Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Đại biểu quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 130 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGUYỄN LÊ QUANG

ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN


Chuyên ngành: Lý luận Nhà nước pháp quyền
Mã số: 6.01.01



LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đăng Dung





HÀ NỘI – 2005

1
MỤC LỤC





Trang

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRONG NỀN KINH TẾ KẾ
HOẠCH HOÁ, TẬP TRUNG
6
1.1.
Sự ra đời của đại biểu Quốc hội
6
1.2.
Khái niệm, bản chất của đại biểu Quốc hội
9
1.3.
Đặc điểm của đại biểu Quốc hội trong nền kinh tế
kế hoạch hoá, tập trung.
13
Chương 2:
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI ĐẶT
RA ĐỐI VỚI QUỐC HỘI VÀ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
21
2.1.
Nhà nước pháp quyền
21
2.2.
Những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền đối với

Quốc hội và đại biểu Quốc hội
27
2.3
Địa vị pháp lý và tình hình hoạt động của đại biểu
Quốc hội trong giai đoạn chuyển đổi.
43
Chương 3:
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRONG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
99
3.1.
Luật hoạt động đại biểu Quốc hội
99
3.2.
Luật hoạt động Nghị trường
105
3.3.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến
việc cá thể hoá quyền năng của Quốc hội
106
3.4.
Bầu cử đại biểu Quốc hội trong Nhà nước pháp
quyền
112

KẾT LUẬN
117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
122



2
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Quốc gia độc lập và thịnh vượng là khát vọng ngàn đời của dân tộc.
Nếu như cha ông ta thuở trước đã thực hiện tốt nhiệm vụ thứ nhất, thì xây
dựng đất nước giàu mạnh đang là vấn đề đặt ra đối với thế hệ hôm nay. Để
thúc đẩy sự phát triển đòi hỏi mỗi cá nhân phải là một chủ thể năng động,
đầy quyết tâm và phải có những “sợi dây” liên kết họ lại, tạo thành một hợp
lực mạnh mẽ hướng về phía trước. Sự giàu có và thịnh vượng được tạo ra từ
sức lao động và trí tuệ của nhân dân, nó không thể là vật phẩm do ai đó ban
tặng.
Nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung được xây dựng trong giai đoạn
đầu của nền cộng hoà và tồn tại trong suốt thời kỳ chiến tranh đã có những
đóng góp quan trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu của cuộc kháng chiến
giành độc lập, thống nhất đất nước, về cơ bản phù hợp với quy luật của kinh
tế thời chiến. Tuy nhiên khi đất nước ra khỏi chiến tranh, cơ chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trungđã không còn phù hợp và trở thành vật cản bước tiến của
xã hội.
Để mở đường cho sự phát triển xã hội, Đảng ta đã phát động công
cuộc đổi mới từ năm 1986 với dung quan là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá, tập trung sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường; xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất
nước ta đã và đang có sự thay đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Người dân ngày càng tin tưởng vào nền kinh tế thị trường và triển vọng
phát triển kinh tế đất nước. Nhưng tốc độ, chất lượng tăng trưởng những
năm gần đây đang có dấu hiệu chững lại, con đường tiến bộ xây dựng nền
kinh tế thị trường, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, hội nhập vào thế giới văn
minh đang bị cản trở bởi sự đổi mới chậm chạp trong bộ máy nhà nước. Mô

hình Nhà nước pháp quyền không những chưa được định hình mà những đổi
mới trong bộ máy nhà nước hiện nay chỉ phản ánh sự thay đổi về lượng,

3
những vá víu từ các giá trị và tư duy cũ. Trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, trách nhiệm cá nhân chưa được đề cao, cơ chế xin – cho vẫn
còn tồn tại, thói quen quản lý và hành động theo pháp luật chưa hình thành,
nguyên tắc dân chủ còn bị vi phạm, tính công khai, minh bạch thấp, tham
nhũng, nhận hối lộ tràn lan. Nếu tiếp tục duy trì một bộ máy nhà nước như
vậy thì nền kinh tế thị trường năng động, hiện đại không thể xây dựng được.
Mục tiêu phát triển đất nước đặt ra yêu cầu phải xây dựng thành công
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để hỗ trợ mạnh mẽ nền kinh tế thị
trường, thúc đẩy sự phát triển và hội nhập của xã hội. Yêu cầu đó đặt ra cho
khoa học về nhà nước và pháp luật hàng loạt các vấn đề phải đi sâu nghiên
cứu, hình thành tư duy pháp lý, quan điểm lý luận về Nhà nước pháp quyền.
Trong hàng loạt các vấn đề pháp lý đó, vấn đề nghiên cứu đại biểu Quốc hội
đang nổi lên như một vấn đề không những mang tính lý luận cấp thiết mà
còn mang tính thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên cứu nghiêm túc, tạo cơ sở
để hình thành một tư duy mới, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền.
Hơn nữa, hoạt động đại biểu Quốc hội và mối liên hệ giữa đại biểu
với cử tri đang là một vấn đề bức xúc hiện nay. Hầu hết mọi người dân đều
không nhớ và không biết mình có người đại diện. Những cơ chế, quan niệm,
giá trị cũ kỹ và cả những mâu thuẫn nội tại của pháp luật đang cản trở sự vận
hành và phát triển của nền dân chủ đại diện.
Do vậy, đề tài “Đại biểu Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” ở nước ta là một
vấn đề có tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, cần được
xác định nghiên cứu cơ bản trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu

Các vấn đề lý luận về vai trò của các cơ quan đại diện và đại biểu dân
cử trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong quá trình phát triển
đất nước đã được nhiều nhà khoa học pháp lý nghiên cứu dưới các góc độ,

