Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.47 KB, 142 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHAN THÙY DƢƠNG



THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ NUÔI CON NUÔI QUA THỰC TIỄN
TẠI THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Phƣơng Lan



HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Phan Thùy Dƣơng















MỤC LỤC

Trang bìa phụ
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 6
6. Điểm mới và đóng góp của đề tài nghiên cứu 6
7. Kết cấu của luận văn 7
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
NUÔI CON NUÔI VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT NUÔI
CON NUÔI 8
1.1 Lý luận chung về nuôi con nuôi và pháp luật nuôi con nuôi 8
1.1.1 Khái niệm chung về nuôi con nuôi 8
1.1.2 Khái niệm chung về pháp luật nuôi con nuôi 13
1.1.3 Sự cần thiết phải điều chỉnh việc nuôi con nuôi bằng pháp luật. 16
1.2 Lý luận chung về thực hiện pháp luật nuôi con nuôi 22
1.2.1 Khái niệm chung về thực hiện pháp luật 22
1.2.2 Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi 25
1.3 Đặc điểm của việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi 30
1.4 Ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật nuôi con nuôi 32
Chƣơng 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI TẠI
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG NHỮNG NĂM QUA 35
2.1 Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi 35
2.1.1 Nguyên tắc tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi
trường gia đình gốc 36
2.1.2 Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được
nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng,
không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội 39

2.1.3 Chỉ cho làm con nuôi người nước ngoài khi không thể tìm được
gia đình thay thế ở trong nước 42
2.2 Thực hiện các điều kiện của việc nuôi con nuôi 46
2.2.1 Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi 47
2.2.2 Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi 50
2.2.3 Ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi 53
2.2.4 Đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền 58
2.3 Các biện pháp tìm gia đình thay thế cho trẻ em 63
2.3.1 Nguyên tắc tìm gia đình thay thế cho trẻ em 64
2.3.2 Các biện pháp tìm gia đình thay thế cho trẻ em 66
2.4 Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi 69
2.4.1 Trong quan hệ giữa cha mẹ nuôi, gia đình cha mẹ nuôi với con nuôi 69
2.4.2 Quan hệ giữa cha mẹ đẻ, gia đình cha mẹ đẻ với con đã cho làm
con nuôi 74
2.5 Chấm dứt việc nuôi con nuôi 76
2.5.1 Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi 77
2.5.2 Thủ tục giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi 80
2.5.3 Hệ quả pháp lý của chấm dứt việc nuôi con nuôi 81
Chƣơng 3: VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC NUÔI CON
NUÔI TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 84
3.1 Khái quát một vài nét về tình hình nuôi con nuôi tại Thừa
Thiên Huế từ năm 2001 đến 2011 84
3.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên 84
3.1.2 Tình hình chung về nuôi con nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế 85
3.1.3 Hoàn cảnh trẻ được cho làm con nuôi 95
3.1.4 Vấn đề nuôi con nuôi thực tế mà chưa đăng ký 101
3.1.5 Về thực hiện quan hệ cha mẹ và con giữa các bên khi việc nuôi
con nuôi được công nhận tại tỉnh Thừa Thiên Huế 106

3.2 Một số khó khăn vƣớng mắc trong thực thi pháp luật nuôi
con nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế những năm qua 110
3.2.1 Những khó khăn, vướng mắc trong thực tế giải quyết việc nuôi
con nuôi 110
3.2.2 Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc 122
3.3 Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả của việc nuôi con
nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế 125
3.3.1 Cần hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi 125
3.3.2 Tăng cường vai trò của Cơ quan con nuôi Trung ương 127
3.3.3 Về cơ chế 128
3.3.4 Vấn đề tổ chức thực hiện tại địa phương 129
KẾT LUẬN 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO 132






DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
:
Bộ luật Dân sự
CHXHCN
:
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
HN&GĐ
:
Hôn nhân và gia đình
ISS

:
Tổ chức dịch vụ xã hội quốc tế (International
Social Service)
TAND
:
Tòa án nhân dân
UBND
:
Ủy ban nhân dân
Công ước Lahay 1993
:
Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế
Luật Nuôi con nuôi
:
Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12
ngày 17/6/2010
Luật HN&GĐ
:
Luật Hôn nhân và gia đình số 22/2000-
QH10 ngày 22/6/2000
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
:
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày
10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật HN&GĐ về
quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
:
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày

27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và
quản lý hộ tịch
Nghị định số 69/2006/NĐ-CP
:
Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày
21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
Nghị định số 76/2006/NĐ-CP
:
Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày
08/02/2006 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp
Nghị định số 60/2009/NĐ-CP
:
Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày
23/7/2009 của Chính phủ về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực tư pháp
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP
:
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi
Thông tư số 08/2006/TT-BTP
:
Thông tư số 08/2006/TT-BTP ngày
08/12/2006 của Bộ Tư pháp hướng dẫn
thực hiện một số quy định về nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài
Thông tư số 01/2008/TT-BTP
:

Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày
02/6/2008 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
Thông tư số 12/2011/TT-BTP
:
Thông tư số 12/2011/TT-BTP ngày
27/6/2011 của Bộ Tư pháp về việc ban
hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ,
sử dụng biểu mẫu nuôi con nuôi



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở các quốc gia và đều
được pháp luật các nước điều chỉnh. Chế định nuôi con nuôi được các quốc
gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì nó là sự bảo vệ pháp lý rất
cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho những trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt cần có mái ấm gia đình, đồng thời đáp ứng nhu cầu chính
đáng của những người nhận con nuôi như: vợ chồng hiếm muộn, vô sinh,
phụ nữ sống đơn thân
Vấn đề nuôi con nuôi luôn được Chính phủ Việt Nam quan tâm và vào
mỗi giai đoạn nhất định Nhà nước đều ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi. Năm 2010 Luật Nuôi con nuôi đã
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và đây
là đạo luật về nuôi con nuôi đầu tiên của Việt Nam.
Trong những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta đã góp

phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình; động viên, khơi dậy tinh
thần nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền
thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cha, mẹ nuôi, giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm
trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi như con đẻ. Tuy nhiên trong thực
tế việc hiểu và thực hiện các quy định về nuôi con nuôi còn chưa đúng, chưa
đầy đủ, thậm chí còn có những sai phạm, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
của trẻ em, nhất là quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi. Trong quá trình
tiến hành các thủ tục cho nhận con nuôi, đặc biệt trong việc cho trẻ em làm
con nuôi người nước ngoài còn có hiện tượng vi phạm pháp luật như cố ý làm
sai lệch nguồn gốc của trẻ, không đảm bảo quyền tìm người thân thích của trẻ
2

trước khi cho trẻ làm con nuôi, một số trường hợp cho trẻ em làm con nuôi vì
mục đích vụ lợi, hoặc các mục đích khác trái pháp luật và đạo đức xã hội
Trong quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi còn tồn tại hiện tượng xâm phạm
nghiêm trọng quyền của trẻ em như bóc lột sức lao động của trẻ, lạm dụng
tình dục, bạo hành, ngược đãi đối với con nuôi
Các văn bản pháp luật trước đây cũng như Luật Nuôi con nuôi đã có
những quy định cụ thể, điều chỉnh về lĩnh vực nuôi con nuôi, song vẫn còn
nhiều vấn đề tồn tại giữa lý luận và thực tế trong quá trình thực hiện pháp luật.
Trong thực tiễn thực hiện pháp luật nuôi con nuôi cũng còn nhiều vấn đề bất
cập, vướng mắc, ngay cả ở địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Việc nghiên cứu thực
tiễn thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi ở Thừa Thiên Huế là cần thiết, nhằm
đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những điểm còn hạn chế của
pháp luật nuôi con nuôi hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nuôi con nuôi đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước thực hiện bởi các công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau như:

Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp trong chương trình hợp tác với Quỹ Nhi
đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) đã có chuyên đề về “Chế định nuôi con nuôi
trong pháp luật Việt Nam và quốc tế”, năm 1998; Năm 2009, tổ chức dịch vụ
xã hội quốc tế (ISS) tiến hành đánh giá độc lập về tình hình nhận con nuôi từ
Việt Nam dưới sự đồng ý của cơ quan UNICEF tại Hà Nội và Cục Con nuôi
Bộ Tư pháp về “Nhận nuôi con nuôi từ Việt Nam”; năm 2010 Chính phủ Việt
Nam và Unicef đã có “Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam”.
Những tài liệu này đã giới thiệu khái quát về chế định nuôi con nuôi trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, nêu thực trạng về nuôi con nuôi tại một số địa
phương và giới thiệu về pháp luật nuôi con nuôi của một số nước. Bên cạnh
đó còn có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, đề tài luận văn, các bài bình luận
đã được công bố như:
3

- Luận án tiến sĩ Luật học: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp
lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Phương Lan, Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2007;
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của Trường Đại học Luật Hà
Nội: Hoàn thiện chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam, chủ nhiệm
đề tài Ngô Thị Hường, năm 2007;
- Luận văn thạc sỹ luật học: Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi
con có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Trinh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2010;
Những công trình trên đã phân tích và nêu ra một số tồn tại, bất cập
trong các quy định về nuôi con nuôi của Luật Hôn nhân và gia đình cũng như
các văn bản quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi hiện hành.
Ngoài ra còn có bài viết nghiên cứu về lĩnh vực nuôi con nuôi như:
“Bản chất pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Phương Lan đăng trên Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội số 3 năm 2004; “Cần quy định cụ thể việc nuôi con nuôi” của tác giả

