Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.72 KB, 105 trang )


1

đại học quốc gia hà nội
khoa luật









phan thị hiên




dân biết, dân bàn, dân kiểm tra
TRONG PHòNG, CHốNG tham nhũng
ở VIệT NAM HIệN NAY



luận văn thạc sỹ luật học











hà nội - 2008



2

đại học quốc gia hà nội
khoa luật





phan thị hiên



dân biết, dân bàn, dân kiểm tra
TRONG PHòNG, CHốNG tham nhũng
ở VIệT NAM HIệN NAY


Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nớc và pháp luật
Mã số : 603801




luận văn thạc sỹ luật học




Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Đức Thảo






hà nội - 2008


3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3
CHƢƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ DÂN BIẾT, DÂN BÀN,
DÂN KIỂM TRA TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG



9
1.1. Các khái niệm chung


13
1.2. Nội dung, vai trò dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong đấu
tranh chống tham nhũng

14
1.2.1. Nội dung, vai trò dân biết trong đấu tranh chống tham nhũng

15
1.2.2. Nội dung, vai trò dân bàn trong đấu tranh chống tham nhũng

17
1.2.3. Nội dung, vai trò dân kiểm tra trong đấu tranh chống tham nhũng

19
1.3. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và chủ trƣơng của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nƣớc ta về dân biết, dân bàn, dân kiểm
tra trong đấu tranh chống tham nhũng

21
1.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân biết, dân bàn, dân kiểm tra
trong đấu tranh chống tham nhũng

22
1.3.2. Chủ trương của Đảng về dân biết, dân bàn, dân kiểm tra
trong đấu tranh chống tham nhũng

23
1.3.3. Chính sách pháp luật của Nhà nước về đấu tranh chống tham nhũng


27
1.4. Kinh nghiệm của một số nƣớc, vùng lãnh thổ trong khu vực
và trên thế giới về dựa vào dân chống tham nhũng

33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ DÂN BIẾT, DÂN BÀN,
DÂN KIỂM TRA TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG


43
2.1. Lịch sử dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong đấu tranh
chống tham nhũng

43
2.2. Thực trạng về hình thức và kết quả “dân biết, dân bàn, dân
kiểm tra” trong đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

48

2.2.1. Thực trạng về hình thức dựa vào dân để đấu tranh chống tham nhũng

48
2.2.2. Kết quả “dân biết, dân bàn, dân kiêm tra” trong đấu
tranh chống tham nhũng

56

4
2.3. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm


64
2.3.1. Đánh giá chung về ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân

64
2.3.2. Bài học kinh nghiệm

72
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẢM BẢO
DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN KIỂM TRA TRONG
ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG

75
3.1. “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu tranh chống
tham nhũng - Yêu cầu cấp bách hiện nay

75
3.2. Giải pháp, kiến nghị nhằm đảm bảo dân biết, dân bàn,
dân kiểm tra trong đấu tranh chống tham nhũng

78
3.1. Nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về vai trò dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra trong đấu tranh chống tham nhũng

78
3.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm huy động nhân dân tham
gia đấu tranh chống tham nhũng.

81
3.3. Động viên các nguồn thông tin từ nhân dân cung cấp, tiếp nhận
và xử lý thông tin


86
3.4. Thực hiện công khai, minh bạch để nhân dân biết, kiểm tra,
giám sát các hành vi tham nhũng

89
3.5. Tăng cường đạo đức truyền thống của dân tộc

91
KẾT LUẬN

93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95







5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu luận văn
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá về
kinh tế, tham nhũng và chống tham nhũng đã trở thành vấn đề nhức nhối của
nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh
tế theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu quan trọng mà chúng ta đã đạt

được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thì tình trạng tham nhũng
cũng diễn ra hết sức phức tạp và kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị
và nhiều tổ chức kinh tế. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, năm
2008, Việt Nam đứng thứ 121 trên tổng số 180 quốc gia và vùng lãnh thổ
trong bảng xếp hạng về “cảm nhận tham nhũng”. So với năm 2007, Việt Nam
chúng ta đã cải thiện được từ vị trí 123 lên vị trí 121. Tuy nhiên, hiện nay Việt
Nam vẫn là một trong những nước thuộc tốp có tình trạng tham nhũng cao.
Đó là một trong những nguy cơ đe doạ đến sự sống còn của chế độ. Vì vậy,
đấu tranh chống tham nhũng là một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, việc mở rộng dân chủ Xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm. Đảng và Nhà
nước đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, phát
huy một bước quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành
tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc.
Trong đó, có thành tựu trên lĩnh vực đấu tranh chống tham nhũng. Hàng loạt
những vụ án lớn trong những năm qua được đưa ra ánh sáng chính là nhờ
chúng ta làm tốt quy chế dân chủ, quán triệt phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”.
Tuy nhiên, nhìn chung quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở
nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham

6
nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn phổ biến và nghiêm trọng mà
chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành pháp luật, chậm
đi vào cuộc sống. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (tháng 6 năm 1997) đã nhấn mạnh, lúc này, để giữ vững và
phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ
của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm

soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn
tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thiết thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Có như vậy mới phát huy được
sức mạnh tổng hợp của nhân dân, hạn chế tình trạng tham ô, tham nhũng, làm
trong sạch Bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương, củng cố niềm tin
vào Đảng, Nhà nước.
Góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước vững mạnh và trong sạch,
năm 2006 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành
lập do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, một Phó thủ tướng làm phó ban
Thường trực được thành lập và đã tiến hành những hoạt động bước đầu. Tại
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đều thành lập Ban Chỉ đạo
phòng, chống tham nhũng do Chủ tịch uỷ ban nhân dân đứng đầu, có trách
nhiệm chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham
nhũng trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Điều này mang
đến niềm tin, sự hy vọng của nhân dân đối với quyết tâm đấu tranh phòng,
chống tham nhũng mà Đảng và Nhà nước phát động.
Trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, việc
tìm hiểu vấn đề “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” có vai trò, ý nghĩa như thế
nào là hết sức cần thiết. Với hy vọng góp phần làm rõ hơn vấn đề lý luận và
thực tiễn cũng như đề ra được những sáng kiến, giải pháp nâng cao hiệu quả

7
của nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng nên tôi lựa chọn đề tài “dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra” - một giải pháp góp phần đấu tranh chống tham
nhũng, làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Những năm gần đây, vấn đề “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” được
nghiên cứu rất nhiều nhằm phát huy dân chủ trong xã hội, phát huy sức mạnh

khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều
góc độ khác nhau. Tiêu biểu như tác phẩm Mô hình thực hiện “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cơ sở (Nxb Chính trị Quốc gia, 1998); “Dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra” và vấn đề xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở
(Nxb Chính trị Quốc gia, 1998); Quy chế dân chủ ở cơ sở, ý Đảng, lòng dân
(Nxb Chính trị Quốc gia, 2005); 75 năm công tác dân vận của Đảng, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, (Nxb Chính trị Quốc gia, 2006) của Ban Dân vận
Trung ương và tác phẩn Xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở (Nxb Chính trị
Quốc gia, 2002) của Ban Chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở của Trung ương. Đây là các tác phẩm cung cấp những kiến thức lý luận
cơ bản về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Trên lĩnh vực chống tham nhũng,
cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu. Tiêu biểu như tác phẩm Kinh nghiệm
phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới (Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005) của Ban Nội chính Trung ương cung cấp nhiều kiến thức
về lý luận cũng như bài học kinh nghiệm trong công cuộc đấu tranh chống
tham nhũng của các nước trên thế giới. Ngoài ra có nhiều bài viết nghiên cứu
tương đối sâu được đăng trên các tạp chí như: Vai trò giám sát của nhân dân
đối với hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức của Hữu Thọ - Trợ lý
Tổng Bí thư (Tạp chí Xây dựng Đảng số 8 - 2003); Cần có cơ chế để quần
chúng nhân dân có điều kiện đấu tranh chống tham nhũng của TS Thanh
Tuyền (Tạp chí Dân vận soó 3 - 2002)…

8
Tuy nhiên, ở lĩnh vực “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu tranh
chống tham nhũng thì rất ít công trình nghiên cứu, đề cập đến; nếu có cũng
chỉ ở phương diện chung nhất là phát huy dân chủ góp phần hạn chế tham
nhũng hoặc chỉ là một phần nhỏ được đưa ra trong các bài viết. Mặc dù vậy,
những công trình khoa học đã được công bố là tài liệu tham khảo có giá trị để
nghiên cứu, hoàn thiện luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Mục đích nghiên cứu của luận văn: trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và đánh giá thực trạng “dân biết, dân bàn dân kiểm tra” trong đấu
tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải
pháp nhằm đảm bảo “dân biết, dân bàn dân kiểm tra” trong đấu tranh chống
tham nhũng, góp phần hoàn thiện khung pháp luật và hạn chế nạn tham nhũng
ở Việt Nam hiện nay.
+ Để thực hiện mục đích trên, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ luật học,
tác giả tập trung vào những nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu
tranh chống tham nhũng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong
đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”
trong đấu tranh chống tham nhũng.
4. Đối tƣợng vàphạm vi nghiên cứu luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu tranh chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay. Từ đó, đề ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
trong công cuộc đấu tranh chống lại nạn tham nhũng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề sau:

9
- Một số vấn đề lý luận và thực trạng về “dân biết, dân bàn, dân kiểm
tra” trong đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là về
khái niệm, nội dung và vai trò cũng như chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu tranh chống
tham nhũng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong
đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra những nhận

định về ưu điểm, tồn tại và làm rõ nguyên nhân.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu tranh chống
tham nhũng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong
đấu tranh chống tham nhũng.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã áp dụng một số
phương pháp cụ thể như sau: phương pháp phân tích để làm sáng tỏ
những nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu; phương pháp so sánh được sử
dụng để làm rõ mức độ tương quan giữa các quy định, quan điểm, mô
hình áp dụng giữa các quốc gia để từ đấy có những đánh giá, nhận định
khách quan về nội dung nghiên cứu; phương pháp tổng hợp và thống kê
được sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên cứu một cách có hệ thống,
làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu; phương
pháp thống kê đem đến một cách nhìn cụ thể hơn thông qua những con số
và vụ án tham nhũng do nhân dân phát hiện…
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn

10
Luận văn là chuyên khảo nghiên cứu tương đối toàn diện về hệ thống
vấn đề “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay. Vì vậy, có những đóng góp khoa học mới như sau:
- Phân tích những đặc trưng “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu
tranh chống tham nhũng.
- Chỉ ra được những hạn chế trong quá trình thực hiện “dân biết, dân bàn,
dân kiểm tra” trong đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả “dân biết, dân bàn,

dân kiểm tra” trong đấu tranh chống tham nhũng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm ba chương. Nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu
tranh chống tham nhũng.
Chương 2: Thực trạng về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu
tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị nhằm đảm bảo “dân biết, dân
bàn, dân kiểm tra” trong đấu tranh chống tham nhũng.














