Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phòng ngừa các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.83 KB, 20 trang )

Bài tập học kỳ môn Tội phạm học

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................2
I, Tóm tắt kết quả nghiên cứu về tình hình tội phạm của tác giả Dương Vân Anh.
.................................................................................................................................2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................20

LỜI MỞ ĐẦU
Quảng Ninh là một thành phố năng động - là trọng điểm kinh tế của khu vực
Bắc Bộ, phát triển mạnh mẽ nhất là về công nghiệp, dịch vụ… Bên cạnh sự phát
triển về kinh tế - xã hội đó thì Quảng Ninh cũng là tỉnh có tỷ lệ tội phạm cao trong
cả nước. Đặc biệt là những tội phạm liên quan tới các tệ nạn xã hội, trong đó có tệ
nạn cờ bạc.
Tệ nạn cờ bạc nói chung và các tội phạm về cờ bạc nói riêng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế mà
còn ảnh hưởng tới an toàn công cộng, trật tự công cộng. Cờ bạc cũng là một trong
những nguyên nhân của các tội phạm nguy hiểm khác như cố ý gây thương tích,
giết người, trộm cắp tài sản…
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đó, em đã lựa chọn đề tài: “Trên
cơ sở nghiên cứu một luận văn thạc sĩ về tội phạm học, hãy trình bày tóm tắt về
tình hình tội phạm trong luận văn đó. Nêu ưu điểm, hạn chế của tác giả khi
nghiên cứu về tình hình tội phạm” thông qua việc nghiên cứu luận văn Thạc sĩ
Luật học“Phòng ngừa các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” của
tác giả Dương Vân Anh, năm 2012.

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 1




Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
Trong quá trình làm bài em đã rất cố gắng, song với trình độ hiểu biết vấn đề
còn hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I, Tóm tắt kết quả nghiên cứu về tình hình tội phạm của tác giả Dương Vân
Anh.
Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của (các) tội phạm (hoặc
nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm) đã xảy ra trong một đơn vị không gian và
một đơn vị thời gian nhất định. Tình hình tội phạm được thể hiện thông qua thực
trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó giúp cho
các cơ quan có thẩm quyền xây dựng được biện pháp phòng ngừa tội phạm sát hợp
với thực tiễn.
1.1, Thực trạng các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong
thời gian 2006-2011
Để thấy rõ được thực trạng của các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh trong thời gian 2006-2011 có thể khảo sát qua các bảng thống kê sau:
Bảng 1: Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm của tòa án các cấp ở
tỉnh Quảng Ninh trong 6 năm 2006 - 2011.
Năm
Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Các tội phạm về cờ bạc
Số vụ
Số bị cáo
Page 2



Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
2006

32

171

2007

41

174

2008

45

338

2009

38

193

2010

18


65

2011

35

232

Tổng

209

1173

Nguồn: Phòng thống kê VSKND Tỉnh Quảng Ninh
Dựa vào bảng số liệu ta thấy số vụ xét xử tội phạm về cờ bạc ở tỉnh Quảng
Ninh là không nhiều, nhưng số bị cáo bị xét xử lại khá đông. Tổng 6 năm (20062011) là 209 vụ với 1173 bị cáo bị xét xử. Cao nhất là năm 2008 với 45 vụ và 338
bị cáo và thấp nhất là năm 2010 với số vụ chỉ là 18 vụ và 65 bị cáo. Trung bình
mỗi năm có hơn 34,8 vụ và 195,5 bị cáo bị xét xử, mỗi tháng có hơn 2,9 vụ và
xấp xỉ 16,3 bị cáo bị đưa ra xét xử.
Tác giả còn so sánh số vụ án xét xử về tội cờ bạc so với các tỉnh khác cùng khu
vực trung du, miền núi phía bắc; cụ thể Quảng Ninh nhiều hơn gấp ba lần tỉnh Lạng
Sơn, nhưng lại ít hơn rất nhiều so với Thái Nguyên. (Có số liệu kèm theo)
Bảng 2: So sánh số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về các tội phạm cờ bạc so
với nhóm tội xâm phạm ATTC, TTCC và với tội phạm nói chung:

Các tội
phạm về cờ
bạc

Năm

1
2006
2007

Nhóm tội
phạm xâm
phạm
ATCC,
TTCC

Tội phạm nói
chung

Số

Số bị

Số

Số bị

Số

Số bị

vụ

cáo


vụ

cáo

vụ

cáo

2
32
41

3
171
174

4
265
247

5
450
435

6
1526
1425

7

2417
2387

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Tỉ lệ phần trăm so với nhóm
tội XP ATCC, TTCC và so
với tội phạm nói chung
So với nhóm

So với tội

tội phạm XP

phạm nói

ATCC, TTCC
chung
2/4
3/5
2/6
3/7
8
9
10
11
12.5% 38% 2.1% 7.1%
16.6% 40% 2.9% 7.3%
Page 3



Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
2008
2009
2010
2011
Tổng

45
38
18
35
209

338
193
65
232
1173

214
208
210
242
138

532
444
331
528

2720

1437 2593
1457 2654
1322 2138
1595 2801
8762 14990

21.0%
18.3%
8.6%
14.5%
15.1%

63.5%
43.5%
19.6%
43.9%
43.1%

3.1% 13.0%
2.6% 7.3%
1.4% 3.0%
2.2% 8.3%
2.4% 7.8%

Trong 54 Điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm ATCC, TTCC thì các tội phạm
về cờ bạc chỉ quy định ở 2 Điều luật với các tội danh (Tội đánh bạc, tội tổ chức
đánh bạc, và tội gá bạc) nhưng trong 6 năm 2006-2011 tại tỉnh Quảng Ninh các tội
phạm về cờ bạc lại chiếm tới 15,1% số vụ và chiếm tới 43,1% về số bị cáo bị xét

