Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Những người không được quyền hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.35 KB, 92 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HÀ DIỆU HẰNG





NHỮNG NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG
THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2009






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



HÀ DIỆU HẰNG




NHỮNG NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG
THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập




HÀ NỘI - 2009





1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ
NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
6
1.1.
Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
6
1.1.1.
Khái niệm thừa kế
6
1.1.2.
Quyền thừa kế
9
1.2.
Khái niệm người thừa kế và người không được quyền hưởng di sản
11
1.2.1.
Khái niệm người thừa kế
11
1.2.2.
Người thừa kế có quyền hưởng di sản và người thừa kế không có quyền
hưởng di sản
16
1.3.
Tiến trình phát triển những qui định của pháp luật về người không được
quyền hưởng di sản ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay
21
1.3.1.
Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1945
21
1.3.2.

Giai đoạn từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước ngày Pháp lệnh
Thừa kế 1990 được ban hành
23
1.3.3.
Giai đoạn từ khi Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 có hiệu lực đến năm 2005
27
1.3.4.
Từ năm 2005 đến nay
29

Chương 2: NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
33
2.1.
Những trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản
33
2.1.1.
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
33


2
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự nhân phẩm của người đó
2.1.2.
Người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản
42
2.1.3.
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế
có quyền được hưởng

52
2.1.4.
Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại
di sản
55
2.2.
Hậu quả pháp lý của Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005
61

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
NHỮNG QUI ĐỊNH VỀ NGƯỜI KHÔNG CÓ QUYỀN
HƯỞNG DI SẢN
66
3.1.
Thực trạng pháp luật
66
3.2.
Một vài ý kiến hoàn thiện các qui định về người thừa kế không có quyền
hưởng di sản
78

KẾT LUẬN
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86











3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bộ luật Dân sự năm 2005 điều chỉnh các quan hệ tài sản của các cá
nhân và tổ chức trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, để tạo thuận
lợi cho các cá nhân và tổ chức thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình một cách đầy đủ và toàn diện trong lĩnh vực dân sự. Bộ luật Dân sự năm
2005 đã tạo ra một hành lang pháp lý cho các giao lưu dân sự được ổn định,
góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Trong Bộ luật Dân sự, thừa kế là một trong những chế định pháp luật
có vai trò quan trọng trong việc dịch chuyển tài sản của người chết để lại cho
những người thừa kế của họ theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật.
Thừa kế ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường, khi tài
sản của người dân tăng lên đáng kể về cả số lượng và chất lượng và cùng với
nhu cầu để lại tài sản của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau, tài sản của cha mẹ
để lại cho con cái, ông bà để lại cho cháu cũng như để bảo vệ quyền và lợi
ích của công dân trong việc dịch chuyển tài sản này cần có các qui phạm pháp
luật tương ứng và phù hợp để điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của người để
lại di sản cũng như người thừa kế trong quan hệ này.

Chế định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 hiện nay được qui
định khá đầy đủ nhưng khi áp dụng qui định của pháp luật để giải quyết tranh
chấp về thừa kế thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp đó
còn gặp nhiều vướng mắc bởi đa số các vụ việc về thừa kế đều có những tình
tiết tương đối phức tạp, trong khi đó qui định của pháp luật trong việc điều
chỉnh quan hệ trên chưa thật sự đầy đủ và mang tính cụ thể nên quá trình áp


4
dụng pháp luật về thừa kế để giải quyết các tranh chấp còn gặp nhiều khó
khăn. Trên thực tế có nhiều vụ việc về thừa kế đã được giải quyết nhưng giải
quyết không triệt để và không giải quyết dứt điểm được những mâu thuẫn về
lợi ích của nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện đó, ngoài ra khi giải quyết
những vụ án tranh chấp về thừa kế một số quyết định của cơ quan có thẩm
quyền lại gây hoang mang cho người dân bởi cùng một vụ việc nhưng mỗi
một cấp xét xử lại đưa ra những phán quyết khác nhau, điều này không những
gây phiền hà, tốn kém cho người dân cũng như khó khăn gặp phải trong giai
đoạn thi hành án mà còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, sự nghi ngờ của
người dân về năng lực xét xử cũng như sự công tâm của thẩm phán trong quá
trình xét xử đối với những tranh chấp về thừa kế…
Những tranh chấp về thừa kế hiện nay, phần lớn đều liên quan đến
việc xác định người thừa kế theo luật, người không được quyền hưởng di sản,
người được hưởng thừa kế thế vị… Tuy nhiên những qui định của pháp luật
về những trường hợp trên lại chưa đầy đủ, hoặc có qui định nhưng chưa rõ
ràng và không có văn bản hướng dẫn áp dụng, dẫn tới phán quyết của Tòa án
trong nhiều vụ việc còn gây tranh cãi điều này gây ra những ảnh hưởng tiêu
cực đến quan hệ thừa kế đôi khi còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân trong lĩnh vực thừa kế. Với tầm quan trọng của chế định về
thừa kế cùng với những vấn đề phức tạp liên quan đến thừa kế nảy sinh ngày
càng nhiều, đòi hỏi các qui định của pháp luật liên quan đến vấn đề thừa kế

phải không ngừng được hoàn thiện và mở rộng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, cũng như là cơ sở để giải quyết các các tranh chấp về thừa
kế trên thực tế ngày càng có hiệu quả hơn.
Nhu cầu về việc sửa đổi, hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa
kế cũng như việc nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án đối với các tranh
chấp về thừa kế là một nhu cầu chính đáng. Để có thể đáp ứng được yêu cầu
và nguyện vọng của cá nhân có tài sản trong việc dịch chuyển tài sản của họ


