Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 84 trang )

Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
MỤC LỤC
Lời Mở đầu
I. Giới thiệu tổng quan về đất nước Nhật Bản:……………………
…………………………………………… … 2
II. A. Môi trường vĩ mô…………………………… …………………………3
1. Môi trường dân số: ………………………… …………………………3
2. Môi trường kinh tế: ………………………… …………………………6
3. Môi trường tự nhiên: ………………………… ………………………13
4. Môi trường công nghệ: ………………………… ……………………14
5. Môi trường chính trị: ………………………… …………………… 14
6. Môi trường văn hóa: ………………………… ………………………26
7. Môi trường quốc tế: ………………………… ……………………… 31
II. B. Thời cơ, thách thức và phương thức thâm nhập:……………… 34
1. Thời cơ: ………………………… …………………………………… 34
2. Thách thức: ………………………… …………………………………38
3. Phương thức thâm nhập:. ………………………… ………………… 41
III. Môi trường vi mô cho sản phẩm gỗ………………………………… …47
1. Thị trường nội địa…….………………………………………………….47
2. Nhu cầu tại Nhật Bản….…………………………………………………50
3. Thâm nhập thị trường Nhật Bản bằng phương thức xuất
khẩu…………………… ……………………………………………… 52
4. Nguồn cung ứng……… ……………………………………………… 60
5. Thực trạng và khả năng cạnh tranh…………………………………….63
6. Sản phẩm thay thế….…………………………………………………… 70
7. Đánh giá sản phẩm thay thế và hướng đi của đồ gỗ Việt Nam…
…………………………………………………………… ……79
Kết luận
Tài Liệu Tham Khảo
I. Giới thiệu tổng quan về đất nước Nhật Bản:


Page 1 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Nhật Bản có diện tích tổng cộng là 379.954 km2 nằm xoải theo bên sườn phía
đông của lục địa Châu Á. Nhật Bản nằm ở phía đông của các quốc gia Hàn Quốc, Nga
và Trung Quốc; trải từ biển Okhotsk ở phía bắc đến biển Đông ở phía nam.
Dân số Nhật Bản
Tính đến tháng 07/2012 là 127.368.088 người, xếp hạng thứ 10 trên thế giới.
Nhật Bản cũng là quốc gia có mật độ dân số lớn thứ 30 trên thế giới. Nhật Bản là một
trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhất thế giới, trung bình là 81,25 tuổi cho
năm 2006. Tuy nhiên, dân số nước này đang lão hóa do hậu quả của sự bùng nổ dân
số sau Thế chiến thứ hai. Năm 2004, 19,5% dân số Nhật trên 65 tuổi. Nhiều người trẻ
Nhật Bản hiện có xu hướng không kết hôn hoặc có gia đình khi trưởng thành. Dân số
nước Nhật Bản dự tính sẽ giảm xuống còn 100 triệu người vào năm 2050. Chính
quyền và các nhà hoạch định dân số đang đau đầu để giải quyết vấn đề này.
Nhật Bản có hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ nằm trải dài dọc biển Thái Bình
Dương. Các đảo chính chạy từ Bắc tới Nam bao gồm Hokkaido, Honshu, Shikoku và
Kyushu. Quần đảo Ryukyu bao gồm Okinawa là một chuỗi các hòn đảo phía Nam
Kyushu. Phần lớn diện tích Nhật Bản là núi, chiếm khỏag 70-80%, loại hình địa lý
không hợp cho nông nghiệp, công nghiệp và cư trú.
Do nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương, lại ở chính điểm nối của ba
vùng kiến tạo địa chất nên Nhật Bản thường xuyên phải chịu các dư trấn động đất nhẹ
cũng như các hoạt động của núi lửa. Các cơn động đất có sức tàn phá, thường dẫn đến
sóng thần. Cũng chính vì các hoạt động núi lửa diễn ra thường xuyên nên quốc gia
này có vô số suối nước nóng và các suối này đã và đang được phát triển thành các khu
nghỉ dưỡng.
Khí hậu Nhật Bản phần lớn là ôn hòa, nhưng biến đổi từ Bắc vào Nam. Nhiệt
độ nóng nhất đo được ở Nhật Bản là 40,9 °C - đo được vào 16 tháng 8 năm 2007.
Phong cảnh thiên nhiên của Nhật Bản vô cùng đẹp với 4 mùa thay đổi rõ rệt với mùa
xuân có hoa anh đào nở từ miền nam lên miền bắc, mùa hè với cây cối xanh mướt,

mùa thu có lá phong đỏ thắm từ miền bắc xuống miền nam và mùa đông tuyết trắng
xóa khắp nơi. Đặc biệt Nhật Bản có núi Phú Sĩ (tiếng Nhật là Fujisan), là ngọn núi cao
nhất Nhật Bản và cũng chính là biểu tượng của đất nước này. Núi Phú Sĩ nằm giữa
đồng bằng, có tuyết bao phủ trắng phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn
sĩ và thi sĩ xứ Phù Tang cũng như các văn nghệ sĩ khắp bốn phương.
Về văn hóa, Nhật Bản là một trong những quốc gia có nền văn hóa vô cùng đặc
sắc. Văn hóa Nhật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ.
Nghệ thuật truyền thống của Nhật Bản cũng vô cùng phát triển, từ các ngành thủ công
như cắm hoa Ikebana, nghệ thuật gấp giấy Origami, ukiyo-e, đồ chơi, đồ gỗ sơn mài
và gốm sứ. Bên cạnh đó các bộ môn nghệ thuật biểu diễn cũng có những nét hấp dẫn
rất đặc biệt như bunraku, nhảy, kabuki no, rakugo. Ngoài ra cũng phải kể đến những
nét đặc sắc truyền thống khác như trà đạo, Budo, kiến trúc, vườn Nhật và cả gươm
Page 2 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Nhật. Ẩm thực Nhật Bản cũng là một trong những nền ẩm thực nổi tiếng nhất trên thế
giới.
Nhật Bản đặc biệt phát triển manga, một loại truyện tranh. Sau đó, Manga cũng
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt hình của Nhật và phát triển nên một thể loại hoạt
hình đặc trưng phong cách Nhật có tên là Anime. Từ Manga và Anime mà các trò
chơi game video của đất nước này cũng có những sự phát triển mạnh mẽ khắp thế giới
từ thập niên 1980.
Karaoke cũng là một hoạt động văn hóa phổ biến nhất ở Nhật. Người Nhật hát
Karaoke nhiều hơn là tham gia vào bất kì một động văn hóa truyền thống nào khác.
Về thể thao, Sumo là một môn thể thao quốc gia của Nhật Bản và là một trong
những môn thể thao có lượng người xem lớn nhất tại đất nước này. Các môn võ khác
như judo, karate và kendo cũng phổ biến và được người dân tập luyện rộng rãi khắp
đất nước. Sau này rất nhiều các môn thể thao phương Tây cũng du nhập và lan truyền
rộng rãi trong nước Nhật. Trong đó Bóng chày là môn thể thao rất được người Nhật
hâm mộ. Bên cạnh đó, bóng đá cũng đang dần dần tìm được chỗ đứng trong làng thể

thao Nhật Bản. Từ khi thành lập Giải bóng đá chuyên nghiệp Nhật Bản năm 1992, đội
tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản đã trở thành một trong những đội bóng thành công
nhất ở châu Á với 4 lần dành chức vô địch Cúp bóng đá Châu Á. Nhật Bản cũng là
nước đồng chủ nhà World Cup 2002 với Hàn Quốc. Ở Châu Á, Nhật cũng là quốc gia
đầu tiên tổ chức 1 kỳ Thế vận hội, đó là Thế Vận Hội mùa hè năm 1964 tại thủ đô
Tokyo.
Nhật Bản cũng là quốc gia dẫn đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực về nghiên cứu
khoa học, công nghệ máy móc và nghiên cứu y học. Ở quốc gia này, gần 700.000 nhà
nghiên cứu có hơn 130 tỷ USD ngân sách để nghiên cứu và phát triển các lĩnh vực
khoa họa, đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Nhật có những phát minh rất quan trọng
trong các lĩnh vực điện tử, ô tô, máy móc. Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong ngành
khoa học robot, với những phát minh nổi tiếng như QRIO, ASIMO và Aibo. Nhật Bản
cũng là nhà sản xuất ô tô lớn nhất trên thế giới và là quê hương của 6 trong tổng số 15
nhà sản xuất ô tô lớn nhất toàn cầu cũng như 7 trong số 20 nhà sản xuất chất bán dẫn
lớn nhất thế giới.
II. A. Môi trường vĩ mô:
1. Môi trường dân số:
Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ 10 thế giới với ước tính khoảng
127,619 triệu người tính đến tháng 3 năm 2011. Vùng thủ đô Tokyo và một vài tỉnh
xung quanh là vùng đô thị lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người sinh sống.
Nhật Bản cũng là một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhất thế giới,
trung bình là 81,25 tuổi cho năm 2006. Tuy nhiên, dân số Nhật đang lão hóa do hậu
Page 3 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
quả của sự bùng nổ dân số sau Thế chiến thứ hai. Năm 2004, 19,5% dân số Nhật trên
65 tuổi.
Có thể nói Nhật Bản là quốc gia duy nhất ngoài khu vực châu Âu nằm trong
danh sách những nước có dân số già nhất thế giới.Theo “Japan Times” (Nhật Bản)
nhận định của các chuyên gia phân tích, mặc dù là một cường quốc kinh tế, nhưng vấn

