PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
1
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
2
3.
Mục đích đề tài và phạm vi nghiên cứu
4
4.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
4
5.
Kết cấu của luận văn
5
Chương 1
Những vấn đề cơ bản quản lý nhà nước
về hoạt động khoa học và công nghệ
1.1.
Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công
nghệ
5
1.1.1
Khái niệm về quản lý nhà nước
5
1.1.2.
Động lực của khoa học và công nghệ đối với công nghiệp hoá, hiện
đại hoá
11
1.2.
Đặc điểm, nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
14
1.2.1.
Đặc điểm quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
14
1.2.2.
Nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
18
1.3.
Quá trình phát triển quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
23
1.3.1.
Thời kỳ 1958 – 1986
23
1.3.2.
Thời kỳ 1986 – nay
26
Chương 2
Thực trạng quản lý nhà nước
về hoạt động khoa học và công nghệ
2.1.
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động khoa học
và công nghệ
29
2.1.1.
Bộ Khoa học và Công nghệ
29
2.1.2.
Trách nhiệm của của các Bộ, ngành thực thiện
chức năng quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
30
2.1.3.
Cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước khoa học và công nghệ ở địa phương
31
2.2.
Chính sách phát triển khoa học và công nghệ
31
2.2.1.
Các yêu cầu quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
31
2.2.2.
Những vấn đề cơ bản của cơ chế quản lý hoạt động khoa học
và công nghệ trong giai đoạn hiện nay
33
2.3.
Xây dựng quy trình tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ
35
2.3.1.
Các văn bản quy chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
35
2.3.2.
Xây dựng, lựa chọn và xét duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ
36
2.3.3.
Tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
39
2.3.4.
Nghiệm thu kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ
42
2.3.5.
Công bố và ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ
44
2.4.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra hoạt động khoa học và công nghệ
47
2.4.1.
Thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và công
nghệ
48
2.4.2.
Thanh tra, kiểm tra tài chính- kế toán đối với hoạt động khoa học và
công nghệ
48
2.5.
Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
50
2.5.1.
Về bộ máy quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
50
2.5.2.
Những hạn chế về cơ chế, chính sách hiện hành
55
2.5.3.
Những hạn chế trong công tác quản lý hoạt động khoa học và công
nghệ
58
Chương 3
Phương hướng giải pháp nhằm đẩy mạnh
quản lý nhà nước về hoạt động khoa học
và công nghệ trong giai đoạn hiện nay
3.1.
Nhu cầu tăng cường quản lý hoạt động khoa học và công nghệ
trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
62
3.1.1.
Những vấn đề cơ bản đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
62
3.1.2.
Hoạt động khoa học và công nghệ đặt ra đối với
công tác quản lý trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
65
3.2.
Phương hướng giải pháp tăng cường quản lý
hoạt động khoa học và công nghệ
66
3.2.1.
Giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước
về khoa häc vµ c«ng nghÖ
66
3.2.2.
Đổi mới với công tác qui hoạch, kế hoạch
về khoa học và công nghệ
70
3.2.3.
Đổi mới quy trình thực hiện đối
với hoạt động nghiên cứu triển khai
72
3.2.4.
Đổi mới cơ chế, chính sách đối với
hoạt động nghiên cứu - triển khai
73
3.2.5.
Mở rộng hợp tác quốc tế
75
3.2.6.
Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra
đối với hoạt động khoa học và công nghệ
75
KẾT LUẬN
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý luận quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có cơ sở học thuật
dựa trên những kết quả nghiên cứu về quy luật vận động của hoạt động khoa
học và công nghệ. Nhờ những hiểu biết ngày càng phong phú hơn về các quy
luật vận động đó mà người ta có những chính sách tương ứng hợp quy luật,
giảm bớt những việc làm duy ý chí không phù hợp với quy luật, để mục đích
cuối cùng là nâng cao hiệu quả của toàn bộ nhân, tài, vật lực đầu tư cho khoa
học và công nghệ.
Việc nghiên cứu những xu thế, hiện tượng trong các hoạt động khoa học
và công nghệ từ lâu đã thu hút chú ý của bản thân các nhà khoa học và các
chính trị gia. Tự nhận thức về hoạt động khoa học như một hiện tượng cần
nghiên cứu đã làm nẩy sinh sự tranh luận về một bộ môn mới của khoa học.
Đặc biệt phải kể đến sự ra đời của những phương pháp lượng hóa hoạt động
nghiên cứu, điều mà làm cho nghiên cứu có căn cứ khoa học đầy đủ của nó.
Chẳng hạn, Science Citation Index, các công cụ thông tin thư mục, hệ thống
thống kê khoa học của UNESCO và các quốc gia trên thế giới là những công
cụ không thể thiếu của những nghiên cứu khoa học luận nghiêm túc. Qua
hàng loạt nghiên cứu như vậy người ta hiểu rõ hơn về đặc thù của nghề
nghiệp khoa học, thái độ của các Chính phủ đối với khoa học, làm phong phú
thêm kho tàng tri thức của xã hội về hoạt động khoa học, giúp cho các
chuyên gia hoạch định chính sách khoa học và công nghệ, các chính trị vơí
những cơ sở có ích để đề ra quyết định quản lý một cách phù hợp. Chẳng hạn,
những quy luật nội tại của hoạt động khoa học như tính kế thừa, sự thâm nhập
lẫn nhau giữa phương pháp của các bộ môn khoa học, mối quan hệ giữa lý
thuyết và thực nghiệm, quy luật hình thành các cuộc cách mạng trong khoa
học giữa tích tụ và nhảy vọt-đột biến và vô số các quy luật riêng trong giao
tiếp của cộng đồng khoa học, quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa khoa học
và sản xuất vật chất, giữa khoa học và kỹ thuật, v v đều cần phải được tính
đến trong quá trình ra các quyết định về tổ chức và quản lý hệ thống các cơ
quan khoa học, các chính sách của chính phủ đối với khoa học và công nghệ.
