Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.33 KB, 90 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGÔ THỊ HUYỀN






THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGÔ THỊ HUYỀN





THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập




HÀ NỘI - 2012


4
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
KHÁI NIỆM VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT

5
1.1. Khái niệm về thừa kế và thừa kế quyền sử dụng đất 5
1.1.1. Khái niệm thừa kế 5
1.1.2. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất 8
1.2. Đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất 9

1.3. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất (quyền sử dụng đất là
di sản thừa kế)
11
1.3.1. Xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất 11
1.3.2. Thời hạn sử dụng đất 18
1.4. Tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về
thừa kế quyền sử dụng đất
21
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1993 21
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003 29
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay 32
Chương 2:
THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
33
2.1. Thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc 33
2.1.1. Thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp 35
2.1.1.1.

Người lập di chúc 35
2.1.1.2.

Người thừa kế 39

5
2.1.2. Thừa kế quyền sử dụng đất ở 43
2.2. Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật 45
2.2.1. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật 46
2.2.2. Diện và hàng thừa kế 48
2.2.3. Về thừa kế thế vị 53
2.3. Di sản là quyền sử dụng đất dùng vào việc thờ cúng, di tặng


54
2.3.1. Di sản là quyền sử dụng đất dùng vào việc thờ cúng 54
2.3.2. Di tặng 55
2.4. Trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất 55
2.5. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế 56
2.6. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất
60
Chương 3:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

63
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất 63
3.1.1. Xác định tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất có phải là
tranh chấp đất đai hay không
64
3.1.2. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế di sản chung của vợ, chồng
khi thời hiệu khởi kiện về thừa kế di sản của người chết
trước đã hết
65
3.1.3. Khi thời hiệu khởi kiện thừa kế đã hết thì có thể lựa chọn áp
dụng chia tài sản chung theo Nghị quyết 02, nhưng rất khó
đảm bảo điều kiện để được chia tài sản chung
67
3.1.4. Về di chúc chung của vợ chồng 70
3.1.5. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật nhận thấy có một số
trường hợp không nên tính vào thời hiệu khởi kiện

72

6
3.1.6. Về vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng, di tặng 74
3.1.7. Quyền sử dụng đất được tặng cho trước khi người để lại di
sản chết
75
3.1.8. Hạn chế phân chia di sản 76
3.1.9. Trường hợp ghi tên người sử dụng đất trên giấy chứng nhận

76
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định
pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất
77
3.2.1. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp, đầy đủ và
cụ thể hơn về thừa kế quyền sử dụng đất
77
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật 81
3.2.3. Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ,
công chức
81

KẾT LUẬN
82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
83


7

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sở hữu tài sản là quyền thiêng liêng của mỗi người được pháp luật bảo
hộ và thừa kế tài sản chính là phương tiện để duy trì quyền sở hữu đó. Vì vậy, chế
định thừa kế là chế định rất quan trọng trong pháp luật của các quốc gia nói chung
và của Việt Nam nói riêng. Thừa kế rất thiết thực với cuộc sống của người dân
nên dù không mới nhưng đề tài thừa kế vẫn luôn mang tính phổ biến và sôi động.
Đất đai là một loại tư liệu sản xuất quan trọng của quốc gia, do vậy đất
đai là một loại tài sản quý giá. Ở nước ta, trải qua nhiều thời kỳ của chế độ
dân chủ nhân dân nhưng chính sách về đất đai cũng có sự biển đổi cơ bản
trong mỗi thời kỳ tương ứng. Đặc biệt theo quy định của Hiến pháp năm 1980
và năm 1992 đều quy định đất đai thuộc sở hữu của toàn dân (Nhà nước), theo
đó Luật Đất đai và Luật Dân sự thể chế hóa những quy định đó của Hiến pháp
và cho phép người sử dụng đất là cá nhân có quyền để lại thừa kế quyền sử
dụng đất theo trình tự thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Do sự thay đổi
về chính sách đất đai qua mỗi thời kỳ, trên thực tế giải quyết những tranh
chấp về đất đai rất phức tạp, hàng năm có hàng chục ngàn vụ tranh chấp đất
đai được giải quyết tại Tòa án nhân dân các cấp về chuyển nhượng, chuyển
đổi, cho thuê, thế chấp và thừa kế quyền sử dụng đất. Tuy nhiên không phải bao
giờ các tranh chấp cũng được tòa án giải quyết thấu tình đạt lý, đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay quyền sử dụng đất được coi là hàng hóa, những tranh chấp
về đất đai ngày càng tăng về số lượng, phức tạp về tính chất. Trong quan hệ
thừa kế quyền sử dụng đất có nhiều tranh chấp đã xảy ra liên quan đến việc xác
định nguồn gốc di sản là quyền sử dụng đất, người thừa kế quyền sử dụng đất…
Vì những lý do đó nên việc lựa chọn đề tài "Thừa kế quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật Việt Nam" là thật sự cần thiết, đáp ứng được
nhu cầu nghiên cứu vấn đề kể cả về lý luận và thực tiễn.