đề dân số đang khiến các nhà hoạch định chính sách của Nhật Bản phải đau đầu.Trước
xu hướng dân số ngày càng già đi, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động giảm sút, vấn đề
đặt ra là “Nhật Bản có thể duy trì được vị thế của một siêu cường kinh tế hay không?”,
“Nhật Bản có thể đẩy mạnh tham vọng can dự sâu hơn vào các vấn đề quốc tế và khu
vực để mở rộng và tăng cường ảnh hưởng của mình hay không?”. Đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay khi Trung Quốc đang ngày càng trỗi dậy mạnh mẽ, Trung Quốc đang
có những bước đột phá hết sức ấn tượng. Khi tiềm lực kinh tế của ngày càng mạnh và
sức mạnh quốc phòng được nâng cao, nước này sẽ đẩy mạnh can dự vào các vấn đề
quốc tế cũng như khu vực và điều này đe dọa tới vị thế của Nhật Bản.
Qua các số liệu thống kê cho thấy dân số Nhật sẽ “giảm ở nông thôn, già hóa ở
thành thị”. Tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên sẽ vượt quá 30% tại tất cả các tỉnh của Nhật
Bản vào năm 2040. Viện Nghiên cứu Dân số và An sinh xã hội Quốc gia Nhật Bản
vừa công bố một dự báo về dân số nước này. Theo đó, dân số tại tất cả các tỉnh của
Nhật Bản sẽ giảm đi và già hơn vào năm 2040. Dự báo này dựa trên kết quả mới nhất
từ cuộc điều tra dân số được thực hiện hồi năm 2010 và tác động của thảm họa động
đất sóng thần hồi tháng 3/2011 ở Đông Bắc Nhật Bản. Dự báo cho thấy tỷ lệ dân số từ
65 tuổi trở lên sẽ vượt quá 30% tại tất cả các tỉnh của Nhật Bản vào năm 2040, tăng
nhiều so với con số 20% hồi năm 2010. Người đứng đầu Viện trên, ông Toru Suzuki
cho biết dân số Nhật Bản đang giảm đi tại khu vực nông thôn và lão hóa tại những
thành phố lớn. Nguyên nhân được cho là nhiều người đã chuyển tới khu vực thành thị
vào những năm 1960 và những năm 1970, tức trong thời kỳ kinh tế phát triển mạnh ở
Nhật Bản
Theo thông báo mới nhất của Bộ y tế Nhật Bản, dân số quốc gia này đã sụt
giảm kỷ lục trong năm 2012. Tỷ lệ sinh và tử chênh lệch đến 212 ngàn người.
Page 4 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Cuối tháng 9/2012, dân số Nhật Bản xấp xỉ 125,95 triệu người. Số trẻ em được
sinh trong năm này thấp kỷ lục chỉ 1,033 triệu bé (giảm 18 ngàn bé so với năm 2011),
trong khi tỉ lệ tử 1,245 triệu người. Sự chênh lệch giữa số người sinh ra và mất đi của

năm 2012 tại đây là 212 ngàn người.
Viện Nghiên cứu dân số và An sinh xã hội Nhật Bản dự báo, tổng dân số đất
nước này sẽ giảm xuống còn khoảng 86,74 triệu người vào năm 2060.
Từ năm 2007, dân số Nhật Bản đã bị thu hẹp đáng kể. Năm 2011, có hơn 1,253 triệu
người Nhật qua đời một phần do thảm họa từ trận động đất và sóng thần kinh hoàng.
Bộ trưởng Bộ Y tế cho biết có 60% người Nhật mất do một trong các căn bệnh sau:
ung thư, tim, viêm phổi và bệnh về mạch máu não.
Theo nhận định của các chuyên gia, những thay đổi trong cơ cấu dân số là
những dấu hiệu quan trọng ảnh hưởng tới tương lai của Nhật Bản. Nhật Bản rất khó
để duy trì khả năng cạnh tranh kinh tế khi dân số giảm: Các thị trường giảm sút, chi
phí kinh doanh tăng và đầu tư nước ngoài sẽ chuyển sang các thị trường khác năng
động hơn. Khi tỷ lệ người già ngày càng tăng lên, số người trong độ tuổi lao động
giảm xuống sẽ hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm nguồn thu thuế và ảnh hưởng
tới ngân sách chi tiêu của Chính phủ và những điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chính
sách quốc phòng và đối ngoại của Nhật Bản.
Các chuyên gia quân sự cho biết, chi tiêu quốc phòng luôn là vấn đề khó khăn
gây tranh cãi ở Nhật Bản và vấn đề này thậm chí sẽ trở nên khó khăn hơn trong thời
gian tới. Trong những năm tiếp theo, Chính phủ Nhật Bản sẽ phải chi nhiều hơn nữa
cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đối với người cao tuổi và khi tỷ lệ người cao tuổi
càng cao, ngân sách y tế chăm sóc số người này càng lớn và điều đó sẽ ảnh hưởng tới
chi tiêu của Chính phủ dành cho các lĩnh vực khác. Đặc biệt, tỷ lệ người trong độ tuổi
lao động ở Nhật Bản ngày càng ít đi, họ lại là lực lượng lao động chính của xã hội thì
rất khó để họ tham gia quân đội. Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản cũng đang hết sức lo
ngại trước thực tế này. Ở Nhật Bản, nghề sỹ quan quân đội chưa bao giờ trở thành một
Page 5 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
nghề phổ biến trong xã hội và ngày càng có ít người muốn theo con đường này trong
thời gian tới.
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, có thể đưa ra một số giải pháp

cho vấn đề này như chính sách nhập cư hợp lý, tăng cường vai trò của phụ nữ, đẩy
mạnh các phát minh khám phá chẳng hạn chế tạo và nâng cao khả năng của rô-bốt để
có thể thay thế con người trong một số lĩnh vực. Một chính sách đối ngoại ôn hòa hơn
phù hợp với một cường quốc bậc trung là sự lựa chọn có nhiều khả năng nhất, mặc dù
nếu Nhật Bản lựa chọn chính sách đối ngoại trung lập cũng sẽ được nhiều người ủng
hộ.
2. Môi trường kinh tế:
a. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Nửa đầu năm 2012 là sự tăng trưởng GDP khá ngoạn mục chủ yếu nhờ công
cuộc tái thiết và phục hồi từ thảm họa động đất và sóng thần năm 2011. GDP Quý I
của nước này tăng 1% so với quý IV/2011, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2011; và
Quý II đạt 1,3% so với Quý I. Sự phục hồi ổn định của các ngành nghề sau thảm họa
động đất - sóng thần là nguyên nhân chính khiến kinh tế Nhật Bản đạt mức tăng
trưởng cao trong nửa đầu năm.
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản (đã điều chỉnh lạm phát)
Nền kinh tế của Nhật Bản có thể đã rơi vào giai đoạn suy thoái do ảnh hưởng cuộc
khủng hoảng nợ công ở châu Âu và kinh tế toàn cầu suy yếu
b. Sản xuất công nghiệp sụt giảm mạnh
Giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu năm 2012 của Nhật Bản tăng mạnh
trong tháng 3 và tháng 4 chủ yếu do nhu cầu bên ngoài và tái thiết đất nước sau thảm
họa sóng thần đã thúc đẩy sản lượng của các nhà máy, nhưng liên tiếp sụt giảm trong
các tháng tiếp theo. Sản lượng công nghiệp tháng 9 của nước này đã giảm 4,1% so với
tháng trước đó.Trong tháng 8, tốc độ này chỉ là 1,6%. Nguyên nhân là suy giảm toàn
cầu, căng thẳng lãnh thổ với Trung Quốc và nhu cầu nội địa yếu khi chính phủ ngừng
Page 6 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
trợ giá ôtô tiết kiệm nhiên liệu. Đây là mức sụt giảm lớn nhất tại Nhật kể từ thảm họa
kép hồi tháng 3 năm ngoái.
Sản lượng công nghiệp Nhật Bản bất ngờ tăng trong tháng 10, tăng 1,8% so với