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã
sớm xác định vai trò then chốt của cách mạng khoa học và kỹ thuật. Trong
2
thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan trọng về
định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ
đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Kết
luận Hội nghị trung ương 6 Khoá IX (2002); Luật khoa học và công nghệ
(2000); Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010
(2003) và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ
chế quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Qua nghiên cứu và quan sát,
tác giả thấy để đưa các chủ trương chính sách của Đảng, các quy định của
Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo cơ chế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả của quản lý nhà nước về khoa học
và công nghệ. Chính điều này khiến tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Quản
lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều đề tài đã nghiên cứu về cơ chế, chính sách, quản lý
nhà nước về khoa học và công nghệ, nhưng nhìn chung các đề tài đã tập
chung nghiên cứu sâu từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động quản lý nhà nước về
khoa học và công nghệ như: Nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ
của Việt Nam phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực (đề tài cấp Bộ 2003
do TS. Nguyễn Danh Sơn làm chủ nhiệm đề tài); Nghiên cứu hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý khoa học và công nghệ của các Bộ trong tiến trình cải
cách hành chính (đề tài cấp bộ 2002 do TS. Ngô Tất Thắng làm chủ nhiệm đề
tài); Nghiên cứu quá trình tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ của các
Viện nghiên cứu – triển khai thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia (đề tài cấp Bộ 2000 doTS Nguyễn Thanh Thịnh làm chủ
nhiệm đề tài). 50 năm khoa học và công nghệ Việt Nam 1945-1995, NXB
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1995; GS, Viện sĩ Đặng Hữu (chủ biên) Khoa
học và Công nghệ với sự phát triển kinh tế – xã hội, NXB Sự thật, 1989;
Nghiên cứu khoa học phương pháp luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1999; GS Vũ Cao Đàm (chủ biên) Phương pháp luận nghiên
cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2000.
Dưới góc độ nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đã có một số công
trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước đối với nguồn nhân
3
lực hoạt động khoa học và công nghệ Chính sách phát triển nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ trong hệ thống y tế ngành công nghiệp (Luận văn thạc
sĩ 2004 của tác giả Ninh Văn Thức); Luận cứ khoa học cho việc đổi mới một
số chính sách sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan
nghiên cứu - triển khai (đề tài cấp bộ 1999 do Ths Trần Trí Đức làm chủ
nhiệm đề tài); TS. Hoàng Xuân Long: Đặc điểm quản lý nhân lực khoa học
trong tổ chức nghiên cứu và phát triển nhà nước, tạp trí hoạt động khoa học
và công nghệ số 05/2000. Ths. Trần Quốc Tuấn: Chính sách thu hút nhân lực
khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh
(tỉnh Hưng Yên) Tạp trí khoa động khoa học và công nghệ số 6/2004. Nghiên
cứu những cơ sở khoa học để thực hiện chế độ hợp đồng làm việc đối với cán
bộ nghiên cứu khoa học (Luận văn thạc sĩ -2004 của tác giả Trần Văn Tùng)
Khai thác dưới góc độ tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ có
một số công trình nghiên: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xác
định mức thù lao lao động khoa học trong nhiệm vụ khoa học công nghệ của
nhà nước (đề tài cấp Bộ 2004 do TS Nguyễn Thị Anh Thu là chủ nhiệm đề
tài); Các giải pháp hoàn thiện việc phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước
cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (Luận văn thạc sĩ-2004 của tác giả
Nguyễn Đức Thọ).
Các tài liệu tham khảo nước ngoài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ gồm có Hưng thịnh và
suy vong của các cường quốc của tác giả Paul Kenedy, NXB Thông tin lý
luận, 1992; Những nguồn lực tác giả E.F Schumacher, NXB Lao động, 1994;
Những vấn chủ yếu về khoa học và công nghệ Hàn Quốc, tủ sách Ban công
nghệ cao Hoà Lạc, Bộ KH&CN Hà Nội, 1997.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công
nghệ với cách tiếp cận ở các lĩnh vực khác nhau liên quan đến hoạt động khoa
học và công nghệ nhưng chủ yếu dưới góc độ pháp lý nhằm tăng cường hiệu
quả quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ. Phạm vi nghiên
cứu của đề tài chỉ nghiên cứu giới hạn trong phạm vi quản lý nhà nước về
hoạt động khoa học và công nghệ.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, tác giả cần phải làm rõ được
4
những vấn đề sau:
- Đưa ra được những cơ sở lý luận của hoạt động khoa học và công nghệ.
- Nghiên cứu, xác định được những đặc trưng cơ bản của hoạt động quản
lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công
nghệ.
- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về hoạt động khoa
học và công nghệ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài luận văn được tác giả nghiên cứu với cách tiếp cận ở các lĩnh vực
khác nhau của hoạt động quản lý khoa học và công nghệ dựa trên cơ sở
phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương
chính sách của Đảng, các quy định của nhà nước. Ngoài ra tác giả còn sử các
phương pháp khác như: nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, quy nạp,
diễn dịch một số lĩnh vực của hoạt động quản lý nhà nước về khoa học và
công nghệ.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản quản lý nhà nước về hoạt động khoa
học và công nghệ.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công
nghệ.
Chương 3. Phương hướng giải pháp nhằm đẩy mạnh quản lý nhà nước
về hoạt động khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1.1. Khái niệm về quản lý nhà nƣớc về khoa học và công nghệ
Kể từ khi con người có nhu cầu lao động và sinh hoạt theo nhóm nhằm
thực hiện những mục tiêu mà con người không thể đạt được với tư cách là cá
nhân, riêng lẻ, thì quản lý đã là một yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp với
những nỗ lực cá nhân. Ngày nay quản lý hiện diện trong tất cả các lĩnh vực
hoạt động và hơn thế nữa là nhân tố cần thiết tất yếu để duy trì sự tồn tại và
phát triển của các loại hình tổ chức của con người với mọi quy mô và phạm vi
khác nhau.
Trên thực tế có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải thích về khái
niệm, về bản chất, về lý luận và về các kỹ thuật làm cơ sở cho sự thực hành
quản lý: theo Học thuyết quản lý theo khoa học (Frederisk Winslow Talor,
1856-1915), quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và
sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất; Thuyết Quản lý hành chính (Henry Fayol, 1841-1925), quản lý hành
chính là sự dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp với kiểm
tra; Thuyết quản lý tổ chức (Chester Irwing Barnard, 1886-1961), quản lý bao
giờ cũng cũng là việc quản lý một hệ thống tổ chức nhất định, nó có tính hệ
thống và mục đích của nó là làm tăng sức mạnh hệ thống của một tổ chức.