4
khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong những công trình nghiên cứu đã
được công bố, vấn đề địa vị pháp lý và vai trò của đại biểu Quốc hội, tuy
không phải đối tượng nghiên cứu chính nhưng cũng đã được đề cập đến ở
những mức độ khác nhau. Trong số những công trình này có thể kể đến kết
quả nghiên cứu của các Hội thảo, Toạ đàm, bài viết sau đây:
+ Toạ đàm về nâng cao năng lực cho đại biểu dân cử do Văn phòng
Quốc hội và Khoa Luật Đại học Quốc gia phối hợp tổ chức, tháng
9/2004.
+ Hội thảo Nâng cao năng lực giám sát cho đại biểu là người dân tộc
thiểu số, Hội đồng dân tộc tổ chức, 5-7/1/2005
+ Các bài viết liên quan đăng trên Tạp chí Lập pháp, Tạp chí Nhà nước
& Pháp luật, Tạp chí Luật học và các báo chí khác về Quốc hội và đại
biểu Quốc hội của các tác giả Nguyễn Sỹ Dũng, Nguyễn Đăng Dung,
Hoàng Thị Kim Quế, Lê Minh Tâm, Ngô Đức Mạnh, Đặng Văn
Thanh v.v.
+ Các tài liệu tham khảo nước ngoài được dịch ra tiếng Việt như: Quốc
hội và các thành viên, Roger H. Davidson và Walter J.Oleszek, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, 2002; Quốc hội hoạt động như thế nào,
Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 2003
v.v.
Vấn đề địa vị pháp lý và hoạt động của đại biểu Quốc hội đã được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt được các nhà nghiên cứu
nhà nước và pháp luật thể hiện trong nhiều công trình, bài viết đã được công
bố. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu,
khảo sát một cách toàn diện về tình hình đại biểu Quốc hội hiện nay và

phương hướng hoàn thiện địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội nhằm đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Vì vậy, luận văn sẽ
góp phần đặt vấn đề nghiên cứu toàn diện, khái quát về “Đại biểu Quốc hội
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền”.

5
3. Mục đích của đề tài và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là phân tích các đặc điểm của đại
biểu Quốc hội trong nền kinh tế tập trung, bao cấp; những yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền đối với đại biểu Quốc hội, thực trạng các quy định của
pháp luật và hoạt động của đại biểu Quốc hội qua đó làm sáng tỏ các cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc nâng cao địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội,
vai trò quan trọng của đại biểu Quốc hội trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích đặc điểm đại biểu Quốc hội trong nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung.
+ Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu đặt ra đối với đại biểu Quốc
hội; địa vị pháp lý và tình hình hoạt động của đại biểu Quốc hội thời
kỳ chuyển đổi.
+ Địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền.
Đề tài luận văn là vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên quan đến dân chủ,
tình hình thực hiện quyền lực chính trị, động chạm đến một số vấn đề nhạy
cảm mà khoa học pháp lý lâu nay ít đề cập đến. Do vậy trong khuôn khổ
chuyên ngành lý luận Nhà nước và pháp luật, luận văn chỉ tập trung phân
tích một số nội dung cơ bản có tính chất khái quát lý luận về đại biểu Quốc
Hội, bầu cử đại biểu Quốc Hội, tình hình hoạt động của đại biểu Quốc Hội
hiện nay và trình bày những khuyến nghị về hoàn thiện pháp luật, góp phần
nâng cao vai trò của đại biểu Quốc Hội trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là luận điểm lý luận trong học thuyết Mác -
Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng kinh
tế, các quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân được thể hiện qua các Nghị quyết Đại hội VII,

6
VIII, IX và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương, các văn bản pháp luật của
nhà nước.
Để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn, tác giả
đã sử dụng nhiều phương pháp cụ thể như: logic hình thức, phương pháp so
sánh, phương pháp hệ thống, phương pháp xã hội học và các phương pháp
khác, kết hợp lý luận với thực tiễn để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu
đặt ra.
5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo khoa học đầu tiên đề cập đến một
cách hệ thống và tổng quát về đại biểu Quốc hội dưới góc độ lý luận nhà
nước và pháp luật, hướng tới mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền. Qua
nghiên cứu, tác giả đã chứng minh tầm quan trọng của đại biểu Quốc hội
trong nền dân chủ; làm rõ mối liên hệ đại biểu – cử tri; bản chất hoạt động
đại biểu Quốc hội; vai trò gốc rễ của bầu cử. Tác giả hy vọng những kết quả
nghiên cứu của luận văn không chỉ là kết quả của quá trình học tập, nghiên
cứu mà sẽ đóng góp vào lý luận pháp luật về đại biểu Quốc hội, Nhà nước
phát quyền và là một công trình tham khảo có ý nghĩa đối với các chuyên gia
pháp luật, các nhà nghiên cứu, các đại biểu Quốc hội và sinh viên luật.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có:
Lời nói đầu
Chương 1: Đại biểu Quốc hội Việt Nam trong nền kinh tế kế hoạch hoá,
tập trung.

Chương 2: Nhà nước pháp quyền và những đòi hỏi đối với Quốc hội, đại
biểu Quốc hội.
Chương 3: Địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội trong Nhà nước pháp
quyền.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

7

8
CHƢƠNG 1:
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRONG NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ,
TẬP TRUNG

1.1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.1.1. Sự ra đời của đại biểu Quốc hội trên thế giới
Mặc dù hình thức người đại diện ra đời từ rất sớm trong lịch sử xã hội
loài người nhưng hình thức người đại biểu đại diện cho nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước lại chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một trình độ
nhất định sau bao thăng trầm của lịch sử và gắn liền với lịch sử hình thành
Quốc Hội (Nghị viện).
Khởi nguồn từ nước Anh, thời Trung cổ, lãnh thổ quốc gia bị phân
vùng cát cứ thành nhiều vùng lãnh thổ nhỏ, những vùng lãnh thổ mà người
dân sinh sống tại đó phân chia thành các nhóm xã hội – như giới quý tộc,
tăng lữ, tầng lớp địa chủ nhỏ, quan chức thành phố, thị dân. Để có kinh phí
các các cuộc đấu tranh quyền lực hay nhu cầu ăn tiêu xa xỉ của cung đình,
ngay cả các vị quốc vương chuyên quyền nhất cũng không thể đánh thuế và
bóc lột vô hạn định người dân của mình mà không tạo ra rạn nứt xã hội, tính
toán thực tế đã khiến vị quân vương triệu tập cuộc họp với những người đại
diện các nhóm xã hội để kêu gọi sự đóng góp tự nguyện vào ngân khố hoàng