xử so với nhóm tội phạm ATCC, TTCC. Trong đó, năm 2008 chiếm tỉ lệ cao nhất
là xấp xỉ 21% số vụ và 63,5 % về số bị cáo bị xét xử, năm 2010 chiếm tỉ lệ thấp
nhất là xấp xỉ 8,6 % về số vụ và 19,6% về số bị cáo bị xét xử.
Còn nếu so với các tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói chung thì các tội
phạm về cờ bạc bị xét xử trong 6 năm chỉ chiếm khoảng 2,4% về số vụ bị xét xử và
chiếm khoảng 7,8% số bị cáo bị đưa ra xét xử. Có thể nói tỉ lệ 2,4% và 7,8% là một
con số không cao, tuy nhiên nếu ta xem xét trên một bình diện tổng thể các tội phạm
về cờ bạc chỉ có 3 tội quy định ở 2 Điều luật so với trên 276 tội được quy định trong
BLHS (các tội về cờ bạc chỉ chiếm khoảng 0,72% tổng số Điều luật quy định phần
các tội phạm) thì con số này cũng đã là cao. Đặc biệt là số bị cáo đưa ra xét xử về
các tội phạm về cờ bạc chiếm tới 7,8 % số bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội phạm
nói chung.
Tiếp theo, tác giả xác định chỉ số tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh như sau:
Bảng 3: Chỉ số tội phạm về cờ bạc qua các năm tính trên 100.000 dân.
Năm
Số vụ/100.000 dân
Số bị cáo/100.000 dân

2006
2,9
15,4

2007
3,6
15,5

2008
4,0
29,8


2009
3,3
16,8

2010
1,6
5,6

2011
3,0
20,0

Nhìn vào bảng ta thấy chỉ số các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh là không cao, trung bình mỗi năm cứ khoảng 100.000 dân thì có khoảng hơn 3
vụ phạm các tội phạm cờ bạc với khoảng trên 17 người phạm tội. Nếu so với các tội
Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 4


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
khác trên địa bàn như tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản thì chỉ số tội phạm về số
vụ cờ bạc là rất thấp, tuy nhiên chỉ số tội phạm về số bị cáo lại là khá cao. Nếu so
sánh mức độ phổ biến của các tội cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh với một số
tỉnh khác thì Quảng Ninh cao hơn Lạng Sơn (khoảng 1,8 vụ với 13,5 bị cáo), nhưng
lại thấp hơn so với Thái Nguyên (khoảng 4,8 vụ với 23,2 bị cáo).
 Qua các nội dung phân tích, so sánh tác giả đã trình bày được thực trạng của
các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong mối tương quan với thực
trạng của các tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm ATCC, TTCC cũng như của tội

phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, và với thực trạng của các tội phạm
về cơ bạc trên địa bàn một số tỉnh khác.
1.2, Diễn biến các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời
gian 2006-2011
Để xem xét diễn biến của các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh,
tác giả lấy năm 2006 làm năm gốc và coi là 100% để xác định mức độ tăng, giảm
hàng năm của loại tội phạm này trong những năm tiếp theo.
Bảng 4: Mức độ tăng giảm hàng năm của các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006 - 2011:

Năm
2006
2007
2008
2009
2010
2011

Các tội phạm về cờ bạc

Mức độ gia tăng hàng năm (%)

(Lấy 2006 làm mốc)
Số vụ
Số bị cáo
Số vụ
Số bị cáo
32
171
100%

100%
41
174
128,1%
101,8%
45
338
140,6%
197,7%
38
193
118,8%
112,9%
18
65
56,3%
38,0%
35
232
109,4%
135,7%
Nguồn: Phòng thống kê VKSND Tỉnh Quảng Ninh

Qua bảng số liệu cho thấy tỉ lệ tăng số vụ và số bị cáo bị xét xử về các tội
phạm cờ bạc là xu hướng chung, năm tăng cao nhất là 2008 (tăng 40,6% số vụ và
97,7% số bị cáo) các năm khác chỉ tăng dao động dưới 28,1% về số vụ và 35,7% về
số bị cáo. Riêng năm 2010 lại có xu hướng giảm cả về số vụ và số bị cáo. Sở dĩ năm
2010 có xu hướng giảm là do có sự thay đổi của pháp luật hình sự nước ta theo xu
Nguyễn Ngọc Lam - 352506


Page 5


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
hướng có lợi hơn cho người phạm tội cờ bạc: Theo BLHS sửa đổi, bổ sung 2009 và
Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 hướng dẫn thi hành một số quy
định tại các Điều 248, 249 BLHS thì giá trị tối thiểu để bị coi là phạm tội cũng như
cách tính số tiền dùng để đánh bạc cũng được xác định theo hướng có lợi hơn nên
đã giới hạn bớt phạm vi các hành vi cờ bạc bị coi là tội phạm.
Tiếp theo, tác giả đi sâu vào phân tích, so sánh tỉ lệ tội phạm về cờ bạc qua các
năm, so sánh số vụ phạm các tội về cờ bạc với số vụ phạm tội thuộc nhóm tội xâm
phạm ATCC,TTCC cũng như so với các tội phạm nói chung. Từ đó phản ánh xu
hướng tăng, giảm, ổn định tương đối của tội cờ bạc đã xảy ra trong khoảng thời gian
từ năm 2006 đến năm 2011 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu và khảo sát thực tế về tội phạm ẩn, tác giả
nhận định: loại tội phạm này có số lượng tội phạm ẩn là rất lớn, số tội phạm rõ
được phát hiện và xử lý chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số tội phạm xảy ra
trên thực tế. Sở dĩ có thể đưa ra được nhận định trên là do tác giả thấy rằng việc
đánh bạc của các bị cáo đều thực hiện lặp đi lặp lại trong một thời gian dài mới bị
phát hiện. Trong thời gian chưa bị phát hiện trên thì số vụ phạm tội và số người
phạm tội được coi là tội phạm ẩn. Hơn nữa tác giả còn khảo sát thực tế trên một khu
vực thuộc thành phố Hạ Long nhận thấy có nhiều điểm thực hiện hành vi cờ bạc
một cách ngang nhiên mà không bị xử lý.
Đưa ra lý giải về số lượng tội phạm ẩn nhiều, tác giả cho rằng: Thứ nhất là do
đại bộ bận dân cư nhìn nhận hành vi phạm tội cờ bạc với thái độ bàng quan, cho nên
không tích cực tố giác tội phạm. Thứ hai, loại tội phạm này không có nạn nhân. Thứ
ba, cơ quan nhà nước còn chưa có nhận định đúng đắn về tính nguy hiểm của tội
này nên còn chưa tích cực phát hiện và xử lý. Thứ tư là từ phía người phạm tội, họ
thực hiện bằng những thủ đoạn quá tinh vi, nơi phạm tội kín đáo, dễ lẩn trốn.
1.3, Cơ cấu các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời

gian 2006-2011
Cơ cấu tội phạm thể hiện rõ nội dung bên trong của tội phạm cũng như tạo cơ
sở cho việc xem xét nguyên nhân của tội phạm.
1.3.1, Cơ cấu theo tội danh

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 6


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
Trong thời gian 6 năm (2006 – 2011) tòa án các cấp trên địa bàn Tỉnh Quảng
Ninh đã xét xử 209 vụ với 1173 bị cáo phạm các tội về cờ bạc. Trong số 209 vụ án
bị đưa ra xét xử có tới 195 vụ đánh bạc (chiếm 93,3%) với 990 bị cáo (chiếm
84,5%), chỉ có 14 vụ tổ chức đánh bạc hoặc gạ bạc (chiếm 6,7%) với 183 bị cáo
(chiếm 15,6%).
Biểu đồ 1: Cơ cấu các loại tội phạm về cờ bạc theo tội danh

Ngoài ra, qua nghiên cứu 100 bản án với 558 bị cáo tác giả xác định có 491 bị
cáo thực hiện hành vi đánh bạc (chiếm 87,99%), 21 bị cáo thực hiện hành vi tổ chức
đánh bạc (chiếm 3,76%), 19 bị cáo thực hiện hành vị gá bạc (chiếm 3,41%), 17 bị
cáo thực hiện cả hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc (chiếm 3.05%), 10 bị cáo
thực hiện hành vi đánh bạc và gá bạc (chiếm 1.79%). Qua những số liệu và kết quả
nghiên cứu trên cho thấy tội đánh bạc chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tội này. Trong đó,
hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc đóng vai trò quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của tội đánh bạc và ngược lại, khi nhu cầu đánh bạc càng phổ biến
trên thực tế thì tất yếu cũng kéo theo sự xuất hiện càng đông đảo của đội ngũ những
người dựa vào hoạt động đó để kiếm tiền - những người tổ chức đánh bạc và gá bạc.
1.3.2, Cơ cấu theo loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
Qua khảo sát 100 bản án với 558 bị cáo tác giả xác định có tới 313 bị cáo phạm

tội thường ít nghiêm trọng (chiếm 56.09%) và có 243 bị cáo phạm tội thuộc trường
hợp nghiêm trọng (chiếm 43,55%). Chỉ có 2 bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất
nghiêm trọng (chiếm 0.36%).
Biểu đồ 2: Cơ cấu các tội phạm về cờ bạc theo loại tội phạm.

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 7


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học

1.3.3, Cơ cấu theo loại hình phạt và mức hình phạt tù được áp dụng
Như đã phân tích ở trên, tình hình các tội phạm về cớ bạc đang diễn ra trên địa
bàn Tỉnh Quảng Ninh khá nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng của các tội phạm này
còn thể hiện qua cơ cấu hình phạt được áp dụng. Ngoài ra, tổng quan cơ cấu về loại
hình phạt được áp dụng cũng cho thấy được phần nào thái độ của Nhà nước đối với
hành vi tội phạm này.
Bảng 5: Thống kê loại hình phạt và mức độ hình phát tù được áp dụng đối
với bị cáo phạm các tội về cờ bạc:
Tổng số bị
cáo bị xét

Phạt tiền không giam Từ 3 năm Từ trên 3 –

xử
2006
2007
2008
2009

2010
2011
Tổng
6 năm
Tỉ lệ

Phạt tù

Cải tạo
giữ

trờ xuống

7 năm

163
169
320
176
62
219

6
5
16
6
1
8

1109


42

171
174
338
193
65
232

2

2

6
2
2

1173

10

10

1
5

100%
0,85%
0,85%

94,55%
3,58%
Nguồn: Phòng thống kê VKSND Tỉnh Quảng Ninh

Từ trên
7 – 15 năm

1

1
2
0,17%

Biểu đồ 3: Cơ cấu về loại hình phạt và mức hình phạt tù được áp dụng:

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 8


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học

Qua bảng thống kê cho thấy loại hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo
phạm các tội phạm về cờ bạc chủ yếu là phạt tù (chiếm tới 98,3%). Trong đó, hình
phạt tù từ 3 năm trở xuống chiếm tới 94,55%; hình phạt tù từ 3 năm tới 7 năm chiến
3,58% ; hình phạt tù từ 7 năm tới 15 năm chỉ chiếm 0,17%. Ngoài ra, trong số 1108
bị cáo bị phạt tù từ 3 năm trở xuống thì có tới 809 bị cáo phạt tù cho hưởng án treo
(chiếm 72,95% tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù từ 3 năm trở xuống và chiếm
tới 68,97% tổng số bị cáo bị xét xử).
Bên cạnh hình phạt chính thì không thể không kể tới hình phạt bổ sung được áp

dụng đối với bị cáo. Trong 1173 bị cáo thì chỉ có 24,64% trong số đó là bị áp dụng
hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Theo quy định của BLHS cũng như thực tiễn áp dụng có thể thấy loại hình phạt
và mức hình phạt được áp dụng đối với các tội phạm này ở mức độ nghiêm khắc
không cao, việc áp dụng hình phạt bổ sung cũng khá hạn chế.
Thực trạng tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng như thực tế hiện này, kéo theo đó
là rất nhiều hệ lụy thì việc áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo quá nhiều trong
khi lại áp dụng quá ít hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cũng cho thấy phần nào sự
nhận thức, đánh giá chưa đầy đủ về tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm về
cờ bạc.
1.3.4, Cơ cấu theo hình thức đánh bạc
Trong tổng thể, hành vi đánh bạc được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng
và phong phú. Khó có thể liệt kê hết các dạng hành vi cờ bạc trên thực tế mà chỉ có
thể kể một số dạng hành vi cờ bạc như xóc đĩa, lô đề, chắn cạ, ba cây, tú lơ khơ, đầu
đít, tiến lên, liêng, chọi gà, cá cược thể thao, đánh bạc qua máy trò chơi...

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 9


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
Trong các hành vi đánh bạc trên, hành vi đánh bạc phổ biến trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh là các hình thức xóc đĩa, lô đề, ba cây. Qua nghiên cứu cứ 100 bản án
xét xử trong thời gian 6 năm (2006- 2011) tác giả thấy có tới 46 vụ đánh bạc dưới
hình thức xóc đĩa (chiếm 46% về số vụ), 25 vụ đánh bạc dưới hình thức lô đề
(chiếm 25% số vụ), 18 vụ đánh bạc dưới hình thức ba cây (chiếm 18% số vụ). Như
vậy 3 hình thức này đã chiếm tới 98% tổng số vụ phạm tội. Còn lại 11% là các hình
thức đánh bạc khác như: chắn, liêng, tú lơ khơ, đánh bạc qua máy trò chơi...
Biểu đồ 4: Cơ cấu theo hình thức đánh bạc


(Nguồn:100 bản án về các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh)
1.3.5, Cơ cấu theo quy mô thực hiện tội phạm.
Các vụ cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có quy mô rất đa dạng. Có vụ chỉ
có quy mô nhỏ, số lượng người tham gia ít, nhưng cũng có vụ có quy mô lớn với số
lượng người tham gia đông.
Qua khảo sát 100 bản án tác giả nhận thấy có tới 61% số vụ phạm tội được
thực hiện với quy mô vừa và nhỏ (dưới 10 người), chỉ có 39% số vụ phạm tội được
thực hiện với quy mô lớn (từ 10 người đánh bạc tham gia trở lên). Nhưng lại có
những vụ có tới 30 đến 50, thậm chí hàng trăm người tham gia. Tuy nhiên số người
bị bắt và xét xử trong các vụ án này chỉ chiếm khoảng 20% đến 30%.
Dựa vào những con số thống kê trên có thể thấy, các tội phạm về cờ bạc được
thực hiện phần lớn ở quy mô vừa và nhỏ. Tuy nhiên, với tỉ lệ 39% số vụ phạm tội
được thực hiện với quy mô lớn cũng có thể cho thấy tính chất phức tạp và nghiêm
trọng của loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian vừa qua.
1.3.6, Cơ cấu theo tính chất tổ chức thực hiện phạm tội

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 10


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
Phần lớn các vụ cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thực hiện một cách
tự phát, mang tính nhỏ lẻ, tạm bợ, mức độ liên kết giữa những người tham gia ít bền
vững. Nhưng cũng có không ít những vụ phạm tội mà có tính chất tổ chức thực hiện
hành vi phạm tội ở mức độ tinh vi, có sự phối hợp chặt chẽ, quy củ gữa các thành
viên, mang tính chuyên nghiệp.
Qua khảo sát 100 bản án tác giả nhận thấy có tới 82% số vụ được thực hiện
một các tự phát và 18% số vụ là có tính chất tổ chức. Thực tế cho thấy tính chất tổ

chức trong các vụ đánh bạc xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thường thể hiện là:
Các đối tượng tổ chức, tập hợp thành nhóm có sự phân công nhiệm vụ trong việc dụ
dỗ, lôi kéo người khác tham gia; Có những vụ án các đối tượng cắt cử người canh
gác, đồng thời lựa chọn các địa điểm có lối thoát khi bị vây bắt. Đặc biệt có những
vụ khi bị bắt giữ, các đối tượng sẵn sàng chống cự lại.
1.3.7, Cơ cấu theo địa bàn xảy ra phạm tội
Cờ bạc là loại tội phạm có thể xảy ra ở bất cứ địa điểm nào thuộc địa bàn tỉnh,
từ nhà ở đến khách sạn, quán karaoke, thậm chí còn ở những nơi dễ nhìn thấy như
vỉa hè, ven đường giao thông,... Tuy nhiên, có thể thấy trong thời gian qua, các vụ
cờ bạc xảy ra trên địa bàn tỉnh chủ yếu xảy ra ở các khu vực có sự phát triển kinh tế
- xã hội, nơi tập trung nhiều nhà máy xí nghiệp, các công ty thu hút nhiều lao động
trên các địa bàn như Thành phố Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, Uông Bí.
Trong 100 vụ án xét xử từ năm 2006 tới năm 2011 có 43 vụ xảy ra ở thành
phố Hạ Long, 25 vụ xảy ra ở thành phố Cẩm Phả, 11 vụ xảy ra ở thành phố Móng
Cái, 10 vụ xảy ra ở thành phố Uông Bí, còn lại là ở các huyện, thị khác như huyện
Bồ Hoành, thị xã Quảng Yên, huyện Đầm Hà...
1.3.8, Cơ cấu theo động cơ phạm tội
Các tội phạm về cờ bạc là loại tội phạm xuất phát từ mục đích kinh tế. Động
lực thúc đẩy các đối tượng tham gia hoạt động cờ bạc nói chung và các tội phạm về
cờ bạc nói riêng là động cơ hám lợi. Tuy nhiên, cùng là tính hám lợi nhưng hoàn
cảnh, lí do dẫn đến việc các bị cáo thực hiện hành vi cờ bạc lại rất khác nhau. Có bị
cáo thực hiện hành vi với tính chất chuyên nghiệp, coi đánh bạc như là một công
việc để kiếm tiền, mong muốn làm giàu; có bị cáo do nhiều thời gian rảnh rỗi, có

