có ngôn
ngữ riêng để làm tròn chức năng của mình là nghệ thuật thị giác. Đặc trưng
lớn nhất của nghệ thuật chính là hình tượng, trong nghệ thuật tạo hình thì vai
trò của hình tượng càng đậm nét, nó biểu hiện cái đẹp với tính điển hình hóa

15
mà người nghệ sĩ đã chọn để đưa vào tác phẩm. Khi sáng tác người nghệ sĩ

còn phải đưa cái tôi của mình vào tác phẩm bằng tính cá nhân hóa sinh động,
qua đó các hình tượng nghệ thuật thể hiện được cá tính và phong cách nghệ
thuật của nghệ sỹ.
1.1.3. Hình tượng nghệ thuật tạo hình
Nghệ thuật tạo hình là tên gọi chung cho nghệ thuật hội họa và điêu
khắc. Tuy hai nghệ thuật này có những chỗ tương đồng, đều là nghệ thuật thị
giác nhưng đứng về mặt biểu đạt, hai nghệ thuật này vẫn có những chỗ khác
nhau. Cho nên, vẫn cần phải có sự phân biệt về mặt hình tượng của hai loại
nghệ thuật này.
a) Hình tượng nghệ thuật điêu khắc
Theo Hegel, điêu khắc là nghệ thuật biểu hiện trong không gian ba
chiều, nó dùng mảng khối và vật liệu nặng kết hợp với kiến trúc mà tạo thành
cái đẹp riêng của mình. Hegel cho rằng, khi trong tâm hồn con người xuất
hiện một vị thần; vị thần đó có thể là do óc tưởng tượng của con người mà tạo
thành, nhưng cũng có những vị thần là những anh hùng có công lớn của thành
bang, được người đời phong thần.
Khi đã có nhu cầu về tôn thờ những người anh hùng, những vị thần ấy,
con người có nhu cầu lập những đền thờ ở quanh mình để dễ cầu khấn, đồng
thời cũng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Trong
ngôi đền, người ta muốn sự có mặt của các vị thần ấy. Thế là điêu khắc ra đời,
tạc nên gương mặt của các vị thần, tạc nên dáng vẻ và uy nghi của vị thần làm
đối tượng cho sự sùng bái.
Tượng thần Zesus là một trong những kỳ quan của thế giới cổ đại.
Tượng thần Atena (thần sức mạnh) cầm chiếc giáo vàng chỉ xuống bến Pêlê.
Các tượng phật của Việt Nam, những ông Thiện, ông Ác, phật tam thế
(Adida, Thích Ca Mâu Ni, Di Lặc) tượng trưng cho quá khứ, hiện tại và tương

16
lai. Theo các nhà nghiên cứu, những tượng này bắt nguồn từ Ấn Độ, Pakistan
hoặc Apganistan rồi chuyển sang Việt Nam.

Điêu khắc của Cổ đại Hy Lạp cũng như điêu khắc hiện đại đều có lý do
tồn tại theo phương thức thế tục và tôn giáo kết hợp.
b) Hình tượng nghệ thuật hội họa
Hội họa tuy nằm trong nghệ thuật thị giác nhưng theo Hegel đó là nghệ
thuật chối từ một chiều của không gian vật lý để thay vào đó là không gian
tâm linh. Cho nên hội họa thực tế chỉ triển khai theo hai chiều trên mặt phẳng.
Nhưng nhờ tạo không gian ảo, đồng thời phát huy sức mạnh của màu sắc mà
làm cho hình tượng nghệ thuật cũng phong phú và đa dạng hơn cả điêu khắc.
Chính vì vậy, vẻ đẹp của hội họa tách rời khỏi kiến trúc, nó trở nên gần
gũi con người hơn, nó xa dần yếu tố tôn giáo để gần gũi lại với tính chất thế
tục. Hội họa vì thế trở thành nghệ thuật trang trí cho con người trong các công
trình công cộng cũng như công trình của các nhà dân.
Trong các đình, chùa của Việt Nam, tuyệt đại đa số là các tượng
phật, chỉ có một số tranh được Hội Phật giáo in ra để truyền bá những tích
phật mà thôi.

1.1.4. Hai đường hướng trong mỹ học Hy Lạp Cổ đại chi phối sáng
tác nghệ thuật
Trong triết học có hai đường hướng: triết học duy vật (đại biểu là
Democrit) và triết học duy tâm (đại biểu là Platon), thì trong mỹ học cũng
xuất hiện hai đường hướng mỹ học:
Đường hướng mỹ học Duy tâm: đại biểu là Platon
Đường hướng mỹ học Hiện thực: đại biểu là Aristote
Vì thế, muốn phân tích được nghệ thuật Hy Lạp, phải nghiên cứu mỹ
học của Platon và Aristote để có cơ sở phân tích cái Đẹp trong các hình tượng
tiêu biểu của thời đại.

