Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.63 KB, 130 trang )




1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


HOÀNG ANH TUYÊN


Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng
ở Việt Nam

luận văn thạc sỹ luật học
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 5.05.14





Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Đỗ Ngọc Quang





Hà Nội - năm 2005




2
Mục lục
Mục
lục
Nội dung
trang

Lời mở đầu
1
Chươn
g 1
Nhận thức chung về phòng ngừa các tội phạm
về tham nhũng.
6
1.1
Nhận thức chung về các tội phạm về tham nhũng
6
1.1.1
Khái niệm các tội phạm về tham nhũng
6
1.1.2
Lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội
phạm về tham nhũng
11
1.1.3
Các dấu hiệu pháp lý về các tội phạm về tham nhũng
26
1.2
Lý luận phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng

32
1.2.1
Cơ sở xây dựng các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về
tham nhũng
32
1.2.2
Các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng
34
Chươn
g 2
Thực trạng phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam
40
2.1
Tình hình các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam từ
năm 2000 đến năm 2004
40
2.1.1
Số liệu tình hình các tội phạm về tham nhũng
40
2.1.2
Những đặc điểm nhân thân của những người phạm cá tội
phạm về tham nhũng
53
2.1.3
Nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm về tham nhũng
57
2.2
Tình hình tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm
về tham nhũng
75

2.2.1
Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm và tình hình tổ chức phòng ngừa tội phạm hiện
nay ở nước ta.
75
2.2.2
Những kết quả đạt được trong tổ chức các biện pháp phòng
77



3
ngừa các tội phạm về tham nhũng
2.2.3
Những tồn tại, thiếu sót trong tổ chức các biện pháp phòng
ngừa các tội phạm về tham nhũng
81
2.2.4
Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong tổ chức các
biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng
83
Chươn
g 3
Nâng cao hiệu quả tổ chức phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng
ở Việt Nam

87
3.1
Một số dự báo tình hình các tội phạm về tham nhũng ở
nước ta đến năm 2010

87
3.1.1
Những yếu tố có ảnh hưởng đến tình hình tội phạm tham
nhũng đến năm 2010
87
3.1.2
Diễn biến tình hình tội phạm tham nhũng đến năm 2010
89
3.2
Nâng cao hiệu quả tổ chức các biện pháp phòng ngừa
chung
90
3.2.1
Các biện pháp pháp luật
90
3.2.2
Các biện pháp về cơ chế, chính sách
93
3.2.3
Các biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế
96
3.2.4
Các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát
98
3.2.5
Các biện pháp cải cách hành chính
100
3.3
Nâng cao hiệu quả tổ chức các biện pháp phòng ngừa
riêng đối với cán bộ, công chức

101
3.3.1
Các biện pháp quản lý cán bộ, công chức
101
3.3.2
Các biện pháp quản lý thu nhập và kê khai tài sản của cán bộ,
công chức
104
3.3.3
Các biện pháp giám sát của xã hội
107
3.4
Các biện pháp khác
111
3.4.1
Thành lập cơ quan chuyên trách chống tham nhũng
111

Kết luận
114

Danh mục tài liệu tham khảo
116



4
Lời mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tham nhũng hiện nay là vấn đề bức xúc, nhức nhối và hết sức lo ngại
của tất cả những nhà lãnh đạo, những người cầm quyền và toàn thể nhân dân
không chỉ của Việt Nam mà ở hầu hết các nước trên thế giới. Tại Việt Nam,
tham nhũng là mối quan tâm lớn nhất và thường xuyên của Đảng và Nhà
nước, bởi nó vẫn ở mức độ trầm trọng, phức tạp, gây thiệt hại không những về
tiền bạc, tài sản cho Nhà nước, xã hội mà nó còn làm tha hóa đội ngũ cán bộ,
công chức trong các cơ quan, tổ chức xã hội liên quan đến cả cán bộ cao cấp,
giữ cương vị chủ chốt trong các cơ quan của Đảng và của Nhà nước, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân, trực tiếp cản trở, đe dọa công cuộc phát triển của
đất nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định:
“Tham nhũng là một trong những nguy cơ cản trở công cuộc đổi mới, tham
nhũng là giặc nội xâm, là quốc nạn”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và tập
trung đấu tranh với các tội phạm về tham nhũng nhưng hiệu quả đạt được
chưa cao, các cơ quan chức năng đã phát hiện, khám phá hàng ngàn vụ án với
số tiền phạm pháp lên đến hàng tỷ đồng. Tuy nhiên, số vụ bị phát hiện và xử
lý so với số vụ xảy ra mới chỉ ở mức độ hết sức khiêm tốn, công tác đấu tranh
khi các tội phạm về tham nhũng đã xảy ra và hậu quả nặng nề, nghiêm trọng
đã gây ra cho xã hội. Trong khi đó, công tác phòng ngừa các tội phạm về
tham nhũng còn nhiều bất cập, thiết sót, không ngăn chặn, hạn chế được tình
trạng tham nhũng xảy ra khá phổ biến hiện nay ở nước ta. Vì vậy phòng ngừa
tội phạm nói chung, phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói riêng có ý
nghĩa cực kỳ to lớn. Nó sẽ hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả xảy ra cho xã
hội, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng tham nhũng. Góp phần quan
trọng vào việc khôi phục kỷ cương phép nước, tăng cường sức mạnh, nâng
cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước ta, củng cố lòng tin của quần chúng



5

nhân dân, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, làm lành mạnh các quan hệ xã hội
và thực hiện công bằng xã hội. Với lý do nêu trên, nhằm đáp ứng được tính
cấp thiết, thực tế đòi hỏi hiện nay và mong muốn góp một phần công sức của
mình vào công cuộc phòng ngừa chung đó, tôi đã mạnh dạn và quyết định
chọn đề tài: “Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam” làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Phòng ngừa và chống các tội phạm tham nhũng đã được đề cập, nghiên
cứu trong một số công trình khoa học, bài viết đăng trên các báo và tạp chí,
các luận văn cụ thể là: luận văn cao học được bảo vệ tại Viện nghiên cứu Nhà
nước và Pháp luật như: Chính sách hình sự về đấu tranh chống tham nhũng
trong giai đoạn hiện nay của Ngô Quang Liễn; Đấu tranh phòng, chống tội
tham ô của Đặng Ngọc Quý; Đấu tranh phòng, chống các tội hối lộ, tham
nhũng và cơ chế pháp lý hành chính nhà nước cơ bản về tham nhũng của
Nguyễn Văn Lam; Đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong Quân
đội - những khía cạnh tội phạm học của Học viên Nguyễn Văn Huân. Một số
luận văn cao học được bảo vệ tại khoa Luật - ĐHQGHN như: Đấu tranh
phòng, chống các tội tham nhũng tại thành phố Hồ Chí Minh của Dương
Ngọc Hải; Một số vấn đề về nhóm tội phạm tham nhũng trong luật hình sự
Việt Nam và việc đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng trong quân
đội của Nguyễn Văn Hải. Một số bài viết như: Đặc điểm tham nhũng ở Việt
Nam của tác giả Nguyễn Ngọc Chí; Tệ nạn tham nhũng: căn nguyên sâu xa và
biện pháp phòng, chống của Nguyễn Đình Gấm v.v…
Do thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội
phạm tham nhũng nói riêng đang diễn ra hàng ngày với những biến động,
thay đổi thường xuyên do tác động của những yếu tố kinh tế, xã hội, pháp lý
khác nhau. Trong khi các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập vấn đề lí luận
chung dưới góc độ luật hình sự về các tội phạm tham nhũng hoặc phân tích
các quy phạm của pháp luật hình sự thực định về loại tội phạm này hoặc phân