5
cho những người thừa kế, trong chế định về thừa kế bên cạnh những qui định
của pháp luật cho phép công dân có quyền được hưởng di sản từ người để lại
di sản và quyền để lại tài sản của mình cho những người thừa kế, thì Điều 643
Bộ luật Dân sự năm 2005 về người không có quyền hưởng di sản là một chế
tài áp dụng đối với những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của người để lại
di sản và của những người thừa kế khác. Trong điều luật trên, ngoài việc thể
hiện sự lên án, cái nhìn nghiêm khắc của nhà nước và xã hội đối với người
thừa kế không có quyền được hưởng di sản, điều luật còn thể hiện tính nhân
văn, tính giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của công dân. Đi sâu vào phân
tích nội dung của điều luật còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận, chính vì những
lý do trên mà tôi lựa chọn đề tài "Những người không được quyền hưởng di
sản theo qui định của pháp luật hiện hành" với mong muốn đóng góp một
phần nào đó trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Bộ luật Dân sự nói chung
và chế định về thừa kế nói riêng trong đó có nội dung về người thừa kế không
có quyền hưởng di sản.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một phần nội dung rất quan trọng của Bộ luật Dân sự năm
2005, cho nên các đề tài nghiên cứu về thừa kế khá nhiều và được thực hiện ở
nhiều cấp độ khác nhau như khóa luận tốt nghiệp, luận văn cao học, luận án
tiến sĩ… như "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ 1945 đến

nay" của Phùng Trung Tập, "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam"
của Trần Thị Huệ, "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam" của Nguyễn Ngọc Điện… Ngoài ra, đề tài về thừa kế này còn được
nghiên cứu và đăng trên các báo, tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa
án nhân dân, Đặc san khoa học pháp lý với những nội dung rất phong phú. Về
qui định của pháp luật liên quan đến người thừa kế không có quyền hưởng di
sản, trong một số đề tài nghiên cứu, bài viết có đề cập đến nội dung trên


6
nhưng chủ yếu được nghiên cứu trên phạm vi rộng, chưa đi sâu phân tích và
làm rõ những nội dung qui định tại điều luật. Với đề tài "Những người
không được quyền hưởng thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành",
tác giả chỉ đi sâu phân tích, làm sáng tỏ bản chất và các qui định của pháp luật
về vấn đề trên với mục đích làm rõ và đưa ra hướng hoàn thiện qui định tại
Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở của phương pháp nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận là dựa
trên học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước. Kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu
khoa học khác như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích tổng
hợp, chứng minh để nghiên cứu vấn đề một cách toàn diện và khoa học.
4. Những kết quả mới của luận văn
Đề tài liên quan đến lĩnh vực thừa kế từ trước đến nay đã có nhiều
công trình mang tích chất toàn diện. Do vậy việc nghiên cứu vấn đề về thừa
kế trong phạm vi hẹp sẽ có giá trị trong việc nhìn nhận và đề xuất những
vướng mắc mà pháp luật về thừa kế còn bỏ ngỏ hoặc đã có qui định nhưng
không phù hợp với tình hình thực tế, với phạm vi một đề tài tốt nghiệp, luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào người thừa kế không có quyền hưởng di

sản, sự khác nhau giữa người được hưởng với người không được hưởng di
sản để di đến cách hiểu cụ thể về những người không có quyền hưởng di sản
và phân biệt với các trường hợp không được hưởng di sản khác. Từ việc phân
tích điều luật nêu lên những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đưa ra một
vài ý kiến đóng góp hoàn thiện đối với qui định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự
năm 2005.


7
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về người thừa kế và người không
được quyền hưởng di sản.
Chương 2: Người thừa kế không được quyền hưởng di sản.
Chương 3: Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện những qui định
về người không có quyền hưởng di sản.