11



CHƢƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ DÂN BIẾT, DÂN BÀN,
DÂN KIỂM TRA TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG


1.1. Các khái niệm chung
Phương châm dân biết, dân bàn, dân kiểm tra được đề ra chính thức từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - Đại hội của sự đổi mới. Đó là cơ sở quan
trọng để chúng ta có thể thể chế hoá trong các quy định pháp luật, đảm bảo
giá trị thực thi trong đời sống. Tìm hiểu các khái niệm này sẽ mang đến một
cái nhìn toàn diện hơn khi đặt trong bình diện phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay.
Trước hết chúng ta tìm hiểu khái niệm thế nào là “Dân” để có sự thống
nhất trong cách hiểu các khái niệm tiếp theo.
Khái niệm “Dân” đã xuất hiện từ rất lâu, được dùng một cách thông
thường và phổ biến trong xã hội, trong sách vở cả phương Đông và phương
Tây. Tuy nhiên, vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất, một khái niệm chung
cơ bản mà thường được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau:
Thứ nhất: “Dân” dùng để chỉ những người sống trong một khu vực địa
lý hoặc hành chính, trong quan hệ với khu vực ấy. Chẳng hạn: dân Việt Nam,
dân Hà Nội, dân thành phố Hồ Chí Minh
Thứ hai: “Dân” dùng để chỉ những người có cùng nghề nghiệp, hoàn
cảnh làm thành tầng lớp riêng như dân thợ, dân buôn, dân chài
Thứ ba: “Dân” được dùng để chỉ những người bình thường, đông đảo
nhất mà bộ phận lãnh đạo, bộ phận cầm quyền dùng để gọi những người bị
lãnh đạo, bị cai trị. Trường hợp này, khái niệm về dân có tính lịch sử cụ thể và
có ý nghĩa chính trị rõ rệt, phản ánh mối quan hệ giai cấp trong một xã hội có
giai cấp. Vì thế, khái niệm “dân” có thể thay đổi về số lượng, chất lượng và

12
đối tượng tuỳ theo tính chất của một xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Với
ý nghĩa đó, có thể nói khái niệm dân đồng nhất với khái niệm nhân dân, dân
chúng, quần chúng, quần chúng nhân dân. Khi dùng khái niệm nhân dân,
người ta không phân biệt giới tính, tuổi tác, dân tộc, tôn giáo.

Từ những giác độ nêu trên, chúng ta cần phải hiểu “Dân” ở đây dưới
góc độ chung nhất, khái quát nhất chính là nhân nhân, là quần chúng, bao
gồm mọi tầng lớp, giai cấp.
“Dân biết”, “dân bàn”, “dân kiểm tra” là những khái niệm, phạm trù
hoàn toàn khác nhau nhưng có mối quan hệ khăng khít, mật thiết, hỗ trợ cho
nhau, không thể tách rời. Đó là một trong nhiều biểu hiện rõ nét nhất của việc
phát huy dân chủ.
“Dân biết” cần được hiểu ở những góc độ cụ thể như sau:
- Từ phía nhân dân: Dân biết có nghĩa là người dân có quyền được bàn
bạc, tìm hiểu mọi kế hoạch, mọi dự án, dự tính của Nhà nước liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của họ, cũng như liên quan đến tương lai, vận mệnh của
dân tộc.
- Từ phía nhà cầm quyền: Nhà nước có nghĩa vụ phải thông tin, lấy ý
kiến giải thích cho nhân dân thông hiểu mọi quyết định mà Nhà nước sẽ
ban hành hoặc sắp ban hành để nhân dân không ngỡ ngàng như đột nhiên bị
chụp lên đầu những giải pháp do Nhà nước đơn phương ban hành một cách
độc đoán.
Trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, dân có biết thì mới có
thể tham gia một cách có hiệu quả. Nó cũng giống như khi ta đi trong bóng
tối, nếu có được nguồn ánh sáng dẫn đường thì sẽ nhanh đi tới đích, không
phải tự mò mẫm. Những thông tin về chống tham nhũng nói riêng và các lĩnh
vực khác có liên quan đến chống tham nhũng dân phải được biết để từ đấy
mới có thể giám sát, phát hiện ra tham nhũng.

