Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.06 KB, 123 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGŨ THỊ NHƢ HOA





NGUY£N T¾C TR¸CH NHIÖM CUNG CÊP TµI LIÖU, CHøNG Cø
CñA C¸ NH¢N, C¥ QUAN, Tæ CHøC Cã THÈM QUYÒN
TRONG Tè TôNG D¢N Sù


Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TUẤN






HÀ NỘI - 2014



Lêi cam ®oan

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành
tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Ngũ Thị Nhƣ Hoa




MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC
TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA
CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 7
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 7
1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 7
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 13
1.2 Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 15
1.3 Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam 25
1.4 Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nƣớc
trên thế giới 36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 41



Chƣơng 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG
CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,
TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 42
2.1 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong
việc cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đƣơng
sự, Toà án, Viện kiểm sát 42
2.1.1 Xác định các loại tài liệu, chứng cứ mà các cá nhân, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp trong các vụ việc
dân sự 43
2.1.2. Về phạm vi trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 55
2.2 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong
việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn theo yêu cầu của
đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát 58
2.3 Trách nhiệm pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong việc không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không
đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 74
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TRÁCH
NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ
NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN VÀ
KIẾN NGHỊ 76
3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 76
3.2 Một số kiến nghị về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố
tụng dân sự 100



3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 101
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 106
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 112
KẾT LUẬN CHUNG 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114




















DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự

BKH&CN : Bộ Khoa học và công nghệ
BTP : Bộ Tƣ pháp
BVHTT&DL : Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch
DN : Doanh nghiệp
DANIDA : Cơ quan hợp tác và phát triển quốc tế của
Chính phủ Đan Mạch
GĐT, TT : Giám đốc thẩm, tái thẩm
HĐTPTANDTC : Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
TP : Thành phố
TTDS : Tố tụng dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
UBND : Ủy ban nhân dân
UBTVQH : Ủy ban thƣờng vụ quốc hội
UNDP : Chƣơng trình phát triển của Liên Hợp Quốc
VADS : Vụ án dân sự
VVDS : Vụ việc dân sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích
của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham gia vào
các quan hệ xã hội. Tuy ở những mức độ khác nhau nhƣng pháp luật các nƣớc

trên thế giới đều công nhận và bảo hộ các quyền, lợi ích chính đáng của các
chủ thể. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng
các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền, nghĩa vụ
của mình có thể xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác,
dẫn đến tranh chấp. Để duy trì trật tự xã hội, Nhà nƣớc phải thiết lập cơ chế
pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Một trong số đó là cơ
chế về tố tụng.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức của
tiến trình hội nhập, một tiến trình không thể đảo ngƣợc trên con đƣờng phát
triển đất nƣớc. Việc gia nhập vào tổ chức thƣơng mại thế giới, tham gia vào
các công ƣớc quốc tế, ký kết nhiều hiệp định song phƣơng và đa phƣơng với
các nƣớc, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài đã làm cho các giao lƣu dân sự, thƣơng
mại phát triển một cách mạnh mẽ và đa dạng.
Để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, quan
hệ thƣơng mại đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh nó.
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật nội dung thì việc hoàn thiện pháp luật tố
tụng cũng là một nhu cầu rất cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong trƣờng hợp có tranh chấp hoặc bị xâm phạm. Một cơ
chế tố tụng có hiệu quả có vai trò rất quan trọng để các chủ thể yên tâm và,
hơn nữa, thúc đẩy họ tham gia tích cực vào các giao lƣu dân sự, thƣơng mại
2

trên thị trƣờng góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trƣởng, xã hội phát triển. Chính
vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã ra đời với nhiều điểm mới cả về nội
dung và hình thức khắc phục kịp thời những hạn chế tồn tại của pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 đáp ứng tích cực yêu cầu của quá
trình hội nhập. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 với nội dung phong phú quy định
khá cụ thể những vấn đề liên quan đến hoạt động tƣ pháp của nƣớc ta hiện
nay, trong đó vấn đề chứng cứ trong tố tụng dân sự đƣợc quan tâm sửa đổi