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 11


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học

chuyện buồn gia đình mà tham gia đánh bạc như một loại hình giải trí; cũng có bị
cáo thực hiện hành vi đánh bạc do hoàn cảnh khó khăn nên mong muốn kiếm tiền
giúp đỡ gia đình và cũng có bị cáo thực hiện hành vi do bị rủ rê, lôi kéo, do tò mò,
muốn thử vận may.
Qua khảo sát 100 bản án với 558 bị cáo tác giả đã xác định có 325 bị cáo thực
hiện hành vi xuất phát từ động cơ kiếm tiền làm giàu(chiếm 58,24%); 139 bị cáo
thực hiện hành vi xuất phát từ động cơ giải trí (chiếm 24,91%); 63 bị cáo thực hiện
hành vi xuất phát từ mong muốn kiếm tiền phụ giúp gia đình(chiếm 11,29%); 31 bị
cáo thực hiện hành vi do tò mò, muốn thử vận may(5,56%).
1.3.9, Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân người phạm tội
Tác giả nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các tiêu chí: nghề nghiệp,
trình độ văn hóa, tiền án tiền sự, tuổi, giới tính.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu 100 bản án với 558 bị cáo, tác giả nhận thấy
rằng: tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chủ yếu do người không có
việc làm thực hiện (chiếm 50,2%). Các bị cáo phạm tội cờ bạc có trình độ văn hóa
không cao (số có trình độ văn hóa từ THCS trở xuống chiếm 74,02%). Về lý lịch tư
pháp của những người phạm tội cờ bạc ít có tiền án tiền sự (chỉ chiếm 11,11%). Về
độ tuổi, giới tính của các bị cáo thuộc từ 18 đến 30 (chiếm tỷ lệ cao nhất 43,91%).
1.4, Tính chất của các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2006 - 2011
Từ cơ cấu các tội phạm về cờ bạc đã nghiên cứu ở trên, có thể rút ra một số
tính chất đặc trưng của các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2006- 2011 như sau:
Thứ nhất, các tội phạm về cờ bạc xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian
qua chủ yếu là tội đánh bạc (chiếm 93.3% về số vụ và 84.4% về số bị cáo).
Hai là, các tội phạm về cờ bạc ở tỉnh Quảng Ninh xảy ra chủ yếu thuộc loại tội
ít nghiêm trọng và nghiêm trọng. Trong đó, số tội ít nghiêm trọng chiếm tỉ lệ thấp
hơn (43,55% so với 56,09%).

Nguyễn Ngọc Lam - 352506


Page 12


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
Ba là, loại hình phạt mà tòa án áp dụng đối với người phạm tội chủ yếu là hình
phạt tù (chiếm 98,3%). Trong đó số trường hợp bị phạt tù nhưng được hưởng án
treo chiếm đa số (68,97%)
Bốn là, hành vi đánh bạc được thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chủ yếu
dưới hình thức xóc đĩa, lô đề, ba cây(chiếm 89%). Trong đó hình thức xóc đĩa
chiếm tỉ lệ cao nhất (chiếm 46%).
Năm là, các tội phạm về cờ bạc xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thực
hiện chủ yếu dưới với quy mô số lượng người tham gia vừa và nhỏ (chiếm 61%).
Mức độ tổ chức thực hiện hành vi không cao, phần lớn các vụ cờ bạc được
thực hiện một cách tự phát, không có sự liên kết chặt chẽ giữa những người tham
gia
Sáu là, địa bàn xảy ra tội phạm tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, nơi có
sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế cũng như xã hội, tập trung nhiều dân cư, chủ yếu
là khu vực thành phố Hạ Long (chiếm tới 43% số vụ), thành phố Cẩm Phả (chiếm
25% số vụ).
Bảy là, trong các bị cáo bị xét xử về các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian qua, số bị cáo thực hiện hành vi xuất phát từ động cơ
muốn kiếm tiền mưu sinh, làm giàu chiếm đa số với tỉ lệ 58,24%. Bên cạnh đó, xuất
phát từ động cơ giải trí cũng chiếm tỉ lệ đáng kể là 24,91% số bị cáo.
Tám là, các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh phần lớn do nam
giới thực hiện (chiếm 71,33%).
II. Nhận xét cá nhân về kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm trong Luận văn
thạc sĩ Luật học của tác giả Dương Vân Anh.
Sau khi tìm hiểu về phần “Tình hình tội phạm” trong luận văn Thạc sĩ Luật
học của tác giả Dương Vân Anh, em xin mạnh dạn đưa ra quan điểm của bản thân

về nội dung bài viết; những ưu điểm, hạn chế của tác giả khi nghiên cứu về tình
hình tội phạm.
Như chúng ta đã biết, nội dung mà tác giả Dương Vân Anh đề cập đó chính là
“bức tranh” tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong khoảng thời
gian sáu năm (từ 2006 đến 2011). Điểm nổi bật nhất, dễ dàng nhận thấy về ưu điểm