13
“Dân bàn”: là khâu mà nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
bằng cách tham gia ý kiến khi tiếp nhận thông tin. Cụ thể là về đường lối, chủ
trương, chính sách lớn Đảng và Nhà nước phải thu thập ý kiến đóng góp
thông tin thảo luận rộng rãi trong nhân dân.
Dân bàn cũng có nhiều loại: Dân bàn để hiểu sâu sắc, để nâng cao nhận

thức; dân bàn để xây dựng; dân bàn để làm; nhiều lĩnh vực dân bàn như kinh
tế, xã hội, an ninh quốc phòng, về chủ trương, biện pháp; dân bàn ở nhiều
nơi, trên nhiều phương tiện Để nhân dân nâng cao và phát huy trí tuệ của
mình thông qua bàn bạc, dù nhân dân bàn bạc ở loại nào thì cũng phải cung
cấp thông tin và hướng dẫn nội dung, phương thức để nhân dân bàn.
Từ cơ sở dân biết để đi đến dân bàn thì mới phát hiện ra được những
thiếu sót, những điểm chưa hợp lý để từ đó bổ sung, sửa đổi hoàn thiện.
“Dân kiểm tra”: là việc quần chúng nhân dân và cán bộ kiểm soát để
phát hiện sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ các cách sửa chữa sự sai lầm
đó. “Dân kiểm tra” bằng cách trực tiếp kiểm tra, phát hiện hoặc thông qua các
hình thức dân chủ đại diện, qua các tổ chức kiểm tra nhân dân. Người nào
cũng có khả năng tham gia kiểm tra và phải có ý thức trách nhiệm kiểm tra.
Khi phát hiện những sai phạm của người lãnh đạo, người quản lý, người dân
phải kịp thời báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Hiện nay, có nhiều ý kiến cho rằng nên thay từ “kiểm tra” bằng từ
“giám sát” để cho phù hợp với Hiến pháp 1992. Nếu xét về nội hàm khái
niệm thì “giám sát” có nghĩa rộng hơn, bao hàm cả kiểm tra. Theo tôi, chúng
ta không nên sửa phương châm này vì nó có tính lịch sử, đã được ghi nhận ở
nhiều văn kiện Đại hội Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp
quy để cụ thể hoá phương châm này thì nên dùng từ “giám sát”.
Có thể nói “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” là một quy trình liên hoàn
của việc phát huy dân chủ trong thực tế. Và trong đấu tranh chống tham

14
nhũng, mối liên hệ giữa ba yếu tố trên là không thể tách rời, bổ trợ cho nhau
để đạt được hiện quả cao.
Để làm làm rõ hơn nữa vai trò “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong
đấu tranh chống tham nhũng, chúng ta cần phải tìm hiểu thêm khái niệm thế
nào là tham nhũng?
Tham nhũng là một phạm trù lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của

Nhà nước và tồn tại song song với sự phát triển của Nhà nước. Lịch sử Nhà
nước từ khi xuất hiện đến nay cho thấy tham nhũng như một khuyết tật bẩm
sinh của “quyền lực”, là loại tội phạm cực kỳ nguy hiểm bởi tính chất và hậu
quả mà nó gây ra.
Xuất phát từ những điều kiện, đặc thù riêng của mỗi quốc gia mà quan
niệm về tham nhũng có sự khác nhau.
Từ điển Bách khoa của Bruekhaus (Đức) nêu khái niệm: “Tham nhũng
là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót thường xẩy ra đối với công chức
có quyền hành” [34]. Ở Áo lại cho rằng: “Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo,
hối lộ, bóc lột” [34]. Từ điển Bách khoa Thuỵ Sỹ cho rằng: “Tham nhũng là
hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ
máy Nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân”[34]
Theo quan điểm cá nhân, ông RickStapenhurst (chuyên gia quản lý khu
vực công cộng) và ông ShahrzadSedigh (nhà tư vấn của Viện Phát triển kinh
tế ngân hàng thế giới) thì “Tham nhũng, theo nghĩa đơn giản nhất là sự lạm
dụng quyền lực, đa phần là để đạt được lợi ích của một nhóm mà người ta
phải trung thành với nó. Tham nhũng có thể do lòng tham thúc đẩy, do ước
muốn duy trì hoặc tăng thêm quyền lực, hay một cách khá vô lý là do niềm tin
vào một cơ may mà người ta cho rằng còn lớn lao hơn. Trong khi thuật ngữ
“tham nhũng” thường được áp dụng phố biến nhất cho sự lạm dụng quyền lực
công của các chính khách hay công chức nhà nước, thì nó lại mô tả một hình
mẫu ứng xử có thể thấy hầu như mọi lĩnh vực của cuộc sống” [34]. Trong khi

15
đó, ông PetterLangseth (chuyên gia cao cấp Viện Phát triển kinh tế, Ngân
hàng thế giới) và ông Jeremy Pope (Giám đốc nghiên cứu Transparency
Internal, Beclin) lại quan niệm: “Tham nhũng có thể được định nghĩa như là
sự lạm dụng quyền lực công để mưu cầu lợi ích cá nhân hay một lợi ích của
một nhóm người mà ta phải trung thành với nó”.
Do có sự khác nhau về truyền thống lịch sử, đặc điểm văn hoá, điều

kiện kinh tế - xã hội, tình trạng tham nhũng giữa các nước dẫn tới những
quan điểm khác nhau về tham nhũng là tất yếu. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm
thấy điểm chung, phổ biến nhất trong các khái niệm về tham nhũng đó là:
tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó có thể tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động
cơ vụ lợi.
Luật phòng, chống tham nhũng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2005 đưa ra khái niệm tham nhũng như sau:“Tham nhũng là
hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó
vì vụ lợi” (Khoản 2, Điều 1).
Như vậy, dù các quan điểm có khác nhau nhưng tựu chung lại tham
nhũng gồm ba yếu tố chính:
- Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn;
- Hành vi tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hoặc
không thực hiện việc gì đó thuộc trách nhiệm của mình;
- Mục đích là thu lợi cho bản thân hoặc cho người có liên quan đến bản
thân mình.
Hành vi tham nhũng thường được biểu hiện bằng việc các công chức
nhà nước cố ý làm trái quy định của pháp luật trong chấp hành chức trách,
công vụ được giao. Tham nhũng được pháp luật các nước quy định là loại tội