8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ
VÀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN

1.1. KHÁI NIỆM THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ
1.1.1. Khái niệm thừa kế
Thừa kế là một quan hệ xã hội, là việc chuyển dịch tài sản của người
đã chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật.
Thừa kế xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và sự phát triển của xã hội
loài người. Ngay từ thời sơ khai của xã hội loài người đã xuất hiện quan hệ sở

hữu do đó thừa kế đã có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ này.
Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy những điều kiện về kinh
tế, xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong
thị tộc. Chế độ mẫu hệ với địa vị chủ đạo của người phụ nữ đã tạo ra tiền đề
cho việc thừa kế tài sản của các con và những người thân thuộc của người mẹ.
Ph. Ăngghen viết:
Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ
kể về bên mẹ và trật tự thừa kế lúc ban đầu trong thị tộc, thì chỉ những
người cùng họ hàng trong thị tộc đã chết. tài sản phải để lại trong
nội bộ thị tộc. vì tài sản để lại không có giá trị gì cho lắm nên trong
thực tiễn có lẽ là từ xưa người ta vẫn trao tài sản cho những người
bà con thân thuộc nhất về phía người mẹ… Lúc đầu chúng thừa kế
người mẹ cùng với những người cùng huyết tộc với mẹ chúng, về
sau có thể chúng là người đầu tiên kế thừa mẹ chúng [1, tr. 86-87].
Như vậy vào thời kỳ nguyên thủy, việc thừa kế được hình thành theo
tập quán của thị tộc. Tài sản của thị tộc do người mẹ quản lý, khi người mẹ
chết đi thì di sản được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc và tài


9
sản của thị tộc được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đây chính là hình
thức thừa kế đầu tiên của xã hội loài người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục
duy trì cuộc sống chung cho thị tộc.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã làm thay đổi địa vị của người
phụ nữ. Sự ra đời của nhiều ngành nghề mới như nông nghiệp, chăn nuôi,
trồng trọt đòi hỏi sức khỏe và trí tuệ của người đàn ông, sản phẩm lao động
mà người đàn ông làm ra không những đủ nuôi sống gia đình mà còn tạo ra
nhiều của cải dư thừa. Địa vị của người đàn ông trong gia đình và trong từng
thị tộc bộ lạc dần dần được thiết lập. Đặc biệt khi nhà nước ra đời và qui định
chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã làm cho con cái biết rõ cha mẹ mình.

Từ đó trong quan hệ gia đình xác lập huyết thống theo họ cha và chế độ gia
đình phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ. Chế độ mẫu hệ đã dần mờ nhạt thay
bằng chế độ phụ hệ với vai trò gia trưởng đặc trưng của người đàn ông. Các
con trong gia đình có huyết thống với người cha sẽ mang họ cha và được thừa
kế tài sản của cha "thế là huyết thống theo họ mẹ và quyền thừa kế theo mẹ đã
bị xóa bỏ, huyết tộc theo họ cha và thừa kế cha được xác lập". Như vậy qua
mỗi một thời kỳ, qua mỗi một giai đoạn phát triển của xã hội loài người tương
ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia đình thì việc
điều chỉnh quan hệ sở hữu có thay đổi dẫn theo sự thay đổi của các quan hệ
thừa kế đó là do các nguyên nhân về kinh tế, về quan hệ huyết thống, và về
quan hệ hôn nhân trong xã hội quyết định.
Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và
thừa kế đã xuất hiện như một yếu tố khách quan. Thừa kế xuất hiện nó phụ
thuộc vào chế độ sở hữu. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để xuất hiện quan hệ
sở hữu thì thừa kế là phương tiện duy trì củng cố quan hệ sở hữu.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và chế độ tư hữu được hình thành,
giai cấp thống trị chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất và truyền lại cho con
cháu nên địa vị thống trị được củng cố từ đời này sang đời khác. Việc thừa kế


10
tài sản là sự chuyển dịch công cụ, phương tiện bóc lột của giai cấp thống trị
cho con cháu nhằm tiếp tục xác lập quyền lực về chính trị, kinh tế đối với
những người lao động.
Qua các thời kỳ phát triển của xã hội loài người quan hệ thừa kế có
tính kế thừa các giá trị vật chất và tinh thần của gia đình và dòng tộc. những
thành quả lao động của gia đình như nhà ở và những của cải để dành khác,
đây là những thành quả lao động mà thế hệ trước để lại cho thế hệ sau bởi nhà
ở và các tài sản khác không những là tài sản có giá trị lớn mà nó còn thể hiện
giá trị văn hoá đã tồn tại và phát triển qua các thời kỳ lịch sử.

Ở Việt Nam, việc thừa kế di sản đã hình thành theo tập quán của từng
dân tộc, từng vùng miền, thậm chí việc chia di sản thừa kế còn theo truyền
thống của dòng tộc. Con cháu trong gia đình được hưởng di sản từ ông bà,
cha mẹ và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng tổ tiên nhắc nhở
con cháu nhớ công ơn của người đã chết. Đây là một truyền thống tốt đẹp của
người Việt Nam được lưu truyền đến ngày hôm nay và được kế thừa cho đến
mai sau. Với quan điểm cho rằng những quan hệ hôn nhân và gia đình sinh ra
con người, gia đình và xã hội và từ đó trở thành nguồn gốc của mọi sự vật,
hiện tượng khác trong tự nhiên và trong xã hội. Ở Việt Nam, dân tộc Chăm có
những nét văn hóa, phong tục rất điển hình về quan hệ gia đình. Xã hội của
người Chăm ở Ninh Thuận là xã hội tổ chức theo chế độ mẫu hệ nên vai trò
của người phụ nữ trong xã hội được đề cao. Họ quan niệm rằng:
"Likei dơng di mưthut, kamei dơng di mưnưk" có nghĩa là " Phận của
đàn ông là chiến đấu, phận của đàn bà là sinh nở" tức là phụ nữ phải cai quản
gia đình, đàn ông toàn quyền cai quản xã hội. Chính quan niệm như thế nên
chế độ mẫu hệ đã tồn tại cùng lịch sử xã hội Chăm. Và từ đó mà trong hệ
thống luật tục của người Chăm ở Ninh Thuận qui định về thừa kế rất đơn
giản. Người con gái út được hưởng toàn bộ hay hầu hết của cải của gia đình
như quần áo cúng tế, nồi đồng, mâm đồng, chén bát… để thờ cúng tổ tiên.