Nguyễn Thanh Xuân trên tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp số 11 năm
2010; “Về việc nuôi con nuôi giữa bố dượng hoặc mẹ kế và con riêng của vợ
hoặc chồng theo Luật Nuôi con nuôi” của tác giả Nguyễn Thị Lan trên tạp chí
Luật học, trường đại học Luật Hà Nội số 8 năm 2011; “Hệ quả pháp lý của
việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Phương Lan đăng trên Tạp chí Luật học số 10 năm 2011 và nhiều công trình
nghiên cứu, bài viết khác.
Nhìn chung các công trình, xuất bản phẩm trên đây đã được các tác
giả nghiên cứu nghiêm túc và có nhiều đóng góp cơ bản cả về lý luận và
thực tiễn về thực hiện pháp luật liên quan đến lĩnh vực nuôi con nuôi trong
nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
4

có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, riêng biệt trong việc
thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Vì
vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực hiện pháp luật về nuôi con
nuôi qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn thạc sĩ là cần
thiết và không có sự trùng lặp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và những quy định cơ bản
của pháp luật nuôi con nuôi để đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về
nuôi con nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, qua đó rút ra những kết
quả đã đạt được cũng như phát hiện những vướng mắc, bất cập, những tồn
tại cần tháo gỡ trong lĩnh vực nuôi con nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ
đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi và các biện
pháp tăng cường vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con
nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nhằm đảm bảo tốt hơn quyền của trẻ
em được nhận nuôi.
- Nhiệm vụ nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nuôi con nuôi và pháp luật nuôi
con nuôi.
- Phân tích các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi
- Nghiên cứu, tìm hiểu tình hình thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi
tại tỉnh Thừa Thiên Huế, qua đó đánh giá việc thực hiện pháp luật về nuôi con
nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Nghiên cứu, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn
thực hiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế.
5

- Nghiên cứu, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nuôi
con nuôi và một số giải pháp nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật về nuôi
con nuôi có hiệu quả.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nuôi con nuôi và pháp luật nuôi
con nuôi.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về nuôi con nuôi.
- Nghiên cứu thực trạng nuôi con nuôi và việc thực hiện pháp luật nuôi
con nuôi trên thực tế tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu các văn bản pháp luật điều chỉnh việc nuôi con nuôi được
quy định trong Bộ Luật dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, Luật Nuôi con nuôi năm 2010, có sự so sánh với các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi qua các giai đoạn
khác nhau.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện việc nuôi con nuôi trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế từ năm 2001 đến 2011 (từ thời điểm Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2000 có hiệu lực).
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi phân tích chủ yếu là các quy định
của pháp luật hiện hành về nuôi con nuôi, tức là phân tích các quy định về
nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi và các văn bản dưới luật có liên quan,
đồng thời có sự so sánh với các quy định tương ứng của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000. Tuy nhiên vì Luật nuôi con nuôi mới có hiệu lực, thời gian
thực hiện áp dụng chưa được bao lâu, nên tình hình thực hiện pháp luật về
nuôi con nuôi tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế được nghiên cứu trong khoảng
thời gian từ năm 2001 đến nay, tức là cả trong thời gian Luật Hôn nhân và gia
6

đình năm 2000 có hiệu lực, có so sánh với việc thực hiện Luật Nuôi con nuôi.
Trong phạm vi của luận văn thạc sĩ, chỉ nghiên cứu việc thực hiện một
số các quy định về việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi, còn các quy định khác
như các quy định điều chỉnh hoạt động của các tổ chức con nuôi nước ngoài ở
Việt Nam hoặc vấn đề về phí, lệ phí đăng ký việc nuôi con nuôi… không
nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật và duy vật lịch sử của Triết học Mác- Lê Nin; đồng thời sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp phân tích, so sánh; phương pháp khảo
sát, điều tra xã hội học về nhận thức và thực tiễn áp dụng pháp luật của người
dân đối với vấn đề nuôi con nuôi.
Việc thực hiện đề tài sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá các quy định của pháp luật điều
chỉnh vấn đề nuôi con nuôi qua các giai đoạn khác nhau nhằm làm sáng tỏ các
vấn đề cần nghiên cứu.
6. Điểm mới và đóng góp của đề tài nghiên cứu
Với tính chất là một đề tài nghiên cứu một cách khá toàn diện, có hệ
thống các vấn đề về cơ sở lý luận của pháp luật về nuôi con nuôi và thực tiễn