16
hình sự với nhiều tội danh khác nhau. Biểu hiện tập trung và điển hình nhất là
ở loại tội phạm tham ô và nhận hối lộ.
Một số nước phát triển còn mở rộng khái niệm tham nhũng đến cả khu
vực tư nhân. Ví dụ: các doanh nghiệp tư nhân vi phạm các quy định của Nhà
nước về chế độ kiểm toán, kế toán, nộp thuế, thu chi tài chính; nhân viên lấy
tiền hoặc tài sản của công ty; bác sĩ bệnh viện tư lấy tiền của bệnh viện; nhân
viên của doanh nghiệp tư nhân lấy tiền hoa hồng của đối tác (tiền “qua lại”)
khi mua hàng mà không nộp cho doanh nghiệp

Như vậy, “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong đấu tranh chống
tham nhũng là một chu trình mang tính khép kín, tương hỗ. Nó được xem
là một trong những biện pháp hết sức hiệu quả bởi phát huy được sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân.
1.2. Nội dung, vai trò dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong đấu
tranh chống tham nhũng

Muốn xử lý được tham nhũng thì trước hết phải phát hiện được hành vi
tham nhũng. Phần lớn những người thực hiện hành vi tham nhũng là người có
chức vụ, trình độ, học vấn cao, có hiểu biết về pháp luật và có kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc phát hiện ra hành vi tham nhũng là hết sức
khó khăn. Việc khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò to lớn của quần
chúng nhân dân trong việc phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng được
xem là một trong những biện pháp hữu hiệu trong nhóm giải pháp xử lý nhằm
chống tham nhũng.
Sự tham gia của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống tham
nhũng là biện pháp cực kỳ hiệu quả bởi nhân dân luôn là người hiểu rõ những
thay đổi của các đối tượng này và họ luôn có mong ước đến cháy bỏng là làm
sao có thể quét sạch nạn tham nhũng đang ngày càng hoành hành một cách
mạnh mẽ và tinh vi hơn. Thực tế cho thấy, những chiến dịch chống tham
nhũng thành công nhất là những chiến dịch có sự tham gia của đông đảo quần

17
chúng. Nhân dân là nguồn thông tin vô tận, có giá trị về các vụ việc tham
nhũng. Họ biết rõ những cơ quan nào, tổ chức nào làm việc kém hiệu quả, dễ
xẩy ra tham nhũng, tiêu cực, những cá nhân nào có biểu hiện bất thường bằng
con đường không chân chính. Nhân dân chính là tai mắt của chính quyền.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận thức được rằng, không phải mọi
thông tin về tham nhũng do nhân dân cung cấp đều đúng. Một số phần tử
phản động có thể lợi dụng quyền tố cáo để tung tin thất thiệt, làm ảnh hưởng

đến uy tín của cán bộ lãnh đạo hoặc cũng không ít trường hợp xuất phát từ tư
thù cá nhân mà viết đơn tố cáo sai sự thật. Chính vì vậy, nguồn tin từ nhân
dân phải được cơ quan có thẩm quyền thẩm tra độ chính xác để từ đó có điều
kiện phát hiện ra nhiều vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, đồng thời bảo vệ
được đội ngũ cán bộ công tâm.
Thực tế cho thấy, việc vận động quần chúng nhân dân chủ động tố giác
hành vi tham nhũng không phải là việc làm đơn giản. Điều này xuất phát từ
nguyên nhân chính là chúng ta chưa có một cơ chế rõ ràng, cụ thể và hiệu quả
trong việc bảo vệ, khen thưởng người dân giám đấu tranh chống tham nhũng,
tiêu cực. Không ít vụ việc sau khi người dân giám công khai đấu tranh chống
tham nhũng liền bị trù dâp, rơi vào cảnh đường cùng suốt cả cuộc đời, thậm
chí là vòng lao lý. Đấy là bài học nhãn tiền khiến người dân phải suy nghĩ khi
lựa chọn con đường đấu tranh chống tham nhũng. Các cơ quan nhà nước phải
biết khắc phục hạn chế đó, biết dựa vào làn sóng đấu tranh của nhân dân thì
mới có thể phát động được những chiến dịch đấu tranh chống tham nhũng có
hiệu quả.
1.2.1. Nội dung, vai trò “dân biết” trong đấu tranh chống
tham nhũng
Về nguyên tắc, những gì mà dân phải làm hay phải chịu tác động thì
dứt khoát dân phải biết, trừ một số ít vấn đề thuộc bí mật quốc gia không thể
tiết lộ. Trong đấu tranh chống tham nhũng, nếu dân không biết đến các chủ