8

2. Tình hình nghiên cứu
Thừa kế quyền sử dụng đất xét ở góc độ nói chung tính đến thời điểm
hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau về thừa kế
mà có liên quan ít nhiều đến di sản thừa kế là quyền sử dụng đất. Những công
trình tiêu biểu như: Luật thừa kế Việt Nam, TS. Phùng Trung Tập, Nxb Hà Nội,
2008; Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, TS. Phạm
Văn Tuyết, Nxb Chính trị quốc gia, 2007; Chế định thừa kế theo di chúc,
Luận án Tiến sĩ Luật học của Phạm Văn Tuyết, 2005; Cơ sở lý luận và thực
tiễn của những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Luận án tiến
sĩ Luật học của Nguyễn Minh Tuấn, 2007; Di sản thừa kế trong pháp luật dân
sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học của Trần Thị Huệ, 2007; Tìm hiểu các
quy định của pháp luật về thừa kế, Dương Bạch Long và Nguyễn Xuân Anh,
Nxb Chính trị Quốc gia, 2005. Nhưng những công trình này chỉ nghiên cứu
những quy định chung về thừa kế hoặc cụ thể là thừa kế theo di chúc, thừa kế
theo pháp luật hay về di sản thừa kế.
Ngoài những công trình trên, còn một số luận văn cao học nghiên cứu
về thừa kế quyền sử dụng đất như các luận văn cao học luật của Lê Khắc
Hạnh về thừa kế quyền sử dụng nhà ở và đất ở tại thành phố Hải Phòng, của
Phạm Thị Thúy Liễu về thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về
thừa kế quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Hà Nam Bên cạnh đó, một số
khóa luận của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng nghiên cứu về thừa kế
quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đó là những đề tài
nghiên cứu về quyền sử dụng đất ở các góc độ cụ thể theo di chúc, theo pháp
luật hay về thừa kế một loại đất trong một thành phố, một tỉnh.
Dưới góc độ pháp luật thường thức cũng có những cuốn sách với nội
dung hỏi đáp, tư vấn liên quan đến thừa kế nói chung và thừa kế quyền sử
dụng đất nói riêng có thể kể đến là "99 tình huống và tư vấn pháp luật về thừa
kế nhà và quyền sử dụng đất" của Luật sư, Tiến sĩ Phan Thị Hương Thủy,

9

Nxb Tư pháp, 2005…; "Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án"
của Tiến sĩ Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia, 2009; …
Bên cạnh đó, còn có những bài nghiên cứu trên các cuốn tạp chí, các
báo… nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về một khía cạnh nhỏ của
thừa kế hay chỉ với tính chất đưa tin, tìm hiểu phân tích không chuyên sâu.
Như vậy, có thể thấy rằng chưa có một công trình nghiên cứu nào
mang tính toàn diện, chuyên sâu về thừa kế quyền sử dụng đất nói chung. Do
đó, học viên mạnh dạn lựa chọn đề tài "Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật Việt Nam" để thực hiện luận văn cao học luật của mình
nhằm bổ sung thêm vấn đề lý luận và thực tiễn về thừa kế quyền sử dụng đất
ở nước ta.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau để thực
hiện đề tài: phương pháp biện chứng, phương pháp nghiên cứu lịch sử,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, thống
kê Cùng với việc sử dụng kết hợp các phương pháp này, tác giả cũng sẽ dựa
vào đặc điểm truyền thống, tập quán của nước ta để làm rõ nét hơn vấn đề
thừa kế quyền sử dụng đất. Ngoài ra, một số những vấn đề khoa học đã được
các tác giả đi trước nghiên cứu, kết luận cũng được tham khảo sử dụng nhằm
hoàn thiện đề tài.
4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ vấn đề thừa kế của
một loại tài sản đặc biệt là quyền sử dụng đất. Trong quá trình nghiên cứu các
quy định của pháp luật, vừa phân tích và đánh giá làm sáng tỏ hơn về lý luận,
thực tiễn của thừa kế quyền sử dụng đất, từ đó tìm ra giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật.

10
- Nhiệm vụ:

+ Xây dựng các khái niệm về thừa kế, thừa kế quyền sử dụng đất;
+ Tìm hiểu, phân tích về loại di sản đặc biệt là quyền sử dụng đất;
+ Vận dụng phù hợp những quy định của pháp luật dân sự và pháp
luật đất đai để nghiên cứu về các hình thức thừa kế quyền sử dụng đất;
+ Từ thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
lĩnh vực thừa kế quyền sử dụng đất, tìm ra những điểm còn hạn chế, chưa phù
hợp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn đã đạt được những tính mới:
- Xây dựng được hệ thống khái niệm về thừa kế quyền sử dụng đất;
- Xác định được những hình thức thừa kế quyền sử dụng đất theo di
chúc và theo pháp luật;
- Xác định được di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và so sánh được di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất với các loại di sản khác ngoài quyền sử dụng đất;
- Chỉ ra được những bất cập của pháp luật quy định về thừa kế quyền
sử dụng đất và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của
pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm về thừa kế và thừa kế quyền sử dụng đất
Chương 2: Thừa kế quyền sử dụng đất
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả của các quy định pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất.