17
Platon (427 – 347 TCN), nhà mỹ học duy tâm vĩ đại của Hy lạp Cổ Đại
đã phủ nhận tính khách quan của cái đẹp. Ông không tìm cái đẹp trong các sự

vật cảm tính đơn nhất, trong quan hệ giữa chúng đối với hoạt động của con
người mà tìm cái gì là đẹp đối với tất cả, đẹp vĩnh hằng, từ đó ông cho rằng
cái đẹp là một “ý niệm” tồn tại vĩnh hằng và nguồn gốc của cái đẹp nằm trong
thế giới ý niệm chứ không nằm trong thế giới vật thể cảm tính.
Mỹ học Platon dựa trên thuyết “Ý niệm” (tức là tinh thần, tư tưởng, linh
hồn); Vậy, muốn nghiên cứu cái đẹp trong mỹ học của ông, trước hết phải
hiểu thuyết “Ý niệm".
Triết học của Platon là một triết học chứa đầy xu hướng “nhân bản”, xu
hướng nhân bản của Platon đưa ta trở lại bối cảnh chung của triết học thời đó.
Thoát thai từ cõi mông muội, con người muốn dồn trí lực của mình tìm hiểu
giới tự nhiên là điều cần thiết. Pitago, Heraclit và Democrit cũng đi theo
hướng triết học “vũ trụ luận” cảm quan sinh động. Nhưng đến thế kỷ thứ VI
TCN, xã hội Hy Lạp đã có nhiều biến động, những xung đột nhà nước và giai
cấp đã bộc lộ khá nhiều mặt phức tạp trong quan hệ giữa người với người.
Trong bối cảnh đó, xuất hiện một loạt các nhà “trí giả” (các nhà triết học Hy
Lạp chuyên dạy khoa “trí khôn và khoa hùng biện). Các nhà “trí giả” giống
như những nhà bách khoa đầu tiên của Hy Lạp Cổ đại, họ là Pritago, Hipiat,
Prodiquyt, Angtiphone,… Họ có công bác bỏ các thuyết xa rời nhân sinh thế
đạo của Mile.
Học thuyết nhận thức của Platon tuy bản chất là duy tâm nhưng nó
chứa đựng nhân tố khách quan, tất nhiên nó có tác dụng chống lại các nhà
ngụy biện. Về điều này, Platon đã có nhận xét rất đúng: “Vậy thì, theo những
điều chúng ta thấy, công trình khoa học mà các nhà ngụy biện đạt tới là sự
gần đúng, là không phải khoa học chân chính". [53; 198]

18
Thiếu sót căn bản của Platon về nhận thức luận không phải là chỗ ông
không tin vào chân lý. Ngược lại, Platon có một niềm tin khá chắc chắn vào
khả năng nhận thức của con người. Cơ sở chủ yếu dẫn ông tới duy tâm là ở
chỗ, trong khi đấu tranh chống lại nhân tố cảm giác luận trong triết học của

Heraclit và Protago, ông đã đi tới phủ nhận vai trò nhận thức chân lý của cảm
giác. Ông đã không thấy rằng trong nhận thức, cảm giác là những hình thức
khởi thủy, giản đơn và trực tiếp của sự phản ánh thế giới bên ngoài và con
người. Cảm giác là tiền đề cho những hình thức nhận thức tiếp theo đó, kể cả
những hình thức nhận thức trừu tượng và phức tạp của con người. Quả vậy,
“nếu không qua cảm giác, thì chúng ta không thể nào hiểu biết được bất kỳ
một hình thức nào của vật chất, một hình thức nào của vận động cả”.
Tóm lại, học thuyết về thế giới “Ý niệm” của Platon rất trừu tượng, do
đó nó gây khó khăn cho việc nhận thức của chúng ta. Nhưng một mặt, học
thuyết đó là duy tâm, siêu hình, mặt khác, nó chứa đựng một hạt nhân hợp lý.
Điều Platon băn khoăn là giữa cái ta thấy (khả thị) và cái ta biết (khả
niệm), nói cách khác, giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, cái nào quan trọng
hơn? Platon đã bỏ công xây dựng một hệ thống triết học và mỹ học để chứng
minh rằng: cái trừu tượng, cái thuộc về tinh thần con người, tức “Ý niệm” là
cái có sức mạnh bừng sáng trong mọi nhận thức của con người.
“Ý niệm” với tính chất là bản thể, bản chất của sự vật, là cái quy định
bên trong của sự vật, là cái được thể hiện vào sự vật: còn với con người, “Ý
niệm” là linh hồn bất tử đến nhập vào thân xác. Platon đã tách rời thế giới
cảm tính và thế giới tinh thần rồi đem đối lập với cái Đẹp của sự vật với hình
ảnh của nó được phản ánh trong đầu óc con người. Đẹp theo cách hiểu của
Platon không phải là số lượng, cũng không phải là một hình thái, một nhân tố
cụ thể nào đó, mà cái Đẹp là một khái niệm, một thứ ý thức, một sự cảm nhận