khá nhiều, với nhiều điểm mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng,
đánh giá chứng cứ của các thẩm phán cũng nhƣ những ngƣời tiến hành tố
tụng khác đƣợc khách quan và đúng đắn hơn, góp phần giải quyết các vụ việc
dân sự một cách đúng đắn, triệt để, đáp ứng lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật. Một trong số những vấn đề liên quan đến chứng cứ đã đƣợc sửa
đổi, bổ sung là trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. Đây đƣợc coi là một nội dung có nhiều
điểm mới tiến bộ so với pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trƣớc
đây và đƣợc quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
dân sự hiện hành. Trên thực tế, đôi khi chứng cứ có thể không do các đƣơng
sự lƣu giữ mà do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý. Việc
quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức giúp
cho đƣơng sự có thể thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
của mình, đồng thời góp phần giúp cho Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự
một cách đúng đắn, chính xác và nhanh chóng. Nhƣ vậy, nguyên tắc này ra
đời đã thể hiện đƣợc vai trò to lớn của nó đối với hoạt động xét xử của Tòa
án, tuy nhiên, thực tế thi hành vẫn còn một số vƣớng mắc nhất định. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá
nhân, cơ quan, tổ chức là rất cần thiết. Với những lý do trên, em đã chọn đề
tài “Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
3

quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ của mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cũng
nhƣ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành
về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chƣa hợp lý

trong các quy định hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Ngoài ra việc nghiên cứu cũng nhằm
chỉ ra một số vƣớng mắc, khó khăn trên thực tế khi thực hiện nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đồng thời
nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
Với mục đích nghiên cứu trên, Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp
luật hiện hành và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tại một số Tòa án địa
phƣơng. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm
cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng
đƣợc tiến hành nghiên cứu nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá luật thực định và
đề xuất kiến nghị. Ngoài ra, Luận văn có mở rộng nghiên cứu quy định của
pháp luật một số nƣớc về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ nhằm
mục đích so sánh, tham khảo mà không nghiên cứu sâu quy định về trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng
4

dân sự của Tòa án nƣớc ngoài. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ đƣợc giới
hạn trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu khái niệm, ý nghĩa và cơ sở hình thành nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu lƣợc sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nguyên
tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền trong tố tụng dân sự và so sánh, tham khảo pháp luật một số
nƣớc trên thế giới.

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong tố tụng dân sự. Để làm rõ vấn đề này, bên cạnh việc nghiên cứu
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn còn
nghiên cứu quy định của một số ngành luật nội dung để làm rõ trách nhiệm
cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ của Luận văn này, tác giả chỉ giới hạn việc nghiên cứu quy
định của một số ngành luật nội dung có liên quan đến việc quản lý, lƣu giữ
chứng cứ, tài liệu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều chỉnh
một số quan hệ xã hội mang tính chất phổ biến, thƣờng gặp trong thực tiễn tố
tụng tại Toà án.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế, từ đó
rút ra những vƣớng mắc, khó khăn và đề xuất giải pháp khắc phục.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tố tụng dân
sự nhƣ Công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc của Toà án nhân dân
tối cao năm 1996 nghiên cứu về “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật
5

tố tụng dân sự”; Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của trƣờng Đại
học Luật Hà Nội 2001 nghiên cứu về “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện
một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”… Bên cạnh
những công trình đó, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chứng
cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự, nhƣ Luận văn “Chứng cứ và hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự” của Thạc sỹ Vũ Trọng Hiếu năm 1997;
Luận văn “Hoạt động cung cấp và thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
Việt Nam” của thạc sỹ Nguyễn Minh Hằng năm 2002; Luận án tiến sĩ Luật
học của Nguyễn Minh Hằng năm 2007 nghiên cứu về “Chế định chứng minh
trong tố tụng dân sự Việt Nam”… Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có một

công trình nào nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Có thể nói đây là công trình
đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Dựa trên quan điểm, quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tƣợng,
xem xét vấn đề một cách một cách toàn diện.
- Sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành nghiên cứu
chuyên sâu các vấn đề dƣới góc độ pháp luật nhƣ phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh.
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong tố tụng dân sự - có thể coi là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ, cụ thể là:
Thứ nhất: Lần đầu tiên nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự
6

đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng
nhƣ thực tiễn từ khái niệm, ý nghĩa, cơ sở hình thành và lƣợc sử phát triển của
nguyên tắc, làm bật bản chất và trọng tâm của vấn đề nghiên cứu. Luận văn
cũng đã tiếp cận và làm rõ đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong
việc cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang quản lý, lƣu
giữ, đồng thời làm rõ các trách nhiệm pháp lý có thể đƣợc áp dụng khi cá nhân, cơ
quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của mình.
Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài đã tìm ra đƣợc những tồn tại, bất cập
trong công tác xây dựng và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Từ đó đƣa ra những đề
xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng

nhƣ tăng cƣờng hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
đƣợc kết cấu bởi 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm cung
cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố
tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và kiến nghị.