11
Đối với các loại tài sản khác như nhà cửa, ruộng vườn, trâu bò… khi cha mẹ
còn sống thì có thể trích cho con gái lớn một phần tài sản khi họ lập gia đình
ở riêng, trích một phần cho con trai làm của hồi môn khi được vợ cưới, còn
khi cha mẹ chết thì phần lớn tài sản do con gái út thừa kế, phần nhỏ chia cho
chị gái. Luật tục cũng không qui định cụ thể là chia bao nhiêu tất cả do em gái
út quyết định. Các anh, em trai không được quyền hưởng tài sản thừa kế của
cha mẹ dù anh ta có công đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình khi
cha mẹ còn sống. Có thể đưa ra một số nguyên nhân lý giải về vấn đề này,

trong gia đình người Chăm con gái lớn khi lập gia đình thường tách ra ở
riêng, con trai thì về nhà vợ nên ở lại với cha mẹ phần lớn lúc cao tuổi chỉ còn
con gái út. Con gái út vì thế có công trong việc giữ gìn và phát triển khối tài
sản của gia đình và cũng chính người con gái út là người có trách nhiệm cúng
tế trong gia đình và phải chăng vì lẽ đó tài sản của cha mẹ thuộc về con gái út.
"Thừa kế" theo Từ điển Tiếng Việt là "hưởng của người đã chết để lại
cho" [37, tr. 938] hưởng ở đây chính là sự dịch chuyển quyền sở hữu những
tài sản cũng chính là những của cải mà người chết để lại cho người còn sống.
Nội dung của sự dịch chuyển này có thể theo phong tục tập quán hoặc theo
qui định của pháp luật phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể.
Như vậy, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người còn sống theo truyền thống, phong tục tập quán của từng dân tộc.
Người hưởng tài sản có nghĩa vụ duy trì, phát triển những giá trị vật chất, tinh
thần và những truyền thống, tập quán do thế hệ trước để lại.
1.1.2. Quyền thừa kế
Nếu thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh ngay cả trong một xã hội
chưa phân chia thành giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật thì quyền thừa
kế chỉ có thể sinh ra và tồn tại trong những xã hội đã phân chia giai cấp, trong
xã hội đã có nhà nước và pháp luật. Bằng việc ban hành các văn bản pháp
luật, nhà nước qui định quyền để lại thừa kế và nhận thừa kế của các chủ thể,


12
qui định trình tự và các điều kiện dịch chuyển tài sản cũng như qui định các
phương thức dịch chuyển tài sản từ người chết sang những người còn sống
khác. Tuy nhiên, mỗi một chế độ xã hội khác nhau sẽ có sự khác nhau trong
qui định về quyền thừa kế. Thậm chí ngay trong một chế độ xã hội nhưng ở
từng giai đoạn khác nhau sẽ có sự khác nhau trong qui định về quyền thừa kế.
Điều đó có nghĩa là chế độ thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển
kinh tế, xã hội của một nhà nước và đặc biệt là do chế độ sở hữu quyết định.

Vì vậy trong mỗi chế độ xã hội, chế độ thừa kế thường tồn tại tương ứng và
có liên quan mật thiết, song song tồn tại với chế độ sở hữu. Từ việc pháp luật
qui định chế độ sở hữu cùng với các quyền năng đối với tài sản của cá nhân
thì theo đó pháp luật qui định cho họ những quyền năng trong lĩnh vực thừa
kế. Hay nói cách khác, pháp luật về sở hữu là cơ sở cho việc ban hành các văn
bản pháp luật về thừa kế. Vì vậy quyền thừa kế luôn mang bản chất giai cấp
sâu sắc, là phương tiện để duy trì, củng cố quyền sở hữu trong mỗi chế độ xã
hội khác nhau.
Căn cứ vào các qui định của pháp luật về thừa kế, có thể hiểu quyền
thừa kế theo hai nghĩa sau:
Theo nghĩa khách quan: Theo qui định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự
năm 2005: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để
lại tài sản của mình cho những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản
theo di chúc hoặc theo pháp luật" [27]. Như vậy có thể khái quát quyền thừa
kế là tổng hợp các qui định của pháp luật qui định những trình tự để lại di sản,
nhận thừa kế và quyền khởi kiện dân sự yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ
quyền của người để lại di sản và quyền của người hưởng thừa kế di sản.
Theo nghĩa chủ quan: Quyền thừa kế được hiểu là quyền của mỗi cá
nhân trong việc để lại di sản của mình cho những người thừa kế, quyền nhận
di sản thừa kế do người khác để lại và quyền khởi kiện để yêu cầu bảo vệ
quyền thừa kế của mình theo thời hiệu pháp luật qui định.