Và như vậy để có thể trả lời được câu hỏi quản lý là gì? từ các điểm
chung nhất của các cách tìm hiểu khác nhau về quản lý như đã nêu ở trên, có
thể hiểu quản lý như sau: Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của
môi trường (xem hình 1.1).
6
Hình 1.1. Sơ đồ lôgíc của khái niệm quản lý
Với cách hiểu như trên, quản lý bao gồm các yếu tố (điều kiện) sau:
- Phải hướng tới một mục tiêu;
- Thông qua con người;
- Với kỹ thuật, công nghệ;
- Hoạt động bên trong của một tổ chức.
Các dạng quản lý
Có nhiều dạng quản lý khác nhau tuỳ thuộc theo cách tiếp cận. Từ góc độ
của hành động, góc độ quy trình công nghệ của tác động quản lý hành chính
là sự điều khiển của con người lên các đối tượng. Theo cách tiếp cận này,
quản lý được phân thành ba dạng chính, tuỳ vào đối tượng quản lý như sau:
- Đối tượng quản lý là các vật vô tri vô giác (nhà xưởng, hầm lò, thiết bị
máy móc ) và con người điều khiển chúng thực hiện theo ý chí của con người
điều khiển. Dạng quản lý này được gọi là quản lý giới vô sinh hay quản lý kỹ
thuật.
- Đối tượng quản lý là các vật hữu sinh (cây trồng, vật nuôi ) và con
người điều khiển chúng để bắt chúng phát triển và thực hiện theo ý chí của
người điều khiển. Dạng quản lý này gọi là quản lý giới sinh vật.
- Đối tượng quản lý là con người (bao gồm tổ chức, đoàn thể, xã hội và
trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ…). Đây là dạng
quản lý xã hội con người. Đối với dạng quản lý này, nếu xét từ góc độ của
chủ thể quản lý (nhà nước, chủ doanh nghiệp ), chúng ta sẽ có các dạng khác,
cụ thể hơn của quản lý xã hội con người. Đó là quản lý nhà nước và quản lý
doanh nghiệp
Quá trình quản lý
Chủ thể quản
lý
Đối tƣợng
quản lý
Mục tiêu
Môi trƣờng
7
Quản lý là quá trình thực hiện những hoạt động (chức năng riêng biệt
nhưng có quan hệ mật thiết với nhau và theo một trình tự nhất định, hướng tới
việc phối hợp các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, thông tin) để đạt được
mục tiêu với hiệu quả cao nhất (xem hình 1.2), đó là các hoạt động 1) Lập kế
hoạch (phải làm gì); 2) Tổ chức (ai làm và làm cách nào); 3) Điều khiển (gây
ảnh hưởng lên cách làm) và 4) Kiểm tra (bảo dảm kế hoạch được thực thi).
Tuy nhiên, trong thực tế các chức năng quản lý nói trên cũng không được
thực hiện một cách riêng biệt và theo một trình tự như vậy. Bởi lẽ tại mọi thời
điểm, người quản lý bao giờ cũng thực hiện nhiều hoạt động và hơn thế nữa,
một biến cố phát sinh trong quá trình thực hiện cũng có thể làm thay đổi cách
thức phối hợp giữa các chức năng này.
Luật Khoa học và công nghệ được Quốc hội thông qua ngày
09/06/2000 thì khoa học và công nghệ; hoạt động khoa học và công nghệ
được hiểu như sau:
Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy
luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí
quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành
sản phẩm
Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa
Những việc
khởi đầu
Những việc
trù bị
Những việc
thực hiện
Những việc
định lƣợng
LẬP KẾ
HOẠCH
(phải làm gì)
TỔ CHỨC
PHỐI HỢP
(ai làm? làm
cách nào?)
ĐIỀU KHIỂN
KIỂM TRA
(gây ảnh hưởng
lên cách làm, và
bảo đảm thực thi)
Lƣợng giá
(khâu hoạch định)
trù bị
(khâu kiểm định)
Hình 1.2. Sơ đồ quá trình quản lý
8
học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công
nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện
tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các
giải phát nhằm ứng dụng và thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao
gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng.
Như vậy, quản lý khoa học và công nghệ mà chúng ta đề cập ở đây là
quản lý công tác khoa học và công nghệ, nó bao gồm một nội dung rộng lớn
và đa dạng hơn nhiều so với quản lý nghiên cứu khoa học với nghĩa hẹp.
Quản lý nghiên cứu, hay trong thực tế hay gọi là nghiên cứu-phát triển, là
quản lý đối với công tác nghiên cứu khoa học và những hoạt động triển khai
kỹ thuật, chỉ là một khâu trong dây chuyền sản xuất, nâng cao, truyền bá và
ứng dụng kiến thức khoa học và công nghệ trong xã hội vừa nêu trên mà thôi.
Nghiên cứu-triển khai mặc dù là bộ phận quan trọng, nhưng không phải là tất
cả hoạt động khoa học và công nghệ. Hoạt động khoa học và công nghệ nước
ta được xác lập về mặt pháp lý tại Luật Khoa học và công nghệ (năm 2000).
Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, là một hoạt động bao trùm, có
tính chất vĩ mô, bao gồm những động tác như hoạch định chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ, kế hoạch và qui hoạch dài hạn, xây dựng chính
sách, thể chế cho hoạt động khoa học và công nghệ, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật khoa học và công nghệ, sắp xếp tổ chức mạng lưới các cơ
quan khoa học, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học, quản lý và
áp dụng rộng rãi các thành quả thu được, chuyển giao công nghệ, cùng những
hoạt động về quản lý kinh phí, quản lý nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ, quản lý vật tư phục vụ nghiên cứu khoa học, thông tin khoa học và công
nghệ, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, thanh tra khoa học và công
nghệ và nhiều nội dung khác nữa. Luật Khoa học và công nghệ nước ta ban
hành tháng 6-2000 và có hiệu lực từ 1-1-2001, có dành cả một chương
(Chương VI) quy định những nội dung của quản lý nhà nước về khoa học và
công nghệ.