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 13


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
của Luận văn này đó chính là bố cục hợp lý, logic. Tác giả đã thực hiện được
những yêu cầu cơ bản đặt ra khi nghiên cứu về tình hình tội phạm thông qua việc
trình bày cụ thể bốn phần: đó là thực trạng, diễn biến, cơ cấu và tính chất của các tội
phạm cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006 -2011. Sau đây, bài viết
xin đi vào cụ thể từng phần:
2.1, Đánh giá về phần “Thực trạng các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian 2006-2011”
Trước tiên, cần hiểu thực trạng nghĩa là gì? “Thực trạng là tình trạng thực tế
của tội phạm đã xảy ra trong đơn vị không gian, thời gian nhất định xét về mức độ
và về tính chất”. Hiểu một cách cụ thể hơn, thực trạng là tổng hợp các số liệu về số
vụ phạm tội đã xảy ra, số lượng người đã thực hiện các tội đó, và thông số về nạn
nhân trên một địa bàn nhất định và khoảng thời gian xác định.
Đối chiếu vào công trình Luận văn Thạc sĩ của tác giả Dương Vân Anh cho
thấy, tội phạm được lựa chọn để tìm hiểu thực trạng là các tội về cờ bạc; trên phạm
vi tỉnh Quảng Ninh và trong khoảng thời gian sáu năm, từ 2006 đến 2011. Thực
trạng của tội phạm được cấu thành từ các nội dung: tội phạm rõ, tội phạm ẩn, chỉ số
tội phạm. Trong đó:
- Về tội phạm rõ:

Ưu điểm của tác giả là đã làm sáng tỏ được thực trạng các tội phạm rõ của
tội cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Với cách trình bày mạch lạc, logic, dẫn
chứng thuyết phục khiến người đọc hình dung được “bức tranh” về “phần nổi”
của tội phạm cờ bạc – tội phạm rõ.
Thứ hai, thực trạng của tội phạm xét về mức độ đã được tác giả trình bày
đầy đủ, đúng yêu cầu, qua thông số về tổng các tội phạm cờ bạc đã xảy ra và tổng
những người đã phạm các tội cờ bạc trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian
xác định.
Ngoài ra, phương pháp mà tác giả đã sử dụng đó là dựa trên những số liệu
có tính chất chính thống, đáng tin cậy từ VKSND tỉnh Quảng Ninh, cộng thêm
việc đặt những con số đó vào trong tương quan so sánh, đánh giá cụ thể, có chiều
sâu, từ đó đã làm bật nổi thực trạng về tội phạm rõ của tội cờ bạc.

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 14


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
Tuy nhiên, điểm hạn chế trong phần trình bày tội phạm rõ đó là tác giả mới
chỉ dừng lại ở các khâu lập luận, so sánh, đánh giá số liệu, song chưa tổng kết sơ
lược về tội phạm. Cụ thể tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nhận xét: số vụ xét xử tội
phạm về cờ bạc ở tỉnh Quảng Ninh là không nhiều, nhưng số bị cáo bị xét xử lại
khá đông; hơn nữa, so với các tội phạm khác thì tỉ lệ phạm tội cờ bạc trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006- 2011 chiếm khá cao... Có thể tội phạm rõ chỉ là
một tiểu mục trong phần thực trạng, tuy nhiên nó chiếm vị trí quan trọng nên không
thể không có kết luận về tình hình của vấn đề này.
- Về tội phạm ẩn:
Tội phạm đã xảy ra luôn bao gồm hai phần, đó là phần “rõ” và phần “ẩn”.
Nghiên cứu tình hình tội phạm là nghiên cứu cả tội phạm rõ và tội phạm ẩn, có như

vậy thì bức tranh tội phạm mới được toàn diện. Tuy nhiên, Luận văn Thạc sĩ của
tác giả Dương Vân Anh lại thiếu sót phần tội phạm ẩn khi trình bày về thực
trạng tội phạm cờ bạc. Đây là một nhược điểm khá lớn của bài luận. Nếu chỉ đề cập
đến phần tội phạm rõ mà không đề cập đến tội phạm ẩn tức là mới chỉ trình bày
được phần nổi của “tảng băng chìm”. Bởi vì, tội phạm rõ chỉ nêu lên được những
vụ phạm tội cờ bạc đã bị phát hiện và xử lý về hình sự, có trong thống kê hình sự
chính thức (với con số còn khiêm tốn); còn số lượng lớn vụ phạm tội cờ bạc đã
được thực hiện trên thực tế ở Quảng Ninh nhưng không được tường thuật với cơ
quan có thẩm quyền hoặc chưa bị phát hiện một cách chính thức, chưa bị đưa ra xét
xử, chưa có thống kê hình sự chính thức,thì nó được biểu đạt ở đâu? Nếu không có
nghiên cứu về tội phạm ẩn thì người đọc sẽ không có cái nhìn toàn diện về tình hình
tội phạm cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Và thực tế cũng chứng minh rằng,
phần lớn tội phạm cờ bạc là tội phạm ẩn (nó thường hoạt động những nơi khó phát
hiện, khó xử lý) thế mà Luận văn Thạc sĩ này không dày công nghiên cứu mảng đề
tài này thì thực sự là khiếm khuyết.
Theo quan điểm của cá nhân em, để tạo được hiệu quả cho bài luận, tạo nét
mới hấp dẫn người đọc thì tác giả nên bổ sung về phần tội phạm ẩn, có thể sẽ khó
có được con số có độ chính xác cao nhưng phần nào tạo ra hướng nghiên cứu mới
mẻ cho đề tài nghiên cứu tình hình tội phạm cờ bạc. Ở đây, tác giả mới chỉ dừng lại