13
Như vậy, quyền thừa kế là quyền tự quyết của người nhận di sản. Quyền
thừa kế chỉ có thể được thực hiện khi người có di sản chết, những người thừa
kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người để lại di sản thể hiện ý chí nhận
di sản hoặc từ chối nhận di sản thừa kế của người để lại di sản.
1.2. KHÁI NIỆM NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN
HƯỞNG DI SẢN

1.2.1. Khái niệm người thừa kế
Người thừa kế là người được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo qui
định của pháp luật mà người chết để lại. Có hai loại người thừa kế đó là người
thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Trong đó người được
thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của người để lại di sản
nên họ có thể là cá nhân bất kỳ miễn là người để lại di sản thể hiện ý chí của
mình thông qua việc lập di chúc để lại tài sản cho họ, ngoài ra người được
hưởng thừa kế theo di chúc có thể là cơ quan, tổ chức hoặc chủ thể khác.
Người được hưởng thừa kế theo qui định của pháp luật bao giờ cũng là cá
nhân những người được xác định dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống và
nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Điều 635 Bộ luật Dân sự năm 2005 qui định:
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường
hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ
chức phải còn tồn tại cho đến thời điểm di chúc được mở [27].
Theo qui định của điều luật trên, cá nhân chỉ được coi là người thừa kế
khi cá nhân đó:
Thứ nhất: Phải là người còn sống cho đến thời điểm mở thừa kế thì
mới có quyền hưởng di sản. Với đặc trưng cơ bản của thừa kế là sự tiếp nối về


14
sở hữu tài sản giữa người còn sống với người đã chết nên người tiếp nhận di
sản phải là người còn sống. Sẽ không có ý nghĩa nếu tài sản được dịch chuyển
từ một người chết này sang một người chết khác, việc xác định một người còn
sống vào thời điểm mở thừa kế phải được xét trong một diện rộng, bởi vẫn có
những trường hợp một người đã chết trên thực tế nhưng vẫn được coi là còn
sống vào thời điểm mở thừa kế. Chẳng hạn như một người vẫn còn sống vào

thời điểm mở thừa kế nhưng cho đến thời điểm phân chia di sản thì họ đã chết
thì họ vẫn có quyền được hưởng di sản. Tuy nhiên phần di sản mà họ được
hưởng sẽ được coi là di sản mà họ để lại và sẽ được chia cho những người
thừa kế của họ.
Thứ hai: Phải thành thai trước khi người để lại di sản chết nếu sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.
Khoản 1 Điều 635 Bộ luật Dân sự qui định quyền thừa kế của thai nhi
đó là phải thành thai trước khi người để lại di sản chết và còn sống sau khi
được sinh ra. Một người chưa được sinh ra thì chưa trở thành chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự, nhưng pháp luật dân sự đã qui định bảo lưu quyền
thừa kế của thai nhi với điều kiện người đó đã thành thai trước khi người để
lại di sản chết. Qui định này nhằm để bảo vệ quyền của người thừa kế, đặc
biệt là quyền của người con đã thành thai khi người cha còn sống và được
sinh ra sau khi người cha đã chết.
Với qui định người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở
thừa kế, để xác định tình trạng "còn sống" hay "đã chết" đối với một đứa trẻ
có thể xác định vấn đề này theo qui định của Nghị định số 83/1998/NĐ-CP
ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch để xác định tình trạng còn sống hay đã
chết đối với một đứa trẻ sinh ra rồi mới chết:
+ Tại Điều 20 qui định khai sinh cho trẻ em sinh ra rồi mới chết. "Trẻ
em sinh ra và còn sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết thì cũng phải đăng ký


15
khai sinh theo qui định của Nghị định này, nếu chết trước khi sinh hoặc sinh
ra mà sống chưa được 24 giờ thì không phải đăng ký khai sinh" [11].
+ Điều 29 qui định đăng ký khai tử cho trẻ em sinh ra rồi mới chết:
"Trẻ em sinh ra mà sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết thì vừa phải đăng ký
khai sinh, vừa phải đăng ký khai tử nếu chết trước khi sinh hoặc sinh ra mà
chết ngay thì không phải đăng ký khai tử" [11].