Theo nghĩa đó, quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ
hiện đại là sự vận dụng có ý thức bởi chủ thể quản lý, những qui luật và đặc
điểm của phát triển tự thân của khoa học và công nghệ và tác động qua lại của
9
khoa học và công nghệ với toàn bộ các hoạt động khác của xã hội. Các quy
luật này được khái quát hoá từ các nghiên cứu của một số bộ môn như xã hội
học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, lý thuyết hệ thống, v.v . Quản lý
hoạt động khoa học và công nghệ suy cho cùng là nhằm thực hiện một cách
hữu hiệu nhất mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ và các mục tiêu của
công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. Nói tóm lại, quản lý nhà nước về hoạt
động khoa học và công nghệ bao gồm những hoạt động về ra quyết định và
việc thực hiện các quyết định trên các mặt chiến lược, chính sách, kế hoạch,
tổ chức, chỉ huy, điều hòa, phối hợp, kiểm tra, thanh tra và điều chỉnh đối với
công tác khoa học và công nghệ.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
Cũng giống trong quản lý kinh tế, quản lý khoa học và công nghệ có
những nguyên tắc chỉ đạo nhất định. Trên cơ sở những nhận thức trên đây, có
thể rút ra những nguyên tắc trong quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ . Những nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm của đối tượng quản lý là
hoạt động khoa học và công nghệ. Mỗi nguyên tắc trên thực tế không vận
dụng riêng rẽ mà phối hợp nhuần nhuyễn với các nguyên tắc khác mới có thể
phát huy tác dụng trong thực tế.
Nguyên tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế
Nguyên tắc này có tính bao trùm, người làm quản lý khoa học và công
nghệ phải luôn luôn tạo ra điều kiện để gắn các hoạt động khoa học và công
nghệ với các hoạt động kinh tế. Sự thống nhất này phải thể hiện trên tất cả các
mặt kế hoạch, đầu tư, tổ chức chỉ đạo thực hiện. Điều đặc biệt quan trọng là
văn bản quy phạm pháp luật, nó phải được lồng ghép trong các văn bản hành
chính, pháp lý chung. Chính sách, pháp luật, kế hoạch, biện pháp, tổ chức,
đầu tư đều phải gắn bó với kinh tế nếu không không thể thực hiện được, hoặc
thực hiện nhưng ít có tác dụng đối với phát triển kinh tế-xã hội.
Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động của thị trường
Nội dung nguyên tắc này là mọi chủ trương, biện pháp quản lý khoa học
và công nghệ đề ra phải căn cứ nhu cầu thị trường, bám sát nhu cầu thị
trường, chính thị trường tự nó có sức hút các kết quả nghiên cứu một cách
mạnh mẽ; mặt khác sự chủ động và sáng tạo từ phái các tập thể khoa học có
tác dụng đi trước thúc đẩy, gợi ý, mở đường cho sản xuất kinh doanh. Nhưng
nếu sự chủ động này không căn cứu vào thực tế sẽ dẫn đến chủ quan duy ý
10
chí, đưa ra những giải pháp mà thực tế khó chấp nhận, kém hiệu quả.
Nguyên tắc kết hợp tập trung với dân chủ
Trong bất kỳ nền kinh tế nào sự tập trung nguồn lực, nỗ lực vào một đích
là nhân tố quyết định thành công giải quyết vấn đề, dù đó là kinh tế hay khoa
học, kỹ thuật. Sự chỉ đạo của Chính phủ hay các cơ quan chính phủ một cách
tập trung trong từng thời gian giải quyết dứt điểm từng vấn đề có ý nghĩa rất
quyết dịnh, nhất là trong hoàn cảnh nội lực còn mỏng. Trong khi đó, giải
quyết các bài toán kỹ thuật, công nghệ thì đòi hỏi sáng tạo, linh hoạt cao độ.
Phát huy sáng tạo của mọi thành viên, đa dạng hoá các phương án, biện pháp
sẽ tạo điều kiện có được những biện pháp hữu hiệu nhất có thể. Người làm
quản lý khoa học và công nghệ cần nắm vững nguyên tắc này.
Nguyên tắc phân công, phân cấp
Công việc phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ muốn làm có
hiệu quả phải có sự phân công, phân cấp rành mạch. Như thế, mỗi cấp tập
trung vào một loại việc, trên cơ sở đó phối hợp với nhau phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn bộ hệ thống. Trung ương không làm thay công việc của địa
phương. Địa phương không dập khuôn máy móc theo cách tổ chức ở trung
ương.
Nguyên tắc tham gia của cộng đồng
Tiến bộ khoa học và công nghệ về bản chất, là một quá trình xã hội. Mỗi
thành viên của cộng động dân cư đều có vai trò nhất định trong quá trình đó
theo cơ chế hút-đẩy nói trên. Các quyết định trong quản lý nên cho dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Hiệu quả sẽ được nâng cao vì cơ chế đó có
tác dụng kiểm soát xã hội, phát huy sáng kiến cộng đồng cho các hoạt động
khoa học và công nghệ. Nguyên tắc đấu thầu trong nghiên cứu, ứng dụng
khoa học và công nghệ là một trong những cơ chế để thực hiện dân chủ trong
khoa học. Ai cũng có quyền tham gia, từ đó chọn người giỏi nhất, hiệu quả
nhất. Trên tầm vĩ mô, công việc quản lý khoa học và công nghệ không thể
khoán trắng cho một bộ, một ngành chịu trách nhiệm, mà phải được các bộ
các ngành tham gia, đề xuất, thực hiện. Mỗi đề án phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội đều phải quan tâm đến nội dung khoa học trong đó, phải nghiên cứu
nếu cần thiết, phải đầu tư cho công tác khoa học để phục vụ lại chính mình.
Nguyên tắc xã hội hoá trong quản lý khoa học và công nghệ đang có ý nghĩa
thời sự lớn đối với sự phát triển, đầu tư cho khoa học và công nghệ nước ta.