tháng trước, sau khi giảm 4,1% trong tháng 9, số liệu bộ thương mại nước này công
bố hôm 30/11 cho biết. Đây là mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 12/2012 do sản xuất
các bộ phận máy móc, bao gồm iPhone của Apple Inc., mang đến điểm nhấn sáng cho
nền kinh tế được cho là tăng trưởng chậm trong quý thứ hai liên tiếp cùng với các dấu
hiệu phục hồi ở 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc đã làm giảm bớt
nguy cơ rơi vào suy thoái của Nhật Bản.
Biểu đồ 2. Tốc độ sản xuất công nghiệp của Nhật Bản
c. Thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản ở mức thấp nhất trong lịch sử
Tính đến hết tháng 10 năm 2012, mức thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật
Bản đạt 5273 tỷ Yên. Năm 2011 do ảnh hưởng của khủng hoảng kép động đất, sóng
thần, thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản là 9628,9 tỷ yên (125 tỷ USD), giảm
44% so với năm 2010 và là mức giảm mạnh nhất trong 15 năm. Như vậy, năm 2012
thặng dư tài khoản vãng lai của Nhật Bản vẫn ở mức thấp kỷ lục.
Theo số liệu của Chính phủ Nhật Bản công bố ngày 10/12, thặng dư tài khoản
vãng lai của nước này trong tháng 10 đã giảm khoảng 30% so với năm ngoái xuống
còn 376,9 tỷ yên. Tài khoản vãng lai là thước đo rộng nhất của thương mại Nhật Bản
với phần còn lại của thế giới, bao gồm cả xuất khẩu, du lịch và thu nhập ở nước ngoài.
Thặng dư tài khoản hiện tại của Nhật Bản đã bị ảnh hưởng bởi một nền kinh tế toàn
cầu chậm lại, xuất khẩu sụt giảm và nhập khẩu nhiên liệu tăng cao dẫn đến thâm hụt
thương mại khổng lồ.
Page 7 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Biểu đồ 3. Thặng dư tài khoản vãng lai Nhật Bản (tỷ yên)
Biểu đồ 4. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản (tỷ yên)
Do một khoảng thời gian dài xuất khẩu sụt giảm khiến mức thâm hụt thương
mại của Nhật Bản tăng vọt. Bộ Tài chính Nhật Bản ngày 19-12 cho biết trong tháng
11-2012, Nhật Bản thâm hụt thương mại 953,4 tỉ yen (khoảng 11,4 tỉ đô la Mỹ), đánh
dấu thâm hụt thương mại tháng thứ năm liên tiếp. Số liệu cho thấy thâm hụt thương
mại tháng 11 tăng gần 38% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức thâm hụt thương

mại lớn nhất của Nhật Bản kể từ tháng 1-2012 và là mức thâm hụt thương mại lớn thứ
ba kể từ khi Nhật Bản thống kê số liệu thương mại vào năm 1979. Từ tháng 1 đến
tháng 11 năm nay, thâm hụt thương mại tích lũy của Nhật Bản lên tới gần 6.281 tỉ yen
(khoảng 74,8 tỉ đô la Mỹ), gấp 2,4 lần mức thâm hụt thương mại cả năm qua là 2.613
tỉ yen. Hội đồng Thương mại Quốc tế Nhật Bản ước tính, thâm hụt thương mại của
nước này trong năm tài chính 2013 (kết thúc vào tháng 3.2014) sẽ đạt mức cao nhất
trong lịch sử là 82,3 tỷ USD. Theo đó, sản lượng xuất khẩu sẽ tăng 1,3% so với năm
nay, sản lượng nhập khẩu sẽ tăng 1,1%, đặc biệt đối với các mặt hàng đồ gia dụng,
Page 8 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
quần áo, bởi Chính phủ Nhật dự định tăng thuế tiêu dùng vào tháng 4.2014. Cơ quan
trên cũng cho rằng thâm hụt thương mại của Nhật Bản sẽ giữ ở mức cao trong vài năm
tới.
d. Tình trạng lạm phát ở Nhật Bản:
Khi nói về tỷ lệ lạm phát ở Nhật Bản, điều này thường đề cập đến tỷ lệ lạm
phát trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng, hoặc gọi tắt là chỉ số giá tiêu dùng. Chỉ số CPI
của Nhật Bản cho thấy sự thay đổi trong giá của một gói tiêu chuẩn hàng hóa và dịch
vụ mà các hộ gia đình Nhật Bản mua để tiêu thụ. Biểu đồ 5 và 6 cho thấy chỉ số lạm
phát và chỉ số giá tiêu dùng hiện tại của Nhật Bản.
Biểu đồ 5. Tỷ lệ lạm phát của Nhật Bản
Biểu đồ 6. Chỉ số giá tiêu dùng Nhật Bản (CPI)
Năm 2012, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Nhật Bản liên tiếp giảm cho thấy ở
Nhật Bản tình trạng giảm phát vẫn bao trùm cho dù ngân hàng trung ương nước này
đã tăng mục tiêu lạm phát với hy vọng thúc đẩy lạm phát. Chỉ số lạm phát lõi của
Page 9 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Nhật Bản tháng 7 giảm 0,3% so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi giảm 0,2% trong
tháng 6. Trong tháng 9, chỉ số này là 99,6; giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Sau

5 tháng giảm liên tiếp, đến tháng 10/2012, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Nhật Bản
không đổi so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, để đạt lạm phát mục tiêu 1% từ mức
0% như hiện nay, ngân hàng trung ương Nhật Bản còn một chặng đường dài.
Xuất khẩu của Nhật Bản đã giảm xuống đến mức thấp kỷ lục do hậu quả của
động đất, sóng thần năm ngoái, cũng như do suy thoái kinh tế thế giới, đồng Yên
mạnh và cuộc tranh chấp lãnh thổ kéo dài với Trung Quốc. Xuất khẩu tại Nhật Bản
giảm xuống còn 4983,90 tỷ yên trong tháng mười một năm 2012 từ 5150 tỷ yên vào
tháng Mười năm 2012. Nhập khẩu, trong khi đó, lại tăng 4,1% do Nhật Bản tăng nhập
dầu mỏ và Gas.
Giá trị đồng yên so với đồng đô la Mỹ đã giảm hơn 7% trong tháng 1/2013. Sự
suy yếu của đồng yên sẽ làm cho chi phí nhập khẩu cao hơn và do đó tỷ lệ lạm phát
cao hơn. Khi giá tiêu dùng ở Nhật Bản tăng cao và đồng yên giảm so với các đồng
tiền khác, các nhà đầu tư có thể sẵn sàng nắm giữ nhiều hơn trái phiếu chính phủ Nhật
Bản. Lãi suất cao sẽ làm tăng thâm hụt ngân sách và tăng tỷ lệ nợ chính phủ. Với tỷ lệ
nợ/GDP hiện ở rất cao như hiện nay, cứ mỗi bốn điểm phần trăm tăng lên trong chi
phí đi vay sẽ làm cho thâm hụt hàng năm tăng gấp đôi, tới 20% GDP.Sự kết hợp giữa
bùng nổ nợ và lãi suất tăng là một công thức cho thảm họa kinh tế.
Giới phân tích cho rằng cán cân vãng lai của đất nước mặt trời mọc sẽ sớm
thâm hụt bởi nước này nhập khẩu ngày càng nhiều năng lượng. Ngân hàng thế giới đã
công bố cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản trong năm 2013 xuống còn
0,8% so với ước tính trước đó là 1,5%, một phần do tác động tiêu cực của tranh chấp
lãnh thổ với Trung Quốc.
Xuất khẩu sang Trung Quốc, thị trường lớn nhất của Nhật Bản, đã giảm 14,1%
so với 1 năm trước đây. Xuất khẩu sang các nước EU giảm 21,1%, nhưng xuất sang
Mỹ lại tăng 0,9%.
e. Nợ công Nhật Bản cao kỷ lục
Số liệu được Bộ Tài chính Nhật công bố ngày 9/11/2012 cho thấy, nợ công của
nước này tăng lên mức cao kỷ lục 983.30 ngàn tỷ yên (tương đương 12,4 nghìn tỷ
USD) vào cuối tháng 9/2012. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí tái thiết đất nước sau
thảm họa động đất và sóng thần đầu tháng 3/2011. Trong đó bao gồm 803.74 ngàn tỷ