6
tích dưới góc độ tội phạm học nhưng lại tập trung nghiên cứu dưới khía cạnh
“chống”. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống, toàn diện dưới góc độ tội phạm học ở khía cạnh
“phòng ngừa”. Các công trình nghiên cứu trên chưa chỉ ra được nguyên nhân,
điều kiện của tội phạm tham nhũng một cách có hệ thống và đầy đủ, chưa đưa
ra các biện pháp và đề xuất các các giải pháp phòng ngừa các tội phạm về
tham nhũng có hiệu quả cả thời điểm hiện tại và trong tương lai. Bởi vì, việc
dự báo các tội phạm về tham nhũng trong tương lai chưa mấy sát hợp khi
không đặt diễn biến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam trong
tương lai trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Vì vậy việc nghiên cứu
vấn đề này ở một cấp độ luận văn thạc sĩ có hệ thống, toàn diện, sâu sắc hơn
là phù hợp và không trùng hợp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác ở
Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đưa ra các quy định chung về các tội phạm về tham nhũng từ trước cho
đến nay cũng như các biện pháp phòng ngừa đối với loại tội phạm này.
Tổng kết thực tiễn về tình hình các tội phạm về tham nhũng từ năm
2000 đến năm 2004 (cơ cấu, diễn biến, động thái, phương thức, thủ đoạn của
loại tội phạm này) cũng như đặc điểm nhân thân của những người phạm các
tội phạm về tham nhũng. Phân tích, đánh giá về mặt lý luận một cách có hệ
thống và khoa học về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm về tham nhũng.
Chỉ ra được kết quả đã đạt được trong tổ chức các biện pháp phòng
ngừa các tội phạm tham nhũng cũng như những tồn tại, thiếu sót trong việc tổ
chức các biện pháp đó. Đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, thiết
sót trong tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng.
Đưa ra dự báo những nét cơ bản về tình hình tội phạm về tham nhũng
từ nay đến năm 2010. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và điều kiện của

tình hình các tội phạm về tham nhũng để đề xuất những giải pháp, biện pháp



7
nhằm tổ chức các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả đối với các tội phạm về
tham nhũng.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này được đặt ra như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, tìm hiểu các quy định chung về các tội phạm về
tham nhũng cũng như các biện pháp phòng ngừa đối với loại tội phạm này
qua các tài liệu, sách báo có nội dung về vấn đề này từ trước cho đến nay.
Thứ hai, phân tích, đánh giá các Báo cáo tổng kết và các Bảng số liệu
về các tội phạm về tham nhũng của các cơ quan tư pháp từ năm 2000 đến năm
2004 để đưa ra nhận xét về tình hình các tội phạm về tham nhũng cũng như
nhân thân của những người phạm các tội phạm về tham nhũng. Đánh giá,
nhận xét tình hình tổ chức các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham
nhũng ở nước ta.
Thứ ba, xem xét, đánh giá và dự báo tình hình kinh tế, xã hội ở Việt
Nam cũng như trên thế giới và sự tác động của các yếu tố này tới tình hình
tham nhũng và các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam. Qua đó đưa ra dự
báo tình hình các tội phạm về tham nhũng ở nước ta đến năm 2010.
Thứ tư, đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức phòng
ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vụ án về các tội phạm tham nhũng lớn,
điển hình, các bị can, bị cáo phạm các tội phạm về tham nhũng đã được đưa
ra truy tố, xét xử ở nước ta từ năm 2000 - 2004.
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động phòng ngừa các tội phạm về tham
nhũng của các cơ quan tư pháp trong thời gian qua.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: phương pháp lịch
sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp trao đổi chuyên gia để phân tích tình hình các



8
tội phạm tham nhũng cũng như các tri thức khoa học có liên quan và luận
chứng các vấn đề cần nghiên cứu trong phạm vi đề tài này.



6. Điểm mới của luận văn
Phân tích, chỉ ra các biện pháp phòng ngừa về mặt lý thuyết đối với các
tội phạm về tham nhũng. Tổng kết tình hình tổ chức các biện pháp phòng
ngừa đã được áp dụng trong thời gian qua.
Tổng kết những phương thức, thủ đoạn mới nổi lên của các tội phạm về
tham nhũng, đồng thời làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm tham
nhũng, cũng như nhân thân của người phạm tội một cách có hệ thống, khoa
học, sâu sắc và toàn diện.
Dự báo tình hình tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới trong bối
cảnh hội nhập quốc tế và khu vực.
Đề xuất các giải pháp tổ chức có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa
đối với các tội phạm về tham nhũng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương. Cụ thể:
Chương 1. Nhận thức chung về phòng ngừa các tội phạm về tham
nhũng
Chương 2. Thực trạng phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng
Chương 3. Nâng cao hiệu quả tổ chức phòng ngừa các tội phạm về

tham nhũng ở Việt Nam








9






Chương 1
Nhận thức chung về phòng ngừa
các tội phạm về tham nhũng
1.1. Nhận thức chung về các tội phạm về tham nhũng
1.1.1. Khái niệm các tội phạm về tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành giai
cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tệ nạn tham nhũng diễn ra
ở hầu hết các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, không kể
quốc gia đó giàu hay nghèo, đang ở trình độ phát triển như thế nào. Tham
nhũng xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học, công nghệ,
giáo dục, y tế khu vực công, khu vực tư Tham nhũng tồn tại, phát triển
hàng ngày, hàng giờ, len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội, đụng chạm đến
lợi ích của hầu hết dân cư, cản trở sự phát triển của xã hội.
Thấy được sự nguy hại của tệ tham nhũng và thực trạng tình hình tham

nhũng hiện nay đang diễn ra ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ và nhấn mạnh là: “tình trạng tham nhũng và sự
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân và là nguy
cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”. Chính vì thế toàn Đảng, toàn dân
hết sức bất bình nên đã coi phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm
vụ lớn để bảo vệ sự sống còn của Đảng và chế độ ta. Vì vậy Báo cáo chính trị
Đại hội Đảng IX đặt nội dung này ở mục về Nhà nước và Đại hội đã nhấn