11
Nguyên tắc kế thừa và phát triển, tuần tự kết hợp với nhảy vọt
Sự phát triển của công nghệ luôn luôn có tính kế thừa. Chỉ lĩnh hội được
thành tựu của thế hệ trước, những nước đi trước ta mới làm ra được kết quả
thực sự có ý nghĩa mới, sáng tạo. Sự sáng tạo có kế thừa là sáng tạo gấp đôi,
gấp ba cái đáng ra có thể làm được, và do vậy nâng hiệu quả lên gấp bội phần
tương ứng. Trong quản lý cần có biện pháp tránh trùng lắp những cái đã được
người khác, nước khác nghiên cứu, mà phải kế thừa những cái đó. Trên tầm vĩ
mô cũng tương tự, nước ta lấy nhập công nghệ là chính, sở dĩ cũng là để tiết
kiệm nguồn lực quá ít ỏi, nhằm vào thích nghi, sáng tạo công nghệ. Chiến
lược “làm một số, mua một số” là thể hiện cụ thể của nguyên tắc kế thừa và
phát triển trên bình diện hợp tác quốc tế. Chính qua chiến lược này một nước
nghèo mới có thể đi tắt, đón đầu, bứt lên đuổi kịp các nước phát triển.
1.1.2. Động lực của khoa học và công nghệ đối với công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm động lực của phát
triển. Có người cho rằng động lực của sự phát triển đồng nghĩa với nguồn gốc
của sự phát triển, nghĩa là cả hai đều gắn với nguyên nhân gây lên sự vận
động và phát triển. Nhưng theo Gs, Ts Lê Hữu Tầng chủ biên (về động lực
của sự phát triển kinh tế – xã hội, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr 14)
cho rằng, nguồn gốc của sự phát triển là những mâu thuẫn nội tại còn động
lực là những nhân tố thực hiện việc giải quyết mâu thuẫn.
Xem xét vai trò động lực của khoa học và công nghệ đối với sự phát
triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng, đa số các nhà
khoa học đều cho rằng động lực là cái thúc đẩy sự vận động và phát triển.
Khoa học và công nghệ, nói cụ thể hơn là hoạt động đem lại thành tựu về
khoa học và công nghệ vừa là kết quả của sự phát triển kinh tế – xã hội, văn
hoá, vừa là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi tích cực về mặt xã
hội và nâng cao giá trị văn hoá của dân tộc, của vùng và thế giới. Theo tính
toán của Solow, giáo sư trường đại học Công nghệ Massachuset, người được
giải thưởng Nobel về kinh tế, thì 80% tăng trưởng của các nên kinh tế phương
Tây, nhất là Mỹ, là kết quả của đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, Michel
Godet, cố vấn khoa học của Bộ Khoa học và Công nghệ của Chính phủ Pháp
lại nhấn mạnh vai trò của những biến đổi xã hội trong việc khắc phục hủng
hoảng kinh tế. Ông cho rằng không nên quá chạy theo công nghệ mới, mà
12
phải tập trung sức vào việc giải quyết thích nghi các cơ cấu và ứng xử trong
một thế giới đang đột biến . Theo quan điểm này thì khoa học xã hội có vai
trò rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế, ở cấp vĩ mô khoa học xã hội cần
phải được ưu tiên hàng đầu để biến đổi các cơ cấu xã hội và các lối ứng xử đã
lỗi thời. Tương tự, ở cấp vi mô cũng càn tập trung để hoàn thiện công nghệ tổ
chức quản lý và công nghệ tiếp thị theo khái niệm đổi mới của Schumpeter (là
học giả người Áo tác giả tác phẩm “chu kỳ kinh doanh”).
Kinh nghiệm thành công của các nước phát triển cũng như các nước
mới công nghiệp hoá ở Đông á, Ấn Độ và một số nước đang phát triển và đã
gặt hái được những thành công nhất định, cho thấy một đất nước đầu tư cho
đổi mới nhưng thiếu chính sách hợp lý ở cấp vĩ mô, thiếu một chiến lược phát
triển kinh tế xã hội khôn ngoan thì khó gặt hái được những thành công. Khoa
học xã hội, một mặt đưa ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thích hợp,
mặt khác góp phần xây dựng, thiết kế các chính sách khả thi nhằm thực hiện
chiến lược đã đề ra. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ
và tác động có nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của các nước trên thế
giới đã trải qua những thời kỳ ảnh hưởng khác nhau. Xu thế tác động cũng
không giống nhau và kết quả cũng như mức độ tác động cũng rất khác nhau ở
những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Lịch sử phát triển khoa học và công nghệ cho thấy, ở thời kỳ đầu nhờ
hoạt động thực tiễn, dần dần con người tích luỹ được những kinh nghiệm dẫn
đến sự ra đời của khoa học. Điều đó có ý nghĩa sản xuất đi trước công nghệ và
công nghệ lại đi trước khoa học. Cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của
khoa học ngày càng tăng lên trong xã hội hiện đại, khoa học ngày càng có vai
trò với sự phát triển. Theo nhận xét của C. Mác, cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp, việc sản xuất ra của cải vật chất ngày càng ít phụ thuộc hơn vào
thời gian lao động, vào lượng lao động phải bỏ ra, mà trước hết phụ thuộc vào
trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật hay vào sự ứng dụng của
khoa học vào sản xuất.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh những bước
ngoặt cách mạng của khoa học và công nghệ. Sau mỗi bước ngoặt đó, những
biến đổi trong tri thức khoa học, trong cách thức sản xuất keo theo những biến
động to lớn trong đời sống chính trị, xã hội của loài người, trước hết trong
lĩnh vực sản xuất vật chất, rồi kéo theo những thay đổi mạnh mẽ trong các
13
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội. Cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất ở
thế kỷ 17 tạo ra hệ quan niệm mới về thế giới vĩ mô, đánh dấu sự hình thành
khoa học cổ điển với những phát minh trong lĩnh vực vật lý, cơ học, quang
học và hình học giải thích. Những phát minh ở thời kỳ này đã làm cơ sở cho
triết học giải thích thế giới bằng tác dụng cơ học chứ không bởi dựa vào
nguyên nhân siêu phàm. Sự tiến bộ bước ngoặt tiếp theo của khoa học và kỹ
thuật đã đem lại nhiều thành tựu cho công nghiệp. Việc sáng chế ra máy phát
điện, động cơ điện, ô tô, máy bay, điện thoại, vô tuyến, đã đưa công nghiệp
sang những bước ngoặt mới, một cuộc cách mạng công nghiệp mới.