yên trái phiếu Chính phủ; 125,37 ngàn tỷ yên tín phiếu đảm bảo cho nhu cầu vốn ngắn
hạn và 54,19 nghìn tỷ yên dưới dạng các khoản vay từ các tổ chức tài chính. So với
thời điểm cuối tháng 6/2012, nợ công của Nhật tăng 0.7%. Bộ Tài chính dự báo nợ
công của nước này có thể vượt 1 triệu tỷ yên trong năm tài khóa 2012 kết thúc vào
tháng 3/2013[5].
So với nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ với quy mô nợ công thấp hơn Nhật
Bản, nhưng lại đang phải loay hoay xử lý nguy cơ vỡ nợ kỹ thuật, trong khi nợ công
của Nhật Bản có quy mô lên tới hơn 229% GDP, được đánh giá là cao nhất trong số
các nước phát triển, nhưng nợ công của Nhật Bản vẫn được đánh giá ở ngưỡng an
toàn[6]. Những nhân tố đóng góp vào mức an toàn nợ công Nhật Bản, đó là:
Page 10 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Thứ nhất, trái phiếu chính phủ ổn định và ít phụ thuộc vào giới đầu tư trái
phiếu quốc tế. Theo đánh giá của Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quốc tế Standard &
Poor’s (S&P), triển vọng đối với trái phiếu chính phủ Nhật Bản hiện ổn định và Nhật
Bản “không quá gần” với khủng hoảng, ít nhất là trong ngắn hạn, nhờ 3 yếu tố cơ bản:
(1) Cán cân thanh toán quốc tế mạnh và dự trữ ngoại hối hơn 1000 tỷ USD; (2) Tỷ lệ
tiết kiệm cá nhân vẫn lớn hơn nợ công; (3) Đa phần trái phiếu chính phủ Nhật Bản
được các nhà đầu tư trong nước nắm giữ. Do ít phụ thuộc vào giới đầu tư trái phiếu
quốc tế, nên Chính phủ Nhật Bản sẽ chỉ gặp thách thức trong vấn đề vay nợ khi các
nhà đầu tư trong nước không còn mặn mà với trái phiếu Nhật Bản. Những thế mạnh
này đã giúp Nhật Bản giữ được thị trường trái phiếu bình ổn.
Thứ hai, phần lớn nợ công Nhật Bản nằm trong tay các nhà đầu tư nội
địa. (khoảng 95%) nằm trong tay các nhà đầu tư trong nước nên Nhật Bản vẫn chưa
phải trải qua những gì như ở Hy Lạp (năm 2010) và tránh được tác động bất lợi từ
những biến động thất thường của thị trường tài chính thế giới.
Thứ ba, hệ số sử dụng vốn đầu tư ICOR của Nhật Bản hiệu quả và nguồn dự
trữ ngoại tệ mạnh.Mặc dù tỉ lệ nợ công của Nhật Bản cao hơn 200% GDP, song chỉ số
hiệu quả vốn đầu tư ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư) của Nhật Bản chỉ vào

khoảng 3,0, do vậy khả năng trả nợ không quá khó. Bên cạnh đó, dự trữ ngoại tệ của
Nhật Bản cũng ở mức rất cao. Theo Bộ Tài chính Nhật Bản, dự trữ quốc gia của Nhật
Bản là 1.046,873 tỉ USD (tháng 5/2011). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngoài
nợ công cao còn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó
có thể trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ quốc tế.
f. Triển vọng kinh tế Nhật Bản
Đánh giá về triển vọng kinh tế Nhật Bản, tất cả các tổ chức như Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Liên Hiệp Quốc, chính phủ Nhật Bản, tạp chí kinh tế "L’Expansion"
của Pháp… đều cắt giảm dự báo tăng trưởng của nước này trong năm tới.
Trong báo cáo triển vọng kinh tế thế giới năm 2013, Liên hiệp quốc đánh giá
nền kinh tế Nhật Bản sẽ tăng trưởng chậm do việc loại bỏ dần các biện pháp khuyến
khích tiêu dùng cá nhân cùng với biện pháp tăng thuế tiêu dùng mới, cắt giảm lợi ích
hưu trí, và cắt giảm chi tiêu của chính phủ. GDP được dự báo tăng trưởng ở mức 0,6%
vào năm 2013 và 0,8% vào năm 2014, giảm từ 1,5% trong năm 2012.
Tạp chí "L’Expansion" của Pháp dự báo nền kinh tế Nhật Bản sẽ gặp khó khăn
trong năm 2013 vì sẽ không còn tận dụng được ưu thế của việc tái xây dựng thời kỳ
hậu thảm họa sóng thần, đồng yên sẽ tiếp tục tăng giá làm ảnh hưởng nhiều đến xuất
khẩu của nước này. Thêm vào đó, khủng hoảng ngoại giao giữa Nhật Bản và Trung
Quốc sẽ còn nhiều “dư chấn.” Hãng sản xuất ô tô Toyota của Nhật Bản đã từ bỏ chỉ
tiêu 10 triệu sản phẩm trong năm 2012 do phong trào bài Nhật Bản nổi lên ở Trung
Quốc khiến doanh số bán ra của Toyota ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới bị sụt giảm.
Số du khách Trung Quốc đến Nhật Bản đã và sẽ tiếp tục sụt giảm .
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cắt giảm dự báo tăng trưởng của Nhật Bản trong
năm nay và năm 2013, do lại ngại sự suy giảm trong chi tiêu tái thiết sau thảm họa sẽ
đè nặng lên nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Theo dự báo mới nhất về triển vọng kinh
Page 11 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
tế thế giới, IMF dự báo nền kinh tế Nhật Bản sẽ tăng trưởng tương ứng 2,2% và 1,2%
năm 2012 và 2013; giảm so với dự báo tháng bẩy 2,4% và 1,5%. Tăng trưởng kinh tế

của Nhật Bản đã giảm 0,7% vào năm 2011 do trận động đất sóng thần vào tháng 3 dẫn
đến cuộc khủng hoảng hạt nhân. Phần lớn sự tăng trưởng gần đây là do hoạt động tái
thiết và phục hồi một số hoạt động sản xuất trong nửa đầu của năm sau các cú sốc
năm 2011. Các chi tiêu liên quan đến tái thiết đất nước sau trận động đất đã hỗ trợ cho
sự tăng trưởng trong năm 2012 nhưng sẽ giảm mạnh trong năm 2013. Nền kinh tế
định hướng xuất khẩu của Nhật Bản cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm đơn đặt
hàng từ thị trường Châu Âu.
Theo dự báo của Chính phủ Nhật Bản, tổng sản phẩm quốc nội của nước này
dự kiến sẽ tăng 2,5% trong năm tài chính 2013. GDP danh nghĩa được dự kiến tăng
2,7%. Tăng trưởng GDP danh nghĩa được dự kiến sẽ vượt tốc độ tăng trưởng thực tế
lần đầu tiên trong 16 năm, được hỗ trợ bởi chính sách nới lỏng tiền tệ tích cực, chiến
lược tăng trưởng và những nỗ lực khác để kết thúc tình trạng giảm phát. Đầu tư công
được dự báo tăng 11,9%. Tiền lương sẽ tăng 1,2%. Chỉ số giá tiêu dùng cũng được dự
báo sẽ tăng khoảng 0,5%.
g. Kinh tế Nhật Bản hiện nay:
Có thể nói: ”Kinh tế Nhật Bản đã kết thúc giai đọan suy thoái.
Theo số liệu của Chính phủ Nhật Bản công bố ngày 8/3 cho thấy GDP của
nước này trong quý 4 năm 2012 tăng 0.2% dấu hiệu cho thấy giai đoạn suy thoái vừa
qua của nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới đã kết thúc.
Kinh tế Nhật Bản đã giảm tăng trưởng trong hai quý liên tiếp từ tháng 4 đến
tháng 9/2012 khi kim ngạch xuất khẩu giảm do khủng hoảng của nợ công ở khu vực
đồng tiền chung Châu Âu-thị trường xuất khẩu chính của Nhật Bản và việc đồng yên
tang giá cũng như căng thẳng ngoại giao Trung Quốc liên quan đến tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ.
Qua số liệu được thống kê vào ngày 8/3, cán cân tài khoản vãng lai của Nhật
Bản vào tháng 1/2013 lần đầu tiên bị thâm hụt vào tháng thứ ba liên tiếp do mức tăng
kim ngạch xuất khẩu vẫn thấp hơn so với kim ngạch nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu
tang 6,7% so với cùng kỳ năm 2012, lên mức 4.645,1 tỷ yên nhờ nhu cầu khôi phục
của thị trường ở Mỹ và tang trưởng tốt ở thị trường các nước Đông Nam Á. Song kim
ngạch nhập khẩu tang lên mức 6.125,4 tỷ yên mà nguyên nhân chủ yếu là tang nhập