gia.
Nhóm những người đại diện này đã phát triển qua nhiều thế kỷ để trở
thành hội đồng đại nghị (Nghị viện, Quốc Hội) như chúng ta thấy ngày nay.
Các nghiên cứu đã chỉ ra có 04 giai đoạn phát triển củng cố tư cách và quyền
lực của người đại diện. Mới đầu, những người đại diện này nhóm họp chỉ để
biểu quyết về thuế khoá nộp cho ngân khố hoàng gia mà hầu như không can
thiệp gì vào hoạt động của triều đình. Tiếp theo, các cuộc họp biểu quyết về
thuế khoá này đã tiến hoá thành các cuộc họp lập pháp và diễn đàn để gửi tới
nhà vua những khiếu nại về tình trạng quan liêu, của quyền của tầng lớp

9
quan lại. Thứ ba, trải các các cuộc cách mạng vào thế kỷ XVII, XVIII, tập
thể những người đại diện này đã hình thành một tổ chức – Nghị viện – có
chủ quyền, giành lấy quyền lập pháp và quyền biểu quyết thuế khoá từ tay
nhà vua. Cuối cùng, vào thế kỷ XIX, tính chất đại diện đã có sự thay đổi về
chất, phạm vi đại diện không còn bó hẹp trong những nhóm cục bộ mà được
mở rộng để bao gồm toàn thể quần chúng nhân dân
[20]
.
Mô hình Nghị viện ở nước Anh đã nhanh chóng lan rộng ra nhiều
quốc gia khác trên thế giới, không phân biệt hình thức Nhà nước quân chủ
hay cộng hoà, đều có cơ quan đại diện của nhân dân với tên gọi Quốc Hội
hay Nghị viện. Quốc hội và các thành viên của nó đến nay đã trải qua một
lịch sử phát triển hơn 500 năm, trở thành một thiết chế quyền lực nhà nước
hùng mạnh. Ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều tồn tại
thể chế với tên gọi Quốc Hội, Nghị viện, hay cơ quan lập pháp, với các
thành viên là những người đại diện cho nhân dân, được nhân dân lựa chọn
qua bầu cử phổ thông, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lập pháp, là nhành
quyền lực quan trọng và có ý nghĩa quyết định nhất trong cấu trúc quyền lực
nhà nước.

1.1.2. Lịch sử ra đời của đại biểu Quốc hội nƣớc ta
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, nhân dân Việt Nam sống dưới
chế độ thực dân phong kiến. Đất nước bị chia làm ba miền: Miền bắc hưởng
chế độ bảo hộ, Miền trung chế độ phong kiến, Miền nam chế độ thuộc địa. Ở
Miền bắc và Miền trung nhân dân ta không có địa vị của người công dân mà
chỉ là thần dân của vua An Nam, là nô lệ dưới chế độ thực dân nên nhân dân
không có quyền trong việc thiết lập, tổ chức bộ máy nhà nước, do vậy,
không có cơ quan đại biểu của nhân dân. Ở miền nam, thực dân Pháp thành
lập ra một số cơ quan đại diện như hội đồng kỳ mục, hội đồng tộc biểu v.v.
nhưng những hội đồng này chỉ đại diện cho giai cấp phong kiến và tiểu tư
sản, không có thực quyền và nó cũng không phải là cơ quan đại biểu cho
toàn dân mà chỉ đại diện cho một cộng đồng nhỏ như thôn, xã.

10
Ngay trước ngày phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, với
mong muốn xây dựng một chế độ dân chủ, với quan niệm rằng một chính
quyền chính đáng phải có một cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, với
nhận thức về tầm quan trọng của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân đối
với khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh kháng chiến, ngày 16/8/1945, Hồ
Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập Quốc dân đại hội, gồm 60 đại
biểu đại diện cho các đảng phái chính trị, các giai cấp, thành phần xã hội,
các tôn giáo, các dân tộc, các miền bắc trung nam của đất nước. Mặc dù đại
biểu tham gia Quốc dân đại hội không phải do bầu cử nhưng xét về tính đại
diện, thẩm quyền thì Quốc dân đại hội xứng đáng là một cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân.
Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Hồ Chí Minh, đã ra sắc lệnh số 14-SL về cuộc tổng tuyển cử đề
bầu Quốc hội. Bản sắc lệnh ghi rõ: “Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân
đại biểu Đại hội họp ngày 16,17/8/1945, tại Khu giải phóng, ấn định rằng
nước Việt nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa, và Chính phủ nhân dân

toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu ra theo lối phổ thông đầu phiếu cử
lên”
Theo sắc lệnh bầu cử nói trên thì: tất cả công dân Việt Nam, cả trai và
gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử ngoại trừ những người bị tước
quyền công dân hoặc những người mất trí.
Ngày 6/1/1946, cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc đã được tiến hành.
Có 89% cử tri trên cả nước tham gia đi bầu cử và bầu được 333 đại biểu,
trong đó có 57% là các đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau, 43% là các
đại biểu không đảng phái, 10 đại biểu là phụ nữ, 34 đại biểu là người dân tộc
thiểu số. Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I, Quốc hội đã
thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nền cộng hoà - Hiến pháp 1946.
Nghiên cứu sự ra đời của đại biểu Quốc hội nước ta cho thấy chúng ta
đã biết phát huy lợi thế của nước đi sau, kế thừa những kinh nghiệm và