18
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực thì không thể
tham gia vào mặt trận này một cách có hiệu quả. Có biết thì dân mới có sự so
sánh để phát hiện ra được những dấu hiệu tham nhũng của cá nhân, tổ chức.
Chính vì vậy, muốn thu hút được nhân dân tham gia chống tham nhũng, trước
hết, nhân dân phải được cung cấp thông tin. Thông tin đa dạng, phong phú,
nhiều chiều, có định hướng để mỗi người có thể tự hình thành quan điểm của
mình về một vấn đề nhất định, làm cơ sở cho việc bàn bạc, thảo luận thảo

luận xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chống
tham nhũng; có thông tin thì nhân dân mới có cơ sở đối chiếu để phát hiện ra
tham nhũng.
Ở phương diện chung nhất, dân phải được biết những nội dung cơ
bản sau:
- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực chống tham
nhũng;
- Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về chống tham nhũng;
- Thủ tục hành chính liên quan đến quyền của người dân nhằm hạn chế
tình trạng nhũng nhiễu;
- Người dân cần biết kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm ở
địa bàn dân cư và những việc đột xuất như chủ trương giải toả nhà ở, đất
đai… vì đây là những vấn đề sát sườn, liên quan đến cuộc sống của dân;
- Biết quyền và trách nhiệm của người cán bộ công chức liên quan đến
giải quyết các công việc của dân;
- Dân yêu cầu phải công khai thu chi ngân sách hàng năm của xã,
phường; công khai tài sản của cán bộ xã, phường trước khi nhận trách
nhiệm. Điều này là cần thiết bởi qua khảo sát cho thấy, nhiều người dân nói

19
họ biết nhiều về tình hình thế giới và trong nước, nhưng việc cụ thể của xã
phường họ lại rất ít được biết.
Đó là những nội dung cơ bản nhất phải để “dân biết” mà chúng ta có
thể liệt kê. Ngoài ra, hầu như tất cả các chính sách, quy định trên mọi lĩnh vực
nhân dân cần phải được thông tin thì mới có thể tham gia phòng, chống tham
nhũng. Hiện nay, tham nhũng không còn bó hẹp trong khuôn khổ một số lĩnh
vực mà đã len lõi vào tất cả các ngõ ngách của đời sống xã hội. Do đó, dân
càng biết nhiều thì mới bàn, mới kiểm tra, giám sát được.
Các nội dung trên Nếu được nhà cầm quyền quan tâm thực hiện thì

phương châm “dân biết” mới phát huy triệt để sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân. Để nội dung “dân biết” trong lĩnh vực chống tham nhũng không
mang tính giáo điều, cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm tới các vấn đề sau:
- “Dân biết” dần dần phải trở thành cơ chế pháp lý, việc cung cấp thông
tin phải được xác định là trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước.
Nhân dân có quyền được thông tin. Về điểm này, ở một số nước coi quyền
được thông tin là một nguyên tắc hiến định. Ngay trong Hiến pháp Việt Nam
cũng quy định rõ việc Nhà nước cố gắng hạn chế phạm vi giữ bí mật nghiệp
vụ và áp dụng trách nhiệm cung cấp thông tin đối với tất cả các cơ quan hành
chính. Nội dung của khái niệm thông tin là thông tin tình hình thực tế, thông
tin pháp lý. Nguời dân được hiểu thực tế, vừa hiểu cơ sở pháp lý mới có điều
kiện nhận thức đúng sự việc. Từ đó, có thái độ ứng xử kịp thời và góp ý kiến
cho Nhà nước về chủ trương giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tế.
- “Dân biết” đặt ra yêu cầu mở rộng phạm vi công khai hoạt động của
Nhà nước. Hoạt động công khai của bộ máy nhà nước có thể thông qua nhiều
hình thức, nhất là thông qua hệ thống truyền thông đại chúng để nhận biết
được việc làm của Nhà nước: thông báo tình hình kinh tế - xã hội; công bố
công khai nghị quyết của các cơ quan dân cử, quyết định của các cơ quan
hành chính các cấp; xét xử công khai…

20
- “Dân biết” đặt ra yêu cầu nâng cao dân trí. Muốn sử dụng quyền được
thông tin có hiệu quả nhằm góp phần quyết định chủ trương, chính sách của
Nhà nước đòi hỏi phải nâng cao dân trí, văn hoá dân chủ, văn hoá pháp lý để
nhân dân không những bình đẳng tiếp nhận được thông tin mà còn làm chủ
được thông tin và sử dụng đúng quyền được thông tin.
Có thể nói “dân biết” là khâu đầu tiên để hình thành nên nếp suy nghĩ,
tư duy đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng. Đây là nền móng vô cùng quan
trọng, trang bị hiểu biết để người dân thực hiện giai đoạn tiếp theo là “dân
bàn” “dân kiểm tra” một cách có hiệu quả.


1.2.2. Nội dung, vai trò “dân bàn” trong đấu tranh chống
tham nhũng
“Dân bàn” là bước tiếp theo sau khi đã nắm được thông tin. Mọi thông
tin đều thông qua nhận thức chủ quan của từng người và hình thành những ý
kiến khác nhau. Nhưng phải qua bàn bạc, thảo luận mới có được những ý kiến
có chất lượng, có khả năng tiếp cận chân lý. Đối với đường lối, chủ trương,
chính sách lớn, Đảng và Nhà nước nhất thiết phải thu thập ý kiến đóng góp
của nhân dân thông qua nhiều hình thức đa dạng như: phát phiếu thăm dò; lấy
ý kiến qua mạng, tại tổ dân phố; tổ chức hội thảo, trao đổi…
Dân bàn, về thực chất là thực hiện quyền tự do ngôn luận trong nhân
dân. Trong chế độ dân chủ, nhân dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, góp
phần xây dựng Nhà nước. Về nguyên tắc, dân được bàn những vấn đề dân sẽ
phải làm, phải thực hiện. Cụ thể là:
- Dân được góp ý kiến đối với các văn bản của Đảng, Nhà nước khi còn
là dự thảo, chứ không phải chỉ bàn khi đưa ra thi hành, đặc biệt là những văn
bản liên quan đến quyền và lợi ích thiết thực của người dân.