11
Chương 1
KHÁI NIỆM VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

1.1. KHÁI NIỆM VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

1.1.1. Khái niệm thừa kế
Tài sản chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển sự sống của mỗi con
người, tài sản cần có chủ của nó và sở hữu tài sản ra đời. Khi con người chết
đi, tài sản cần được dịch chuyển sang cho người còn sống để nó tiếp tục duy
trì, phát huy giá trị. Việc dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn
sống chính là thừa kế và từ đây thừa kế đã manh nha xuất hiện. Sự hình thành,
tồn tại của sở hữu và thừa kế là khách quan, thuộc phạm trù kinh tế.
Thời kỳ đầu công xã nguyên thủy, chế độ quần hôn tạo ra hệ quả là
con cái sinh ra chỉ xác định được mẹ mà không xác định được cha, nên trải
qua nhiều thế hệ những người có chung huyết tộc họ mẹ sống chung với nhau
hình thành nên tổ chức là thị tộc. Trong các thị tộc, của cải do con người làm
ra thuộc của chung thị tộc. Người phụ nữ là người có quyền, là lao động chính
tạo ra của cải vật chất. Do đó, thừa kế được thực hiện theo họ mẹ, theo huyết
thống của người mẹ, tài sản được để lại thừa kế cho con và những người có
huyết thống gần với người mẹ. Đây được gọi là chế độ mẫu hệ và thời kỳ này
tài sản chỉ được thừa kế trong nội bộ thị tộc theo phong tục tập quán do từng
thị tộc đặt ra.
Lực lượng lao động ngày càng được cải tiến, loại công việc xuất hiện
phong phú hơn, phân công lao động hợp lý hơn, người đàn ông phát huy được
sức mạnh của mình làm được nhiều việc, tạo ra nhiều của cải hơn người phụ
nữ. Nam giới dần chiếm thế, chuyển thành người có quyền. Cùng với đó, chế
độ hôn nhân cặp đôi hình thành nên người cha của đứa trẻ sinh ra đã được xác
định. Chế độ mẫu hệ được thay thế bằng chế độ phụ hệ. Thừa kế cũng vì thế

12
mà thay đổi, từ việc được thừa hưởng theo họ mẹ, theo huyết thống người mẹ
chuyển thành thừa kế theo họ cha và theo huyết thống của người cha.
Kinh tế phát triển mạnh lên, của cải làm ra không những đủ dùng mà
còn có dư thừa. Chính điều này đã tạo ra một bộ phận những người có quyền
trong thị tộc tìm cách chiếm giữ tài sản dư thừa và xã hội xuất hiện người giàu

người nghèo. Do sự phân hóa giàu nghèo cùng việc tư hữu tài sản hình thành
nên những giai cấp đối kháng. Tổ chức thị tộc, bộ lạc không còn phù hợp,
nhường chỗ cho tổ chức lớn hơn đủ sức mạnh điều hòa mâu thuẫn giai cấp, đó
chính là Nhà nước. Khi có Nhà nước, thừa kế không còn được thực hiện theo
phong tục tập quán của thị tộc, bộ lạc như trước mà tuân theo các quy định
của pháp luật, theo sự điều chỉnh bằng ý chí của Nhà nước.
Vì có pháp luật điều chỉnh, nên khi pháp luật thay đổi, thừa kế cũng từ
đó thay đổi theo. Thừa kế tài sản đã không đơn thuần thuộc phạm trù kinh tế
mang tính khách quan mà đã thuộc phạm trù pháp lý mang tính chủ quan, bị
chi phối, ảnh hưởng bởi chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và sự phát triển của
kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ.
Trong những Nhà nước mà cơ sở kinh tế dựa trên tư hữu về tư liệu sản
xuất, giai cấp thống trị đã sử dụng pháp luật để duy trì, củng cố chế độ tư hữu
tài sản và quyền thống trị của giai cấp mình, trong đó có công cụ là pháp luật
về thừa kế. Ở Nhà nước chiếm hữu nô lệ, nô lệ đã trở thành công cụ, là hàng
hóa được trao đi đổi lại, là tài sản có giá trị đặc trưng cho thời kỳ này. Vì thế,
giai cấp chủ nô bằng pháp luật về thừa kế đã thực hiện việc chuyển dịch nô lệ
từ chủ này sang chủ khác trong cùng giai cấp để duy trì quyền sở hữu, sự bóc
lột đối với nô lệ. Đến Nhà nước phong kiến, tài sản có giá trị nhất và tạo ra
được nhiều của cải nhất chính là đất đai. Đất đai hầu hết đều thuộc sở hữu của
địa chủ, người nông dân chỉ được thuê và nộp địa tô. Khi địa chủ ông cha
chết, đất đai được thừa kế cho địa chủ con cháu tiếp tục duy trì sở hữu và bóc
lột sức lao động của nông dân. Nhà nước tư sản, giai cấp tư sản cũng củng cố