Với những qui định trên thì một đứa trẻ sinh ra và còn sống sau từ
24 giờ trở lên thì sẽ được hưởng di sản mà người chết để lại. Trường hợp sinh
ra nhưng bị chết ngay hoặc chết trước 24 giờ thì đứa trẻ đó không được nhận
di sản mà người chết để lại.
Theo qui định trong luật La Mã cổ đại, người thừa kế phải là những
người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, nếu người thừa kế là thai nhi thì
phải được sinh ra sau khi người để lại di sản chết 300 ngày (10 tháng). Luật XII
bảng qui định: "Tôi được biết rằng khi người đàn bà sinh đẻ vào tháng thứ 11
sau khi chồng chết thì có việc dường như người đàn bà có thai sau khi chồng
chết, bởi ủy ban mười người đã ghi rằng con người sinh ra vào tháng thứ
mười chứ không phải vào tháng thứ mười một (bảng IV)". Về cơ bản căn cứ
xác định người thừa kế trong luật La Mã cổ và qui định của Bộ luật Dân sự
năm 2005, là người thừa kế phải là người thừa kế còn sống vào thời điểm mở
thừa kế và với thai nhi tồn tại tối đa là 300 ngày kể từ thời điểm mở thừa kế,
nếu trong khoảng thời gian này mà thai nhi được sinh ra thì mặc nhiên được
coi là đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế và người được sinh ra sau thời
điểm mở thừa kế được hưởng di sản của người chết theo di chúc hoặc theo
qui định của pháp luật.
Với người thừa kế theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật là cá
nhân thì không phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự họ đều có quyền nhận
di sản và phải thực hiện nghĩa vụ tài sản tương ứng với phần di sản được


16
nhận. Đối với trường hợp người thừa kế là người chưa thành niên hoặc mất
năng lực hành vi dân sự vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của họ trong phạm vi di
sản được nhận, tuy nhiên việc thực hiện nghĩa vụ của họ do những người
giám hộ thực hiện. Ngoài ra người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản hoặc
chuyển quyền nhận di sản của mình cho những người thừa kế khác, từ chối
nhận di sản là hành vi pháp lý của người thừa kế khước từ hưởng di sản theo

di chúc hoặc theo qui định của pháp luật. Hậu quả của việc từ chối nhận di
sản là phần di sản bị người thừa kế từ chối được chia theo pháp luật cho
những người thừa kế khác. Những người được hưởng phần di sản này có
nghĩa vụ tương ứng trong phạm vi di sản mà họ được hưởng.
Nếu người thừa kế là cá nhân có quyền được hưởng di sản của người
đã chết theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật, thì với người thừa kế là
tổ chức chỉ được hưởng di sản của người chết theo di chức. Tổ chức bao gồm
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội nghề
nghiệp…Theo qui định của pháp luật, tổ chức được chỉ định thừa kế trong di
chúc chỉ được nhận di sản thừa kế nếu tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế thì được hưởng di sản. Mặc dù khi chia thừa kế tổ chức không còn tồn
tại thì di sản vẫn thuộc về tổ chức vì vậy di sản phải được chia cho các thành
viên của tổ chức. Tuy nhiên, theo qui định của pháp luật về thời điểm phát
sinh và chấm dứt năng lực của tổ chức thì sau khi giải thể, năng lực chủ thể
của tổ chức chấm dứt cho nên di sản không thể chia đều cho các thành viên,
bởi các thành viên không có tư cách chủ thể do đó tài sản không có chủ sở
hữu sẽ thuộc nhà nước theo qui định tại Điều 644 Bộ luật dân sự.
1.2.1.1. Người thừa kế theo di chúc
Người thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của của
người có di sản nên phạm vi những người được hưởng di sản theo di chúc
rộng hơn rất nhiều so với người được hưởng di sản theo pháp luật. Người thừa


17
kế theo di chúc có thể là cá nhân bất kỳ, nếu được chỉ định trong di chúc mà
không cần xét đến những quan hệ khác của họ đối với người để lại di sản.
Người thừa kế theo di chúc có thể là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
của người để lại di sản hoặc không thuộc diện thừa kế theo luật của người để
lại di sản, pháp luật không qui định phạm vi những người được hưởng thừa kế
theo di chúc mà việc được hưởng di sản của người chết theo di chúc hoàn

toàn phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản
của họ để lại cho những người thừa kế. Phần di sản mà mỗi một người thừa kế
được hưởng theo di chúc được hưởng có thể bằng nhau, nhiều hơn hoặc ít hơn
nhau, điều này tùy thuộc vào việc phân định di sản của người lập di chúc định
đoạt. Người được chỉ định thừa kế theo di chúc có thể là người được hưởng
toàn bộ khối di sản của người chết để lại nếu không có sự hạn chế liên quan
đến người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc qui định tại
Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005 bao gồm cha mẹ, vợ chồng, con chưa
thành niên và con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động của người
để lại di sản. Đây là những người thừa kế không thể bị người để lại di sản
truất quyền hưởng di sản hoặc chỉ cho họ hưởng phần di sản ít hơn 2/3 của
một suất theo luật, trừ trường hợp họ từ chối nhận di sản tại Điều 642 hoặc họ
là người không có quyền hưởng di sản theo qui định tại khoản 1 Điều 643 Bộ
luật Dân sự năm 2005 thì những người đó vẫn được hưởng phần di sản bằng
2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản của người chết được
chia theo qui định của pháp luật.
1.2.1.2. Người thừa kế theo qui định của pháp luật
Nếu người thừa kế theo di chúc là cá nhân bất kỳ ai là người thuộc
diện hay không không thuộc diện thừa kế theo luật của người để lại di sản kể
cả cơ quan, tổ chức được hưởng di sản do ý chí của người để lại di sản quyết
định. Thì người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và là người có