21
- Dân phải được góp ý kiến trực tiếp về dự án kế hoạch xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội của đại phương, đất nước.
- Dân được góp ý kiến xây dựng quy ước, hương ước.v.v. của xã,
phường, ấp, khối phố.
Để thực hiện tốt “dân bàn”, trong những năm trước mắt, cần quan tâm
tới các vấn đề sau:
- Cần ban hành Luật trưng cầu dân ý nhằm đảm bảo quyền lợi của dân
khi tham gia “bàn” các vấn đề xã hội. Trong những năm qua, dự thảo luật này
đã được xây dựng nhưng chưa được thông qua bởi còn nhiều ý kiến khác
nhau, chưa thống nhất. Nếu luật này được thông qua thì vấn đề “dân biết, dân
bàn” sẽ được cụ thể hoá, được Nhà nước đảm bảo thực thi nghiêm túc.

- Cần có quy chế pháp lý cụ thể xác định trách nhiệm pháp lý của các
cấp chính quyền, buộc cơ quan nhà nước các cấp tạo ra nhiều cơ hội cho nhân
dân bàn bạc, thảo luận về những công việc của Nhà nước và xã hội. Quy chế
phải xác định rõ nghĩa vụ của công dân và trách nhiệm pháp lý của các cơ
quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân.
- Khi thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cần đặc
biệt chú ý chỉ đạo thực hiện đúng công đoạn “lấy ý kiến của nhân dân vào các
dự án luật”. Đây là một công đoạn bắt buộc đối với quá trình xây dựng tất cả
các luật; đồng thời nhằm tránh bệnh hình thức trong việc tổ chức lấy ý kiến
của nhân dân, dần dần tạo nề nếp dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật.
- Cần có cơ quan tổng hợp, lựa chọn và giải quyết những vấn đề mà
nhân dân nêu ra. Quá trình bàn bạc, thảo luận trong nhân dân đã khơi dậy
những sáng kiến và sức mạnh của dân chủ nhưng nếu không có sự tổng
hợp, phân tích, chắt lọc, tiếp thu để bổ sung vào đường lối, chính sách thì
cũng đồng nghĩa với việc không sử dụng sức mạnh của tập trung thì cũng
dễ làm tiêu tan sức mạnh của dân chủ.

22
Phương châm dân bàn là vấn đề có tính nguyên tắc của một nước dân
chủ, là một hình thức có hiệu quả để nhân dân thực hiện vai trò làm chủ của
mình đối với Nhà nước và xã hội, là biểu hiện sinh động bản chất dân chủ của
chế độ ta. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã chú trọng
thực hiện phương châm “dân bàn” nhằm tập hợp trí tuệ của đông đảo quần
chúng nhân dân để hoàn chỉnh các chủ trương, chính sách Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, khi dân chủ ngày càng được đề cao và sự phát triển như
vũ bão của khoa học kỹ thuật thì yếu tố “dân bàn” là không thể bỏ qua. Ông
cha ta đã đúc kết “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi
cao”, chính là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
1.2.3. Nội dung, vai trò “dân kiểm tra” trong đấu tranh chống
tham nhũng

“Dân kiểm tra” là khâu cuối cùng của một chu trình quản lý nhà nước,
đồng thời cũng là nơi thu thập thông tin để hình thành kế hoạch cho một chu
trình quản lý mới. Về mặt pháp luật, đó là thực hiện kiểm tra việc xây dựng
pháp luật, thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Tại văn kiện Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh “dân kiểm tra” các hoạt
động của cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, bảo đảm giữ vững bản chất
nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động của Nhà nước. Thực tiễn những năm qua cho thấy, mặc dù, ở
nước ta đã có nhiều cơ quan kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước
những phần lớn các vụ tham nhũng lại do chính nhân dân phát hiện. Điều đó
chứng tỏ, nếu có cơ chế pháp lý cụ thể xác định rõ quyền và nghĩa vụ của
công dân trong việc kiểm tra hoạt động của Nhà nước, của Đảng và các tổ
chức xã hội, chắc chắn việc kiểm tra của nhân dân sẽ có hiệu lực và hiệu quả
hơn nhiều.
Ở bình diện chung nhất, dân kiểm tra, giám sát nhằm phòng, chống tham
nhũng trên cơ sở các nội dung sau:
- Dân muốn kiểm tra, giám sát một số vấn đề nóng bỏng; giám sát cơ quan
hành pháp trong việc thi hành pháp luật và giám sát cả hoạt động xét xử của cơ

23
quan tư pháp vì thực tế cho thấy, một số vụ án xét xử dân chưa thoả mãn.
- Dân còn kiểm tra, giám sát tư cách và trách nhiệm công vụ của cán bộ
công chức hành chính nhằm hạn chế tình trạng sách nhiễu.
- Dân tự kiểm tra, giám sát, đôn đốc nhau để thực hiện các quy ước ở khu
dân cư.
Để thực hiện tốt nội dung cơ bản “dân kiểm tra”, chúng ta cần đặc biệt
quan tâm giải quyết tốt một số vấn đề sau:
- Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân. Theo đó, cần xây dựng cơ chế giám sát xác định rõ
phạm vi, nội dung giám sát của Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội và Hội