thực hiện pháp luật pháp luật nuôi con nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế,
kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại một số đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề tồn tại
về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi từ đó đề xuất
một số kiến nghị về phương hướng xây dựng và áp dụng pháp luật.
Thứ hai, khẳng định trên cơ sở khoa học về mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn trong việc tuân thủ, thi hành, áp dụng luật nuôi con
nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Thông qua đó, góp phần tăng cường
7

hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi tại địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Thứ ba, góp phần nâng cao nhận thức cho người dân, cho các cán bộ
nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực nuôi con nuôi những hiểu biết pháp
luật về nuôi con nuôi, đặc biệt là quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; góp
phần ổn định các quan hệ xã hội dân sự, phục vụ tích cực cho đời sống xã hội
trên cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền.
Thứ tư, khẳng định bản chất tiến bộ, dân chủ và ngày càng phù hợp với
thông lệ quốc tế và pháp luật quốc tế của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi.
Thứ năm, đề xuất các biện pháp để Luật Nuôi con nuôi đi vào đời sống xã
hội nói chung và ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật nuôi con nuôi và
thực hiện pháp luật nuôi con nuôi
Chương 2: Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi tại tỉnh Thừa Thiên
Huế trong những năm qua
Chương 3: Vướng mắc, bất cập trong thực hiện pháp luật về nuôi con

nuôi và một số giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả của việc nuôi con nuôi tại
tỉnh Thừa Thiên Huế



8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON
NUÔI VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI

1.1 Lý luận chung về nuôi con nuôi và pháp luật nuôi con nuôi
1.1.1 Khái niệm chung về nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Vấn
đề con nuôi liên quan không chỉ đến các quan hệ gia đình, quan hệ dân sự mà
nó còn liên quan đến những vấn đề chính trị- xã hội rộng lớn khác. Ngay từ
thời La Mã cổ đại đã hình thành chế định pháp luật về nuôi con nuôi. Ở Việt
Nam vấn đề con nuôi cũng đã được quy định trong pháp luật từ thời phong
kiến, tiêu biểu là trong bộ Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Hai Bộ
luật này thể hiện rõ nét phong tục, tập quán truyền thống của người Việt Nam
về gia đình và quy định điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi trong thời kỳ đó.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam tập 3 của Nhà xuất bản từ điển bách
khoa, Hà Nội, năm 2003, thì: “Nuôi con nuôi là việc một người (người nuôi)
nhận nuôi người khác (con nuôi) nhằm tạo ra những tình cảm gắn bó giữa hai
người, bảo đảm cho người con nuôi được thương yêu, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục tốt. Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã/phường/thị trấn
(UBND cấp xã) nơi người nuôi và của con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ
tịch. Thông qua sự kiện pháp lý này giữa người nuôi và con nuôi phát sinh
các quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ” [38, tr.316].
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập

quan hệ cha, mẹ, con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm
con nuôi” [29, Đ.3]. Ta có thể xem xét khái niệm về nuôi con nuôi dưới hai
góc độ: Góc độ xã hội và góc độ pháp lý:
9

- Dưới góc độ xã hội
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội hình thành một cách tự nhiên
trong đời sống của con người, nó xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử, thể
hiện sự gắn bó giữa con người với nhau trên cơ sở vì lợi ích chung, nhằm đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của con người và mang tính nhân đạo sâu sắc. Khi một
cá nhân được tiếp nhận vào một gia đình và tạo ra những liên hệ mới mang
tính chất gia đình mới, thay thế một phần hoặc toàn bộ mối liên hệ ruột thịt
trước đây, những quan hệ mang tính chất gia đình này có giá trị như mối quan
hệ huyết thống và được xã hội thừa nhận.
Quan hệ nuôi con nuôi có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như nuôi con
nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi lập tự, nuôi con nuôi trên danh
nghĩa, nuôi con nuôi lấy phúc…Mặc dù các hình thức nuôi con nuôi này tồn
tại và xác lập các quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con, nhưng các hình
thức trên đều không được pháp luật ghi nhận. Các hình thức nuôi con nuôi
này trên thực tế đã hình thành quan hệ cha, mẹ và con, giữa họ đã tồn tại tình
cảm yêu thương, chăm sóc, nhưng quan hệ nuôi dưỡng này thường chỉ tồn tại
trên danh nghĩa giữa bên nhận nuôi và bên được nhận nuôi chứ không có ý
nghĩa về mặt pháp luật. Vì vậy, về nguyên tắc những hình thức nuôi con nuôi
nói trên không được công nhận về mặt pháp lý mà chỉ mới đáp ứng được nhu
cầu về tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi.
Dưới góc độ xã hội thì nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ
và con trên thực tế giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi nhằm
đáp ứng những nhu cầu về tình cảm và lợi ích giữa người nhận nuôi và
người được nhận nuôi.
- Dưới góc độ pháp lý