Với những biến đổi bước ngoặt của khoa học và kỹ thuật trong thế kỷ
XX, loài người đã tạo ra một cơ sở chắc chắn cho hệ thống công nghệ mới
của nền sản xuất vật chất, chuẩn bị tiền đề để biến đổi nền văn minh công
nghiệp ống khỏi sang văn minh “hậu công nghiệp”. Một đặc trưng của tiến
trình biến đổi cách mạng này là những phát minh khoa học đều trực tiếp dẫn
đến hình thành các nguyên lý công nghệ sản xuất mới, làm thay đổi về chất
cách thức sản xuất chứ không chỉ về một công cụ kỹ thuật sản xuất như thời
kỳ cách mạng công nghiệp trước đây.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ bảo đảm tăng trưởng
kinh tế, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho người dân, mà còn bảo
đảm sự bền vững trong phát triển: bền vững trong tăng trưởng kinh tế, bền
vữnng về xã hội. Trong quá trình này, khoa học và công nghệ phải thực sự là
yếu tố chủ chốt nhằm tăng giảm lãng phí tài nguyên thiên nhiên, đem lại môi
trường trong sạch, bảo đảm công bằng xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thực tế, song song với những cống hiến to lớn cho sản xuất và đời
sống, do nhận thức không đầy đủ và áp dụng lệch lạc những thành tựu khoa
học và công nghệ, vấn đề gây ô nhiễm và suy thoái môi trường đã gây hậu
quả nghiêm trọng cho nhiều nước. Những hậu quả này chỉ có thể khắc phục
bằng khoa học và công nghệ. Như vậy, không phải bất kỳ công nghệ nào cũng
là tiến bộ công nghệ, Ngày nay đang phổ biến quan điểm là tiến bộ công nghệ
phải đi đôi với tiến bộ xã hội. Vì vậy hoạt động khoa học và công nghệ phải
khuyến khích nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ
của thế giới với tư cách vừa là lực lượng sản xuất trực tiếp vừa là giá trị văn
hoá để phục phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời
phải xem xét lại cách tiếp cận để đánh giá các giá trị văn hoá truyền thống,
xây dựng các chuẩn mực, bảo vệ và phát huy những giá trị có ý nghĩa quan
14
trọng trong thời đại ngày nay mà thường bị lãng quên và loại bỏ những định
kiến, phong tục tập quán đã lỗi thời gây trở ngại cho việc tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của thời đại.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ
1.2.1. Đặc điểm quản lý nhà nƣớc về khoa học và công nghệ
Một trong những chức năng cơ bản của nhà nước là quản lý công việc
đất nước thông qua một nền hành chính công. Nhà nước thực hiện những
chức năng cơ bản như việc giữ gìn hoà bình, đảm bảo hạ tầng cơ sở pháp luật,
các lợi ích công như quyền sở hữu, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ môi trường,
phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, kiểm soát các đại dịch bệnh truyền nhiễm,
bảo hiểm xã hội, xoá đói giảm nghèo, phân phối lại phúc lợi xã hội. Nhà nước
là người bảo vệ quyền lợi cộng đồng dân tộc trong bối cảnh cạnh tranh toàn
cầu, hội nhập kinh tế quốc tế.
Mọi lĩnh vực, bất kể tính chất phức tạp đến đâu, nếu có quan hệ đến lợi
ích quốc gia, nhà nước đều chủ trương quản lý ở những mức độ khác nhau.
Bên cạnh những lĩnh vực như kinh tế, an ninh, quốc phòng, tài nguyên, môi
trường, thì khoa học và công nghệ ngày nay đã trở thành nhân tố quyết định
vị thế cạnh tranh, sức mạnh của đất nước, và do đó cũng trở thành lĩnh vực
nhà nước phải quản lý. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với
nghĩa nó quyết định năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và dịch vụ, hiệu
quả của quản lý xã hội, yếu tố quyết định chất lượng cuộc sống và phát triển
bền vững của một dân tộc. Người ta đã quen nói: công nghệ là biến số chiến
lược của sự phát triển. Ai nắm trong tay công nghệ, nhất là công nghệ cao,
người đó có thể chi phối các đối tác phát triển của mình, có ưu thế tuyệt đối
trong quan hệ kinh tế, quân sự, ngoại giao, có cơ sở để theo đuổi một chính
sách đối nội, đối ngoại tương ứng. Vì thế, các siêu cường trên thế giới bằng
mọi cách duy trì tiềm lực khoa học và công nghệ vượt trội của mình làm thế
đàm phán, mặc cả trong quan hệ với các nước khác. Các nước đang phát
triển, ở những mức độ khác nhau đều cố vươn tới những trình độ nhất định về
khoa học và công nghệ để thoát khỏi lạc hậu và đói nghèo, thoát khỏi ách nô
dịch và lệ thuộc một chiều vào bên ngoài. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra
một cách năng động và rất phức tạp, có ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu, cơ
cấu, phương châm của các chính sách khoa học và công nghệ quốc gia trong
15
thời đại hiện nay.
Điều đó giải thích tại sao khoa học và công nghệ đã trở thành đối tượng
của sự can thiệp có ý thức và sự quản lý của các nhà nước hiện đại. Mỗi
quốc gia đương đại theo các cách thích hợp đều thiết lập cho mình bộ máy
hành chính, có chính sách, phương thức và phương tiện khống chế vĩ mô và
cả vi mô các hoạt động trực tiếp và gián tiếp liên quan đên tiềm năng công
nghệ, khoa học của quốc gia. Công việc này vượt quá khả năng của các công
ty hay những tổ hợp kinh tế-kỹ thuật, cho dù là hùng mạnh đến đâu, và trở
thành việc đại sự quốc gia, quốc sách hàng đầu của các chính quyền đương
nhiệm.
Mặc dù khoa học và ứng dụng khoa học, do tính không chắc chắn của
công cuộc tìm tòi, khám phá cái mới, không giống các hoạt động ổn định, lặp
đi lặp lại trong sản xuất thông thường, là một hoạt động có nhiều yếu tố rủi ro
so với các hoạt động khác của con người, ngày nay thực tế đã chứng minh
rằng việc quản lý khoa học và công nghệ là một việc có thể làm được và đang
được làm một cách có kết quả. Điều cần lưu ý là quản lý khoa học và công
nghệ là một lĩnh vực rất đặc thù, khác nhiều so với quản lý các hoạt động
khác trong đời sống. Việc quản lý khoa học và công nghệ đòi hỏi tuân thủ
những quy luật riêng của hoạt động khoa học và công nghệ. Các quy luật có
tính đặc thù này đã được từng bước nghiên cứu đúc rút và tổng kết thông qua
các hoạt động nghiên cứu và thực tiễn ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới.