11
thành tựu trong lịch sử phát triển Quốc hội. Đại biểu Quốc hội nước ta ngay
từ khi ra đời đã là người đại diện của toàn thể nhân dân, do nhân dân trực
tiếp lựa chọn qua bầu cử phổ thông, không phân biệt thành phần, giới tính,
tôn giáo, giá trị tài sản. Quốc hội sau khi ra đời là cơ quan đại diện cao nhất
của nhân dân, là cơ quan quyền lực, cơ quan lập pháp.
1.2. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.2.1 Khái niệm đại biểu Quốc hội
Để định nghĩa chính xác đại biểu Quốc hội, cần xem xét đại biểu
Quốc hội dưới những giác độ khác nhau. Dưới giác độ nguồn gốc quyền lực,
đại biểu là cầu nối chuyển giao quyền lực từ nhân dân vào Nhà nước, là cơ
sở “năng lượng”, tính chính đáng để bộ máy nhà nước vận hành và tồn tại.
Hầu hết các nhà nước trên thế giới ngày nay đều tuyên bố hoặc cam kết về
duy trì, thúc đẩy dân chủ, thừa nhận quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Dưới giác độ hình thành bộ máy nhà nước, đại biểu Quốc hội là người
đại diện cho nhân dân lập ra bộ máy nhà nước, quyết định cơ cấu tổ chức,

bầu hoặc thông qua các vị trí nhân sự chủ chốt của cơ quan hành pháp, tư
pháp. Theo quy định của Hiến pháp nước ta, Quốc Hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất. Các đại biểu Quốc hội bầu ra các chức danh Chủ tịch
nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, phê chuẩn
danh sách thành viên Chính phủ. Ở một số nước, người đứng đầu cơ quan
hành pháp do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhưng Quốc Hội vẫn giữ vai trò rất
lớn về nhân sự chủ chốt của cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
Dưới giác độ người đại diện, đại biểu là người mang tâm tư nguyện
vọng của nhân dân vào các chính sách và pháp luật do nhà nước ban hành,
tạo sự cân bằng giữa quyền lợi của nhân dân với nhu cầu quản lý xã hội,
thay mặt nhân dân giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan công
quyền. Đại biểu với tư cách là người đại diện cho nhân dân có trách nhiệm
thường xuyên tiếp xúc với cử tri, nắm bắt, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và
những khó khăn của người dân, thông qua hoạt động tại Quốc Hội, chuyển

12
tải các tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu đó thành pháp luật thông qua quá trình
lập pháp. Mặt khác, Đại biểu Quốc hội cũng có trách nhiệm giám sát việc
thực thi pháp luật của cơ quan hành pháp, đảm bảo hoạt động của nhà nước
luôn hướng tới mục tiêu phục vụ xã hội, đặt lợi ích của người dân lên trên
hết. Để thực thi những nhiệm vụ nặng nề này, pháp luật trao cho Quốc hội
những quyền năng quan trọng như quyền lập pháp, giám sát, quyết định
nhân sự chủ chốt của các Bộ, Ngành, quyền chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm
v.v.
Với tư cách là một con người, cá nhân người đại biểu cũng mang đầy
đủ tố chất của một con người bình thường: có tình cảm, lý trí; cứng rắn và cả
sự yếu đuối; có trách nhiệm với gia đình, dòng tộc; yêu lao động nhưng cũng
có nhu cầu vui chơi, giải trí v.v. Vì vậy, cần tiếp cận người đại biểu dưới
giác độ nhân bản (bản chất người) và thực tiễn, không nên lý tưởng hoá mà
thay vào đó cần tạo ra cơ chế để giúp họ phát huy tối đa mặt tích cực, đóng

góp nhiều cho cộng đồng.
Theo quy định của pháp luật, Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho
ý chí và nguyện vọng của nhân dân, không chỉ nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước, là người thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội
[2]
. Đại biểu Quốc hội chịu
trách nhiệm trước cử tri đồng thời chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc
thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.
Từ những vấn đề phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm đại biểu
Quốc hội như sau:
Đại biểu Quốc hội là người được nhân dân lựa chọn thông qua bầu
cử, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là người thay mặt nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc hội.
1.2.2. Bản chất đại biểu Quốc hội

13
Nghiên cứu khái niệm đại biểu Quốc hội cho thấy đại biểu Quốc hội
mang một bản chất kép: vừa là người đại diện của nhân dân, vừa là thành
viên cơ quan quyền lực nhà nước – Quốc hội.
Là người đại diện của nhân dân, đại biểu Quốc hội là người của nhân
dân. Họ có trách nhiệm phải thường xuyên gần gũi với cử tri để nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng và những yêu cầu của cử tri đối với Nhà nước. “Gần gũi cử
tri” là một yêu cầu định tính và có phạm vi rất rộng. Nó đòi hỏi người đại
biểu phải thường xuyên giữ mối liên hệ với cử tri qua nhiều kênh khác nhau.
Các cuộc tiếp xúc cử tri định kỳ, các Hội nghị, Hội thảo, lịch tiếp dân là một
kênh quan trọng để đại biểu Quốc Hội gặp gỡ và thảo luận với nhân dân về
mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày, thông tin về pháp luật, chính
sách, nguyện vọng của dân chúng. Nhưng đại bộ phận cử tri và người lao
động không phải bao giờ cũng có điều kiện tham dự các buổi gặp gỡ chính

thống đó. Để thực sự gần gũi và thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri đòi
hỏi người đại biểu phải chủ động đi vào cuộc sống hàng ngày của người lao
động. Đó là những môi trường, hoàn cảnh xã hội vô cùng đa dạng, phong
phú, vừa có thể là một thế giới lam lũ của những người nông dân trên cánh
đồng, những người công nhân trong công xưởng, những xóm nghèo lao
động hoặc những buổi gặp gỡi sôi nổi với những doanh nghiệp, nhà đầu tư,
giới trí thức, sinh viên. Người đại biểu cũng cần phải tích cực tham gia các
hoạt động và phong trào xã hội trên các lĩnh vực liên quan đến cuộc sống
hàng ngày của nhân dân và việc thực thi chính sách, pháp luật của nhà nước
như các vấn đề về nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế, an ninh trật tự; đi dầu
trong các hoạt động từ thiện, giúp đỡ người nghèo và những tầng lớp dân cư
dễ bị tổn thương nhất do sự thay đổi chính sách của nhà nước.
Để làm được những điều đó đòi hỏi người đại biểu nhân dân phải có
được những đức tính và kỹ năng nhất định. Trước hết, người đại biểu phải
có đức tính kiên nhẫn và sự nhạy cảm của chính khách. Đa số cử tri là những
người lao động bình thường và không phải ai trong số họ cũng có khả năng