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 15


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
ở việc nêu lập luận rằng: số lượng tội phạm ẩn là rất lớn, các bị cáo đều đã thực
hiện lặp đi lặp lại trong một thời gian dài mới phát hiện. Nhưng như thế là chưa đủ,
còn quá sơ lược, tác giả cần dẫn chứng ra con số bị cáo cụ thể ở Quảng Ninh có
hành vi phạm tội cờ bạc nhiều lần; cần đưa ra số liệu để chứng minh quy mô, số

lượng của tội phạm ẩn về tội cờ bạc. Có như thế mới bổ sung được thực trạng về tội
phạm ẩn.
Tiếp theo, tác giả cần chỉ rõ phương pháp xác định tội phạm ẩn đã sử dụng,
để tăng sức thuyết phục cho con số tội phạm ẩn mà họ đưa ra; hơn nữa tác giả cần
nêu nguyên nhân vì sao dẫn đến việc tội phạm ẩn tội cờ bạc còn tồn tại với số lượng
lớn. Ở phần diễn biến của tội phạm, tác giả cũng đã nêu lên bốn nguyên nhân và
phân tích khá kỹ. Tuy nhiên theo em nghĩ nên đưa ý này vào phần thực trạng trong
tiểu mục “tội phạm ẩn” để tạo tính logic hơn.
- Về chỉ số tội phạm:
Chỉ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến của tội phạm cờ
bạc trong dân cư. Nhận thấy, tác giả đã sử dụng đúng phương pháp để xác định
chỉ số tội phạm, cụ thể trong bảng 3, tác giả đã tính theo công thức tỷ lệ số người
phạm tội/ vụ phạm tội trên 100.000 dân. Đồng thời, sau khi đưa ra bảng chỉ số tội
phạm qua các năm (2006-2011) tác giả còn thực hiện thao tác đánh giá, nhận xét.
Khâu này là rất quan trọng và có thể thấy đây là một trong những ưu điểm của bài
luận.
2.2, Đánh giá về phần “Diễn biến các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian 2006-2011”
Nếu thực trạng phản ánh tội phạm xét trong tổng thể tĩnh thì diễn biến phản
ánh tội phạm xét trong tổng thể vận động. Diễn biến là sự phản ánh xu hướng tăng,
giảm hoặc ổn định tương đối của tội phạm nói chung hoặc của một nhóm tội phạm
cụ thể đã xảy ra trong một đơn vụ không gian và thời gian nhất định.
Ưu điểm trong phần này gồm có:
Thứ nhất, tác giả sử dụng đúng cách thức để tìm ra quy luật vận động của
tội phạm cờ bạc tại tỉnh Quảng Ninh, đó là chọn năm thứ nhất của đơn vị thời gian
nghiên cứu là năm gốc (tức là năm 2006); và số liệu liên quan đến số vụ án, số

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 16



Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
người phạm tội xảy ra trong năm này là số liệu gốc (coi là 100%). Sau đó, tác giả
lấy số liệu các năm tiếp theo đối chiếu với số liệu gốc.
Thứ hai, tác giả đã vận dụng hiệu quả cách trình bày các con số phản ánh
diễn biến bằng bảng số liệu và đồ thị. Đây là công cụ hỗ trợ cho việc mô tả diễn
biến của tội phạm một cách khoa học – hệ thống và rõ ràng. Với đồ thị, diễn biến
của tình hình tội phạm sẽ được thể hiện sinh động, rõ nét, giúp người nghiên cứu dễ
dàng phát hiện ra những biểu hiện có tính quy luật, tính bản chất để đưa ra đánh giá
chính xác về diễn biến của tội phạm. Nó cũng giúp người đọc thấy ngay được sự
vận động của tội phạm, xu hướng tăng hay giảm của tình hình tội phạm cờ bạc
trong khoảng thời gian xác định (2006- 2011).
Thứ ba, người nghiên cứu đã tìm ra xu hướng vận động của tội phạm cờ
bạc ở tỉnh Quảng Ninh năm 2006 – 2011 đó là “tỉ lệ tăng số vụ và số bị cáo bị xét
xử về các tội phạm cờ bạc là xu hướng chung”. Bên cạnh đó, tác giả còn nhận xét
khá kỹ về tình trạng dao động, khi tăng khi giảm qua từng năm.
Thứ tư, khi nhận xét về diễn biến tội phạm cờ bạc, tác giả đã biết vận dụng
được đặc điểm về tính phụ thuộc pháp lý để lý giải tại sao năm 2010 tình hình tội
phạm có xu hướng giảm. Theo lý giải của tác giả, tại thời điểm năm 2010, Nghị
quyết 01/2010/NQ-HĐTP được ban hành có quy định mới về cách tính số tiền dùng
để đánh bạc theo hướng có lợi hơn nên đã giới hạn bớt phạm vi các hành vi cờ bạc
bị coi là tội phạm.
Thứ năm, tác giả đã đánh giá đầy đủ diễn biến của cả tội phạm rõ và tội
phạm ẩn. Nếu ở phần thực trạng vắng mặt tình hình tội phạm ẩn, thì ở phần này, tác
giả khá chi tiết về diễn biến tội phạm ẩn, và rút ra nhận xét rằng: “loại tội phạm này
có số lượng tội phạm ẩn là rất lớn”. Nhận thấy ở đây, tác giả sử dụng đa dạng về
phương pháp thu thập dữ liệu, ngoài việc chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích
dữ liệu thứ cấp (tức là dùng tài liệu có sẵn trong thống kê) thì ở diễn biến tội phạm
ẩn tác giả còn sử dụng dữ liệu sơ cấp do chính người nghiên cứu thu thập qua khảo

sát thực tế, phỏng vấn.