10
mạnh: “phải tiến hành một cách kiên quyết cuộc đấu tranh chống tham nhũng
trong toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ
sở; gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu; đặc biệt
chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính” và phải “xử lý
nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên, công
chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng”.
Thế nhưng đấu tranh chống tham nhũng không phải đơn giản, do tham nhũng
là tệ nạn xã hội, tham nhũng gắn liền với sự tồn tại của Nhà nước, tham nhũng
diễn ra ở tất cả các chế độ, tất cả các Nhà nước. Vì vậy tốt hơn hết chúng ta
phải có các biện pháp phòng ngừa không để cho tệ nạn tham nhũng tiếp diễn,
hoặc chí ít cũng hạn chế đến mức thấp nhất tệ nạn tham nhũng xảy ra. Nhưng
trước hết chúng ta phải hiểu bản chất của tham nhũng là gì mà điều đầu tiên
phải thống nhất khái niệm tham nhũng. Bởi khái niệm tham nhũng là một
trong những vấn đề quan trọng của lý luận về phòng ngừa tham nhũng và là
cơ sở để nghiên cứu những vấn đề khác. Làm sáng tỏ khái niệm tham nhũng
còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng đúng đắn những quy phạm của
luật hình sự quy định các tội phạm về tham nhũng. Vì vậy việc nghiên cứu,

làm sáng tỏ khái niệm tham nhũng không những có ý nghĩa lý luận mà còn có
ý nghĩa thực tiễn to lớn. Hiện nay trong từ điển của một số nước đã đưa ra
những quan điểm khác nhau về tham nhũng. Ví dụ, trong Từ điển bách khoa
của Bruekhaus – CHLB Đức ghi nhận “Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm
chất, hối lộ, đút lót thường xảy ra đối với công chức có quyền hành”. Tại áo
cho rằng “Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột”. Còn trong Từ
điển bách khoa của Thụy Sỹ ghi nhận “Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng
của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, đó là
hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân” v.v…
Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hiệp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế
chống tham nhũng thì: “tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước
để trục lợi riêng” bao gồm những hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để



11
tham ô, trộm cắp tài sản của Nhà nước, hoặc là lợi dụng địa vị công tác để
trục lợi riêng quá đáng thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính
thức của mình, hoặc là tạo ra sự xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm
đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Còn theo định nghĩa của
Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu thì tham nhũng bao gồm hành vi
hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực hiện
một trách nhiệm nào đó trong khu vực Nhà nước hoặc khu vực tư nhân,
nhưng đã vi phạm trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi bất hợp
pháp nào cho cá nhân hoặc cho người khác. Tại những nước đang phát triển
thì khái niệm tham nhũng được hiểu như là những hành vi đi chệch khỏi các
quy tắc đạo đức chính thống chi phối các hành động của một ai đó giữ một
chức vụ trong bộ máy chính quyền vì các động cơ cá nhân như làm giàu,
quyền lực hoặc địa vị. Cũng có quan điểm cho rằng, tham nhũng, nếu nhìn từ
giác độ kinh tế, không chỉ bao gồm hành vi sai lầm do nhận hối lộ gây ra hay

là hiện tượng hủ bại bao gồm các hành vi chưa trực tiếp nhận lợi lộc từ người
khác, như là chức phận, vô trách nhiệm, tiêu cực, lãn công
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ X chống tham nhũng được tổ chức tại
Praha, Cộng hòa Séc từ ngày 7 đến ngày 11/10/2001 do có những cách tiếp
cận khác nhau nên Hội nghị không đi đến một định nghĩa thống nhất về tham
nhũng nhưng Hội nghị đã tìm được một số điểm chung, bao quát về tham
nhũng là “hành vi tham lam và sách nhiễu của người có chức vụ, quyền hạn
để tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây
thiệt hại cho Nhà nước, tập thể và cá nhân, làm sai lệch những hoạt động
đúng đắn và làm mất uy tín của các cơ quan, tổ chức”.
Tại Việt Nam, khái niệm tham nhũng cũng đang là một trong những
vấn đề gây tranh luận. Mặc dù theo từ điển tiếng việt thì: “tham nhũng là lợi
dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của” và theo quy định của Pháp
lệnh chống tham nhũng (Điều 1) thì: “tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc



12
cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà
nước và của cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ
chức”. Thế nhưng các nhà nghiên cứu pháp luật, những người áp dụng pháp
luật và cả những người quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng đều
đưa ra khái niệm riêng của mình về tham nhũng. Theo PGS. TS. Phạm Hồng
Hải thì: “Tham nhũng là hiện tượng những người có chức vụ quyền hạn cố
tình làm trái với những quy định chung nhằm vơ vét tài sản của công cho bản
thân mình hoặc cho người khác”. Theo tác giả Vũ Xuân Kiều thì: “Tham
nhũng là hành vi lợi dụng quyền lực để nhũng nhiễu, lấy tiền của Nhà nước
và nhân dân phục vụ cho lợi ích cá nhân”. TS. Lê Văn Cương đưa ra khái
niệm về tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi của những người có

quyền lực chủ yếu trong cơ quan nhà nước lạm dụng chức vụ, quyền hạn để
vụ lợi cá nhân gây phiền hà và làm thiệt hại đến tiền bạc, tài sản của Nhà
nước, của tập thể và của công dân”. TS. Trần Công Phàn thì định nghĩa:
“Tham nhũng là tập hợp những hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền
hạn thực hiện bằng cách sử dụng (lợi dụng, lạm dụng) chức vụ, quyền hạn
của mình để vụ lợi, gây thiệt hại tài sản, lợi ích của Nhà nước, tập thể và
người dân, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ
chức”.
Như vậy, trong các cộng đồng quốc tế, khái niệm tham nhũng cũng có
những độ rộng khác nhau. Tuy nhiên, cốt lõi của các khái niệm tham nhũng
vẫn là ba yếu tố không thể vắng được đó là: vị trí công tác được giao; sự lợi
dụng vị trí đó và có mục đích vụ lợi (cho mình hoặc cho ai đó). Gốc của từ
ngữ tham nhũng xuất phát từ tiếng La tinh “corruptio” có nghĩa là “mua
chuộc”. Và vì vậy, hạt nhân cơ bản của từ tham nhũng từ trước đến nay và ở
mọi nơi đều có nghĩa là một người này bị một người khác mua chuộc theo lối
“tôi cho anh, anh cho tôi” (Tiếng la tinh là: “do ut des”).
Từ góc nhìn của xã hội, tham nhũng trước hết phải được đánh giá như
một hiện tượng xã hội tiêu cực với ba mức độ thể hiện: tội phạm hình sự, sự vi