đồng nhân dân các cấp; phân định rõ chức năng của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân với hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước khác; nghiên cứu,
hướng dẫn để mọi công dân có điều kiện phát hiện, đề xuất ý kiến, giúp cho
hoạt động giám sát có hiệu quả.
- Tổng kết các hình thức thanh tra nhân dân, kiểm tra nhân dân, kiểm
sát nhân dân… đã thực hiện trong thời gian qua. Từ đó phân tích, chọn lọc lại
những yếu tố hợp lý làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế kiểm tra mới, có
hiệu lực để nhân dân tham gia thường xuyên vào việc giám sát, kiểm tra các
hoạt động của cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội, phù hợp với
yêu cầu của nhà nước pháp quyền.
- Thực hiện nghiêm túc Luật phòng, chống tham nhũng; đồng thời, thực
hiện dân chủ, công khai trong phân bổ ngân sách, kinh phí; kiểm tra chặt chẽ
việc sử dụng, chi tiêu ngân sách. Mặt khác, tạo ra cơ sở pháp lý để nhân dân
phát hiện và tích cực tham gia chống tham nhũng, bảo vệ những người thực
sự công tâm và kiên quyết chống tham nhũng, nghiêm trị những tổ chức và cá
nhân bao che, tiếp tay cho bọn tham nhũng nhằm đảm bảo giữ vững bản chất
của Nhà nước kiểm mới trong điều kiện hiện nay.

24
Dân kiểm tra, giám sát là một kênh hết sức quan trọng nhằm bước đầu
phát hiện ra các hành vi có dấu hiệu tham nhũng. Từ đó, các cơ quan chức
năng có thông tin để tiến hành thanh, kiểm tra, xác minh làm rõ. Với cơ chế
kiểm tra, giám sát của nhân dân như hiện nay thì chưa thể phát huy hết sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đấu tranh chống tham
nhũng. Nhân dân vẫn chủ yếu là nhìn nhận, đánh giá sự thay đổi bất thường
của các hiện tượng trong xã hội, chưa thể chủ động tham gia vào công cuộc
kiểm tra, giám sát với tư cách là chủ thể có quyền lực. Chính vì vậy, hiệu quả
của giải pháp này còn chưa cao, dẫu rằng đây là một biện pháp hết sức khả
thi.
1.3. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và chủ trƣơng của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nƣớc ta về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trong
đấu tranh chống tham nhũng
Chống tham nhũng là cuộc chiến lâu dài, phức tạp và cũng không kém
phần khó khăn, nguy hiểm. Có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta thường
xuyên quan tâm đến vấn đề đấu tranh phòng, chống tham nhũng, coi đây là
nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng
trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà
nước. Trong từng thời kỳ, Đảng, Nhà nước ta có các chủ trương, biện pháp cụ
thể với mong muốn đem lại hiệu quả cao trong công tác phòng, chống tham
nhũng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, tham nhũng đang trở thành một vấn
nạn cần được ưu tiên giải quyết nhằm đảm bảo sự ổn định của đất nước, nâng
cao niềm tin của người dân vào chính quyền.
1.3.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”
trong đấu tranh chống tham nhũng.
Tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, trên cơ sở nền tảng tư tưởng
Mác - Lê Nin, Hồ Chí Minh luôn đề cao và tin tưởng tuyệt đối vào vai trò, sức
mạnh quyết định của nhân dân. Người khẳng định: “Kinh nghiệm trong nước

25
và các nước cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó
khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong”[24]
“Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"[43, tr276].
Với sức mạnh như vũ bão ấy không chỉ mang đến thành công trong
công cuộc giành độc lập dân tộc mà còn cả trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trước nhiều cơ hội và không ít
thách thức, khi chúng ta mở cửa hội nhập thì hơn bao giờ hết, sức mạnh to lớn
của nhân dân cần được khơi dậy, phát huy triệt để. Trong muôn vàn những
khó khăn, thử thách mà Đảng, Nhà nước ta phải giải quyết, vấn nạn tham
nhũng có tính chất ngày càng phức tạp, nghiêm trọng, có nguy cơ đe doạ sự

sống còn của chế độ. Điều này đã được Bác Hồ tiên liệu trước. Người cũng đề
ra giải pháp phải dựa vào quần chúng nhân dân là biện pháp hữu hiệu để
chống lại tệ nạn này. Bác chỉ thị: “Nhiệm vụ của quần chúng là phải hăng hái
tham gia phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu”. Bác cho rằng:
“Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần
chúng mới thành công”, do đó “phải động viên quần chúng hăng hái tham gia
thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông thành công
càng đầy đủ, mau chóng”[44, tr516].
Việc dựa vào dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia giám sát, nhận
xét, phê bình cán bộ, đảng viên được Người xây dựng trên cơ sở lập luận
vững chắc và hết sức thuyết phục, dễ hiểu. Theo Người, “dân chúng rất đông”
nên “Tai họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy”, “Cán bộ nào tốt, cán bộ
nào xấu, cán bộ nào có lỗi lầm mà có thể sửa đổi, ai làm việc gì hay, ai làm
việc gì quấy, dân chúng họ biết rõ ràng. Vì vậy, để cho dân chúng phê bình
cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xẩy ra việc
thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng”[45, tr296]. Mặt khác “Dân
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”. Làm được

×