19
của thế giới linh hồn bên trong con người. Như vậy, ông đã xuất phát từ quan
điểm duy tâm, thần bí về tồn tại, về ý niệm để lý giải các hiện tượng thẩm mỹ.
Platon tách rời cái Đẹp và nghiên cứu ở hai góc độ: vật chất và tinh
thần. Platon cho rằng, thế giới hiện thực khách quan không phải là một hình
thái duy nhất để biểu hiện cái Đẹp. Cái Đẹp có biểu hiện ở thế giới hiện thực
khách quan, ở vật thể cảm tính riêng lẻ, song nó không phải là cái Đẹp bản

chất. Chỉ có cái Đẹp của “Ý niệm”, của tâm hồn, của thần linh mới là cái Đẹp
bản chất, cái Đẹp vĩnh hằng. Platon cho rằng, cái Đẹp tồn tại vĩnh viễn, nó
không tự nhiên xuất hiện, không mất đi, không tăng thêm, không giảm đi,
thậm chí nó không đẹp ở nơi đây mà lại xấu ở nơi kia, không đẹp ở quan hệ
này mà lại xấu ở điểm khác, không đẹp đối với cái này mà lại thô kệch đối
với cái kia. Cái Đẹp không hiện ra như một vẻ mặt hay một cánh tay, cũng
không ở bất cứ phần nào của cơ thể. Đẹp cũng không hiện ra như một lập luận
hay như một khoa học nào: cái Đẹp là tự nó!
Ý niệm đẹp của Platon không phải là cái vẻ hình thức bên ngoài mà
là cái “hồn”, cái “thần” của sự vật. Hình thức tồn tại của ý niệm đẹp dưới
dạng cái chung, cái tổng thể, cái tổng quát, cái phổ biến. “Ý niệm” về cái
đẹp là cái bất biến, vĩnh cửu trong mọi lúc mọi nơi, mọi trường hợp, mọi
thời gian, không gian. Chính “ý niệm cái đẹp” đã sáng tạo nên cái đẹp của
sự vật cá biệt.
Platon tiếp tục truyền thống của những nhà tư tưởng trước đó như
Democrit, Socrate coi nghệ thuật là sự mô phỏng, tái hiện hiện thực, vật thể,
chỉ có điều trong hệ thống triết học của ông các đồ vật chỉ là hình bóng của
các ý niệm. Như vậy, khi tái hiện các vật thể, người nghệ sĩ không tiếp cận tới
cái hiện thực chân chính và cái đẹp, mà chỉ tái hiện lại cái bóng của nó.
Bàn về cái đẹp, Platon viết: “Cái đẹp tồn tại vĩnh viễn, nó không tự
xuất hiện, không mất đi, không tăng thêm, không giảm đi, thâm chí nó không

20
đẹp ở nơi đây mà lại xấu ở nơi kia, không đẹp ở quan hệ này mà lại xấu ở
quan hệ khác, không đẹp với cái này mà lại thô kệch với cái kia. Cái đẹp
không hiện ra như một vẻ mặt hay một cánh tay cũng không ở bất cứ phần
nào của cơ thể. Đẹp cũng không hiện ra như một lập luận hoặc một khoa học
nào: cái đẹp là tự nó …” [53; 286]
Cái đẹp vĩnh hằng, vĩnh viễn, tuyệt đối chỉ có ở trong thế giới ý niệm
tiếp tục được Platon thần bí hóa khi ông cho rằng: “Cái đẹp sẽ hiện ra với tất