7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM
CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,
TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1 KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH
NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,
TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN
1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Theo cách hiểu chung nhất, nguyên tắc là một thuật ngữ dùng để chỉ
“những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm

việc” [48, tr.1217]. Theo đó, nguyên tắc của một ngành luật cũng đƣợc xây
dựng dựa trên nền tảng này. Pháp luật của các nhà nƣớc nói chung và pháp
luật Việt Nam nói riêng đều đƣợc thiết lập dựa trên những nguyên tắc nhất
định, đó là những tƣ tƣởng pháp lý chỉ đạo có tính chất xuất phát điểm, thể
hiện sự toàn diện và có ý nghĩa bao quát, quyết định sự đúng đắn về nội dung,
chất lƣợng và hiệu quả của pháp luật, cũng nhƣ quá trình xây dựng, thực hiện
và bảo vệ pháp luật.
Việc xây dựng các quy định cụ thể của pháp luật tố tụng dân sự và thực
tiễn tố tụng dân sự tại Toà án cũng phải trên cơ sở những nguyên tắc nhất
định. Đó là những quy phạm chỉ đạo, mang tính chất cơ sở, nền tảng cho toàn
bộ quy trình TTDS. Các quy phạm này là một bộ phận cấu thành của pháp
luật TTDS, có tính ổn định, bền vững, ít thay đổi hơn so với các quy phạm
pháp luật TTDS khác. Tuy nhiên, sự ổn định đó chỉ mang tính chất tƣơng đối
và có thể thay đổi cho phù hợp hơn với các điều kiện kinh tế - xã hội.
Vấn đề chứng minh và chứng cứ là những vấn đề có tính quan trọng
8

hàng đầu trong việc xác định sự thật khách quan, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của các đƣơng sự. Do vậy, pháp luật ngoài việc phải định ra các nguyên tắc về
cung cấp chứng cứ và chứng minh (mối quan hệ giữa đƣơng sự và Toà án)
cũng cần phải xây dựng bên cạnh đó nguyên tắc về trách nhiệm cung cấp
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (mối quan hệ phối hợp
giữa Toà án và các chủ thể khác) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tố
tụng dân sự của Toà án đƣợc tiến hành thuận lợi.
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự là một trong những nguyên
tắc cơ bản trong TTDS đã đƣợc ghi nhận tại Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự
2004 và đƣợc sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011. Đây là một nguyên tắc mới
đƣợc đƣa vào trong pháp luật tố tụng dân sự, do vậy, việc nghiên cứu, tìm

hiểu nhằm làm rõ bản chất của nguyên tắc này và mối liên hệ của nó với
nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự là rất cần thiết.
Về ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “trách
nhiệm” đƣợc hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình” [48, tr.1678]. Dƣới góc nhìn lý luận thì Toà án chỉ có thể giải quyết
đúng đắn các vụ việc dân sự khi có đầy đủ chứng cứ để làm sáng tỏ các tình
tiết, sự kiện có liên quan. Do vậy, chứng cứ có một vai trò, ý nghĩa rất quan
trọng trong tố tụng dân sự và việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ của Toà án là rất cần thiết.
Theo lịch sử tố tụng dân sự từ trƣớc đến nay, nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh trƣớc hết luôn thuộc về đƣơng sự. Bởi họ là ngƣời đƣa ra
yêu cầu hoặc là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp, họ là ngƣời trong
cuộc, biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, biết rõ các tài liệu,
chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Bên
9