khẩu nhiên liệu hóa thạch.
Ngoài ra, tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản giảm xuống còn 4,2% trong tháng
1/2012, sản lượng công nghiệp cùng thời gian tang 0,1% so với tháng trước đó và nền
kinh tế vẫn ở tình trạng giảm phát. Trong khi đó đồng yên tiếp tục giảm giá khi có
những thong tin rằng chính phủ và Ngân hàng Trung Ương Nhật Bản có thể sẽ thông
qua một chính sách nới lỏng tiền tệ quyết liệt hơn. Tuy nhiên, sự biến động tỷ giá này
đang giúp các nhà xuất khẩu Nhật Bản nâng cao được tính cạnh tranh lẫn doanh thu.
3. Môi trường tự nhiên:
Page 12 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Nhật Bản là một quần đảo cách xa đại lục nên Nhật Bản giao lưu kinh tế với
bên ngoài chủ yếu bằng đường biển, ngành du lịch biển của Nhật cũng rất phát triển.
Diện tích: Trên đất liền: 377906,97 km² , rộng thứ 60 trên thế giới, lãnh hải:
3091 km². *
Khoảng 70%-80% diện tích Nhật Bản là núi, loại hình địa lý không hợp cho
nông nghiệp, công nghiệp và cư trú nhưng với nhiều cảnh đẹp, suối khoáng nóng thu
hút nhiều du khách ghé thăm. Đỉnh núi cao nhất là núi Phú Sĩ – biểu tượng của Nhật
Bản (cao 3776m). Nhật Bản hiện có hơn 60 núi lửa đang hoạt động, vì vậy động đất
thường xảy ra.
Đường bờ biển dài (khoảng 29750km), nhiều vũng, vịnh, biển có nhiều ngư
trường lớn, các thành phố lớn của Nhật tập trung chủ yếu ở đây, do đó dân cư Nhật
Bản tập trung đông ở các vùng ven biển. Theo thống kê, mật độ dân số của Nhật Bản
lớn thứ 30 trên thế giới: 339 người/km2 năm 2005.
Các đảo Nhật Bản nằm trong vùng khí hậu ôn hòa và mưa nhiều nên có cảnh
rừng màu mỡ và cây cối xanh tốt. Ở hầu hết các miền của Nhật Bản đều có 4 mùa rõ
rệt. Mùa xuân và mùa thu là những mùa dễ chịu nhất trong năm. Vào mùa đông tại
Tokyo, trời lạnh vừa với độ ẩm thấp và đôi khi có tuyết, trái với mùa hè có nhiệt độ và
độ ẩm cao. Vì có mưa nhiều và khí hậu ôn hòa nên trên khắp quần đảo Nhật Bản đều
có những cánh rừng màu mỡ và cây cối xanh tốt.

Mỗi năm Nhật Bản chịu vào khoảng 1000 trận động đất. Các hoạt động địa
chấn này đặc biệt tập trung vào vùng Kanto, nơi có thủ đô Tokyo và người ta cho rằng
cứ 60 năm Tokyo lại gặp một trận động đất khủng khiếp. Động đất với mức 7 hoặc 8
trong thang Richter đã từng xảy ra ở Nhật Bản. Động đất cấp 3, 4 xảy ra thường
xuyên. Trận động đất xảy ra vào ngày 1 tháng 9 năm 1923, với cường độ 8,2 trên
thang Richter, đã tàn phá phần lớn hai thành phố Tokyo và Yokohama. Động đất là
mối đe dọa lớn nhất đối với Nhật Bản nên chính phủ Nhật mỗi năm đã phải bỏ ra hàng
tỉ Yên Nhật để tìm kiếm một hệ thống báo động sớm về động đất, và khoa học địa
chấn tại Nhật Bản được coi là tiến bộ nhất trên thế giới nhưng kết quả của các nghiên
cứu và các dụng cụ báo động cho tới nay chưa được coi là đáng tin cậy.
4. Môi trường công nghệ:
Một vài đóng góp công nghệ quan trọng của Nhật Bản là những phát minh
trong các lĩnh vực điện tử, ô tô, máy móc, robot công nghiệp, quang học, hóa chất,
chất bán dẫn và kim loại. Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong nghành khoa học robot, đây
là quốc gia sở hữu hơn nửa (402.200 trong tổng 742.500) số robot cho công nghiệp
sản xuất. Nhật Bản đã phát minh ra QRIO, ASIMO và Aibo. Nhật Bản cũng là nhà
sản xuất ô tô lớn nhất trên thế giới và là quê hương của 6 trong tổng số 15 nhà sản
xuất ô tô lớn nhất toàn cầu cũng như 7 trong số 20 nhà sản xuất chất bán dẫn lớn nhất
thế giới.
Page 13 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Nhật Bản đang có những kế hoạch rất sáng sủa trong nghành thám hiểm không
gian, trong đó có kế hoạch xây dựng một trạm mặt trăng vào năm 2030. Cơ quan thám
hiểm không gian Nhật Bản (JAXA) là một trong những thành viên chủ chốt của trạm
vũ trụ quốc tế, đây là cơ quan chuyên nghiên cứu về không gian vũ trụ, các hành tinh,
các nghiên cứu hàng không, phát triển tên lửa và vệ tinh.
Các nhà nghiên cứu Nhật cũng đã phần nào khẳng định được mình qua các lần
đoạt giải Nobel. Hideki Yukawa một trong những nhà khoa học ưu tú xuất thân từ Đại
học Kyoto giành giải Nobel về vật lý năm 1949. Sin-Itiro Tomonaga cũng nhận vinh

dự tương tự năm 1965. Nhà vật lý chất rắn Leo Esaki sau này xuất thân từ Đại học
Tokyo cũng đạt được vinh quang đó năm 1973. Kenichi Fukui của Đại học Kyoto là
một trong các nhà khoa học cùng chia giải Nobel hóa học năm 1981. Susumu
Tonegawa cũng trưởng thành từ Đại học Kyoto trở thành người Nhật đầu tiên từ 2007
nhận giải này với các thành tựu về sinh hóa kể từ khi lãnh vực này được phát triển
năm 1987. Các nhà khoa học nghiên cứu về hóa học cũng không chịu kém khi vào
2000, 2001 lần lượt nhận giải: Hideki Shirakawa (Viện khoa học công nghệ Tokyo) và
Ryoji Noyori (Đại học Kyoto). Gần đây nhất vào năm 2002 phải kể đến nhà vật lý
Masatoshi Koshiba (Đại học Tokyo) và hóa học gia Koichi Tanaka (Đại học Tohoku).
Nhật Bản là quốc gia có nhiều người đoạt giải Nobel nhất ở châu Á hiện nay.
Ngay từ năm 1960, Nhật Bản đã tổ chức Tuần KH&CN vào tháng tư hàng
năm. Đến năm 1992, Nhật Bản có thêm các festival KH&CN cho giới trẻ gọi là
Youngsters’ Festival. Hoạt động này được tổ chức ở hơn 100 thành phố. Và năm
2006, Science Agora - sự kiện truyền thông khoa học lớn nhất ở Nhật Bản được tổ
chức vào tháng 11 hàng năm, kéo dài ba ngày ở Công viên Hàn lâm thủ đô Tokyo với
số lượt người tham dự tăng từ 1,7 triệu lượt trong năm đầu tiên lên hơn 7 triệu lượt
vào năm 2011.
5. Môi trường chính trị - pháp luật:
5.1. Môi trường chính trị ở Việt Nam:
* Những chính sách thúc đẩy, khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước:
a. Chính sách thuế ưu đãi đối với hàng xuất khẩu:
Thuế là một công cụ Nhà nước dùng để đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ.
Tác động của thuế tới hoạt động xuất khẩu là tác động xuôi chiều, khi thuế thấp
kích thích xuất khẩu (thuế ưu đãi). Phần lớn các nước hiện nay có xu hướng khuyến
khích xuất khẩu nên việc đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu hay đầu vào dùng để xuất
khẩu đều được hưởng những ưu đãi nhất định. Đặc biệt là ở Việt Nam khi mà thiếu
ngoại tệ để nhập công nghệ mới, cải tiến kỹ thuật thì những chính sách thuế đối với
hàng hoá xuất khẩu được các nhà lập chính sách cân nhắc rất kỹ sao cho có lợi nhất
cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia hoạt động xuất khẩu. Cụ thể là :
Page 14 of 85

Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Điều 3 của luật thuế tiêu thụ đặc biệt(TTĐB) quy định đối tượng không chịu
thuế TTĐB là hàng hoá quy định tại khoản 1 điều 1 luật thuế TTĐB khi cơ sở sản xuất
gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán, uỷ thác cho các cơ sở kinh doanh xuất khẩu .
Hiện nay do chính sách ưu tiên xuất khẩu nên hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu
không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB.
Ngoài việc, xác định đối tượng chịu thuế đối với hàng hoá xuất khẩu đã có
những ưu đãi thì việc hoàn thuế với hàng hoá xuất khẩu cũng được khuyến khích.
Luật thuế giá trị gia tăng quy định việc áp dụng thuế suất 0% không theo mặt
hàng hay nhóm hàng như các mức thuế suất 5%, 10% hoặc 20% được quy định theo
mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bất cứ mặt hàng nào thuộc đối
tượng chịu thuế VAT khi đem xuất khẩu đều được áp dụng thuế suất 0% và được
hoàn thuế VAT đầu vào. Như vậy cùng với việc khuyến khích xuất khẩu, kích thích
sản xuất cùng với vấn đề giải quyết việc làm, hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu được
bình đẳng với hàng hoá khác khi xuất khẩu .
b. Chính sách tỷ giá hối đoái:
Cũng giống như các biến số kinh tế vĩ mô khác, tỷ giá hối đoái rất nhạy cảm
với sự thay đổi của nó có những tác động rất phức tạp, ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế quốc dân theo những tác động khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Đưa đến
những kết quả khó lường trước, đụng chạm không chỉ tới xuất nhập khẩu, cán cân
thương mại mà còn tới mặt bằng giá cả, lạm phát và tiền lương thực tế, đầu tư và vay
nợ nước ngoài, ngân sách nhà nước ,cán cân thanh toán quốc tế cũng như sự ổn định
kinh tế vĩ mô nói chung.
Ngay từ 1996, thực hiên chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc, nước ta có
những điều chỉnh lại tỷ giá một cách căn bản. Hoạt động ngoại thương phát triển
mạnh, kim ngạch xuất khẩu 2000 gấp hơn 4 lần so với 1990, quan hệ với các nước
trên thế giới mở rộng. Với sự phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất
tỉ giá chính thức với thị trường, xoá bỏ cơ bản hệ thống tỉ giá cũ quá phức tạp thì cơ
chế quản lý ngoại hối và chính sách tỉ giá của Việt Nam đã có bước chuyển biến rất