cả sự lộng lẫy của nó khi chúng ta bước sau thần Duypite cũng như những
người khác bước sau các vị thần khác, trong tiếng nhạc hòa tấu của thiên
đình, khi đứng trước một cảnh huy hoàng, chúng ta như cảm thông được
những bí mật mà người ta có thể gọi là những bí mật của những người sung
sướng, những bí mật mà chúng ta say sưa, lòng không có những đau khổ và
thiếu thốn đang đợi ta sau đó”[.53; 288].
Platon cho rằng: cái đẹp (ý niệm) là nguồn gốc của sự ham thích nó ở
nơi con người (chủ thể). Chính cái đẹp của đối tượng, tức của đẹp tuyệt đối,
đã cuốn con người và gây nên sự ham thích ở nơi người nhìn. Như vậy, có
nghĩa là: cái đẹp của đối tượng là có thật, độc lập với ta, và ở ngoài ta. Điều
mà 22 thế kỷ sau, Kant đã phủ định trong tác phẩm Phê phán năng lực phán
đoán (1790). Đối với Kant, cái đẹp chỉ có giá trị chủ quan và không nằm
trong đối tượng cho dù đó là ý niệm.
Platon nói: "Cái gì đúng là đẹp". Nghiên cứu nền nghệ thuật Ai Cập Cổ
Đại, ông cho rằng các kiệt tác trong các đền thờ Ai Cập, mặc dù được sáng
tạo ra từ hàng nghìn năm trước, nhưng khi xem ta vẫn thấy rất sinh động, rất
đúng với hiện tại - tức là đẹp.
Ngay từ thời Platon, người ta đã nhận thức rằng khoa học là một trong
những nhân tố quan trọng của sáng tạo nghệ thuật. Tức là người ta thấy sự
gần gũi trực tiếp giữa cái Đẹp và cái Đúng. Theo họ chẳng có gì đẹp hơn cái

21
thật. Chỉ có cái thật là đáng yêu. Tính xác thực là một phẩm chất của nghệ
thuật và khoa học.
Platon cho rằng, người ta nhận thức là nhận thức cái bản chất của sự
vật, song cái bản chất đó nằm trong thế giới “Ý niệm”, nên đối tượng của
nhận thức và chân lý của sự vật là ở thế giới “Ý niệm”. Muốn nhận thức thế
giới “Ý niệm”, người ta không thể dùng cảm giác mà phải dùng sức mạnh hồi
tưởng của linh hồn.
Không chỉ vậy, Platon đã đề cập đến những tính chất đặc biệt của cái

Đẹp, nhận thấy tính chất đặc biệt của hình thức trong đời sống thẩm mỹ.
Platon quan niệm cái Đẹp phải gắn liền với tính chất thanh lọc, tính chất làm
trong sạch tâm hồn của nghệ thuật. Tất cả nhưng phẩm chất con người, theo
Platon đều là cái Đẹp, lòng cao thượng, sự dũng cảm. Tất cả những cái đó đều
là kết quả của quá trình đã được thanh lọc và làm sạch. Như vậy, Platon cũng
coi sự vật là phương tiện để sửa chữa, uốn nắn con người về mặt đức hạnh.
Những quan điểm mỹ học của Platon còn được trình bày ở những vấn
đề sau:
+ Về phạm trù Mức độ (Mực thước)
Lấy cơ sở từ quan niệm của Pitago và Democrit về phạm trù cái Mức
độ, Platon đã nâng phạm trù này lên thành cơ sở của cái Đẹp khi cho rằng,
Mọi cái tốt lành là đẹp và mọi cái Đẹp không thể không có mức độ và cái
quái dị là cái thiếu mức độ.
Cái Mức độ với Platon là một nguyên tắc phổ biến. Ông trả lời mọi vấn
đề tính bản chất của cái Mức độ và đã phân tích cơ cấu của phạm trù Mức độ.
Mức độ là kết quả của sự đo đạc, mọi lĩnh vực hoạt động của con người đều
nằm trong khuôn khổ của sự đo đạc.
Có thể thấy phạm trù Mức độ của Platon có những tính chất sau:
 Mức độ là một phạm trù có tính chất nhất định, nó là sự thống nhất
giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, là điểm giữa của hai đôi cực.