Dưới góc độ pháp lý, nuôi con nuôi là một chế định đã xuất hiện từ lâu
trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha,
10

mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi
dựa trên cơ sở ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi có thể được xem xét dưới các góc độ:
Thứ nhất: Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý
Từ góc độ lý luận chung, sự kiện pháp lý là những hoàn cảnh, tình
huống, điều kiện của đời sống thực tế, được ghi nhận trong phần giả định của
các quy phạm pháp luật mà nhà làm luật gắn với sự phát sinh, thay đổi và
chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể khi chúng xảy ra. Như vậy, không phải tất
cả các sự kiện xảy ra, mà chỉ những sự kiện xã hội nào có ý nghĩa pháp lý mà
nhà làm luật thừa nhận trong các quy phạm pháp luật tương ứng. Một sự kiện
pháp lý có thể làm phát sinh một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp
luật, hoặc cũng có nhiều trường hợp phải có nhiều sự kiện pháp lý mới làm
phát sinh quan hệ pháp luật [11].
Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật nuôi con nuôi được
hiểu là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con khi được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Sự kiện pháp lý của việc nuôi con
nuôi bao gồm: Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi, ý chí của cha
mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi, ý chí của bản
thân người con nuôi (theo độ tuổi nhất định do pháp luật quy định) và ý chí
của Nhà nước.
+ Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi. Người nhận nuôi con
nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và
thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó.
+ Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được
cho làm con nuôi. Ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con
nuôi phải tự nguyện, không có bất cứ sự tác động, dụ dỗ, ép buộc nào.

+ Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi. Pháp luật quy định trẻ
11

em từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có
liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình; sự đồng ý làm con nuôi của trẻ từ
đủ 9 tuổi trở lên là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lí.
Thể hiện quyền cơ bản của trẻ em trong việc bày tỏ ý kiến của mình.
+ Sự thể hiện ý chí của Nhà nước. Ý chí của Nhà nước được thể hiện
qua việc công nhận (hay không công nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ
tục đăng kí việc nuôi con nuôi (hay từ chối việc đăng kí nuôi con nuôi). Việc
nuôi con nuôi được công nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát
sinh hiệu lực pháp lí của việc nuôi con nuôi [20].
Việc nuôi con nuôi là tập hợp các sự kiện pháp lí. Nếu thiếu đi một
trong các sự kiện cấu thành tập hợp đó thì không làm phát sinh quan hệ pháp
luật cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và đứa trẻ được nhận nuôi.
Vậy, dưới góc độ là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi được hiểu là việc
một người (hoặc hai người là vợ chồng) nhận nuôi dưỡng người khác không do
họ sinh ra, nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ, con giữa người nhận nuôi và người
được nhận nuôi trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật [20].
Thứ hai: Nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội đặc biệt nảy sinh do sự tác
động hữu cơ giữa quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý tương ứng làm xuất
hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể [13]. Quan hệ pháp luật nuôi
con nuôi là dạng quan hệ xã hội đặc trưng bởi sự hiện diện và tương tác về
quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa các bên có liên quan trong việc cho, nhận con
nuôi và được các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng giữa các chủ thể, trên cơ sở quan hệ
cha, mẹ, con hợp pháp giữa người nhận và người được nhận làm con nuôi. Do
đó, quan hệ pháp luật nuôi con nuôi cũng có đầy đủ các yếu tố về chủ thể,
khách thể và nội dung.