cạnh đó, khi khởi kiện cũng nhƣ khi đƣa ra yêu cầu phản tố, bao giờ đƣơng sự
cũng là ngƣời ở thế chủ động, vì vậy họ phải đƣa ra chứng cứ và những lý lẽ
để chứng minh, bảo vệ cho quyền lợi của mình. Đƣơng sự phản đối yêu cầu
cũng phải đƣa ra đƣợc chứng cứ, lý lẽ chứng minh thì sự phản đối của họ mới
thuyết phục đƣợc Toà án. Tuy nhiên, trên thực tế, chứng cứ của vụ việc dân
sự có thể do các đƣơng sự lƣu giữ, nhƣng cũng có thể do các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác lƣu giữ. Xét thực tiễn ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, việc phổ cập các thông tin, đặc biệt là các tài liệu, giấy tờ liên
quan đến quyền sở hữu nhà ở, quyền tài sản, quyền sử dụng đất… vẫn còn
hạn chế; các tài liệu, giấy tờ, văn bản này hiện đang do một số cơ quan nhà
nƣớc có trách nhiệm bảo quản, quản lý và vì nhiều lý do khác nhau các thông
tin này vẫn chƣa đƣợc số hoá để công khai cho mọi tầng lớp nhân dân. Do
vậy, đƣơng sự sẽ không thực hiện đƣợc việc bảo vệ quyền lợi của mình và
Toà án sẽ không thể giải quyết vụ án nếu những cá nhân, cơ quan, tổ chức này

không hợp tác hoặc chậm trễ trong việc cung cấp những tài liệu, giấy tờ, văn
bản có liên quan đến vụ việc dân sự.
Chính vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, một mặt đề cao
trách nhiệm chứng minh của đƣơng sự với vai trò hỗ trợ của Toà án nhằm
phát huy hơn nữa vai trò tích cực, chủ động của đƣơng sự trong việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác ràng buộc trách nhiệm của các
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc tạo điều kiện thuận lợi
để đƣơng sự và Toà án có thể tiếp cận tài liệu, chứng cứ một cách công khai,
bình đẳng và minh bạch.
Việc nghiên cứu cho thấy trong tố tụng dân sự, trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc quy định
là một nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự,
trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức chƣa đƣợc quy
10

định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Điều 65
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 chỉ quy định chung là:
Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà
án có quyền triệu tập những ngƣời biết về vụ án để hỏi và nghe họ
trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trƣng cầu giám
định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra
khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ
vụ án…[19]
Nhƣ vậy, pháp luật tố tụng hình sự mới chỉ quy định một cách chung
chung về quyền yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án mà
không quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi không thực
hiện yêu cầu này.
Để có thể đƣa ra khái niệm đầy đủ về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng

dân sự, trƣớc hết cần làm rõ nội hàm chủ yếu, cơ bản của nguyên tắc này. Có
thể nhận thấy hai vấn đề cần phải đặt ra là trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài
liệu với ai và trách nhiệm nhƣ thế nào.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nếu thấy chứng cứ mà đƣơng
sự giao nộp chƣa đủ cơ sở để giải quyết, Toà án có thể giải thích cho đƣơng
sự biết về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu
giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu. Đƣơng sự sẽ là chủ thể đầu
tiên có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ, tài
liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu cho mình. Bởi trong tố tụng dân sự, đƣơng sự
là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ. Những chứng cứ có
liên quan đến vụ việc dân sự phải đƣợc đƣơng sự cung cấp cho Toà án để làm
căn cứ chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của đƣơng sự. Vì
11

vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung
cấp chứng cứ, tài liệu cho đƣơng sự để đƣơng sự thực hiện đƣợc nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ của mình.
Khi biết chứng cứ (các tài liệu đọc đƣợc, nghe đƣợc, nhìn đƣợc, các vật
chứng) đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lƣu giữ thì đƣơng sự có
quyền tự mình yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá
nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự thì đƣơng sự
có quyền yêu cầu Toà án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ. Với tƣ cách là
cơ quan bảo vệ công lý, Toà án ra quyết định yêu cầu các chủ thể đang lƣu
giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án để làm cơ sở cho việc giải quyết
vụ việc dân sự. Toà án có thể ấn định một thời hạn hợp lý để cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án.
Bên cạnh quyền yêu cầu của đƣơng sự và Toà án thì Viện kiểm sát cũng
có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp chứng cứ,
tài liệu. Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát có hai chức năng, đó là kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng dân sự và kháng nghị theo thủ

tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài
liệu cần đƣợc trao cho Viện kiểm sát để chủ thể này thực hiện chức năng kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo đó, để đảm bảo
cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm, Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu đƣơng sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng.
Quyền yêu cầu này đƣợc thực hiện trƣớc hết là trong trƣờng hợp Viện
kiểm sát thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm thực hiện quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, quyền yêu
cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát còn đƣợc thực hiện ngay cả
khi đã kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nhằm bảo
12

vệ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhƣ vậy, quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ,
tài liệu của Viện kiểm sát có thể thực hiện vào thời điểm xem xét việc kháng
nghị, hoặc cũng có thể thực hiện sau khi đã thực hiện quyền kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Việc cung cấp chứng cứ, tài liệu đƣợc hiểu là việc mà cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền buộc phải thực hiện khi đƣợc yêu cầu, nó đƣợc coi là
một nghĩa vụ tố tụng dân sự đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu không
thực hiện nghĩa vụ thì sẽ phải gánh chịu một hậu quả. Trách nhiệm đó thể
hiện ở việc cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu
phải cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đƣơng sự
để họ có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu cho Toà án theo đúng thời hạn luật
định. Đối với Toà án, Viện kiểm sát - là các cơ quan tiến hành tố tụng thì cá
nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu phải cung cấp
đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu trong thời hạn do các chủ thể này ấn định
để bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.
Pháp luật cũng cần phải đặt ra chế tài đối với trƣờng hợp cá nhân, cơ quan, tổ

chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu không thực hiện hoặc thực hiện
không tốt nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đƣơng sự,
Toà án, Viện kiểm sát để bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của các chủ thể
này. Tùy theo chủ thể vi phạm hoặc mức độ vi phạm mà hành vi vi phạm có
thể bị xử lý theo chế tài kỷ luật, hành chính hoặc hình sự.
Nhƣ vậy, có thể rút ra kết luận là nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, xác định trách nhiệm phối hợp
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lưu giữ, quản lý chứng
cứ, tài liệu trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan đến
13

vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự, Toà án hoặc Viện kiểm sát đồng
thời xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể này trong trường hợp không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời trách nhiệm của mình.
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Trƣớc hết, có thể nhận thấy rằng việc quy định trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một nguyên tắc
cơ bản trong TTDS, đã thể hiện sự quan tâm của nhà lập pháp Việt Nam tới
trách nhiệm phối hợp giữa các công dân, cơ quan hành chính và cơ quan tƣ
pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ chung, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
thu thập chứng cứ của Toà án, Viện kiểm sát đƣợc thuận lợi, giúp cho công
dân nhận thức đƣợc nghĩa vụ tố tụng dân sự của mình mà thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật.
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền còn góp phần tạo cơ sở pháp lý cho đƣơng sự
thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh. Trong TTDS,
chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là đƣơng sự. Tuy nhiên, trên thực tế,
chứng cứ không phải bao giờ cũng do đƣơng sự nắm giữ, quản lý mà có thể

có trƣờng hợp chứng cứ của vụ việc đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
lƣu giữ. Khi đó, để thực hiện đƣợc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án thì
đƣơng sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình. Theo đó, khi chứng cứ do cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền lƣu giữ, quản lý thì chủ thể đầu tiên có quyền yêu cầu
cung cấp chứng cứ là đƣơng sự, và chỉ khi đƣơng sự không thể tự mình thu
thập đƣợc thì Toà án mới tiến hành thu thập chứng cứ. Nhƣ vậy, quy định này
đã mang lại ý nghĩa to lớn trong việc giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động,
14