13
sự thống trị của mình bằng việc dịch chuyển sở hữu các tư liệu sản xuất chủ
yếu cho cho thế hệ sau thông qua các quy định về thừa kế. Sự khác biệt được
thể hiện trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa khi nền kinh tế dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, những tư liệu sản xuất chủ yếu (như đất đai, tài
nguyên, vùng biển, vùng trời…) thuộc sở hữu toàn dân, không thuộc sở hữu

tư nhân nên không được để lại thừa kế. Tuy nhiên, mọi người đều được khai
thác, sử dụng hợp lý và được bảo vệ thành quả lao động của mình. Pháp luật
và các chính sách của Nhà nước được đặt ra dựa trên quyền lợi chính đáng
của mọi cá nhân, của người lao động. Do đó thừa kế của nhà nước xã hội chủ
nghĩa cũng được xây dựng và thực hiện trên cơ sở đó.
Trong mỗi chế độ xã hội, thừa kế cũng không là bất biến, nó sẽ thay
đổi phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ. Ngay trong
cùng chế độ phong kiến, chế độ tư bản hay chế độ xã hội chủ nghĩa, ở mỗi
triều đại, mỗi mốc thời điểm chính sách nền kinh tế thay đổi thì để phù hợp
với nó, pháp luật về thừa kế cũng phải biến đổi theo.
Tóm lại, xét một cách tổng quát thì thừa kế là sự phản ánh chế độ xã
hội và sự phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ, nó vừa mang tính khách
quan vừa mang tính chủ quan với nội dung là sự dịch chuyển tài sản của
người chết cho người còn sống theo những quy định do con người đặt ra. Khi
xã hội có nhà nước, thừa kế là một phạm trù pháp luật, phản ánh nền kinh tế
chính trị xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ phát triển, thể hiện việc dịch
chuyển tài sản và quyền sở hữu từ người chết cho người còn sống theo trình
tự, thủ tục của pháp luật.
Nếu như thừa kế xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu thì khái niệm quyền
thừa kế chỉ được ra đời khi xã hội có Nhà nước. Bằng quyền lực của mình
Nhà nước áp đặt ý chí lên các chủ thể để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội,
trong đó có quan hệ về thừa kế. Theo đó, mỗi chủ thể sẽ có những quyền và
nghĩa vụ mang tính nhà nước, có quyền để lại và quyền hưởng tài sản thừa kế.

14
Dó đó quyền thừa kế cũng bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự phát triển kinh tế xã
hội qua từng thời kỳ do chế độ sở hữu quyết định.
Dù quyền thừa kế thể hiện ý chí nhà nước, nhưng pháp luật của nhà nước
cũng phải phù hợp với điều kiện phát triển khách quan của kinh tế - xã hội của
từng nhà nước, do đó dưới góc độ pháp lý quyền thừa kế cũng mang tính khách

quan. Vì vậy, có thể hiểu trên phương diện khách quan, quyền thừa kế là tổng
hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về chuyển dịch tài sản
từ người chết sang người còn sống theo thủ tục, trình tự luật định. Còn trên
phương diện chủ quan, quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự của công dân
được để lại thừa kế cho người còn sống và quyền nhận di sản từ người chết.
1.1.2. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
Căn cứ vào những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, căn cứ vào
những chính sách quản lý đất đai của nước ta hiện nay thì quyền sử dụng đất
là một loại tài sản được để lại thừa kế tương tự như các loại tài sản khác. Tại
Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản", và quyền sử dụng đất chính là một loại quyền
tài sản, được chuyển dịch theo thừa kế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân theo quy
định tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 nhưng luật dân sự cho phép cá nhân sử
dụng đất được quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất kể từ khi Bộ luật Dân
sự thứ nhất năm 1995 được ban hành và Bộ luật Dân sự đang có hiệu lực thi
hành năm 2005 đều có những quy định về điều kiện, trình tự thừa kế quyền sử
dụng đất. Do quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt, loại tài sản mà không
những liên quan đến những quy định của Bộ luật Dân sự mà còn liên quan
đến những chính sách đất đai của Nhà nước nên thừa kế quyền sử dụng đất có
những nét riêng biệt đặc thù khác thừa kế các loại tài sản khác ngoài đất đai.
Điều 733 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Thừa kế quyền sử dụng
đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế
theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai" [25].