căn bản sang cơ chế thị trường, thoát khỏi trạng thái thụ động để trở thành công cụ
điều chỉnh vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở.
Trong giai đoạn 1992-1996, ổn định tỉ giá hối đoái quan trọng hơn là tăng giá
để khuyến khích xuất khẩu là điều cốt lõi và cũng là thành công của chính sách tỷ giá
trong giai đoạn này biểu hiện kim ngạch xuất khẩu liên tục qua các năm tăng cao từ
20-30%/năm.
Page 15 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Sự ra đời của thị trường ngoại tệ cho phép 7 ngoại tệ được sử dụng để giao
dịch: USD, DEM, GBP, FF, JPY, HKD, VND, cùng với việc ra đời 2 trung tâm giao
dịch ngoại tệ ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là bước tiến đáng kể theo hướng thị
trường gián tiếp kích thích xuất khẩu thông qua tạo mặt bằng giá hợp lý hơn. Trong
điều kiện Việt Nam hiện nay, xuất khẩu là một trong những nguồn cung ngoại tệ chủ
chốt song cung cầu ngoại tệ luôn luôn căng thẳng và VND không có khả năng chuyển
đổi hoàn toàn nên trong thời gian tới vẫn tập chung ngoại tệ vào các ngân hàng, để
ngân hàng thống nhất ngoại hối. Đồng thời tự do hoá quyền sở hữu và sử dụng ngoại
tệ, đặt ngoại tệ thành một hàng hoá đặc biệt được trao đổi trên thị trường. Đẩy mạnh
các biện pháp khuyến khích không tiêu dùng tiền mặt trong thanh toán ngoại tệ, mở
rộng tiến tới tự do hoá mở và sử dụng tài khoản nước ngoài và kinh tế trong nước. Để
kích thích xuất khẩu giảm dần tiến tới xoá bỏ việc bảo đảm cân đối ngoại tệ từ phía
chính phủ. Mở rộng quyền sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu, tăng
cường quyền hạn và vai trò của ngân sách Nhà nước trong dịch vụ xuất khẩu. Để đảm
bảo cho nhà xuất khẩu một mặt cần điều chỉnh giá mua ngoại tệ linh hoạt không để
doanh nghiệp bị thua lỗ do biến động tỷ giá. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp xuất khẩu mở, sử dụng, chuyển cũng như đóng tài khoản của mình.
Trong dài hạn, mục tiêu là khả năng chuyển đổi hoàn toàn của Việt Nam và
một tỷ giá thích hợp có tác dụng khuyến khích tăng trưởng kinh tế và khuyến khích
xuất khẩu. Khi VND có khả năng chuyển đổi hoàn toàn thì quy định về ngoại hố nói
chung về bản tệ nói riêng sẽ được dần dần nới lỏng và các nhà xuất khẩu có toàn

quyền sở hữu và chủ động sử dụng số ngoại tệ của mình theo cơ chế thị trường.
Tóm lại trong thời gian tới vẫn tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá hợp lý để ngân
hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt, phù hợp cung cầu không gây
biến động lớn cho nền kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu trong ngắn hạn và
trung hạn không đặt vấn đề kích thích xuất khẩu bằng công cụ phá giá và nới lỏng
quản lý ngoại hối mà chỉ dừng lại ở chính sách tỷ giá không cản trở hay bóp chết xuất
khẩu .
c. Chính sách đầu tư đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia
hoạt động xuất khẩu:
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn và làm tăng quy mô của tài sản quốc gia.
Page 16 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đối với
đầu tư trong nước đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng hoá xuất
khẩu được Nhà nước khuyến khích xuất khẩu nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế
so sánh thông qua vận hành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo lãnh xuất khẩu cũng như
các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm
Đối với khu vực đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hội nhập kinh tế của một đất
nước, là một cầu nối quan trọng giữa kinh tế nội địa với nền kinh tế toàn cầu. Do đó,
tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng
húc đẩy xuất khẩu.
d. Chính sách, chiến lược xúc tiến xuất khẩu:
Khái niệm xúc tiến thương mại được coi là mới ở những nước có nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung. Nhìn từ góc độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế xúc tiến thương
mại có thể là xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và phát triển thương mại nội địa.
Xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận của xúc tiến thương mại nhưng do tầm quan trọng
của nó nên nhiều khi người ta thường nói tới như một khái niệm riêng biệt. Xúc tiến
xuất khẩu gồm ba nhóm yếu tố sau:

• Kết cấu hạ tầng cơ bản.
• Chế độ tỷ giá hối đoái, chính sách lãi suất và những biện pháp khuyến khích
nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho xuất khaảu.
• Biện pháp công cụ cụ thể để một nớc tham gia thành công vào thị trường quốc
tế.
Quá trình phát triển xuất khẩu ở Việt Nam, vấn đề kết cấu hạ tầng còn thiếu trên
mọi lĩnh vực đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc đã cản trở rất
nhiều cho hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng. Hầu hết sản
phẩm hải sản khai thác đều có tính tương đồng cao. Do đó sức cạnh tranh của mặt
hàng với công nghệ bảo quản sau thu hoạch sẽ quyết định phần lớn ưu thế trên thị tr-
ường quốc tế. Trong khi đó ở Việt Nam bảo quản thuỷ sản chủ yếu trong hầm đá và
các mắt tre…do đó gây ra sự giảm sút chất dinh dưỡng dẫn đến giá cả bị tụt xuống.
Mặt khác, đối với khai thác thuỷ sản ở nước ta, phương tiện đánh bắt xa bờ còn hết
sức thô sơ, lạc hậu và thiếu thốn cho nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc bảo quản sau
thu hoạch.
Page 17 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Vai trò to lớn của kết cấu hạ tầng đòi hỏi chúng ta phải thành lập khu chế xuất
để tạo ra nguồn xuất khẩu sản phẩm chế biến. Việc cung cấp một số kết cấu hạ tầng
trong các khu vực địa lý được phân định rõ theo các khu chế xuất có thể góp phần xúc
tiến xuất khẩu trong một thời gian tương đối ngắn thông qua khả năng cung cấp cho
các nhà công nghiệp Việt Nam nhiều kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn về quản lý,
marketing, thu hút công nghệ,…Tuy nhiên lợi ích của khu chế xuất mang lại không đ-
ược như người ta mong đợi nên không coi chúng là biện pháp xúc tiến xuất khẩu. Ở
Việt Nam, chúng ta áp dụng biện pháp xúc tiến xuất khẩu sau:
• Thứ nhất, về tỷ giá hối đoái: Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thống
nhất. Ngày 27/2/1998, thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam ra quyết định 45/QĐ-
NH về việc quy định nguyên tắc ấn định tỷ giá mua, bán ngoại tệ của các tổ chức tín
dụng được phép kinh doanh ngoại tệ trong phạm vi biên độ dao động ± 5% so với tỷ

giá chính thức do thống đốc ngân hàng công bố hàng ngày. theo quyết định 16-1998
QĐNHNN7 ra ngày 10/1/1998 thì biên độ này là ±10 so với tỷ giá chính thức. Điều
đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu đẩy mạnh công tác xuất
khẩu ở doanh nghiệp mình.
• Thứ hai, về tín dụng xuất khẩu được thông qua ngân hàng thương mại. Việc
mở rộng quyền cấp tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước
của các ngân hàng thương mại là một bước tiến lớn trong hệ thống ngân hàng. Chủ
trương chuyển hoá từ cho vay nhập khẩu sang cho vay đầu tư xuất khẩu của các ngân
hàng góp phần nâng cao hệ số sử dụng vốn.
Để khắc phục vấn đề khát vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam đó là
một hình thức tín dụng thuê mua ra đời. Công ty cho thuê tài chính quốc tế tại Việt
Nam ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp không đủ vốn vẫn có thể thuê đợc
máy móc, thiết bị hiện đại để thay đổi công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm, nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.
• Thứ ba về chính sách lãi suất: Sự điều chỉnh linh hoạt chính sách lãi suất của
ngân hàng là một việc làm tích cực giúp doanh nghiệp xuất khẩu mạnh dạn vay vốn
phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu, hạ giá thành nhờ lợi thế quy mô, và nâng
cao khả năng cạnh trang của hàng Việt Nam.
5.2 Môi trường chính trị ở Nhật Bản:
* Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản:
Vào đầu những năm 80, Nhật Bản đã tiến hành mở cửa thị trường trong
nước qua việc cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu, nới lỏng các biện pháp hạn chế về
số lượng, cải thiện hệ thống cấp giấy chứng nhận cho hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên,
Nhật Bản vẫn duy trì nhiều biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu hàng hóa vào thị
Page 18 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
trường trong nước. Sự hạn chế này được thể hiện trong các chính sách, các quy định
và tiêu chuẩn của chính phủ cũng như qua việc tạo ra sự khác biệt trong văn hoá kinh
doanh. Trong đó có các vấn đề nổi bật như:

- Thiết lập các tiêu chuẩn riêng của Nhật Bản. Các tiêu chuẩn này còn được
coi trọng hơn các tiêu chuẩn của thế giới. Hàng hoá muốn nhập khẩu vào thị trường
Nhật Bản cần phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn này.
- Đòi hỏi chứng minh kinh nghiệm trong thị trường Nhật Bản, đây chính là
một rào cản đối với những nhà xuất khẩu mới muốn xâm nhập được vào thị trường
Nhật Bản.
- Các hiệp hội sản xuất tuy có số thành viên hạn chế nhưng có ảnh hưởng rất
lớn trên thị trường, có khả năng kiểm soát thông tin và hoạt động của thị trường ở
mức độ nhất định.
- Các quy định chính thức nhằm bảo trợ hàng hoá trong nước và phân biệt
đối xử với hàng hoá nhập khẩu.
- Tầm quan trọng của các mối quan hệ cá nhân ở Nhật Bản, các doanh
nghiệp ưa thích các khách hàng lâu năm và có quen biết. Do đó rất khó để khiến cho
đối tác Nhật Bản thay đổi quan hệ kinh doanh. Để vượt qua được rào cản này thì phải
phụ thuộc vào ngành hàng, tính cạnh tranh của sản phẩm, uy tín của thương hiệu và sự
linh hoạt, nhạy bén và sáng suốt của các doanh nghiệp.
Ngoài các biện pháp để quản lý nhập khẩu, Nhật Bản còn áp dụng các biện
pháp bảo hộ nông nghiệp đa dạng. Nhà nước can thiệp vào quá trình sản xuất nông
nghiệp qua các khâu sản xuất, marketing sản phẩm, phân phối sản phẩm. Những chính
sách bảo hộ của Nhật Bản như:
- Hạn ngạch sản xuất PQ đối với ngành sữa.
- Chính sách ổn định thu nhập ISP đối với ngành rau quả.
- Hỗ trợ giá DP, người nông dân được thanh toán một phần hoặc toàn bộ
mức chênh lệch giữa giá mục tiêu mà nhà nước để ra với giá cả thực tiễn trên thị
trường.
- Chương trình chuyển đổi sản xuất lúa gạo RDP. Chương trình này được
bắt đầu thực hiện từ những năm 60. Chính phủ sẽ thanh toán các khoản mà người
nông dân đã chi để chuyển đổi diện tích trồng lúa sang trồng các loại cây trồng khác
tuỳ theo diện tích đất đai chuyển đổi và loại cây trồng.
Page 19 of 85

Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
- Chương trình trợ cấp bảo hiểm rủỉ ro GSIP, Chính phủ sẽ trợ cấp một phần
hoặc tái bảo hiểm những rủi ro cho người nông dân khi xảy ra dịch bệnh và các rủi ro
khác trong trồng trọt, chăn nuôi.
- Chất lượng và an toàn thực phẩm FSAQ. Năm 2003, một Uỷ ban thực
phẩm cấp Văn phòng chính phủ đã được thành lập nhằm đánh giá và xác định mức độ
rủi ro an toàn đối với các sản phẩm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và hoá chất nông
nghiệp.
5.3 Những rào cản thương mại khi nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản:
a. Thuế quan:
Nhật Bản áp dụng 4 hệ thống thuế như sau :
- Thuế suất chung: mức thuế cơ bản căn cứ vào Luật thuế quan hải quan, áp
dụng trong một thời gian dài.
- Thuế suất tạm thời: là thuế suất trong một thời gian ngắn, thay thế cho thuế
suất chung.
- Thuế suất ưu đãi phổ cập (GSP): là mức thuế áp dụng cho các nước đang
phát triển hay các khu vực lãnh thổ. Mức thuế có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng
cho các nước phát triển. Hệ thống GSP của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực vào từ ngày
1/8/1971.
- Thuế suất WTO: là mức thuế căn cứ vào cam kết WTO và các hiệp định
quốc tế khác.
Về nguyên tắc, mức thuế áp dụng theo thứ tự mức thuế GSP, mức thuế
WTO, mức thuế tạm thời và mức thuế chung. Tuy nhiên, mức thuế GSP chỉ được áp
dụng trong trường hợp thoả mãn các điều kiện cần thiết mà Nhật Bản đưa ra như : là
nước đang phát triển, là thành viên của hiệp ước Hội nghị Liên hợp quốc về thương
mại và phát triển ( UNCTAD ), là quốc gia mà Nhật Bản cho là thích hợp để hưởng
quy chế GSP Đối với mức thuế WTO, nó chỉ được áp dụng khi thấp hơn cả mức
thuế tạm thời và mức thuế chung. Như vậy, mức thuế chung là mức thuế áp dụng cho
các nước không phải là thành viên của WTO. Trong trường hợp mức thuế tạm thời

thấp hơn các mức thuế trên, nó sẽ được áp dụng.
b. Các biện pháp hạn chế định lượng:
Hạn ngạch nhập khẩu.
Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán trên cơ sở dự đoán các
nhu cầu về hàng hóa và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Vào đầu
Page 20 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
và giữa năm tài chính (từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), Bộ Công
nghiệp và Ngoại Thương (MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo
quy chế hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo hàng năm
của MITI có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay
một nhóm mặt hàng. Khi nhập khẩu các mặt hàng có quy định hạn ngạch, nhà nhập
khẩu phải xin hạn ngạch nhập khẩu trước của MITI, thì mới xin được giấy phép của
ngân hàng quản lý ngoại hôi hay của cơ quan quản lý khác.
Hạn ngạch được áp dụng với 3 nhóm hàng sau:
- Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí,
rượu, chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý và các thực phẩm chịu
sự kiểm soát (như gạo).
- Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu
- Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về
thương mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng trong hệ thống động
thực vật (CITES).
Theo các quy định trước đây của Hiệp định chung về thuế quan và mậu
dịch GATT (nay là tổ chức thương mại thế giới WTO) thì các nước thành viên của tổ
chức này không được sử dụng hạn ngạch để tạo rào cản phi thuế quan cản trở buôn
bán với các nước khác. Tuy nhiên, các nước có thể sử dụng hạn ngạch trong một số
trường hợp ngoại lệ như: để bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá và đảm bảo an
toàn tạm thời trong trường hợp hàng nhập khẩu có thể làm tổn thương các ngành công
nghiệp khác.

Hạn ngạch thuế quan
Chế độ hạn ngạch thuế là chế độ, trong đó quy định áp dụng mức thuế
bằng không (0%) hoặc thấp đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo đúng số
lượng quy định, nhằm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hoá
vượt quá số lượng quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao để bảo vệ các nhà sản xuất
trong nước. Chế độ hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm
bảo hài hoà mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất nội
địa. Vì vậy, chính phủ phải dựa trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất trong
nước để đề ra mức thuế lần một, lần hai và thời gian áp dụng để không cản trở tự do
hoá thương mại. Trong các quy định của GATT/WTO, các nước thành viên không
được sử dụng chế dộ hạn ngạch nhập khẩu, nhưng lại thừa nhận chế độ hạn ngạch
thuế với điều kiện không có sự phân biệt đối xử với từng nước.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Page 21 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Là một dạng của hạn chế nhập khẩu, là thoả thuận theo đó một nước đồng ý
hạn chế xuất khẩu của mình sang nước khác đối với một mặt hàng xác định, với một
mức tối đa. Các thoả thuận này là tự nguyện chỉ ở mức độ nước xuất khẩu muốn tránh
một mối đe doạ lớn hơn đối với ngoại thương của mình và do đó chọn biện pháp ít
thiệt hại hơn. Tuy nhiên, đây là biện pháp tạm thời và không có hiệu quả. Bởi vì biện
pháp này có thể giúp làm giảm lượng xuất khẩu của một nước nhưng lại bóp méo quá
trình tự do ngoại thương và dẫn đến việc phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia và
quốc tế một cách kém hiệu quả. Tại Nhật Bản, vào cuối những năm 50 đã phải thực
hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện đối với các sản phẩm dệt và một số mặt hàng sử
dụng nhiều lao động.
Giấy phép nhập khẩu
Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào Nhật Bản không cần giấy phép của
Bộ Công Nghiệp và Ngoại thương. Nhưng các mặt hàng sau vẫn cần giấy phép nhập
khẩu :