13
phạm pháp luật, sự xâm phạm đạo đức xã hội. Xét về phạm vi hoạt động xã
hội, hiện tượng tiêu cực đó có mặt ở hai phạm vi quan hệ:
Thứ nhất: tham nhũng là hành vi thể hiện bản chất phản bội lại công vụ
(mua - bán những gì không phải của anh mà là của công vụ mang lại, trái với
thực chất công vụ mà anh được giao). Do đó, có thể gọi tham nhũng chỉ có
thể xảy ra trong lĩnh vực quan hệ quyền lực và quản lý;
Thứ hai: tham nhũng có biểu hiện trong quan hệ thương mại, kinh
doanh. ở đây, về hình thức, cũng lại là những hành vi lợi dụng cương vị

thương mại, kinh doanh của những người có vai trò quản lý, đại diện trong ký
kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng nhưng họ đã lợi dụng, mua bán lợi thế
của mình. Cái khác với hành vi ở nhóm thứ nhất là: ở đây là quan hệ kinh
doanh, không nằm trong phạm vi quyền lực hay quản lý nhà nước.
Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về tham nhũng của các nhà
khoa học trên thế giới và ở Việt Nam. Nhưng căn cứ vào các quy định của
pháp luật Việt Nam về hành vi tham nhũng, tội phạm về tham nhũng và thực
tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian qua có
thể khái quát những dấu hiệu, đặc trưng chủ yếu nhất của tham nhũng như
sau:
Thứ nhất: dấu hiệu chủ thể của tham nhũng phải là người có chức vụ,
quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn được hiểu là những người giữ vị trí
nhất định trong bộ máy nhà nước hoặc người mà pháp luật quy đ ịnh cho họ
những quyền hạn nhất định. Như vậy, yếu tố quyền lực là dấu hiệu đặc trưng
đầu tiên và cũng là đặc trưng cơ bản nhất của hành vi tham nhũng, và như vậy
hành vi tham nhũng trước hết là hành vi của những người có quyền lực.
Thứ hai: dấu hiệu hành vi khách quan phải được thể hiện bằng cách lợi
dụng chức vụ và quyền hạn, lợi dụng vị trí, địa vị công tác được giao để
không làm hoặc làm trái với công vụ được giao, gây thiệt hại cho lợi ích
chung của Nhà nước, xã hội và công dân.



14
Thứ ba: dấu hiệu động cơ, mục đích thể hiện ở chỗ vụ lợi cho bản thân
hay cho tập thể hoặc cho những người khác hoặc thỏa mãn nhu cầu, tinh thần
nào đó của chủ thể. Sự vụ lợi cá nhân về vật chất có thể được hưởng ngay,
nhưng cũng có thể phải qua khâu trung gian hoặc qua một thời gian; hoặc là
chuyển vụ lợi cá nhân cho những người thân thích hay họ hàng. Đây là những
dấu hiệu rất cơ bản để xác định một sự việc xảy ra có phải là tham nhũng hay

không phải là tham nhũng.
Mặc dù được thể hiện theo nhưng cách khác nhau, song tham nhũng
được hiểu khá thống nhất trong văn hóa pháp lý ở các nước trên thế giới là
việc lợi dụng vị trí, quyền hạn, thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi
cá nhân. Qua sự phân tích ở trên thì theo chúng tôi để đưa ra khái niệm tham
nhũng thì khái niệm đó phải có ý nghĩa chỉ một tệ nạn xã hội hay căn bệnh
của quyền lực và được hiểu theo nghĩa rộng chứ không được hiểu như một
loại hành vi vi phạm cụ thể của công chức hay với tính cách là một loại tội
phạm dưới góc độ luật pháp. Hay nói một cách khác, khái niệm tham nhũng
bao gồm cả vấn đề tham nhũng trong khu vực tư và phải bao quát hết được
những hành vi tham nhũng hiện nay mà toàn xã hội phải tham gia phòng,
chống. Và về mặt ngữ pháp thì khái niệm tham nhũng phải chuẩn, chặt chẽ,
chính xác nhưng lại phải ngắn gọn, đủ ý. Nên theo chúng tôi khái niệm tham
nhũng được hiểu như sau: “Tham nhũng là việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn
thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm vụ lợi dưới bất kỳ hình thức nào”.
1.1.2. Lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội
phạm về tham nhũng
1. Do tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử xuất hiện
và tồn tại trong xã hội được phân chia thành giai cấp và hình thành Nhà nước,
gây nên những hậu quả nguy hại cho xã hội. Cho nên Nhà nước Việt Nam
trong lịch sử cũng đã tổ chức đấu tranh về tệ nạn này bằng các hình thức khác
nhau. Sử cũ ghi chép lại, ngay từ thời kỳ các Vua Hùng, Mai An Tiêm (một
hoàng tử của nhà Vua) đã quá ngán trước cảnh biếu xén, quà cáp, luồn lọt của



15
các quan lại, đã phải thốt lên “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Khi
tham nhũng xuất hiện và phát triển, Nhà nước Việt Nam thời phong kiến đã
để ra các biện pháp chống tham nhũng. Một trong những lý do để Bộ Hình