15
Như vậy có thể hiểu thừa kế quyền sử dụng đất là một quyền dân sự
của người sử dụng đất, phản ánh các chính sách đất đai của Nhà nước và thể
hiện sự phát triển của pháp luật về thừa kế, với nội dung là dịch chuyển quyền
sử dụng đất từ người chết sang người còn sống theo quy định của pháp luật.
1.2. ĐẶC ĐIỂM THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Thừa kế là một quyền dân sự, nhưng quyền sử dụng đất lại là một tài
sản đặc biệt (do tính chất đặc biệt của đất đai), do đó thừa kế quyền sử dụng
đất chịu sự điều chỉnh của cả luật dân sự và luật đất đai. Điều đó tạo nên điểm
đặc thù của thừa kế quyền sử dụng đất.
Thứ nhất, thừa kế quyền sử dụng đất vừa tuân theo quy định của pháp
luật dân sự vừa tuân theo luật đất đai.
Pháp luật dân sự không điều chỉnh hết các nội dung quyền thừa kế của
người sử dụng đất, nên nếu chỉ căn cứ vào pháp luật dân sự thì không đầy đủ,
dễ dẫn đến sai lệch. Do đó, thừa kế quyền sử dụng đất khác với thừa kế những
tài sản khác là phải phụ thuộc vào các chính sách đất đai của Nhà nước.
Thứ hai, di sản thừa kế là quyền sử dụng đất thường có giá trị lớn và
rất khó trong việc xác định nguồn gốc.
Đất đai là tài nguyên nên con người không thể tạo ra và có ý nghĩa rất
lớn trong cuộc sống của bất kỳ ai, do đó quyền sử dụng đất thường có giá trị
lớn không dễ để bỏ qua quyền dành được tài sản này. Trải qua từng thời kỳ,
chính sách của Nhà nước về đất đai lại có những thay đổi nhất định, cùng với
đó là hàng loạt những văn bản luật được ban hành gây khó khăn trong việc
theo dõi, áp dụng. Việc xác định nguồn gốc đất đai cũng trở nên khó khăn do
quản lý chưa thực sự phù hợp, ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết về
thừa kế quyền sử dụng đất.
Thứ ba, đất đai được phân thành loại được sử dụng ổn định, lâu dài và
loại sử dụng có thời hạn.

16
Người thừa kế quyền sử dụng đất không phải lúc nào cũng được sử
dụng ổn định lâu dài mà trong trường hợp đất sử dụng có thời hạn thì người
thừa kế có thể chỉ được sử dụng trong thời hạn còn lại.
Thứ tư, có sự hạn chế nhất định đối với trường hợp người thừa kế là
người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Hạn chế này cũng là một chính sách đất đai của Nhà nước do đất đai

cần được sử dụng hợp lý, phát huy được tối đa giá trị của nó mà bản thân
người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài lại bị hạn chế về
điều kiện sử dụng đất so với người Việt Nam ở trong nước. Tuy nhiên, hạn
chế cũng có lúc thay đổi, do quan điểm của Nhà nước thay đổi, nhưng nhìn
chung thì đối với các đối tượng này ít nhiều cũng có những khác biệt nhất
định trong việc áp dụng quy định về thừa kế quyền sử dụng đất.
Thứ năm, đăng ký thừa kế là thủ tục bắt buộc.
Thủ tục đăng ký thừa kế được quy định tại Luật Đất đai. Di sản thừa
kế là quyền sử dụng đất thì cần đăng ký thừa kế để thực hiện việc quản lý đất
đai của Nhà nước.
Thứ sáu, về thủ tục giải quyết tranh chấp:
Trong giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, thủ tục hòa
giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã là bắt buộc. Tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất là tranh chấp đất đai, mà tranh chấp đất đai phải thông qua hòa giải ở
cơ sở trước khi nộp đơn xin giải quyết ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khác với thừa kế tài sản khác, khi có tranh chấp, các chủ thể có thể hòa giải
trước, cũng có thể nộp đơn khởi kiện ngay.
Ngoài ra, tranh chấp này có khi được giải quyết bằng con đường hành
chính qua Ủy ban nhân dân thay vì bằng thủ tục tòa án. Do quy định của pháp
luật đất đai, trong một số trường hợp nhất định (thường là do giấy tờ chứng
minh nguồn gốc đất đai chưa rõ), tranh chấp phải được giải quyết tại Ủy ban
nhân dân.

17
Tóm lại, đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất là do điểm đặc thù
của di sản là quyền sử dụng đất chi phối.
1.3. DI SẢN THỪA KẾ LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT (QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT LÀ DI SẢN THỪA KẾ)
1.3.1. Xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
Trải qua các thời kỳ khác nhau thì quan niệm về di sản thừa kế cũng