1.2.1.1. Tính đặc thù của lao động khoa học và công nghệ
Lao động khoa học và công nghệ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp,
là quá trình lao động xã hội đặc thù. Nó là hoạt động của những người có tri
thức chuyên môn đặc biệt, tiến hành thu thập, xử lý, gia công thông tin về các
sự vật trong giới tự nhiên hoặc nhân tạo để có được tri thức lý luận, phương
pháp tác động, đường lối nhận biết thế giới và cải tạo thế giới. Do đó, lao
động khoa học và công nghệ có tính qui luật khách quan và tính đặc thù của
nó.
Công tác nghiên cứu khoa học là một loại lao động trí óc mang tính sáng
tạo, đặc điểm nổi bật của nó là ở tính sáng tạo, đó là linh hồn của công tác
nghiên cứu khoa học là điểm cơ bản nhất phân biệt nó với lao động sản xuất
bình thường tức lao động sản xuất mang tính lặp đi lặp lại.
Quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình mà tri thức vận động từ
16
không đến có, từ ít đến nhiều. Ví dụ, nghiên cứu cơ bản là để phát hiện và
nhận thức về những qui luật mà trước đó con người chưa hề nhận thức được;
nghiên cứu công nghệ là để sáng tạo ra phương pháp công nghệ mà trước đó
chưa có nhằm sáng tạo ra những thiết bị hoặc sản phẩm mà trước đó không
tồn tại. Nghiên cứu khoa học và sáng tạo có mối liên hệ mật thiết với nhau,
quá trình của công tác nghiên cứu khoa học chính là quá trình sáng tạo ra cái
mới. Do đó, đánh giá trình độ cao hay thấp của một thành quả nghiên cứu
khoa học chủ yếu là xem mức độ yếu tố sáng tạo hàm chứa trong đó: tính
sáng tạo càng lớn, trình độ khoa học càng cao và ngược lại.
Vì lao động nghiên cứu khoa học là lao động mang tính sáng tạo, tìm
kiếm cái chưa biết, do đó cũng có thể thành công mà cũng có thể thất bại,
thông thường những nghiên cứu có nhiều thông số, đi sâu vào bản chất như
nghiên cứu cơ bản thì độ rủi ro, khả năng thất bại càng lớn.
Theo con số công bố của tổ chức UNESCO Liên hợp quốc thì tỷ suất
trung bình giữa thành công và thất bại đối với nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
ứng dụng, nghiên cứu triển khai và những hoạt động nghiên cứu cải tiến kỹ
thuật như được thể hiện trong bảng 1.3.
Loại hình hoạt động nghiên cứu
Xác suất thành
công
Xác suất không thành
công
Nghiên cứu cơ bản thuần tuý
Nghiên cứu cơ bản định hướng
Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu triển khai thử nghiệm
Cải tiến kỹ thuật nhỏ
0,20
0,25
0,40
0,60
0,90
0,80
0,75
0,60
0,40
0,10
Bảng 1.3 Bảng thống kê tỷ lệ thành công, thất bại của hoạt động KH&CN
Bảng trên đã cho thấy độ rủi ro thất bại của lao động nghiên cứu khoa
học là không thể tránh khỏi, hệ số rủi ro của công tác nghiên cứu khoa học gia
tăng cùng với sự gia tăng mức độ và tính chất phức tạp của các nghiên cứu
khoa học. Đương nhiên, đối với công tác khoa học và công nghệ thất bại cũng
là một loại thu hoạch, hay “kết quả âm tính”, nó có thể cảnh tỉnh người sau,
điều đó nói lên hướng tư duy nghiên cứu không đi đúng hoặc phương pháp
17
không thoả đáng, hay điều kiện, thiết bị hiện có thậm chí lượng tích luỹ tri
thức tương quan không đủ, những cái này là những kinh nghiệm và bài học
cho người tiếp tục nghiên cứu về sau.
1.2.1.2. Đặc tính kế thừa của lao động khoa học và công nghệ.
Khi làm sáng tỏ quan hệ giữa khoa học hiện đại với khoa học cổ Hy Lạp,
Ăng ghen đã từng nói: Bất kể sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại
nào cũng đều tìm thấy hình ảnh của nó thu nhỏ trong manh nhà khoa học thời
cổ dại Hy Lạp. Nói cách khác, hoạt động nghiên cứu khoa học hiện đại đều
không tách khỏi sự kế thừa thành quả lao động khoa học và công nghệ của
người đi trước, nó đều được tiến hành trên cơ sở sáng tạo của người khác
hoặc người đi trước, những tri thức mới mà họ sáng tạo ra cũng tất nhiên cũng
sẽ được người khác hoặc người đời sau kế thừa và phát triển. Lấy giai đoạn
khác nhau của hoạt động khoa học và công nghệ làm ví dụ nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng và triển khai kỹ thuật, v.v là một chỉnh thể hữu cơ,
vừa khác nhau lại vừa có mối liên hệ thống nhất với nhau. Thông thường cái
sau là sự kế thừa của cái trước, đó cũng chính là sự kế thừa của lao động;
trong công tác nghiên cứu khoa học sự đan xen, sự xâm nhập vào nhau và sự
tổng hợp của các bộ môn về thực chất cũng chính là sự phá bỏ những hạn chế
của chuyên ngành chuyên môn, vấn đề học tập và kế thừa thành quả bộ môn
khác và người khác cũng chính là biểu hiện tính kế thừa.