Thư được biên soạn, theo như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia Ngô Sỹ
Liên thì: “Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật
pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan
uổng quá đáng. Vua lấy làm thương sót, sai trung thư san định luật lệnh,
châm trước cho thích dụng vào thời thế, chia ra môn loại, biến thành điều
khoản, làm thành sách Hình Thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu.
Sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử án
được bằng thẳng rõ ràng cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền
Minh Đạo”. Như vậy, do sự phiền nhiễu của các quan lại, chức sắc phong
kiến nhũng nhiễu dân lành, gây nên sự oan uổng quá đáng mà buộc nhà Lý
phải ban hành Bộ Hình Thư, trong đó đã ghi nhận về những hành vi tham
nhũng của quan lại, chức sắc phong kiến. Nhưng theo sử sách còn ghi lại thì
tính trừng trị với các hành vi tham nhũng của quan lại, chức sắc trong thời
gian này rất nhẹ. Pháp luật của nhà Lý chủ yếu bảo vệ quyền lợi của Nhà
nước trung ương tập quyền và của tầng lớp quý tộc quan liêu, củng cố chế độ
đẳng cấp, bảo vệ tư hữu. Điểm quan trọng tạo cho sự tham nhũng tồn tại và
phát triển trong thời gian này là quy định của nhà Lý về thể lệ chuộc tội bằng
tiền: những người già trên 70 tuổi và trẻ em dưới 15 tuổi, những người có
nhược tật, những người họ nhà vua và có công lớn nếu phạm tội có thể chuộc
bằng tiền, trừ tội thập ác. Quy định nộp tiền này đã khiến cho tầng lớp quý
tộc đã giàu lại càng giàu và càng có điều kiện áp bức nhân dân. Trong thể lệ
thu thuế của thời Lý có quy định: các quan lại thu thế của dân, ngoài mười
phần đóng vào kho Nhà nước, được thu riêng một phần gọi là “hoành đầu”.
Quy định như vậy tạo điều kiện cho tầng lớp chức sắc tìm cách chiếm đoạt tài
sản của dân bằng cách lợi dụng chức quyền. Tuy nhiên, việc chống tham
nhũng của nhà Lý cũng thể hiện: nếu người nào thu quá số ấy ghép vào tội ăn



16

trộm Nếu Quản giáp, Chủ đô và người trưng thuế thông đồng với nhau thu
quá lệ, tuy đã lâu ngày và có người cáo phát thì tất cả cũng bị tội như nhau
v.v
Từ thế kỷ thứ XIII đến thể kỷ thứ XV là thời thống trị đất nước của
nhà Trần. Trong những năm đầu tiên, nhà Trần đã sử dụng Bộ Hình Thư của
nhà Lý để trị vì đất nước. Nhưng sau khi lên ngôi được 5 năm, Trần Thái
Tông thấy rằng, nếu sử dụng Bộ Hình Thư của nhà Lý thì không phù hợp với
hoàn cảnh đất nước nên đã ban hành Bộ luật mới và lấy tên là Quốc Triều
Thông Lễ vào năm 1230. Đến năm 1244, vua Trần Thái Tông ban lệnh “định
các cách thức về luật hình”, điều đó thể hiện sự nghiêm khắc trong pháp luật
của nhà Trần. Tuy nhiên, do còn nặng về bảo vệ quyền lợi của các vương hầu,
quan lại, nên các biện pháp còn chưa triệt để. Quyền lợi của các quý tộc còn
luôn được đặt lên trên lợi ích của nhân dân. Trần Thánh Tông (ở ngôi Vua từ
1258 đến 1278) một vị anh minh trong lịch sử cũng luôn nói với các quan
“Thiên hạ là của cha ông để lại, nên cho anh em cung hưởng phú quý”.
Cuối thế kỷ thừ XIV, đầu thế kỷ XV, nhà Trần trở lên mục rỗng, thối
nát, lung lay đến tận gốc. Hồ Quý Ly, một quý tộc trong triều đã phế truất vua
Trần và lập nên triều Hồ. Trong thời gian nắm quyền, mặc dù ngắn ngủi, Hồ
Quý Ly đã có những cải cách táo bạo nhằm cải tổ đất nước, xây dựng pháp
luật trên các lĩnh vực, nghiêm khắc trừng trị những người làm bạc giả, hành
nghề mê tính dị đoan và cờ bạc. Ngoài ra, nhà Hồ còn thay đổi chế độ tô thuế,
thể lệ chọn nhân tài, củng cố bộ máy nhà nước nhằm tăng cường uy lực của
Nhà nước trung ương tập quyền và để hạn chế sự tham nhũng của hàng ngũ
quan lại, chức sắc phong kiến.
Thế kỷ thứ XV là thời đại nhà Lê sơ. Trong thời gian 360 năm tồn tại,
triều đại nhà Lê đã để lại những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực pháp luật.
Trong đó Quốc Triều Hình Luật nổi bật lên như một nỗ lực đối với việc xây
dựng một Nhà nước dân tộc và bảo hộ cho những quyền tư hữu hợp pháp. Bộ
Quốc Triều Hình Luật được Vua Lê Thánh Tông cho ban hành vào năm 1483,




17
còn gọi là Bộ luật Hồng Đức, trong đó có đến hai phần ba số Điều mà đối
tượng điều chỉnh là quan tướng, những người thi hành công vụ, được các nhà
nghiên cứu cả trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Ngay Ông Oliver
Oldman - Chủ nhiệm Khoa Luật á Đông - Đại học Havard cũng nhận xét
rằng, Bộ Luật Hồng Đức là “ Chúng ta cũng thấy trong nhiều thế kỷ đã qua
sự cố gắng của nước Việt Nam thời Lê, một sự nỗ lực thường xuyên đối với
việc xây dựng một nhà nước dân tộc và sự bảo hộ cho những quyền tư hữu
hợp pháp bởi hệ thống pháp luật tiến bộ với nhiều sự tương đương về chức
năng so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”.
Cũng như các nhà nước phong kiến khác, những quan lại, chức sắc
cũng có những đặc quyền riêng theo thứ bậc cao thấp. Các quan lại được cấp
ruộng thế nghiệp, lộc điền, người phục dịch. Thế nhưng, trong Quốc Triều
Hình Luật quy định một cách chặt chẽ và cụ thể hành vi được coi là tham
nhũng và có chế tài nghiêm khắc trừng trị. Nghiên cứu toàn bộ Bộ luật đã chỉ
ra, trong tổng số 722 Điều luật với 13 Chương chia làm 6 quyển thì có 78
Điều luật có quy định hành vi liên quan đến tham nhũng (chiếm 12,3%).
Trong tổng số 13 Chương của Bộ luật thì có 7 Chương có các quy định về
tham nhũng và có thể chia các tội phạm về tham nhũng thành 3 nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: các tội phạm liên quan đến nhận hối lộ, nhũng nhiễu để
chiếm đoạt tiền của dân. Nhóm này gồm 14 Điều. Việc nhũng nhiễu ăn hối lộ
trên nhiều lĩnh vực khác nhau như nhận hối lộ trong tuyển đinh tráng vào
quân đội (Điều 170); nhận hối lộ khi mật tra của quan liêm phóng (Điều 197);
nhận hối lộ để không tâu với quan trên về hành vi khinh nhờn (Điều 229)
v.v Hình phạt được áp dụng đối với tội hối lộ, nhũng nhiễu lấy tiền của dân
đinh rất nghiêm khắc. Nếu là các quan lại phạm tội thì hình phạt nhẹ là cách
chức, đi đầy, hình phạt nặng là chém đầu. Nếu là chức sắc thường phạm tội
thì hình phạt nhẹ là bị đánh đòn, thích chữ vào mặt, đi đầy, hình phạt nặng là

tử hình. Ví dụ Điều 138 quy định: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ
từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội biếm (giáng chức) hay bãi chức, từ 10 quan