18
quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những
người thuộc diện thừa kế theo luật được quyền hưởng di sản một cách bình
đẳng, ngang nhau giữa những người thừa kế cùng hàng. Điều 676 Bộ luật Dân
sự năm 2005 qui định người thừa kế theo luật được qui định theo thứ tự sau:
- Hàng thừa kế thừa nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Nguyên tắc khi chia tài sản theo luật đó là, những người thừa kế cùng
hàng được hưởng phần di sản bằng nhau, những người thừa kế ở hàng thừa kế
sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết,
không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận
di sản.
1.2.2 Người thừa kế có quyền hưởng di sản và người thừa kế
không có quyền hưởng di sản
1.2.2.1. Người thừa kế có quyền hưởng di sản
Những người có quyền hưởng di sản của nhau là những người có mối
liên hệ với nhau về việc hưởng di sản của nhau. Vì thế, quyền hưởng di sản
của những người này có thể được xác định theo hai căn cứ sau:
+ Theo qui định của pháp luật: Những người có quyền hưởng di sản
của nhau là những người mà giữa họ có mối liên hệ với nhau về việc hưởng di


19
sản của nhau trong những trường hợp được pháp luật xác định, giữa họ có
một trong ba mối quan hệ với nhau về hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
Bao gồm cha mẹ với các con; vợ với chồng; ông bà với các cháu, chắt; các
anh, chị, em ruột với nhau; cô ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, dì ruột với
các cháu của họ (quyền hưởng di sản theo qui định của pháp luật).
+ Theo ý chí của các chủ thể: Người có di sản lập di chúc định đoạt tài
sản của mình để lại cho người thừa kế, và nếu di chúc hợp pháp thì người

được chỉ định thừa kế theo di chúc có quyền hưởng phần di sản đã được định
đoạt cho họ trong bản di chúc đó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích của những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống
với người lập di chúc. Quyền của người lập di chúc bị hạn chế trong trường
hợp nếu họ không cho những người thân thích như cha mẹ, vợ chồng, con
chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động
của họ được hưởng di sản hoặc cho hưởng nhưng ít hơn 2/3 một suất thừa kế
theo luật thì theo qui định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3
suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc
cho hưởng di sản hoặc cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ
khi họ là những người từ chối nhận di sản theo qui định tại điều 642
hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo qui định
tại khoản 1 Điều 643 của bộ luật này [27].
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động
Như vậy, quyền hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc của những người thừa kế trong trường hợp trên là hoàn toàn phù hợp với
phong tục tập quán cũng như phù hợp với các qui tắc đạo đức trong đời sống


20
của người Việt Nam, bởi người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc bao gồm cha, mẹ, vợ, chồng của người để lại di sản và con
dưới 18 tuổi của những người đó, bao gồm con đẻ, con nuôi, con trong giá thú
và con ngoài giá thú. Ngoài ra người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc là con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không
có khả năng để tự nuôi sống bản thân là những người có quan hệ thân thích
gần gũi nhất đối với người để lại di sản.

Theo qui định tại Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2005:
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha mẹ cháu được hưởng nếu còn sống, nếu
cháu cũng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di
sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ chắt được
hưởng nếu còn sống [27].
Trong trường hợp thừa kế theo qui định của pháp luật, thì những
người ở hàng thừa kế sau không có quyền được hưởng di sản nếu vẫn có
người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất theo luật, nhưng vẫn có ngoại lệ đó là
khi họ được thừa kế thế vị và việc họ được hưởng di sản về bản chất không
phải với tư cách của người hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ hai theo luật của
ông bà, cha mẹ. Dựa trên cơ sở của pháp luật tại Điều 679 Bộ luật Dân sự
năm 2005, theo đó cháu của người để lại di sản chỉ được thừa kế thế vị phần
di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Cha mẹ của cháu nếu
còn sống thì được hưởng di sản của ông bà và khi ông bà chết là căn cứ cho
các cháu được thừa kế thế vị, nhưng nếu cha hoặc mẹ của cháu khi còn sống
không có quyền thừa kế thì mặc dù họ có chết trước người để lại di sản thì
con, cháu của họ cũng không được thừa kế thế vị. Như vậy, việc thừa kế thế
vị của con, cháu phải dựa trên quyền được nhận di sản hay không được nhận
di sản của ông bà nội, ngoại khi cha hoặc mẹ cháu còn sống. Nếu cha hoặc mẹ