14
diễn đạt một cách tường minh những ý kiến, tâm tư, trăn trở đối với người
đại diện của mình. Trò chuyện với cử tri để hiểu họ không phải là việc dễ,
trước hết phải có lòng kiên nhẫn để có thể nghe hết những gì họ nói, khích lệ
họ đủ tự tin trình bày suy nghĩ của mình, và trong vô vàn những thông tin từ
người dân, bằng sự nhạy cảm của một chính khách để chắt lọc và xác định ra
nhu cầu, nguyện vọng, bức xúc của đại bộ phận cử tri, là cơ sở quan trọng
cho hoạt động tại nghị trường sau này. Mặt khác, ngoài sự kiên nhẫn và nhạy
cảm, người đại biểu cần phải có đức tính nhũn nhặn, hoà nhập, khả năng
giao tiếp bằng ngôn ngữ bình dân, không khoa trương, quan cách, dùng
những ngôn từ khoa học người dân không hiểu. Nói tóm lại, là người đại
diện của nhân dân, người đại biểu phải rèn luyện được cho mình phong cách
của người đại diện, một phong cách vừa dân dã, giản dị lại vừa sâu sắc, thâm

thuý, có như vậy họ mới có thể lắng nghe và thấu hiểu cử tri, nhạy cảm
trước những thay đổi và rạn nứt trong xã hội, hoàn thành được nhiệm vụ
nặng nề nhân dân giao phó.
Là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc
Hội, đại biểu Quốc Hội là một thành viên trong bộ máy nhà nước, hơn thế
họ là những thành viên quan trọng và đặc biệt. Trái ngược hẳn với môi
trường xã hội đa dạng, cuộc sống lam lũ, bộn bề, đầy lo toan của người lao
động là một Quốc Hội trang trọng và đầy quyền uy, nơi khởi nguồn và giao
thoa của các dòng chảy quyền lực nhà nước, nơi hội tụ đông đảo các chính
khách, các thành viên chính phủ, các viên chức quèn tham vọng, đại diện các
tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, nhóm lợi ích, các cơ quan thông tin đại
chúng, báo chí, phát thanh, truyền hình v.v. Quốc Hội hoạt động theo chế độ
tập thể với một mạng lưới phức tạp các cơ chế, quy tắc, truyền thống, tập
quán và cả những thói quen. Không phải tất cả các đại biểu lần đầu tiên tham
gia Quốc hội đều có thể dễ dàng thích nghi ngay với môi trường làm việc vô
cùng đa dạng và phong phú đó. Nói chung họ phải học tập, phải rèn luyện kỹ
năng hùng biện, thuyết phục, phải thông thạo các hành lang, thậm chí ngõ

15
ngách quyền lực trong bộ máy nhà nước, phải biết dựa vào các điều kiện,
truyền thống, xu hướng hoạt động của Quốc hội như nó vốn có để hành
động, biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành pháp luật và giám sát để
đảm bảo pháp luật đó được thực thi đúng hướng.
Bản chất kép của người đại biểu đó dường như đã tạo ra hai con người
với phong cách khác hẳn nhau: một bên là sự giản dị, gần gũi, chia sẻ, tư
duy tổng hợp với một bên là sự trang trọng, lịch thiệp, tài hùng biện, tư duy
phân tích, đánh giá. Một bên là người đại diện của nhân dân, họ có trách
nhiệm lắng nghe và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân chuyển
thành đề xuất với nhà nước; một bên là thành viên của Quốc Hội, họ phải
biến những đề xuất đó thành chính sách và pháp luật, phải có tính cẩn trọng

và mạnh mẽ để thực hiện quyền lực mà nhân dân giao phó.
Tuy nhiên, hai mặt trong con người đại biểu đó cũng gắn bó chặt chẽ
với nhau. Sự thành công trong vai trò người đại diện có ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng những quyết định lập pháp, giám sát, phân bổ ngân sách và
ngược lại, chỉ khi đại biểu phát huy tích cực vai trò của mình ở Quốc Hội,
đóng góp tích cực vào lợi ích của xã hội, cộng đồng, họ mới đạt được sự tín
nhiệm, tin tưởng thực sự của nhân dân, mới xứng đáng là người đại biểu của
nhân dân.
Bản chất kép đó cũng góp phần hình thành các chức năng cơ bản nhất
của Quốc hội: chức năng đại diện và chức năng lập pháp, giám sát.
1.3. ĐẶC ĐIỂM ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRONG NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH
HOÁ, TẬP TRUNG
Nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung đã tồn tại trong khoảng 30 năm,
từ năm 1954 – 1986. Đây cũng là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh lớn giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đặc điểm cơ bản của nền kinh tế này
là dựa trên nền tảng sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể; quản lý tập trung các
hoạt động kinh tế – xã hội thông qua kế hoạch, bằng phương pháp mệnh
lệnh hành chính. Nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung đã có những đóng góp

16
quan trọng trong việc huy động các nguồn lực đáp ứng nhu cầu chiến tranh
và cơ bản phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội thời chiến. Tính chất, đặc
điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quyết định các yếu tố của
thượng tầng kiến trúc chính trị, trong đó có Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Địa vị pháp lý và hoạt động của đại biểu Quốc hội trong thời kỳ này mang
dấu ấn sâu sắc của chế độ kinh tế kế hoạch hoá, tập trung.
Phân tích địa vị pháp lý và thực tiễn hoạt động của đại biểu Quốc hội
trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung ở nước ta cho thấy: đại biểu Quốc
hội chưa khẳng định được vai trò trung tâm của nền dân chủ, là người đại
diện nhân dân thực hiện quyền lực tối cao của Nhà nước, đóng góp tích cực