có những thay đổi. Theo Sắc lệnh 97-SL ngày 22/5/1950 thì di sản thừa kế
bao gồm tài sản và quyền tài sản. Đến Thông tư 594-NCPL năm 1968 và
Thông tư 81 năm 1981 thì di sản thừa kế bao gồm toàn bộ tài sản, quyền tài
sản và nghĩa vụ về tài sản. Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định di sản thừa
kế bao gồm tài sản, quyền tài sản mà không gồm nghĩa vụ về tài sản do người
chết để lại. Điều 637 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định "Di sản bao gồm tài
sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác" và "Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế". Bộ luật Dân
sự năm 2005 cũng quy định di sản tương tự như quy định tại Bộ luật Dân sự
năm 1995 nhưng bỏ quy định về quyền sử dụng đất bởi vì tài sản đã bao gồm
quyền tài sản (quyền sử dụng đất) nên không cần quy định thêm.
Nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại chỉ là trách nhiệm cần phải
thực hiện trong phạm vi di sản mà không được coi là di sản thừa kế. Do đó, di
sản thừa kế chính là toàn bộ tài sản của người chết để lại sau khi đã thanh toán
nghĩa vụ về tài sản và các chi phí khác.
Tài sản bao gồm "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản", nên
quyền sử dụng đất chính là một loại tài sản (quyền tài sản) cũng thuộc di sản
thừa kế. Trước đây theo quy định của Hiến pháp năm 1980, đất đai thuộc sở
hữu toàn dân nên không là đối tượng của thừa kế. Từ khi có Hiến pháp năm
1992, dù đất đai vẫn được quy định thuộc sở hữu toàn dân song người sử
dụng đất vẫn được thực hiện các quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho,

18
thừa kế quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất là quyền phái sinh từ quyền sở
hữu đất, trở thành tài sản của cá nhân và được để lại thừa kế.
Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác" [25].
Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là tài sản riêng của người chết
Tài sản riêng là tài sản không bị ràng buộc với các chủ thể khác, thuộc

sở hữu tư nhân gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Tài
sản của cá nhân và di sản thừa kế đã được mở rộng hơn từ khi có chủ trương
đổi mới nền kinh tế của Nhà nước ta, công nhận nhiều thành phần kinh tế,
nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn tại, phát triển bình đẳng.
Thông thường để xác định quyền sử dụng đất là tài sản riêng của mỗi
người thì căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu giấy chứng
nhận chỉ ghi người đó có quyền sử dụng đất, thì nó thuộc riêng người ghi
trong giấy chứng nhận. Nếu giấy chứng nhận dù ghi tên một người nhưng lại
là người được ủy quyền hay đại diện thì quyền sử dụng đất không là tài sản
riêng của họ.
Trong quá trình giải quyết những vụ việc liên quan đến thừa kế quyền
sử dụng đất, vấn đề xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là tài sản
riêng hay tài sản chung của vợ chồng là một trong những việc khó khăn, dễ
gây nhầm lẫn.
Theo Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì tài sản riêng
của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
khối tài sản riêng này; đồ dùng, tư trang cá nhân. Tài sản riêng không đương

19
nhiên được nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng mà phải có sự thỏa
thuận của hai bên.
Do đó, để xác định quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng về
nguyên tắc cần xác định nguồn tạo lập quyền sử dụng đất phải thuộc Điều 32
Luật Hôn nhân và gia đình. Tức quyền sử dụng đất là tài sản riêng bao gồm:
quyền sử dụng đất có trước khi kết hôn; quyền sử dụng đất được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; quyền sử dụng đất được
chia riêng cho vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Trường hợp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có thể căn cứ
vào nó để xác định tài sản riêng. Theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và
Điều 5 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân
và Gia đình (Nghị định 70) thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng phải ghi tên cả vợ và chồng. Nên nếu giấy chứng nhận
chỉ ghi tên vợ hoặc chồng sau ngày 18/10/2001 (ngày Nghị định 70 có hiệu
lực pháp luật) và có nguồn tạo lập từ Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình thì
suy ra quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng.
Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất là phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác
Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác cũng
thuộc di sản thừa kế. Đây là phần tài sản thuộc hình thức sở hữu chung, gồm
sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất do được thừa kế chung,
tặng cho chung hay cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh
Giống với việc xác định là tài sản riêng của mỗi người, khi xác định
phần tài sản quyền sử dụng đất của người chết trong tài sản chung với người
khác có thể căn cứ vào giấy chứng nhận để xác định hình thức là sở hữu
chung hay riêng, diện tích đất, thời hạn sử dụng đất
Đối với tài sản chung của vợ chồng thì Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia
đình quy định:

20
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng
có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung

khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong
giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản
mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài
sản đó là tài sản chung [21].
Như vậy, có thể xác định tài sản chung của vợ chồng là tài sản được
hình thành từ ít nhất một trong các nguồn:
1- Tài sản do vợ, chồng tạo ra: Dùng tiền lương, tiền thưởng trong
thời kỳ hôn nhân để mua;
2- Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh: tích lũy lao
động hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân;
3- Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân: tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ, chồng có được
hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu (theo thời hiệu )…
trong thời kỳ hôn nhân;
4- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung;