- Hàng hoá liệt kê trong thông báo nhập khẩu thực hiện quản lý bằng hạn
ngạch.
- Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy định
trong thông báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu.
- Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt.
- Hàng hoá cần sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu và phải đáp ứng
được các quy định đặc biệt của chính phủ, như các loại vắcxin nghiên cứu.
c. Các biện pháp hành chính kỹ thuật.
Đây là nhóm các biện pháp gián tiếp ngăn cản và giám sát hàng nhập khẩu
từ nước ngoài vào thị trường Nhật Bản. Các biện pháp hành chính kỹ thuật rất phong
phú và đa dạng. Chúng tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Tại Nhật Bản, các biện pháp hành chính được áp dụng rât đa dạng và nó đã hình thành
nên một rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật
Bản.
Trong quan hệ ngoại thương, giá cả thường rất quan trọng. Tuy nhiên, tại
thị trường Nhật Bản thì chất lượng của sản phẩm được đặt lên hàng đầu. Ngay cả đối
với những mặt hàng rẻ tiền, hạ giá thì người tiêu dùng Nhật Bản cũng rất quan tâm
đến chất lượng và độ an toàn của mặt hàng đó. Thực tế là là các tiêu chuẩn về chất
lượng và độ an toàn của hàng hoá của Nhật Bản còn cao hơn và chặt chẽ hơn so với
yêu cầu thông thường và các tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy nên các sản phẩm của Nhật
Page 22 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Bản thường có chất lượng cao và dễ tràn ngập vào các thị truờng các nước khác. Các
dấu chứng nhận chất lượng mà Nhật Bản sử dụng có thể kể đến như :
Tiêu chuẩn “JIS”
Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản “ JIS” là một trong
những dấu được sử dụng rộng rãi nhất ở Nhật Bản. Tiêu chuẩn này dựa trên “luật tiêu
chuẩn hoá công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 năm 1949. Dấu JIS được áp dụng
cho tất cả các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp

dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm, thực
phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác được quy định trong luật về tiêu chuẩn hoá
và dán nhãn các sản phẩm nông lâm sản. Các nhà sản xuất trong nước hay nước ngoài
muốn được cấp giấy chứng nhận JIS phải làm đơn xin cấp giấy chứng nhận này. Bộ
trưởng bộ Công nghiệp và ngoại thương có phê đuyệt đơn xin phép cấp JIS cho nhà
sản xuất hay không dựa vào kết luận của Hội đồng thẩm định. Quyết định của Bộ
trưởng sẽ được thông báo cho người nộp đơn. Nếu đơn xin phép được phê duyệt thì sẽ
đăng trên Công báo. Thời gian cần thiết kể từ khi nộp đơn cho đến lúc nhận được
quyết định và thông báo là 3 tháng.
Tiêu chuẩn “JAS”
Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản được ban hành vào tháng 5 năm
1970. Luật này quy định các tiêu chuẩn về chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu
chuẩn JAS. Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS bao gồm: đồ uống,
thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông, lâm thuỷ sản chế biến. Các tiêu chuẩn
JAS bao quát cả sản phẩm được sản xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Tại
Nhật Bản việc sử dụng dấu chứng nhận sản phẩm JAS lên nhãn hiệu sản phẩm là tự
nguyện và các nhà sản xuất cũng như các nhà bán lẻ không bị bắt buộc phải sản xuất
hay kinh doanh các sản phẩm có chất lượng tiêu chuẩn JAS. Tuy nhiên, các quy định
về việc ghi nhãn mác sản phẩm là bắt buộc với những sản phẩm do bộ Nông – Lâm –
Ngư nghiệp quy định. Người tiêu dùng Nhật Bản rất tin tưởng vào chất lượng của các
sản phẩm đã được đóng dấu JAS. Vì vậy, các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu
hàng hoá vào Nhật Bản có được dấu chứng nhận chất lượng JAS sẽ tạo thuận lợi cho
việc tiêu thụ hàng hoá của mình tại đây.
Các dấu chứng nhận chất lượng khác:
Ngoài dấu chứng nhận chất lượng JIS và JAS còn có nhiều loại dấu chứng
nhận khác được sử dụng ở Nhật Bản. Ví dụ, các dấu chứng nhận sau đang được sử
dụng tại Nhật Bản :
Page 23 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập

Bảng 1.1 Một số dấu chất lượng của Nhật Bản
Dấu chất lượng Ý nghĩa Phạm vi áp dụng
Dấu Q
Chất lượng và đo độ
đồng nhất của sản phẩm.
Các loại sản phẩm dệt, bao gồm
quần áo trẻ em, các loại quần áo
khác, khăn trải giường.
Dấu G
Thiết kế, dịch vụ sau khi
bán hàng và chất lượng
Các sản phẩm như máy ảnh, máy
móc, thiết bị, đồ thuỷ tinh, đồ gốm,
đồ văn phòng, đồ nội thất
Dấu S
Độ an toàn (bắt buộc) Hàng hoá dành cho trẻ em, đồ dùng
gia dụng, dụng cụ thể thao.
Dấu SG
Độ an toàn ( bắt buộc) Xe đạp, xe đẩy, nồi áp suất, mũ đi
xe đạp, mũ bóng cháy và các hàng
hoá khác.
Dấu SIF
Các hàng may mặc có
chất lượng tốt
Hàng may mặc như quần áo
nam,quần áo nữ, ô, áo khoác, balô
và các sản phẩm phục vụ cho thể
thao
Dấu Len
Các hàng may mặc có

chất lượng tốt.
Sợi len nguyên chất, quần áo len
nguyên chất, đồ len đan.
Nguồn: Nguyễn Hữu Khải, “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách
thương mại quốc tế”, trang 155 – 156.
d. Các biện pháp quản lý khác.
Ngoài các tiêu chuẩn chất lượng khắt khe đối với hàng sản xuất trong nước
và hàng nhập khẩu, Nhật Bản còn ban hành nhiều văn bản pháp luật cơ bản điều chình
các hàng hoá mà có thể gây nguy hại đến sức khoẻ, vệ sinh, đạo đức và sự an toàn
chung của người dân Nhật:

Tiêu chuẩn môi trường.
Page 24 of 85
Môi trường Nhật Bản & Đánh giá cơ hội Marketing của sản phẩm đồ gỗ và phuơng thức thâm
nhập
Vấn đề môi trường cũng rất được quan tâm tại Nhật Bản. Cục môi trường
Nhật Bản đang khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại
sinh thái ( kể cả các sản phẩm trong nước cũng như các sản phẩm nhập khẩu ). Các
sản phẩm đạt được ít nhất một trong các tiêu chuẩn dưới đây sẽ được đóng dấu
“Ecomark”:
1. Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm tới môi trường hoặc có
nhưng ít.
2. Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường.
3. Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi trường hoặc gây hại ít.
4. Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường theo các cách
khác không được kể đến ở trên.
Ecomark được ban hành năm 1989, và được rất nhiều người Nhật biết đến.
Ecomark không đưa ra các tiêu chuẩn và cũng không nói lên chất lượng cũng như tính
an toàn của sản phẩm. Các công ty nước ngoài có thể xin dấu chứng nhận Ecomark
thông qua các nhà nhập khẩu.

Luật vệ sinh thực phẩm.
Luật vệ sinh thực phẩm ra đời và có hiệu lực từ năm 1947. Luật này áp
dụng cho tât cả các hàng hoá liên quan đến thực phẩm, các gia vị, dụng cụ chứa, các
máy móc chế biến thực phẩm và đồ chơi trẻ em. Hàng sản xuất trong nước và hàng
nhập khẩu đều phải tuân theo những quy định của Luật như nhau. Bộ Y tế và Phúc lợi
sẽ chịu trách nhiệm thực thi và quản lý vệ sinh thực phẩm.
Khi xuất hàng sang Nhật Bản, các nhà xuất khẩu nước ngoài phải hiểu
được các quy định về luật pháp phức tạp liên quan đến vấn đề vệ sinh, an toàn thực
phẩm. Ví dụ như : theo quy định thực phẩm sản xuất tại nước xuất xứ phải theo
phương pháp phù hợp với Luật vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản. Do đó, đồ uống,
chân giò, xúc xích, thịt lợn nuôi và thịt bò nuôi đưa vào bán tại thị trường Nhật Bản
phải được khử trùng ở nhiệt độ theo quy định sản xuất tại Nhật Bản. Trong nhiều
truờng hợp, do thiếu hiểu biết về các quy định vệ sinh, an toàn thực phẩm nên các sản
phẩm của các nhà xuất khẩu bị cấm không được đưa vào Nhật Bản. Hàng đã dỡ xuống
cầu cảng lại bị gửi trả lại do không đáp ứng được tiêu chuẩn.
Luật kiểm dịch thực vật.
Được ban hành nhằm chống lại sự xâm nhập của sâu bệnh và các căn bệnh
ở cây trồng. Trong Luật kiểm dịch quy định rõ các mặt hàng cấm nhập khẩu, các đối
tượng kiểm tra và tổ chức việc kiểm tra rât cụ thể, chặt chẽ. Nếu khi kiểm tra hàng
Page 25 of 85

×