12

+ Về chủ thể của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi: bao gồm cha mẹ đẻ,
cha mẹ nuôi và con nuôi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp
luật. Đối với cha mẹ nuôi phải đáp ứng đủ điều kiện quy định tại Điều 14
Luật Nuôi con nuôi; đối với con nuôi phải đáp ứng điều kiện quy định tại
Điều 8 Luật Nuôi con nuôi; đối với cha mẹ đẻ phải xác định được hậu quả
pháp lý sau khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Sự thể hiện ý chí của các
bên là điều kiện tiên quyết và có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ nuôi con
nuôi, để tránh tình trạng xảy ra tranh chấp và đảm bảo cuộc sống ổn định cho
con nuôi sau này.
+ Về khách thể của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là những lợi ích
vật chất hoặc tinh thần mà các bên cùng mong muốn là chung sống với nhau
và xác lập quan hệ cha, mẹ, con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất cho các
bên. Những lợi ích về tinh thần trong quan hệ nuôi con nuôi rất đa dạng, có
thể là sự thỏa mãn mong muốn có con, có chỗ dựa lúc tuổi già, sự hướng
thiện, niềm tin, đạo đức…; những lợi ích vật chất có thể là điều kiện ăn ở, học
hành, khám chữa bệnh…
+ Về nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi: Quan hệ nuôi con
nuôi được xác lập làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, không chỉ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi mà còn đối với cả cha mẹ đẻ. Giữa các chủ thể
này có những quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng trên cơ sở phát sinh quan
hệ cha, mẹ và con hợp pháp giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi.
Quyền và nghĩa vụ đó tạo thành nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi
và được pháp luật quy định cụ thể, đảm bảo phù hợp với bản chất của mối
quan hệ nuôi con nuôi.
Việc đưa ra khái niệm nuôi con nuôi dưới các góc độ khác nhau để có
cách nhìn nhận toàn diện, chính xác về việc nuôi con nuôi cũng như quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ và con trong quan hệ nuôi con nuôi, là cơ sở khoa học
để nghiên cứu pháp luật về nuôi con nuôi.

13

1.1.2 Khái niệm chung về pháp luật nuôi con nuôi
Quan hệ nuôi con nuôi đã được điều chỉnh từ rất lâu trong lịch sử pháp
luật thế giới, từ thời La Mã cổ đại đã hình thành chế định về pháp luật nuôi
con nuôi. Ở Việt Nam vấn đề nuôi con nuôi cũng đã được quy định trong
pháp luật từ thời phong kiến mà tiêu biểu là bộ Quốc triều hình luật và Hoàng
việt luật lệ, mặc dù hai bộ luật này mang bản chất giai cấp phong kiến song
vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ.
Trong lĩnh vực quan hệ gia đình, bộ Quốc triều hình luật đã điều chỉnh
các quan hệ như quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái,
giữa các thân thuộc khác như: quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ và nhà chồng, anh-
chị-em…Việc nuôi con nuôi được quy định tại các Điều 380, 381, 506 theo
đó việc nhận nuôi con nuôi phải được lập thành văn bản và phải đối xử như
con đẻ, ngược lại, con nuôi phải có nghĩa vụ như con đẻ đối với cha mẹ nuôi.
Bộ Hoàng việt luật lệ được ban hành dưới triều Nguyễn, đã có những
quy định về nghĩa tử và nghĩa dưỡng. Tử hệ nghĩa dưỡng là một tử hệ giả
tạo (hay nhân tạo) được thiết lập bởi ý chí của các cá nhân trong những
hoàn cảnh và thể thức được luật pháp chuẩn nhận, nó cũng phát sinh những
tương quan pháp lý tương tự như trong tử hệ tự nhiên, nhưng theo các điều
kiện nhất định như: có thể nuôi một người đồng tông hay khác họ, trường
hợp nếu biết rõ cha mẹ đẻ của dưỡng tử thì việc nhận dưỡng tử phải được
cha mẹ đẻ của nó ưng thuận…
Dưới thời Pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba kỳ là Nam kỳ, Bắc kỳ,
và Trung kỳ. Thực dân Pháp đã ban hành Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ áp
dụng ở Nam kỳ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đã Nẵng; Bộ dân luật
Bắc kỳ được ban hành để thi hành trên toàn Bắc kỳ thay cho Bộ luật Gia Long
và Bộ luật dân sự Trung kỳ để thi hành trên toàn Trung kỳ. Về quan hệ gia
đình, các bộ luật này đã quy định về vấn đề nuôi con nuôi. Trong đó quy định
14