18
đến 19 quan thì xử tội đồ (lao dịch) hoặc lưu đày, từ 20 quan trở lên thì xử tội
chém
Những bậc công thần, quý thần, cũng như những người có tài mà được
dự vào hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì bị xử phạt tiền 50
quan, từ 10 quan đến 19 quan thì phạt tiền từ 60 đến 100 quan; từ 20 quan
trở lên thì bị xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho”.
Điều 163 (Quan sách nhiễu dân) quy định: “Các quan, tướng, súy sách
nhiễu tiền tài của dân thì bị hạ ba chức, bồi thường gấp đôi số tiền đã nhận,
trả lại cho dân”.
Nhóm thứ hai: các tội phạm liên quan đến lợi dụng chức quyền để
chiếm đoạt tài sản là ruộng đất, thuế khóa hoặc lạm quyền chiếm đoạt tài sản
của dân. Nhóm này gồm 4 Điều. Ví dụ: Điều 206 quy định: “những quan thu
thuế không theo ngạch đã định mà thu, lại giấu bớt số thuế thì cũng coi như
tội giấu đồ vật công; nếu thu thêm thuế để làm của riêng thì tội cũng như thế,
lại phải bồi thường gấp đôi số tiền thuế lạm thu trả lại cho dân ”.
Nhóm thứ ba: các tội phạm liên quan đến lợi dụng chức quyền để
chiếm đoạt dân đinh hoặc sử dụng sức lao động của dân đinh, binh lính làm
việc trái pháp luật. Nhóm này gồm 10 Điều. Ví dụ, Điều 166 quy định: “Các
quan quản giám tự tiện đem dân đinh nói dối là quân lính hay quan khách để
giấu giếm làm việc riêng trong nhà thì phải biếm hai tư và bãi chức ”.
Như vậy, những hành vi tham nhũng của quan lại, chức sắc lợi dụng
chức quyền của mình để trục lợi được quy định rất cụ thể trong Quốc Triều
Hình Luật. Điều đó cho thấy, trong lịch sử pháp luật Việt Nam, đấu tranh
chống tham nhũng với những hành vi lợi dụng chức quyền để trục lợi của các

quan lại, chức sắc đặt ra như là một yêu cầu để bảo vệ chế độ phong kiến
đương thời.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ nội chiến phân liệt. Triều Lê
mất dần vai trò lịch sử. Lê Tương Dục lên ngôi năm 1510 và năm 1511, ông
đã ban hành Trị Binh Bảo Phạm gồm 50 Điều, trong đó có một số quy phạm



19
pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm tham nhũng như: Lại bộ phải kính
giữ công bằng, cân nhắc bổ dùng người, phải thận trọng dè dặt khi trao quan
tước, giữ trong sạch quan tường Ai dám hối lộ và riêng tư, tuyển bổ không
có thứ tự, thì cho quan đô, đài kiểm xét tâu lên, theo luật trị tội. Quan đô, đài
không biết kiểm xét tâu lên cũng bị nhất loại trị tội.
Trong khoảng thời gian triều đại Tây Sơn trị vì đất nước, Quốc Triều
Hình Luật được sử dụng như một Bộ luật chính thống, tuy nhiên có bổ sung
một số lĩnh vực về kinh tế, tài chính, nhưng phần hình luật vẫn giữ nguyên.
Điều đó có nghĩa rằng, những hành vi về tham nhũng đực coi là tội phạm vẫn
bị xử theo điều luật quy định trong Quốc Triều Hình Luật. Năm 1815 Bộ
Hoàng Việt Luật Lệ thường được gọi là Bộ luật Gia Long được xây dựng, thế
nhưng nội dung của nó đã mô phỏng gần như luật lệ của nhà Đại Thanh
(Trung Quốc). Tuy nhiên về phần hình luật, các quy định trong Bộ luật Gia
Long liên quan đến các tội phạm trong đó có tội phạm tham nhũng thì hệ
thống hình phạt cũng như hệ thống các nguyên tắc trừng trị về cơ bản tương
tự như Quốc Triều Hình Luật thời Lê.
Pháp luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn thế kỷ XIX cũng có những quy
định các tội phạm về tham nhũng. Để đảm bảo hoạt động bình thường của bộ
máy nhà nước phong kiến, pháp luật hình sự nhà Nguyễn đã dành tới 9 Điều
quy định về nhận đút lót như Điều 312 (Quan lại nhận tiền, của); Điều 314
(Nhận tiền của sau khi xong việc); Điều 317 (Đang làm quan nhận mượn ép

hàng hóa của cải của người) Điều 315 (Quan lại hứa nhận tiền, của) trong
Hoàng Việt luật lệ quy định: “Phàm chưa trực tiếp với sự việc mà quan lại
hứa nhận tiền, của, nếu làm cong luật pháp thì xử theo chỗ cong đó, còn việc
không làm cong luật pháp thì xử theo chỗ không cong. Giảm một bực tội chỗ
làm cong, luật mà nặng thì xử theo điều nặng”. Đáng chú ý là pháp luật thời
kỳ nhà Nguyễn đã cấm quan lại không được mua sắm ruộng, nhà tại địa
phương nơi mình làm việc. Chẳng hạn Điều 88 (Quan đương nhiệm sắm mua
ruộng nhà) trong Hoàng Việt luật lệ quy định: “Phàm quan lại hữu quan đang



20
đi làm việc tại nơi nào thì không được mua sắm ruộng vườn nơi ấy. Nếu sai
phạm thì phạt 50 roi giải nhiệm, ruộng nhà ấy cho vào quan”.
Như vậy, trong lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam, trên phương
diện pháp luật, vấn đề đấu tranh chống những hành vi lợi dụng chức quyền
nhằm trục lợi của đội ngũ quan lại, chức sắc được đặt ra như một yêu cầu xây
dựng bộ máy nhà nước phong kiến. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận ở khía cạnh một
Nhà nước phong kiến thì những vấn đề đấu tranh chống tham nhũng cũng có
những hạn chế nhất định.
2. Sau cách mạng tháng Tám thành công (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan tâm ngay đến vấn đề đấu tranh chống tham nhũng. Người đã sớm chỉ ra
bản chất của tệ quan liêu, tham nhũng, nguồn gốc, nguyên nhân phát sinh,
phát triển của tham nhũng cũng như tính phức tạp của cuộc đấu tranh phòng,
chống tệ nạn này. Ngay trong quá trình đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng diễn đàn công khai để vạch trần,
lên án tham nhũng trong bộ máy chính quyền thực dân ở Việt Nam. Trong tác
phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết hẳn một
Chương về tệ nạn tham nhũng trong bộ máy cai trị, trong đó người đã vạch
trần những hành vi tham nhũng của những người luôn tự xưng là “quan phụ