vào sự phát triển xã hội, mà ngược lại giữ một vai trò hình thức, chủ yếu là
các công chức hành chính kiêm nhiệm. Đại biểu Quốc hội chỉ đóng vai trò
thứ yếu nhằm hình thành nên một cơ quan quyền lực nhà nước hình thức,
hoạt động thời vụ – Quốc hội. Vai trò, vị trí của đại biểu Quốc hội trong đời
sống xã hội mờ nhạt, không gây được sự chú ý bởi hàng loạt các nguyên
nhân có tính khách quan nảy sinh từ nhu cầu và tính chất kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp của mô hình kinh tế và hoàn cảnh đất nước. Điều này được
thừa nhận trên các phương diện sau đây:
+ Trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung Nhà nước quản lý xã hội
chủ yếu bằng kế hoạch và những mệnh lệnh hành chính, pháp luật chỉ giữ
vai trò thứ yếu, nhu cầu ban hành pháp luật để quản lý xã hội không cao. Sự
điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ kinh tế trong nhiều trường hợp
được thay thế bởi sự điều chỉnh trực tiếp của các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng. Các đơn vị kinh tế lấy các chỉ thị, nghị quyết này làm căn cứ để hoạt
động và tổ chức các quá trình kinh tế. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả điều
chỉnh của các chỉ thị, nghị quyết này hơn hẳn pháp luật. Các đạo luật điều
chỉnh hoạt động kinh tế xã hội ít được quan tâm xây dựng, mà chủ yếu thay
thế bởi các văn bản pháp quy của Chính phủ. Cơ quan lập pháp và các thành
viên của mình (đại biểu Quốc hội) do vậy có ít việc để làm, công việc chủ

17
yếu là hơp pháp hoá các quyết định có sẵn, tạo ra sự ủng hộ của công chúng
đối với đường lối, chính sách của Đảng, cung cách điều hành của Nhà nước.
Đại biểu Quốc hội dường như đứng ngoài quá trình phát triển kinh tế, không
phát huy được vị trí, vai trò của mình.
+ Chế độ sở hữu công cộng với hai hình thức cơ bản là sở hữu nhà nước
và sở hữu tập thể, suy cho cùng đều là sở hữu xã hội chủ nghĩa, đã đơn giản
hoá đời sống kinh tế xã hội, triệt tiêu các mâu thuẫn về lợi ích. Mối quan hệ
Nhà nước – xã hội, cá nhân – tập thể dường như hoà vào nhau. Các nhóm lợi
ích, sự đa dạng của các tầng lớp, cộng đồng xã hội mờ nhạt, lợi ích cá nhân,

lợi ích cộng đồng với lợi ích nhà nước không được phân định rạch ròi.
Những yếu tố trên cũng góp phần làm giảm vai trò của người đại diện.
+ Ngoài ra, bối cảnh chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước đặt
ra yêu cầu phải có một Quốc hội với đầy đủ đại diện cho các thành phần dân
tộc, tôn giáo, vùng miền. Tính đại diện do vậy được nhấn mạnh, năng lực đại
biểu, chất lượng hoạt động chưa được đề cao.
Vai trò mờ nhạt của đại biểu Quốc hội đối với quá trình phát triển
kinh tế và hoạt động của bộ máy nhà nước đã ảnh hưởng đến địa vị pháp lý
của đại biểu Quốc hội. Mặc dù, Hiến pháp và pháp luật đã quy định về các
quyền và nghĩa vụ của đại biểu Quốc hội, nhưng do thiếu vắng những quy
định của pháp luật về cơ chế, trình tự, thủ tục thực hiện các quyền năng nên
sự tồn tại của chúng mang tính hình thức. Địa vị pháp lý của đại biểu Quốc
hội trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung được khái quát ở những đặc
điểm sau đây:
1.3.1. Pháp luật đã bƣớc đầu quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
đại biểu Quốc hội và Quốc hội. Các quyền này gồm: quyền lập pháp,
quyền giám sát, quyền chất vấn, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của
Nhà nước (bầu, miễn nhiệm các chức danh chủ chốt của Nhà nước, quyết
định ngân sách, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, chính sách tài chính,

18
chính sách dân tộc, tôn giáo, đối nội, đối ngoại), quyền miễn trừ, nghĩa vụ
tiếp xúc cử tri.
1.3.2. Pháp luật thời kỳ này chƣa có các quy định về cơ chế, trình tự,
thủ tục thực hiện các quyền năng cơ bản trên. Mặc dù quy định về quyền
lập pháp nhưng pháp luật thiếu những quy định cụ thể về quy trình lập pháp,
quyền của đại biểu Quốc hội trong việc nêu sáng kiến pháp luật, trình dự án
luật ra trước Quốc hội, trình tự, thủ tục xem xét, phản biện dự luật v.v.
Tương tự như vậy, về nhóm quyền giám sát, thiếu những quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục chất vấn, trách nhiệm người trả lời chất vấn, quyền bỏ phiếu

tín nhiệm. Do vậy, hiệu quả công tác lập pháp, giám sát của Quốc hội chưa
cao. Thậm chí có khoá Quốc hội chỉ ban hành được 1 văn bản luật (Quốc hội
khoá IV, 1971-1975).
1.3.3. Các quy định của pháp luật thời kỳ này chƣa chú trọng đến việc
đề cao trách nhiệm cá nhân của từng đại biểu Quốc hội. Các quyền năng
của Quốc hội chưa được cụ thể hoá đến từng đại biểu Quốc hội để phát huy
sự chủ động, sáng tạo của từng cá nhân, mà chủ yếu được thực hiện theo cơ
chế tập thể: lập pháp tập thể, giám sát tập thể, hoạt động tập thể. Vì vậy,
trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của Quốc hội và hoạt động đại diện của
đại biểu Quốc hội cũng thiên về trách nhiệm tập thể. Pháp luật chưa có các
quy định phát huy quyền năng của từng đại biểu Quốc hội như các quyền về
phát động lập pháp, phát động giám sát, phản biện v.v. Pháp luật cũng thiếu
những quy định về công khai hoá kết quả hoạt động của đại biểu Quốc hội
trước cử tri, về cơ chế giám sát của cử tri đối với đại biểu Quốc hội, quyền
bãi miễn và cơ chế khởi động quyền bãi miễn của cử tri. Chế định về Đoàn
đại biểu Quốc hội là một đặc thù trong giai đoạn này. Đoàn đại biểu Quốc
hội được thành lập theo từng địa phương, mang tên gọi của địa phương, với
các thành viên là đại biểu Quốc hội được bầu tại địa phương đó. Thay vì đại
biểu Quốc hội chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình tại địa
phương và tự chịu trách nhiệm trước cử tri và Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc

19
hội đứng ra tổ chức hoạt động cho các đại biểu trong Đoàn và hàng năm
định kỳ báo các về tình hình hoạt động của các đại biểu với Uỷ ban thường
vụ Quốc hội và Mặt trận tổ quốc.
1.3.4. Pháp luật thời kỳ này thiếu các quy định về đảm bảo điều kiện
hoạt động của đại biểu Quốc hội. Do đa số đại biểu Quốc hội hoạt động
kiêm nhiệm, lương bổng, chế độ đãi ngộ đều hưởng theo chức vụ và công
việc trong bộ máy hành chính nhà nước, nhiệm vụ đại biểu chỉ là kiêm
nhiệm và thực hiện mang tính chất thời vụ, nên các quy định về đảm bảo

điều kiện vật chất cho hoạt động của đại biểu Quốc hội hầu như không có.
Các đại biểu chỉ được nhận một khoản trợ cấp mang tính hình thức cho hoạt
động đại biểu. Ngoài ra, các quy định đảm bảo điều kiện thông tin cho các
đại biểu Quốc hội hoạt động cũng rất nghèo nàn. Các đại biểu chủ yếu chỉ
dựa vào thông tin, báo cáo giải trình của cơ quan hành pháp khi trình một dự
thảo luật, nghị quyết ra trước Quốc hội. Trong bối cảnh như vậy, pháp luật
đã đưa ra giải pháp tình thế là thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội
để làm công tác giúp việc tập trung, giúp các đại biểu trong hoạt động tại địa
phương. Văn phòng này có chức năng tham mưu và tổ chức phục vụ mọi
hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội. Văn phòng có trụ sở riêng, con dấu
riêng, kinh phí hoạt động được trích từ nguồn kinh phí hoạt động của Đoàn
đại biểu Quốc hội.
1.3.5. Trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên và hầu hết
đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội
(Ban thường trực, Hội đồng nhà nước) được thành lập để thay mặt Quốc
hội giải quyết công việc trong thời gian Quốc hội không họp. Uỷ ban
thường vụ Quốc hội được pháp luật trao cho những quyền hạn rất lớn, gần
như một Quốc hội thu nhỏ, trong đó có các quyền như ban hành pháp lệnh,
giải thích pháp luật, quyết định trưng cầu dân ý; sửa đổi, bãi bỏ các quyết
định của Chính phủ trái Hiến pháp; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định bổ nhiệm,

20
miễn nhiệm Phó Thủ tướng, các thành viên của Chính phủ trong thời gian
Quốc hội không họp; tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; quyết định tổng
động viên, giới nghiêm v.v.
1.3.6. Chế định bầu cử đại biểu Quốc hội trong nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trungđƣợc thiết kế theo hƣớng để đảm bảo cơ cấu, thành phần Quốc
hội. Quốc hội phải bao gồm một tỷ lệ hợp lý các thành viên đại diện cho các
thành phần trong xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo. Hoạt động bầu cử do

vậy về cơ bản không mang tính cạnh tranh, vấn đề chất lượng đại biểu,
chương trình hành động, giải pháp chính sách, cam kết không được quan
tâm đúng mức. Nói cách khác, bầu cử đại biểu Quốc hội thời kỳ này nhằm
chọn ra người đại diện theo cơ cấu, tỷ lệ được duyệt trước, chứ không nhằm
mục tiêu chọn ra những chính khách có năng lực. Quốc hội ngoài chức năng
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn có một chức năng ngầm định
quan trọng không kém là biểu trưng cho sự đoàn kết dân tộc, sự gắn kết xã
hội. Thực tiễn cho thấy Quốc hội trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung
đã làm tốt chức năng thứ hai.
Tóm lại, nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung với những đặc trưng của
nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Đặc điểm cơ
bản trong địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội trong nền kinh tế kế hoạch
hoá, tập trung là tính chưa hoàn thiện. Pháp luật mới chỉ dừng lại ở những
tuyên bố về quyền và nghĩa vụ cơ bản của Quốc hội và cá nhân từng đại biểu
Quốc hội, chưa có những Luật cụ thể hoá trình tự, thủ tục và cơ chế thực
hiện những quyền và nghĩa vụ này, chưa cá thể hoá các quyền của Quốc hội
thành các quyền năng của từng đại biểu Quốc hội. Hoạt động của đại biểu
Quốc hội thời kỳ này mang nặng tính “thời vụ”, chỉ sôi động một năm hai
lần ở những kỳ họp Quốc hội, còn ngoài ra, phần lớn thời gian, tâm sức và
trí tuệ được họ dành cho công việc chính là công chức trong bộ máy hành
pháp. Do vậy, đại biểu Quốc hội thời kỳ này mang tính đại diện cho cơ cấu
xã hội theo thành phần dân tộc, tôn giáo, giới tính, tầng lớp, vai trò của đại

21
biểu trong hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như mối quan hệ với cử tri
rất mờ nhạt. Quốc hội trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung là một bông
hoa nhân tạo đẹp nhưng ở đó thiếu sự sống.