khá cụ thể về hình thức (thể thức) của việc nhận con nuôi; về điều kiện lập
con nuôi; về quan hệ giữa con nuôi với gia đình cha mẹ đẻ; về quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi. Đây là một trong những điểm tiến bộ được
ghi nhận trong Bộ Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ là đã có những điều
khoản quy định về nghĩa vụ của cha mẹ với con cái nói chung và con nuôi nói
riêng rất tiến bộ. Với những điều khoản này, các Bộ Dân luật thời kì này đã
đánh dấu một bước tiến mới trong việc đề cao quyền con người đối với trẻ em
nói chung và trẻ em được nhận làm con nuôi nói riêng trong gia đình Việt
Nam dưới thời Pháp thuộc. Ngoài nghĩa vụ cơ bản như bất kỳ triều đại nào
trước đó là cha mẹ nuôi có nghĩa vụ nuôi nấng, chăm sóc, dạy bảo con nuôi,
Điều 193 Dân luật Bắc kỳ và Điều 192 Dân luật Trung kỳ còn nói rõ “cha mẹ
nuôi phải đối đãi con nuôi cũng như con đẻ”; ngược lại người con nuôi đối
với cha mẹ nuôi phải chịu các nghĩa vụ và phận sự như con đẻ; Luật cũng
quy định chế tài đối với người đứng nuôi nếu để con nuôi phải thiếu thốn,
hoặc đối đãi tàn nhẫn thì tòa đệ nhị cấp có thể tuyên án tước bỏ người đứng
nuôi (Điều 201 Bộ Dân luật Bắc kỳ và Điều 200 Bộ Dân luật Trung kỳ). Việc
quy định chế tài này cũng là một điểm tiến bộ đáng kể trong pháp luật
nuôi con nuôi thời kỳ này.
Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945, tại Hiến pháp đầu tiên năm 1946,
Nhà nước Việt Nam đã công nhận và bảo vệ tất cả các quyền của công dân về
chính trị, kinh tế, văn hóa trong đó có quyền được chăm sóc nuôi dưỡng của
trẻ em, Điều 14 Hiến pháp ghi nhận “ trẻ em được săn sóc về mặt giáo
dưỡng”. Những quy định về nuôi con nuôi bước đầu mang tính “khai phá” là
các quy định cơ sở. Đến Hiến pháp năm 1959 là cơ sở pháp lí quan trọng để
điều chỉnh quan hệ gia đình trong thời kì này, sau đó Luật HN&GĐ cũng đã
được ban hành vào ngày 29/12/1959, Luật HN&GĐ năm 1959 là đạo luật đầu
tiên của nhà nước ta điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi. Tuy nhiên, vấn đề nuôi
15


con nuôi mới chỉ được quy định rất sơ sài bởi một điều luật (Điều 24). Ở miền
Bắc, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 04 ngày 16/01/1961 kèm
theo Điều lệ về đăng kí hộ tịch. Ngày 21/06/1961, Bộ Nội vụ ban hành Thông
tư số 05/NV hướng dẫn thi hành Điều lệ về đăng kí hộ tịch nói trên. Ở miền
Nam, cũng trong giai đoạn này, chính quyền Ngụy Sài Gòn đã ban hành Bộ
Dân luật ngày 20/12/1972.
Sau khi đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta bước
sang một thời kỳ mới. Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời và đã ghi rõ mục đích
của việc nuôi con nuôi là “nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con
nuôi trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành
niên được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt” (Điều 34); Nhà nước Việt
Nam luôn “khuyến khích việc nhận các trẻ em mồ côi làm con nuôi” (Điều
38). Luật cũng đã quy định điều kiện về con nuôi và nhận nuôi con nuôi, thủ
tục công nhận việc nuôi con nuôi, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong
vấn đề nuôi con nuôi
Đến Luật HN&GĐ năm 2000 đã dành hẳn một chương (Chương VIII)
quy định về con nuôi. Song các vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi còn được
quy định tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, hai khung pháp lý
về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hầu như
riêng rẽ, làm cho cơ chế thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi thiếu đồng bộ
và thống nhất. Do đó, để khắc phục các hạn chế này Luật Nuôi con nuôi đã
được Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010 đã quy định
một cách chi tiết, đầy đủ quan hệ nuôi con nuôi.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu pháp luật nuôi con nuôi là hệ thống
tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh việc
xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa người nhận
nuôi, người được nhận nuôi và các chủ thể khác có liên quan trong việc
16

hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được

nhận làm con nuôi.
1.1.3 Sự cần thiết phải điều chỉnh việc nuôi con nuôi bằng pháp luật.
Để đảm bảo trật tự và ổn định xã hội, nhà nước nào cũng cần đến các
công cụ, phương tiện điều chỉnh hành vi và các quan hệ xã hội của con người
nhằm đưa các hành vi của cá nhân, tổ chức vào những khuôn khổ nhất định,
theo những tiêu chí, nguyên tắc nhất định nhằm trật tự hóa các mối quan hệ xã
hội. Về nguyên tắc, pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng,
có liên quan đến lợi ích chính đáng của cá nhân, lợi ích công cộng, lợi ích của
quốc gia [11]. Do quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người
được nhận làm con nuôi là quan hệ cha, mẹ và con đặc biệt, phát sinh trên cơ
sở ý chí, tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi, quan hệ
này được tạo lập một cách có chủ định mà không dựa trên cơ sở sinh học
huyết thống tự nhiên nên cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật.
Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi không chỉ đơn thuần là việc
đem lại cơm no, áo ấm cho trẻ mà nó còn là giúp cho trẻ có một gia đình
thực thụ, được cha mẹ nuôi chăm sóc, đùm bọc, bảo vệ, chính vì vậy mà
pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia đều có những quy định cụ
thể và rõ ràng để điều chỉnh về vấn đề nuôi con nuôi nhằm bảo đảm được
quyền cơ bản của trẻ em.
Chế định nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan
tâm đặc biệt vì nó là sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những
lợi ích tốt nhất cho những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cần được
sự chăm sóc từ phía gia đình và xã hội. Ở Việt Nam pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi được hình thành từ lâu và được quy định trong Hiến
pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình và các
văn bản quy phạm pháp luật khác. Sự điều chỉnh thống nhất việc nuôi con
17