21
5- Những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung: Phải
có sự xác định của công chứng;
6- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng: được Nhà nước cấp, giao, cho thuê sau khi kết hôn dù
chỉ ghi tên một người nhưng vẫn là tài sản chung…
Cần lưu ý là "quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết
hôn" không có nghĩa là bất cứ quyền sử dụng đất nào được xác lập cho vợ,
chồng sau khi kết hôn cũng là tài sản chung. Ví dụ, vợ hoặc chồng sử dụng
tiền do được tặng cho riêng "mua đất" trong thời kỳ hôn nhân thì "đất" đó vẫn

là tài sản riêng.
Quyền sử dụng đất chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất có
thể phân chia, về nguyên tắc khi một bên chết trước tài sản này được chia đôi,
mỗi người một nửa.
Khi căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đối với giấy
chứng nhận ghi tên của cả hai vợ chồng, có nguồn tạo lập từ ít nhất một trong
sáu nguồn trên thì đó là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng. Tuy nhiên nếu
giấy chứng nhận vẫn ghi tên cả vợ và chồng nhưng nguồn tạo lập lại không
thuộc một trong sáu nguồn trên thì đó có thể là tài sản chung theo phần của vợ
chồng, thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. Ví dụ, vợ có 30 triệu đồng
(tiền có được trước khi kết hôn), chồng có 50 triệu đồng (được thừa kế riêng),
hai người cùng góp tiền "mua đất" giá 80 triệu đồng, khi đó quyền sử dụng
đất này là tài sản chung theo phần của vợ chồng (trừ khi hai bên cùng thỏa
thuận nhập vào khối tài sản chung, thì nó lại thuộc tài sản chung hợp nhất).
Trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên vợ hoặc
chồng thì vẫn có thể là tài sản chung của vợ chồng như: đất được Nhà nước
cấp, giao, cho thuê sau khi kết hôn; đất có chứng cứ chứng minh nguồn thuộc
một trong sáu nguồn nêu trên; đất được đăng ký trước ngày 18/10/2001 (ngày

22
Nghị định 70 có hiệu lực pháp luật) và không có bên nào có chứng cứ chứng
minh được đó là tài sản riêng.
* Dù quyền sử dụng đất là tài sản riêng hay tài sản chung với người khác
thì nó đều phải là tài sản hợp pháp của người chết. Muốn vậy, quyền sử dụng
đất cần phải được xác lập dựa trên những căn cứ hợp pháp. Theo Điều 688 Bộ
luật Dân sự năm 2005 thì quyền sử dụng đất được xác lập dựa trên những căn
cứ: do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất;
được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật
Dân sự và pháp luật về đất đai. Nhà nước giao đất bằng quyết định hành chính
và cho thuê đất thông qua hợp đồng dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư
nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt; Nhu cầu sử
dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất. Có hai hình thức giao đất là giao đất không thu tiền sử dụng
đất và giao đất có thu tiền sử dụng đất. Cho thuê đất thì có thu tiền thuê đất
hàng năm và thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.
Ngoài ra còn một số căn cứ khác cũng xác lập quyền sử dụng đất cho
các chủ thể như bản án, quyết định giải quyết tranh chấp của Tòa án; quyết
định thi hành án; quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan có thẩm
quyền khác… (dựa vào Điều 50 Luật Đất đai năm 2003).
Mặc dù vậy, do chính sách đất đai có nhiều thay đổi, việc quản lý
chưa thật sự hợp lý, hàng loạt các văn bản luật về đất đai được ban hành, sửa
đổi, có khi còn mâu thuẫn, chồng chéo, tất cả điều đó làm cho việc xác định
quyền sử dụng đất là di sản thừa kế trở nên hết sức khó khăn, phức tạp, như:
Do cải cách ruộng đất, một hoặc một số người đứng ra kê khai, đứng
tên trong sổ địa chính nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì đó có được coi là quyền sử dụng đất hợp pháp của người đó và được
để lại thừa kế hay không.

23
Hay như vào thời điểm sau khi Hiến pháp năm 1980 ra đời, mặc dù
chủ thể sử dụng đất là hợp pháp, nhưng quyền sử dụng đất đó không được coi
là tài sản được để lại thừa kế.
Tiếp đó đến Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật Đất đai năm 1993 thì
quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng
thủy sản của cá nhân muốn được để lại thừa kế thì những người thừa kế phải
đảm bảo một số điều kiện nhất định (có nhu cầu, có điều kiện trực tiếp sử
dụng đất đúng mục đích, chưa có đất…); nếu đất đó giao cho hộ gia đình, khi
thành viên trong hộ chết cũng không được để lại thừa kế. Tức là có trường
hợp dù quyền sử dụng đất là tài sản hợp pháp của cá nhân nhưng lại không thể

trở thành di sản thừa kế.
Việc xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đã có sự thay đổi,
mở rộng, thông thoáng hơn khi Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật Dân sự năm
2005 được ban hành. Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định việc thừa kế chung
cho các loại đất: cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển
quyền sử dụng đất thì có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất; hộ gia đình
được nhà nước giao đất khi trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất
của thành viên đó sẽ được để lại cho những người thừa kế. Điều 113 Luật Đất
đai 2003 quy định về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
không phải là đất thuê, trong đó khoản 5 quy định: "Cá nhân có quyền để thừa
kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Hộ gia đình
được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng
đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật" [24].
Đối với quyền sử dụng đất thuê theo Luật Đất đai năm 2003 chỉ có thể
được để lại thừa kế nếu đất đó được Nhà nước cho thuê trước ngày 1/7/2004
và đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trước tiền thuê đất cho
nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 05 năm.
* Để thực hiện được việc thừa kế quyền sử dụng đất hay nói cách khác
muốn quyền sử dụng đất được để lại thừa kế thì còn cần phải đảm bảo các