Kết luận chƣơng 1:
Từ những nghiên cứu về sự ra đời của đại biểu Quốc hội nước ta, đặc

điểm của đại biểu Quốc hội trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung được
thể hiện ở các mục 1,2,3 của Chương 1, chúng ta có thể đi đến những kết
luận sau đây:
1. Đại biểu Quốc hội là người được nhân dân lựa chọn thông qua bầu cử,
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là người thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc hội. Đại biểu Quốc hội mang một
bản chất kép, vừa là người của nhân dân, hoà đồng với thực tế xã hội, cảm
thông, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, vừa là một thành viên
của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất – Quốc hội. Hoạt động của đại
biểu Quốc hội giúp chuyển giao ý chí, quyền lực từ hàng triệu con tim, khối
óc cử tri trở thành quyền lực của nhà nước, tạo ra bản chất của dân, do dân,
vì dân của nhà nước.
2. Đại biểu Quốc hội nước ta ra đời trong cuộc kháng chiến giành độc
lập dân tộc. Ngay từ khi ra đời, đại biểu Quốc hội nước ta đã là người đại
diện cho nhân dân cả nước, do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra qua bầu cử phổ
thông. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được
Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 9/11/2005 đã ghi nhận các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của đại biểu Quốc hội.
3. Ngay sau khi giành được độc lập, đất nước lại trải qua hai cuộc chiến
tranh khốc liệt. Trong 20 năm chiến tranh và 10 năm sau đó, chúng ta áp
dụng mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung để phát triển kinh tế xã
hội. Nền kinh tế này đã phát huy mặt tích cực, đặc biệt là trong thời chiến,
tạo điều kiện tập trung và huy động mọi nguồn lực phục vụ nhiệm vụ ưu tiên

22
số 1 là giải phóng đất nước. Tuy nhiên, nền kinh tế này với những đặc thù
của nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
trong đó có Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội trong nền
kinh tế kế hoạch hoá, tập trung có ít việc để làm, hoạt động hình thức, vai trò
mờ nhạt. Đặc điểm cơ bản của đại biểu Quốc hội thời kỳ này là:

+ Mặc dù Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội đã quy định về các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của Quốc hội và cá nhân đại biểu Quốc hội nhưng mới
chỉ dừng lại ở những tuyên bố pháp lý do thiếu những quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục, cơ chế và những quyền năng cụ thể để thực hiện.
+ Pháp luật thiếu các quy định về trách nhiệm cá nhân của đại biểu
Quốc hội, do vậy sự năng động, sáng tạo của từng đại biểu Quốc hội không
được phát huy. Thay vào đó là cơ chế trách nhiệm tập thể, hoạt động theo
tập thể trong các hoạt động lập pháp, giám sát. Đoàn đại biểu Quốc hội được
thành lập ở các địa phương để tổ chức các hoạt động tập thể cho đại biểu
Quốc hội ở địa phương. Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội được thành lập
để giúp việc tập trung cho đại biểu Quốc hội trong Đoàn.
+ Hầu hết các đại biểu Quốc hội là các công chức hành chính kiêm
nhiệm, hoạt động đại biểu mang tính hình thức, thời vụ, chủ yếu tập trung
trong thời gian hai kỳ họp hàng năm. Tính thời vụ trong hoạt động của Quốc
hội và đại biểu Quốc hội làm nảy sinh chế định về Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, một cơ quan trực thuộc Quốc hội, thay mặt Quốc hội giải quyết mọi vấn
đề trong thời gian Quốc hội không nhóm họp. Uỷ ban thường vụ Quốc hội
được pháp luật trao cho những quyền lực rất lớn, tương tự quyền lực của
một Quốc hội thu nhỏ.
+ Bầu cử đại biểu Quốc hội trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung
không hướng tới lực chọn những cá nhân xuất sắc, có năng lực mà cốt lựa
chọn đủ thành phần, cơ cấu theo kế hoạch đã định sẵn để đảm bảo tính đại
diện hình thức của Quốc hội. Mặc dù quyền tự do bầu cử của nhân dân được
pháp luật quy định rất rõ ràng và tiến bộ, nhưng các quy định về quyền ứng

23
cử lại được giới hạn. Ứng cử viên được phân bổ theo một cơ chế tương tự
“cơ chế cấp hạn ngạch” về từng cơ quan, tổ chức để giới thiệu. Các hội nghị
hiệp thương sơ tuyển ứng cử viên theo những tiêu chí pháp luật định sẵn,
không dựa trên chương trình hành động và những cam kết của đại biểu.



24
CHƢƠNG 2
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI
QUỐC HỘI, ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Nếu cơ chế kinh tế kế hoạch hoá, tập trung đã có những đóng góp tích
cực trong thời chiến, thì cơ chế thị trường là lựa chọn đúng đắn để thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, xây dựng đất nước trong thời bình. Kinh tế thị trường
với những quy luật (giá trị, cung cầu, cạnh tranh) và giá trị (tự do kinh
doanh, khích lệ tính năng động, sáng tạo, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế) đã
mở ra một không gian lớn cho các cá nhân, gia đình, doanh nghiệp, hiệp hội
phát huy hết khả năng của mình trong lao động, tạo ra nhiều của cải ngày
càng đa dạng cho xã hội, thúc đẩy sự thịnh vượng.
Trong bối cảnh đó, mô hình nhà nước tập trung quyền lực và can thiệp
sâu vào đời sống kinh tế xã hội bằng mệnh lệnh hành chính không còn phù
hợp nữa. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải tìm ra một mô hình Nhà nước
phù hợp để không chỉ thực hiện chức năng duy trì trật tự và công bằng xã
hội, mà còn phát huy các giá trị tích cực của kinh tế thị trường, thúc đẩy
thịnh vượng xã hội.
2.1. NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
2.1.1. Các đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều mô hình nhà nước: Từ những bộ lạc
mông muội đến những nhà nước dã man như nhà nước chiếm hữu nô lệ,
những đế chế tập quyền liên tục mở rộng biên giới lãnh thổ bằng bạo lực và
nô dịch các dân tộc khác, mô hình nhà nước phong kiến, nhà nước cộng hoà
v.v. Nhà nước pháp quyền và học thuyết về Nhà nước pháp quyền ra đời
trong cách mạng tư sản ở Châu Âu, tuy nhiên, do đã tiếp thu và hấp thụ vào
mình nhiều giá trị tinh hoa của nhân loại về xây dựng nhà nước như tư tưởng
pháp quyền, phân chia quyền lực, dân chủ, nhân đạo, công bằng, bảo vệ

quyền con người v.v. nên học thuyết về xây dựng Nhà nước pháp quyền trở
thành một học thuyết có giá trị cao, là tài sản chung của nền văn minh nhân

×