tích cực của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, tạo
điều kiện để họ có thể bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài ý nghĩa với đƣơng sự, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức còn có ý nghĩa trong việc giúp Toà án
có đầy đủ cơ sở để giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự. Trong
TTDS chứng cứ có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc
dân sự của Toà án, là phƣơng tiện quan trọng để Toà án nhận biết đƣợc sự
thật của vụ việc, giải quyết đƣợc vụ việc dân sự một cách công minh, có căn
cứ và hợp pháp. Khi chứng cứ đƣợc cung cấp cho Toà án một cách trung thực
và đầy đủ, chắc hẳn việc giải quyết vụ án sẽ đơn giản và nhanh chóng hơn rất
nhiều. Vì vậy, khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu giữ,
quản lý chứng cứ thì chứng cứ đó phải đƣợc cung cấp cho Toà án cho dù họ
không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ pháp luật đang có tranh
chấp. Việc quy định trách nhiệm này sẽ giúp cho Toà án có đầy đủ chứng cứ,
có cơ sở để làm rõ sự thật của vụ việc, và đƣa ra phán quyết cuối cùng một
cách chính xác. Đồng thời, nguyên tắc này cũng quy định việc cung cấp
chứng cứ phải đƣợc thực hiện kịp thời, trong thời hạn luật định. Điều này sẽ
giúp Toà án giải quyết đƣợc nhanh chóng vụ việc dân sự, tránh đƣợc trƣờng
hợp vi phạm thời hạn tố tụng hoặc dẫn đến án tồn đọng do sự chậm trễ cung

cấp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Bên cạnh đó, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa hỗ trợ cho Viện kiểm sát
thực hiện tốt chức năng của mình theo quy định của pháp luật TTDS. Nguyên
tắc này đã ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm
sát bên cạnh quyền yêu cầu của Toà án. Theo đó, Viện kiểm sát có quyền yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho
mình để xem xét việc có kháng nghị hay không, hoặc khi đã ra quyết định
15

kháng nghị, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ để
bảo vệ quan điểm kháng nghị của mình tại phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ
việc dân sự. Nhƣ vậy, tài liệu, chứng cứ đƣợc cung cấp có thể là cơ sở để
Viện kiểm sát quyết định có kháng nghị hay không, hoặc nhờ có tài liệu,
chứng cứ đó, quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát mới đƣợc coi là có căn
cứ, là hợp pháp, khi đó mới thuyết phục đƣợc Toà án chấp nhận kháng nghị.
Với vai trò đó của chứng cứ, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã góp phần quan trọng trong
việc giúp Viện kiểm sát thực hiện đƣợc thẩm quyền kháng nghị của mình.
Cuối cùng, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa trong việc đề cao trách nhiệm của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc
dân sự. Việc ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền sẽ đề cao đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc dân sự.
Nhƣ vậy, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có ý nghĩa to lớn trƣớc hết đối với
đƣơng sự, giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của họ trong việc
giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, bên cạnh đó, giúp Toà án và

Viện kiểm sát có cơ sở để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách
đúng đắn, kịp thời, đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm phối hợp của
các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
1.2 CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU,
CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN
Trong TTDS, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh
chóng, đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự,
16

pháp luật đã ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Nguyên tắc này xác định trách nhiệm
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải cung cấp đầy đủ, đúng thời
hạn chứng cứ, tài liệu do mình quản lý, lƣu giữ khi có yêu cầu của đƣơng sự,
Toà án, hoặc Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc
cung cấp tài liệu, chứng cứ đó. Nguyên tắc này đƣợc hình thành và phát triển là
dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở chủ trương,
đường lối của Đảng về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp.
Theo đánh giá tình hình công tác tƣ pháp trong những năm qua tại Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, công tác tƣ pháp đã đạt đƣợc nhiều kết
quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… Tuy nhiên, chất lƣợng
công tác tƣ pháp nói chung vẫn chƣa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của
nhân dân. Một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó là vì pháp luật
trong lĩnh vực tƣ pháp chƣa hoàn thiện, chƣa đồng bộ và còn nhiều sơ hở.
Để khắc phục những hạn chế nói trên, Đảng ta đã đƣa ra một số quan
điểm chỉ đạo, nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh công tác tƣ pháp trong thời gian tới.
Liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật về tƣ pháp, Nghị quyết 08-NQ/TW
đã đƣa ra nhiệm vụ khẩn trƣơng ban hành Bộ luật tố tụng dân sự và một số

luật, pháp lệnh khác làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tƣ
pháp. Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã
đƣợc ban hành, trong đó có bổ sung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng
cứ, tài liệu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
17

chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 có đƣa ra một số nhiệm vụ cải cách
tƣ pháp có liên quan đến pháp luật tố tụng dân sự: “Tiếp tục hoàn thiện thủ
tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ
từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng
cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [2].
Nhƣ vậy, sự ra đời và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng
dân sự bƣớc đầu đã đáp ứng đƣợc nhiệm vụ mà Nghị quyết 49 đề ra về hoàn
thiện thủ tục tố tụng dân sự, cải cách tƣ pháp.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Nghị quyết 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ
pháp trong thời gian tới” ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về cải cách tƣ pháp của Bộ chính trị đều có đƣa ra một số quan
điểm chỉ đạo về việc cải cách tƣ pháp, trong đó quan điểm cải cách tƣ pháp
phải đặt dƣới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị,
bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp đƣợc đƣa lên hàng đầu. Bên cạnh đó, Điều 2 Hiến pháp
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 cũng

có quy định: “…Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [17].
Nhƣ vậy, theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta, quyền lực
18

nhà nƣớc là thống nhất, không phân chia nhƣng trong tổ chức bộ máy nhà
nƣớc XHCN có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tƣ pháp. Đó là sự phân công lao động hợp lý giữa các hệ thống cơ quan
nhà nƣớc và giữa các cơ quan trong từng hệ thống, tránh sự chồng chéo, mâu
thuẫn giữa ba quyền cũng nhƣ trong nhiệm vụ, chức năng của từng cơ quan,
bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng của từng cơ quan, sự phối hợp đồng bộ của
cả bộ máy nhà nƣớc thực hiện quyền lực tập trung của nhà nƣớc. Đối với hoạt
động tƣ pháp, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tƣ
pháp cần phải có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Đặc biệt, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 đều đƣa ra quan điểm chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn xã hội tham gia vào công tác tƣ pháp. Các cơ quan tƣ pháp phải dựa
vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lƣợng nòng cốt, là chỗ dựa
vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp.
Nhƣ vậy, để hoạt động tƣ pháp đạt hiệu quả tốt nhất thì cần có sự tham
gia phối hợp của nhân dân, của toàn xã hội, trong đó có các cơ quan nhà nƣớc
và các tổ chức. Sự phối hợp này có thể đƣợc thực hiện trong nhiều khâu,
nhiều hoạt động cụ thể của hoạt động tƣ pháp, trong đó có hoạt động xét xử.
Để thực hiện tốt hoạt động xét xử, đƣa ra đƣợc những bản án, quyết định một
cách công minh, đúng pháp luật, thì công tác thu thập chứng cứ đóng một vai
trò quan trọng. Trong tố tụng dân sự, chứng cứ trƣớc hết sẽ do đƣơng sự cung
cấp. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, đƣơng sự không lƣu giữ chứng cứ
mà do cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lƣu giữ, quản lý thì rất cần sự
hỗ trợ, phối hợp từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sự hỗ

trợ, phối hợp trong trƣờng hợp này thể hiện ở việc cung cấp đầy đủ và đúng
thời hạn những chứng cứ đƣợc yêu cầu. Điều đó sẽ giúp cho hoạt động xét xử
19

của Toà án đƣợc thực hiện một cách đúng đắn và nhanh chóng, bảo vệ đƣợc
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Nguyên tắc trách nhiệm
cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thể
hiện trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ do mình quản lý, lƣu giữ khi có yêu
cầu. Việc quy định nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp với quan điểm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nƣớc đã nêu ở trên.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân.
Điều 51 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 có quy định: “Quyền
của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm
các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với
Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật
quy định”. [17]
Nhƣ vậy, các quyền của công dân đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử
lý theo pháp luật. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có thể
đƣợc Nhà nƣớc thực hiện bằng nhiều cách thức, trong đó, thông qua hoạt
động tƣ pháp đƣợc coi là một công cụ hữu hiệu. Khi quyền và lợi ích của các
bên bị tranh chấp hoặc xâm phạm thì có thể khởi kiện ra Toà án, khi đó, Toà
án với tƣ cách là cơ quan xét xử duy nhất sẽ xem xét, giải quyết vụ việc và
đƣa ra phán quyết cuối cùng, xác định ai đúng ai sai. Nhƣ vậy, Nhà nƣớc có
thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hoạt động
tƣ pháp. Ngƣợc lại, công dân cũng phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với hoạt
động tƣ pháp của Nhà nƣớc để hoạt động này đạt hiệu quả cao nhất. Chẳng

hạn, khi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền yêu cầu cá nhân cung cấp chứng

×