24
điều kiện theo Điều 106 Luật Đất đai 2003: Có Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; Đất không có tranh chấp; Quyền sử dụng đất không bị kê biên để
đảm bảo thi hành án; Trong thời hạn sử dụng đất. Đối với điều kiện phải có
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Điều 146 Luật Đất đai hướng dẫn
trong thời hạn hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
Chính phủ quy định thì người đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ quy
định tại khoản 1,2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai cũng được thực hiện quyền
thừa kế, tức là đến thời điểm này không nhất thiết là phải có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.

Khi giải quyết những vụ việc về thừa kế, các Tòa án đã gặp phải rất
nhiều khó khăn khi xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất. Do đó, để
thống nhất trong quá trình giải quyết các tranh chấp trong đó có tranh chấp về
thừa kế, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 (Nghị quyết 02) xác định di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất như sau:
- Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài
sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người
đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm
1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử
dụng đất đó là di sản.
- Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó
có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất
đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế [33].
1.3.2. Thời hạn sử dụng đất
Khác với những tài sản khác, người có đất không được sử dụng đất
bao lâu tùy ý của mình mà phụ thuộc vào thời hạn sử dụng đất do luật quy
định, dựa trên căn cứ loại đất và mục đích sử dụng đất. Xét một cách tổng thể,

25
đối với đất được sử dụng ổn định, lâu dài thì khi được thừa kế, người thừa kế
sẽ tiếp tục được sử dụng ổn định, lâu dài; đất sử dụng có thời hạn thì người
thừa kế chỉ được sử dụng thời hạn còn lại sau khi người để lại di sản chết.
Đối với nhóm đất nông nghiệp:
Thời hạn trong trường hợp giao đất, cho thuê đất:
- Người sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài đối với các
trường hợp: Đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng; Đất nông nghiệp do cộng
đồng dân cư sử dụng.
- Thời hạn giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm

muối cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là hai mươi năm; đối với đất trồng cây
lâu năm, đất rừng sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là năm mươi năm.
- Thời hạn cho thuê đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản,
đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là không quá hai mươi năm;
thời hạn cho thuê đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng là không quá năm mươi năm.
- Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức kinh tế, đối với người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại khoản 3 Điều 67
Luật Đất đai thì không quá năm mươi năm; đối với một số dự án đặc biệt có
thể thời hạn dài hơn nhưng không quá bảy mươi năm.
Khi hết thời hạn, người sử dụng đất có thể được Nhà nước xem xét
tiếp tục giao đất, cho thuê đất, gia hạn sử dụng đất nếu thấy phù hợp.
Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức do được giao trước
ngày 01 tháng 01 năm 1999 bằng một phần hai thời hạn quy định tại khoản 1
Điều 67 Luật Đất đai năm 2003, sau đó phải chuyển sang thuê đất.
- Đối với loại đất nông nghiệp khác: Thời hạn giao đất đối với hộ gia
đình, cá nhân là năm mươi năm; thời hạn cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá

26
nhân là không quá năm mươi năm; thời hạn giao đất hoặc cho thuê đất đối với
tổ chức kinh tế là không quá năm mươi năm và trường hợp đặc biệt là không
quá bảy mươi năm.
- Trường hợp cho thuê đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 thì thời
hạn được xác định theo hợp đồng thuê đất.
Thời hạn sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất và nhận
chuyển quyền sử dụng đất:
Thời hạn sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất thường được
xác định theo thời hạn của loại đất sau khi được chuyển mục đích sử dụng.
Thời hạn sử dụng đất khi nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với loại
đất có quy định thời hạn là thời gian sử dụng đất còn lại của thời hạn sử dụng đất

trước khi chuyển quyền sử dụng đất; đối với đất được sử dụng ổn định lâu dài
thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất cũng được sử dụng đất ổn định lâu dài.
Đối với nhóm đất phi nông nghiệp
Thời hạn trong trường hợp giao đất, cho thuê đất:
Hầu hết các loại đất thuộc nhóm đất này đều được sử dụng ổn định lâu
dài. Một số các trường hợp sử dụng có thời hạn như:
Giao đất, cho thuê đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh
doanh; thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều 67 Luật Đất đai
năm 2003 thì thời hạn không quá năm mươi năm, trường hợp đặc biệt có thể
lên đến bảy mươi năm và có thể gia hạn nếu cần thiết.
Thời hạn cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước
ngoài có chức năng ngoại giao là không quá chín mươi chín năm, có thể được
gia hạn thêm.
Thời hạn cho thuê đất thuộc quy đất nông nghiệp sử dụng vào mục
đích công ích của xã, phường, thị trấn là không quá năm năm.

×