22
 Mức độ có tính chất phổ biến và toàn diện, nó là nguồn gốc của cái
hay, cái Đẹp, của nghệ thuật, là cái hay của âm nhạc và cái tốt của sức khỏe
 Mức độ cũng cũng khách quan như khách quan của cái hữu hạn và
cái vô hạn
 Khi vạch rõ bản chất của phạm tù cái Mức độ, Platon đã nghiên cứu
khá tỉ mỉ mối quan hệ giữa phạm trù Mức độ với chân lý của cái Đẹp. Platon
cho rằng, thiếu Mức độ không thể có cái Thiện và cái Đẹp.
+ Platon cũng quan niệm về cái Hòa điệu:

Một đặc điểm chung của các nhà mỹ học Cổ đại là họ gắn cho phạm trù
cái Hòa điệu một ý nghĩa phổ biến. Hòa điệu không những chỉ có ý nghĩa đối
với vũ trụ mà còn có ý nghĩa và tác động tới bên trong con người. Đó cũng là
một đặc điểm của Platon.
Platon nhấn mạnh sự thống nhất của các mặt đối lập, nhưng đó là sự
thống nhất trong lĩnh vực “Ý niệm”. Platon cũng coi Hòa điệu là cơ sở của
cái Đẹp. Hòa âm trong âm nhạc là mẫu mực của mọi Hòa điệu, của vũ trụ
và xã hội.
+ Về cảm hứng nghệ thuật
Xuất phát từ thế giới quan duy tâm và thần bí, Platon cho rằng, quá
trình cảm hứng của nghệ sĩ là một quá trình thần nhập. Nghệ sĩ chỉ là một
công cụ để thần linh tác động sức mạnh thần bí. Khi sáng tác, nghệ sĩ nhờ vào
sự linh cảm của mình, đấy là một trạng thái hưng phấn đặc biệt, mê cuồng,
huyền ảo; khi đó nghệ sĩ được nhập vào cõi thần linh để nói lên tiếng nói
thánh thần, như vậy cảm hứng sáng tác có tính trực cảm. Tài năng là do trời
phú cho. Cảm hứng của nghệ sĩ mang tính trực giác phi lý tính, nghệ sĩ sáng
tác với một tâm trạng bị ám ảnh.
+ Về thuyết bắt chước
Thuyết “bắt chước” của Platon có ý định chứng minh giá trị tương đối
của nghệ thuật. Platon không phủ nhận việc các nghệ sĩ đã bắt chước, tái hiện

23
hiện thực. Song theo ông, chính vì hiện thực đã bắt chước các sự vật của thế
giới cảm tính, nên nó trở thành ít chân lý. Nghệ thuật bắt chước các vật thể
cảm tính, mà vật thể cảm tính chỉ là bắt chước “Ý niệm”, cho nên các vật thể
cảm tính chỉ là cái bóng của cái bóng, là bản sao của bản sao, nghệ thuật là
hình ảnh qua hai lần chiết quang. Đó là nghệ thuật ít có giá trị nhận thức.
Tuy nhiên, Platon vẫn cho rằng, nghệ thuật có thể góp phần giáo dục
con người. Song ông đòi hỏi nghệ thuật phải phục tùng nhà nước lý tưởng,
tức nhà nước chủ nô phản động. Trong nhà nước này, nghệ thuật phải chịu sự

kiểm soát chặt chẽ.
Tóm lại, tư tưởng thẩm mỹ của Platon có những đặc điểm sau:
* Đó là tư tưởng mỹ học mang tính chất duy tâm khách quan. Bởi vì nó
thừa nhận một cái đẹp bản thể, vĩnh hằng, có tính tinh thần, cái Đẹp “Ý niệm”
bên trên con người quy định nhận thức, chi phối cảm hứng sáng tạo của con
người. Vì lẽ đó, bản chất các quan điểm mỹ học của Platon là mỹ học cảm nhận.
* Tư tưởng mỹ học Platon là một hệ thống siêu hình. Hệ thống đó được
rút ra một cách máy móc từ suy luận nhằm hướng con người tới sự lĩnh hội
cái Đẹp bằng trực giác mỹ học không dựa vào thực tế cuộc sống và thành tựu
nghệ thuật, nên mỹ học của Platon không mang tính chất khái quát thực tiễn,
không thể là chỗ dựa tin cậy đối với người sáng tác.
Như vậy, mỹ học của Platon cũng tạo thành một loại đường lối chi phối
các quan điểm của các nhà mỹ học duy tâm thời đại như chính cơ sở triết học
của ông.
Aristote (384 – 322 TCN) là đại biểu lớn nhất trong số các nhà tư tưởng
Hy Lạp Cổ Đại người học trò giỏi và sáng tạo của Platon. Thân phụ của
Aristote, là quan ngự y nổi tiếng của triều đình Macedonia. Năm 367, ông tới
Athens và gắn bó đời mình vào trường Academy của Platon cho tới khi vị
thầy ấy qua đời. Tại đó, ông viết nhiều đối thoại được tán dương là rất hùng
hồn. Nhưng nay chỉ tồn tại vài đoạn tản mác. Năm 347, ông sang ở Tiểu Á và

×