21
cháu khi còn sống cũng không có quyền hưởng theo pháp luật di sản của ông
bà, thì cho dù cha mẹ của cháu có chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
ông bà thì cháu cũng không được hưởng thừa kế thế vị từ ông, bà.
Giữa con riêng của vợ, của chồng với cha dượng, mẹ kế liệu có phát sinh
việc thừa kế thế vị không? Theo qui định tại Điều 679 Bộ luật Dân sự năm
2005 "Con riêng với bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng

nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa
kế di sản theo qui định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này" [27]. Con
riêng của vợ hay chồng người chết không được nhận di sản thừa kế của người
chết theo luật bởi giữa họ không có quan hệ huyết thống và không có nghĩa vụ
phải nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con nhưng nếu họ có quan hệ chăm sóc,
nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con và yêu thương, có trách nhiệm với nhau
như ruột thịt thì họ có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của nhau. Đây cũng
là căn cứ để xác định quyền nhận thừa kế thế vị cho những người con của con
riêng của những người để lại di sản là cha kế, mẹ kế chết sau những người đó.
Người được hưởng di sản là Nhà nước. Dựa trên qui định tại Điều 644
Bộ luật Dân sự năm 2005 "Trong trường hợp không có người thừa kế theo di
chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng những người thừa kế đó không được
quyền hưởng di sản, hoặc từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã
thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thì tài sản
thuộc về Nhà nước" [27].
Đối với trường hợp di sản không có người thừa kế, Điều 768 Bộ luật
Dân sự Cộng hòa Pháp qui định khi mở thừa kế mà không có người thừa kế
thì di sản thuộc về Nhà nước, cơ quan quản lý công sản phải yêu cầu Tòa án
cho phép nhận di sản. Sau khi Tòa án chấp nhận cho cơ quan công sản hưởng
di sản có nghĩa Tòa án đã xác định người để lại di sản không có người thừa kế
theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật. Ngoài ra qui định của Bộ luật
Dân sự một số nước như Nhật Bản, Thái Lan… qui định về di sản không có


22
người thừa kế thì trình tự thủ tục chuyển cho Nhà nước đều theo quyết định
của Tòa án là hợp lý và đảm bảo được sự khách quan.
Như vậy người có quyền hưởng di sản là những người thừa kế theo
pháp luật, theo di chúc, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc, người được thừa kế thế vị và Nhà nước với tư cách là chủ thể đặc biệt

trong quan hệ thừa kế.
1.2.2.2 Người thừa kế không có quyền hưởng di sản
Hưởng di sản thừa kế là quyền của công dân được pháp luật ghi nhận,
từ Hiến pháp 1946 cho đến Hiến pháp 1992 đều qui định công dân được Nhà
nước và pháp luật bảo hộ về quyền sở hữu và thừa kế tài sản.Trên cơ sở
những căn cứ pháp lý đó, quyền hưởng di sản thừa kế, quyền được pháp luật
bảo vệ khi những lợi ích đó của công dân bị người khác xâm phạm đã được
qui định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Bên cạnh việc bảo vệ quyền
và lợi ích của công dân trong việc hưởng di sản thừa kế, khoản 1 Điều 643 Bộ
luật Dân sự năm 2005 là một chế tài nghiêm khắc của pháp luật áp dụng đối
với người có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Người không
được quyền hưởng di sản bao gồm:
a. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm
phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
b. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
c. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng.
d. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.


23
Như vậy, người không có quyền hưởng di sản là người thừa kế có
quyền hưởng di sản nhưng họ đã có những hành vi vi phạm pháp luật và vi
phạm đạo đức được qui định tại khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005
và không thuộc trường hợp qui định tại khoản 2 tại điều luật trên "Những
người qui định tại khoản 1 điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại

di sản đã biết hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản
theo di chúc". Vì thế nên họ bị tước quyền hưởng di sản và không được quyền
hưởng di sản của người chết để lại.
1.3. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1945
ĐẾN NAY
1.3.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1945
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 nước ta là một nước thuộc địa
nửa phong kiến. Thực dân Pháp đã cấu kết với giai cấp địa chủ phong kiến
Việt Nam để duy trì hệ thống pháp luật do chúng ban hành. Hệ thống pháp
luật đó là công cụ để thực dân Pháp đàn áp và thực hiện chính sách khai thác
thuộc địa tàn bạo của chúng. Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam giai đoạn này
chủ yếu được qui định trong hai Bộ dân luật. Đó là Dân luật Bắc Kỳ năm
1931, Bộ Dân luật Trung Kỳ 1936. Trong thời kỳ này tư tưởng trọng nam
khinh nữ vẫn được giai cấp thống trị duy trì trong các quan hệ xã hội, trong
quan hệ gia đình và trong cả các qui định của pháp luật.
Về người không có quyền hưởng di sản, pháp luật của chế độ thực dân
phong kiến cũng có những qui định về người thừa kế không có quyền hưởng
di sản của người quá cố (Người thừa kế bất xứng). Cả hai bộ Dân luật Bắc Kỳ
và Trung Kỳ đều có qui định về người thừa kế không có quyền hưởng di sản
qui định tại Điều 313 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 306 Dân luật Trung Kỳ.
- Người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng được
hưởng di sản của người lập di chúc

×