nuôi và tăng cường trách nhiệm của toàn xã hội trong việc giúp đỡ những trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt để các em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục

trong môi trường gia đình thay thế, hòa nhập với cộng đồng và có điều kiện
phát triển thành người có ích cho xã hội là tất yếu, đồng thời còn bảo vệ
quyền và lợi ích của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong
việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi như con đẻ. Ngoài ra, còn thể hiện sự
tôn trọng các cam kết quốc tế của Việt Nam khi tham gia Công ước của Liên
Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 và Công ước Lahay năm 1993 về bảo
vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Do đó, cần phải có
hành lang pháp lý ổn định cho việc bảo đảm quá trình giải quyết cho trẻ em
làm con nuôi theo đúng tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em;
ngăn ngừa và chống các hành vi mua bán trẻ em hoặc lợi dụng việc nuôi con
nuôi nhằm mục đích trục lợi khác.
Trong những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam đã thể
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tạo cơ sở pháp lý chặt
chẽ, minh bạch, góp phần đấu tranh phòng chống hiện tượng mua bán trẻ em
làm con nuôi hoặc lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi; góp phần quan
trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng
và giáo dục trong môi trường gia đình.
Sự điều chỉnh bằng pháp luật việc nuôi con nuôi xuất phát từ những đặc
điểm khách quan và bản chất của quan hệ nuôi con nuôi, từ yêu cầu phải bảo vệ
lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, do đó, việc điều
chỉnh bằng pháp luật việc nuôi con nuôi là cần thiết bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất: Quan hệ nuôi con nuôi là quan hệ cha mẹ và con phát sinh
trên cơ sở ý chí của các chủ thể mà không phải phát sinh một cách tự nhiên từ
quan hệ huyết thống.
18

Quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận
làm con nuôi là quan hệ cha, mẹ và con đặc biệt, các chủ thể trong quan hệ
pháp luật nuôi con nuôi bao gồm cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi và con nuôi. Quan

hệ này phát sinh dựa trên ý chí, tình cảm giữa các bên chủ thể, được tạo lập
một cách có chủ định. Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần
tự nguyện, các chủ thể liên quan đến việc cho, nhận con nuôi phải thể hiện ý
chí của mình một cách tự nguyện và trung thực. Tất cả phải xuất phát từ sự
chủ động, từ yếu tố tình cảm, nhu cầu thiết thực, có suy nghĩ kĩ càng trước khi
đi đến quyết định. Việc có xác lập quan hệ cha mẹ con hay không là do chính
bản thân các chủ thể của quan hệ này quyết định trên cơ sở hoàn toàn tự
nguyện, chủ động và hiểu biết đầy đủ về hậu quả pháp lí của nó.
Vì không phải là một quan hệ tự nhiên nên các bên chủ thể phải có các
điều kiện, không như quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ hình thành một cách
tự nhiên bằng con đường huyết thống, sự gắn bó tình cảm và mối liên hệ giữa
cha mẹ đẻ với con đẻ là quy luật tự nhiên có tính bền vững, không thể thay
đổi bởi nguồn gốc huyết thống. Trong khi đó nuôi con nuôi là việc đưa một
đứa trẻ vào một môi trường gia đình với bố mẹ nuôi, không phải bố mẹ ruột
của trẻ theo nguyên tắc nhất định.
Vì vậy, pháp luật cần quy định những điều kiện cần thiết, cơ bản nhất
phải có đối với người nhận nuôi và người được nhận nuôi và con nuôi, để việc
nuôi con nuôi được thực hiện đúng, bảo đảm việc xác lập quan hệ cha mẹ và
con lâu dài, bền vững, đồng thời bảo đảm tạo được môi trường gia đình an
toàn cho trẻ, trẻ được hưởng sự nuôi dưỡng, giáo dục tốt nhất.
Thứ hai: Mục đích của việc nuôi con nuôi là xác lập quan hệ cha mẹ và
con, bảo vệ quyền cơ bản của trẻ em
Việc nuôi con nuôi, trước hết phải xuất phát từ mục đích là vì lợi ích
của người được nhận làm con nuôi. Lợi ích tốt nhất đối với trẻ em được nhận

×