mẫu” của dân. Người đã chỉ ra thói phung phí tiền của dân cho việc thăm
quan, triển lãm, ăn uống, tiếp khách, giải trí, mua sắm biệt thự, xe cộ ; những
thủ đoạn nhằm bòn rút tiền từ việc nhận thầu các công trình xây dựng, làm
đường, khai man để chi tiêu, sử dụng nhân viên nhà nước vào làm việc riêng.
Chính thói tham lam, xa hoa vô độ của bọn cai trị đã làm cho gánh nặng thuế
khóa trên đôi vai của người dân thuộc địa càng trĩu xuống và buộc họ phải
đấu tranh lật đổ chế độ cai trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
Ngày 17/10/1945, chỉ hơn một tháng sau khi bộ máy chính quyền các
cấp được thành lập, Bác viết thư gửi Uỷ ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện,
làng phê phán tệ quan quyền, tham nhũng của một số cán bộ, nhân viên nhà
nước. Đó là sự kiện mở đầu cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng do Bác



21
khởi xướng và lãnh đạo. Với lá thư Tháng mười và sau này là lá thư gửi các
đồng chí Bắc bộ ngày 1/3/1947, Bác Hồ đã sớm cảnh báo cho Đảng và nhân
dân ta về nguy cơ tha hóa của một bộ phận cán bộ - những người vừa mới đi
ra từ cuộc đấu tranh gian khổ, anh dũng, luôn được dân đùm bọc, cưu mang,
nay có chức quyền lại đè nén, đục khoét nhân dân, lợi dụng chức quyền để
tham ô, hối lộ, tiêu sài công quỹ nhà nước, sống xa hoa, phè phỡn trên mồ
hôi, công sức của người lao động. Bác viết: “Có những người trong lúc đấu
tranh thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không
sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng; song đến khi có ít nhiều quyền
hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan
liêu, không tự giác cho nên lại biến thành người có tội với cách mạng. Chúng
ta phải cứu vãn họ, giúp họ khôi phục lại đạo đức cách mạng. Có những
người miệng thì nói: phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng bị vật chất
dỗ dành mà phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến Tổ quốc, nhân dân. Chúng ta
phải giáo dục họ, đưa họ vào con đường cách mạng” [60, tr.515].

Là người sáng lập và lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Bác
Hồ đã nêu tư tưởng: Nhà nước của dân, do dân và vì dân phải là Nhà nước
trong sạch, liêm khiết, không chấp nhận, dung thứ tệ quan quyền, tham
nhũng. Đó thực sự là chân lý - chân lý không cao xa mà thiết thực, không mị
dân mà đi thẳng vào lòng người, tưởng như giản đơn mà thực sự là cuộc đấu
tranh gian khổ, cho đến ngày nay vẫn bùng lên dữ dội. Chân lý đó đòi hỏi các
cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của dân,
nghĩa là để gánh vác chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân [60,
tr.370]. Tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân và vì dân phải là Nhà nước
trong sạch, liêm khiết vừa có ý nghĩa như một định hướng cho Nhà nước kiểu
mới - Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng những mối quan hệ giữa
Nhà nước với công dân vừa là chuẩn mực, thước đo đánh giá tính nhân dân,
tính hữu ích xã hội của Nhà nước đó, vừa chính là nguyên tắc nền tảng quyết



22
định tính triệt để cách mạng, quyết định mục tiêu, yêu cầu, phương châm và
các biện pháp cụ thể để tẩy trừ nạn tham nhũng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chống tham nhũng trước hết bằng chính tấm
gương trọn đời vì dân, vì nước, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư của
mình. Bác nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi
của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi
non hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó. Đến
lúc quốc dân đoàn kết, được chính quyền ủy thác cho tôi gánh vác Chính
phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục, cố gắng cũng vì mục đích đó” [60,
tr.151]. Bác khẳng khái tuyên bố trước Quốc Hội, trước quốc dân và thế giới:
“Hồ Chí Minh không phải là người tham quyền, cố vị, mong được thăng
quan, phát tài” [60, tr.159]. Tấm gương đạo đức trong sáng của người là
những giá trị vĩnh hằng của đạo đức cách mạng Việt Nam, có sức thôi thúc

đến lạ kỳ con người vươn tới cái toàn thiện, toàn mỹ, làm cho từ cán bộ lãnh
đạo đến toàn thể nhân viên ai cũng tích cực, hăng hái làm tròn nhiệm vụ. Đó
cũng là sức cải huấn, răn dạy đối với những người chót lỡ lầm làm những việc
có hại cho dân, cho nước.
Để cho nhân dân, cán bộ thấy được, biết vạch mặt và đấu tranh diệt trừ
được tệ tham nhũng, Bác Hồ đã vạch ra một số hành vi tham nhũng mà công
chức mắc phải là: tham ô của công; đục khoét của dân; lợi dụng của chung; ăn
hối lộ Và Bác đã chỉ rõ bản chất và tác hại của nó. Trong bài nói chuyện về
thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí chống bệnh quan liêu vào năm
1952, Bác coi “Tham ô là: ăn cắp của công làm của tư; đục khoét của nhân
dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính
phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô. Và
đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: ăn cắp của công, khai gian, lậu
thuế”. Người cho rằng “những người trong các công sở từ làng cho đến
Chính phủ trung ương đều có nhiều hoặc ít quyền hành, đều dễ tìm dịp phát
tài hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân. Nếu không giữ