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 17


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
Tóm lại, với các thao tác: lập bảng biểu, đồ thị, so sánh, đối chiếu, phân tích
tổng hợp, tác giả đã trình bày khá cụ thể, chi tiết về diễn biến tình hình tội phạm cờ
bạc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2006 – 2011.
2.3, Đánh giá về phần “Cơ cấu các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh trong thời gian 2006-2011”
Cơ cấu của tình hình tội phạm là tỉ trọng, mối tương quan giữa nhân tố bộ
phận và tổng thể của tình hình tội phạm trong khoảng thời gian nhất định và trên địa
bàn xác định.
Theo ý kiến cá nhân em thấy rằng phần cơ cấu tội phạm tác giả thực hiện rất
tốt, trình bày rõ ràng, toàn diện, đúng yêu cầu đề ra. Cụ thể, với việc sử dụng
nhiều tiêu chí để xác định cơ cấu của các tội phạm cờ bạc đã tạo nên sự đa dạng,
phong phú về cách tiếp nhận nội dung của cơ cấu tội phạm, làm cho người đọc
hiểu rõ hơn về nội dung bên trong của tội phạm, cũng như tạo cơ sở cho việc xem
xét nguyên nhân của tội phạm cờ bạc.
Có chín tiêu chí được đặt ra, trong đó có thể kể đến là theo cơ cấu tội danh,
theo cách phân loại tội phạm, theo mức hình phạt, theo hình thức phạm tội, theo địa
bàn phạm tội.... Nhận thấy, những tiêu chí mà tác giả đưa ra khá toàn diện, bao quát
được những vấn đề liên quan đến tình hình tội phạm cờ bạc trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh.
Bên cạnh ưu điểm về sự đa dạng tiêu chí xác định cơ cấu tội phạm, bài luận
này còn nổi bật ở những biểu đồ thể hiện cơ cấu các tội phạm về cờ bạc. Loại
biểu đồ mà tác giả sử dụng đó là biểu đồ hình tròn – đây là biểu đồ phù hợp nhất

cho việc biểu diễn cơ cấu tội phạm theo từng tiêu thức nhất định. Đồng thời, với hệ
thống biểu đồ này, người đọc sẽ dễ dàng nắm bắt được cơ cấu hơn (bởi vì cách biểu
thị qua hình ảnh luôn đạt được hiểu quả cao trong việc diễn đạt thông tin).
Mặt khác, để có được những biểu đồ thể hiện cơ cấu đó, tác giả đã đưa ra con
số cụ thể cũng như cách thức thực hiện để thuyết phục người đọc về tính chính xác
của biểu đồ. Không chỉ dừng lại ở đó, hầu như với tiêu chí xác định cơ cấu nào tác
giả cũng đưa ra những nhận xét về từng loại cơ cấu đó. Ví dụ như ở phần cơ cấu
theo tội danh tác giả nhận xét rằng: tội đánh bạc chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các tội

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 18


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học
về cờ bạc. Hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của đánh bạc và ngược lại, nhu cầu đánh bạc mà cao thì tất yếu kéo theo sự
xuất hiện của những người tổ chức đánh bạc và gá bạc.
Tóm lại, phần trình bày về cơ cấu của tình hình tội phạm trong Luận văn của
tác giả Dương Vân Anh đã đạt hiệu quả tốt, giúp bài viết được sâu sắc, cụ thể hơn,
khó có thể bắt gặp được điểm hạn chế trong phần này.
2.4, Đánh giá về phần “Tính chất của các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian 2006-2011”
Trên cơ sở tìm hiểu về cơ cấu của tình hình tội phạm cờ bạc theo những tiêu
chí khác nhau, người nghiên cứu đã rút ra tám nét đặc trưng cơ bản, có tính nổi bật
của tình hình tội phạm cờ bạc. Sau khi đọc phần tính chất, cá nhân em đã có cái
nhìn tổng quát, hiểu được những nội dung cốt lõi liên quan đến tình hình tội phạm
cờ bạc của tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2006 -2011. Có được điều này là do tác
giả đã thực hiện tốt phần tổng kết về tính chất của tình hình tội phạm, tác giả đã
đánh giá một cách rất ngắn gọn, súc tích, diễn đạt đầy đủ những nội dung cần thiết.


TỔNG KẾT
Qua việc nghiên cứu Luận văn Thạc sĩ của tác giả Dương Vân Anh, chúng ta
đã thu nhận được những thông tin hữu ích về tình hình các tội cờ bạc trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh trong năm năm 2006 – 2011. Nắm bắt được các yếu tố cơ bản của
tình hình tội phạm như là thực trạng, diễn biến, cơ cấu và tính chất. Luận văn là
công trình nghiên cứu đầu tiên dưới góc độ tội phạm học các tội phạm về cờ bạc
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Nhìn chung, luận văn đã đánh giá được tình hình các
tội phạm về cờ bạc trong thời gian 2006 – 2010, từ đó giải thích được nguyên nhân,
dự báo tình hình các tội phạm cờ bạc trong thời gian tới và đã đề xuất hệ thống các
biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội phạm này ở Quảng Ninh.
Đồng thời, việc tìm hiểu luận văn này còn giúp em hiểu một cách khá đầy đủ
về cách làm một bài luận về đề tài tình hình tội phạm, cách tiếp nhận, cũng như
trình tự các bước cụ thể để đưa ra một kết quả nghiên cứu cho riêng mình. Bài tập
học kỳ môn tội phạm học thực sự đã giúp em đặt nền tảng đầu tiên cho việc hình
thành tư duy nghiên cứu khoa học.
Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 19


Bài tập học kỳ môn Tội phạm học

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Vân Anh - “Phòng ngừa các tội phạm về cờ bạc trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội 2002.
2. Giáo trình Tội phạm học – Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội 2012.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội – “Luật Hình sự Việt Nam những vấn đề lí
luận và thực tiễn”, NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2012.

4. Dương Tuyết Miên – “Tội phạm học nhập môn” Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội 2009.
5. Nguyễn Ngọc Hòa (2001) – “Mô hình Luật Hình sự Việt Nam”, NXB Công
an nhân dân.

Nguyễn Ngọc Lam - 352506

Page 20



×