23
đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở lên hủ hóa, biến thành sâu mọt của
dân”. Và theo Bác thì: “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi nhất trong
xã hội nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, hại đến công việc cải
thiện đời sống nhân dân, hại đến đạo đức cách mạng của cán bộ và công
nhân”. Về tác hại của tham nhũng Bác chỉ rõ: tệ tham nhũng làm hỏng tinh
thần trong sạch và ý chí vượt khó khăn của cán bộ, phá hoại đạo đức cách
mạng của ta là cần, kiệm, liêm chính, làm phí phạm sức lực, tiêu hao của cải
của Chính phủ và của nhân dân, làm chia rẽ nội bộ, làm lòng dân oán thán
Vì những lẽ đó Bác coi tham nhũng là người thù của nhân dân, là đồng minh
của thực dân và phong kiến, tội lỗi của những người tham ô, lãng phí cũng

nặng như tội lỗi của Việt gian, mật thám. Người chỉ ra rằng: “chống tham ô,
lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc
trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. Muốn chống tham ô,
lãng phí, quan liêu thì phải dân chủ, phê bình và tự phê bình, làm cho mọi
người biết tự phê bình mình và dám phê bình người. Phải để cho người phụ
trách thấy, để quần chúng thấy thì tham ô, lãng phí không thể nảy nở được”.
Và vì quan liêu, tham ô, lãng phí có hại cho nhân dân, cho Chính phủ, cho
Đoàn thể, cho kháng chiến và kiến quốc, nên mọi người có quyền và có nghĩa
vụ phải chống. Đã ăn cắp của công làm của tư thì dân phải biết, phải xử, đã là
tham ô thì tập thể cũng phải trị. Trả lời phỏng vấn của Đại biểu Quốc hội
khóa I trong phiên họp ngày 31/10/1946, Hồ Chủ Tịch nói: “Sẽ dùng pháp
luật mà trị những người ăn hối lộ - đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết”. Để
đấu tranh có hiệu quả chống tệ tham ô, tội phạm chức vụ, ngày 17/11/1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 223/SL quy định truy tố
các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ. Trong Sắc lệnh này đã chỉ rõ: Tội
đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ bị phạt từ từ 5 năm đến
20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ Công chức bao gồm nhân viên
trong Chính phủ, trong các Uỷ ban hành chính các cấp, các cơ quan do nhân
dân bầu lên, trong bộ đội và tất cả những người phụ trách một công vụ. Ngày



24
23/11/1946 với tư cách Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Hồ Chủ Tịch đã ký Sắc lệnh số 64/SL về việc thành lập Ban thanh
tra đặc biệt, thành viên gồm cụ Bùi Bằng Đoàn và ông Cù Huy Cận. Theo Sắc
lệnh này Ban Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ giám sát tất cả các công việc và
các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ, được giao
những quyền hành chính và tư pháp. Điều II của Sắc lệnh quy định: “Ban
Thanh tra đặc biệt có quyền: đình chỉ, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ

ban nhân dân hay trong Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng
Chính phủ hay Tòa án đặc biệt để xử; tịch biên hoặc niêm phong tang vật và
dùng mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang một phạm nhân ra Tòa án đặc
biệt”. Hoạt động của Ban Thanh tra đặc biệt đã góp phần quan trọng vào việc
làm trong sạch bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực uy tín của Chính phủ.
Đến ngày 18/12/1949, Hồ Chủ Tịch lại ký Sắc lệnh số 138/SL về tổ chức
Thanh tra Chính phủ quy định rõ thêm chức năng “thanh tra cả Uỷ ban kháng
chiến Hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết”. Như vậy, trong
lịch sử xây dựng và phát triển Nhà nước cách mạng Việt Nam, để phục vụ
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, việc thành lập một tổ chức chuyên trách
đặc biệt chống tham nhũng đã có tiền lệ.
Chính Ban Thanh tra đặc biệt đã tiến hành thanh tra vụ Trần Dụ Châu
tham ô tài sản của Quân đội và đề nghị Hồ Chủ Tịch ra lệnh xử tử hình Trần
Dụ Châu. Sau khi cân nhắc ký, Hồ Chủ Tịch đã ký bản án tử hình Trần Dụ
Châu nguyên Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Cục trưởng Cục quân nhu
vì tội tham ô tài sản của Quân đội trong kháng chiến chống Pháp. Lần đầu
tiên trong kháng chiến chống pháp ta xử bắn một Đại tá vì tội tham ô, cho
thấy thái độ kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh chống
tham nhũng, được hầu hết cán bộ và chiến sĩ trong cả nước đồng tình.
Để chống tham nhũng có kết quả Bác đòi hỏi phải có phương pháp
đúng trong khi xem xét, đánh giá, xử lý hành vi tham nhũng. Bác rộng lòng
khoan dung, độ lượng nhưng cũng rất mực nghiêm minh, kiên quyết, nghiêm



25
trị nhưng khi xét xử thì công bình, công, tội rạch ròi, xem xét đánh giá bao
giờ cũng khách quan, chính xác, bao giờ cũng gắn với từng điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử cụ thể, chủ trương kết hợp giữa giáo dục và nghiêm trị. Bác nhắc
nhở cán bộ Thanh tra, tư pháp phải đặc biệt chú ý điều này. Quy trách nhiệm

cho đúng cũng là đòi hỏi nghiêm khắc của Bác trong phương pháp xem xét,
đánh giá, xử lý. Với Bác, không thể dung thứ tình trạng thành tích, công cán,
lợi lộc thì vơ tất cả về mình, còn khi khuyết điểm, lỗi lầm thì lại đứng ngoài
cuộc, đổ trách nhiệm cho người khác. “Đi đến ngọn nguồn, lạch sông thì
những cơ quan nào có phạm khuyết điểm thì trước hết là vì cán bộ lãnh đạo ở
đó không làm tròn trách nhiệm, cho nên họ phải phụ trách, phải chịu phê
bình”. Làm theo lời chỉ giáo của Bác cũng là tránh được tệ “quan thì xử theo
lễ, dân thì chịu hình phạt”, là giữ cho công lý không bị xâm phạm.
Có thể nói, noi theo đạo đức Bác Hồ, theo những tư tưởng, quan điểm
và chỉ dẫn của người là một trong những đảm bảo quan trọng nhất cho thắng
lợi của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
3. Cuộc cách mạng tháng 8 vĩ đại thành công đã giành lại chủ quyền
cho đất nước, giành tự do cho nhân dân ta và Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Khi Nhà nước
cách mạng được thiết lập, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ra sức củng cố, vun
đắp, bảo vệ chính quyền thật sự trong sạch, làm tròn nhiệm vụ một công cụ
sắc bén của đấu tranh cách mạng tiến lên những bước mới. Muốn cho chế độ
vững mạnh thì trước hết chính quyền phải trong sạch. Chính vì vậy ngay
trong thời gian đầu của Nhà nước cách mạng, bên cạnh chức năng trấn áp
quân sự để bảo vệ chính quyền non trẻ, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng
đến chức năng bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, phòng ngừa trộm cắp
và cướp tài sản của nhân dân. Trên cơ sở đó, nhiều văn bản pháp luật để bảo
vệ tài sản của Nhà nước, tài sản của công dân, bảo vệ hoạt động đúng đắn của
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, ngăn ngừa vi phạm pháp luật nhất là
của cán bộ, đảng viên - những người “đầy tớ của nhân dân” và những văn bản

×