Sự tích luỹ của lao động khoa học và công nghệ biểu hiện ở chỗ: sự triển
khai của bất kỳ hoạt động khoa học nào đều phải qua thời gian dài thai nghén,
thu thập và tích luỹ với lượng lớn thông tin có liên quan đến phương pháp và
hướng tư duy, v.v của công việc nghiên cứu ấy, đồng thời với chúng cần
tiến hành phân tích, đánh giá, chỉnh lý, gia công một cách toàn diện, mới có
thể cung cấp những điều kiện khả thi và cơ sở cho sự xuất hiện nghiên cứu
mới. Trong mỗi khâu, mỗi bước nghiên cứu, tính tích luỹ này cũng được biểu
hiện đầy đủ từ đầu đến cuối. Đo đạc thử nghiệm lặp đi lặp lại cùng với phân
tích so sánh số liệu thực nghiệm là biểu hiện quan trọng của tính tích luỹ. Cho
nên, những người làm công tác khoa học và công nghệ, trong lao động khoa
học và công nghệ cần cù gian khổ, đều phải chú ý kế thừa, tích luỹ, tiêu hoá
và tiếp thu tri thức, mà “dũa đá của người thành ngọc của ta”, chính là con
đường dẫn tới thành công của những người lao động khoa học và công nghệ.
Những đặc điểm kể trên của lao động khoa học và công nghệ, có liên hệ
18
với nhau, không thể chia cắt, chỉ có nhận thức đầy đủ tính đặc thù này, quản
lý khoa học và công nghệ mới có những căn cứ khách quan, đầy đủ.
1.2.1.3. Các công cụ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
Trong quá trình quản lý hoạt động KH&CN cũng như nhiều lĩnh vực
quản lý khác, có mấy nhóm công cụ sau đây:
Công cụ pháp luật
Đây là công cụ quan trọng nhất trong quản lý nhà nước KH&CN. Mọi
chủ trương, đường lối chiến lược, định hướng của chính phủ đều được thực
hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, có giá trị bắt buộc đối với
đối tượng cần quản lý. Việc chậm hoặc không được thể chế hoá các chủ
trương này là biểu hiện của sự bất cập lớn trong phương pháp quản lý.
Phương pháp này quan trọng tới mức đã trở thành chức năng thường xuyên
của bộ máy quản lý nhà nước.
Các công cụ hành chính
Tương tự như công cụ pháp chế, công cụ hành chính trong tay các cơ
quan quản lý là quyền hạn đặc biệt chỉ các cơ quan hành chính mới có nhằm
điều hành hoạt động. Phương pháp này phát huy tác dụng trực tiếp và nhanh
chóng khi thực hiện các quyết định quản lý. Nhưng do tính chất trễ nhịp và
tính không thể tách rời của nhiều hoạt động khoa học khỏi các hoạt động kinh
tế-xã hội khác nên biện pháp hành chính có giới hạn nhất định. Việc lạm dụng
các biện pháp hành chính sẽ gây tác động tiêu cực đến phát triển lâu dài của
khoa học nếu không cân nhắc kỹ.
Các công cụ kinh tế
Biện pháp kinh tế rất có hiệu quả, tác dụng lâu dài, nhưng do tính không
tách bạch của KHCN với sản xuất nên khó áp dụng. Ngoại trừ các biện pháp
đầu tư tài chính là những biện pháp trực tiếp, thông thường chỉ được vận dụng
tổng hợp trong các gói biện pháp của tổ chức sản xuất kinh doanh mà không
áp dụng riêng cho KHCN nào đó. Chẳng hạn miễn thuế, trợ giá, cho vay lãi
suất ưu đãi thực chất là những biện pháp đầu tư tài chính gián tiếp của chính
phủ cho nghiên cứu-triển khai thường nằm trong các “gói” chính sách chung,
không thể dành riêng cho một cơ quan, cá nhân nào.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về hoạt động khoa học và công
nghệ
19
Để có thể trình bày về nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ chúng ta phải áp dụng phương pháp trìu tượng hoá xem xét một chu
trình cụ thể nào đó mà chúng ta là chủ thể quản lý đang đứng trước những tác
động quản lý phải thực hiện. Nói cách khác khi đứng là vai trò quản lý ở cấp
vĩ mô, những nội dung công tác mà chúng ta phải làm gì, tức là nói đến nội
dung của công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
Nếu phân theo nội dung quản lý nhà nước khoa học và công nghệ thì
gồm có: hoạch định chính sách khoa học và công nghệ, hoạch định chiến lược
khoa học và công nghệ, lập kế hoạch khoa học và công nghệ, quản lý nhân
lực khoa học và công nghệ, quản lý kinh phí khoa học và công nghệ, quản lý
các điều kiện đảm bảo khoa học và công nghệ, quản lý thông tin khoa học và
công nghệ, quản lý hợp tác quốc tế khoa học và công nghệ và các nội dung
khác liên quan đến quá trình sản xuất, nâng cao, truyền bá và sử dụng kiến
thức khoa học và công nghệ.
1.2.2.1. Về công tác hoạch định chiến lược và xây dựng kế hoạch về
khoa học và công nghệ
Ở nước ta quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tiến hành
trong khuôn khổ thể chế chính trị của nước ta, cụ thể là sự lãnh đạo của Đảng
ta. Vì vậy, các văn kiện của Đảng về đường lối, chính sách, định hướng chiến
lược cho khoa học và công nghệ, tuy không xếp trong cùng nhóm với các
văn bản pháp luật của Nhà nước, nhưng có giá trị định hướng rất quan trọng
cho việc quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Các văn bản pháp luật
của Chính phủ là sự cụ thể hoá các đường lối, chủ trương của Đảng và các
văn bản pháp luật của Quốc hội.
Giữa chiến lược khoa học và công nghệ với chiến lược phát triển kinh tế
– xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề cho sự phát triển
của cái kia. Có khi chiến lược khoa học và công nghệ là công cụ thực hiện
mục tiêu chiến lược kinh tế – xã hội. Có khi dựa vào mũi nhọn công nghệ của
chiến lược khoa học và công nghệ mà có thể xây dựng thành mũi nhọn của
chiến lược kinh tế – xã hội, ví dụ như việc tạo ra ngành nghề mới mở ra
hướng xuất khẩu lớn cho nền kinh tế. Vì thế đối với chiến lược thì quan trọng
nhất là lựa chọn đúng mục tiêu chiến lược, điều này quyết định thành bại của
toàn bộ hoạt động khoa học và công nghệ trong giai đoạn nhất định.
Quản lý mà không có chiến lược thì không rõ mục tiêu đại cục, có khi
20
đưa đến mâu thuẫn, quanh co, giảm hiệu quả chung cho toàn bộ sự nghiệp.
Ngược lại, chiến lược rõ, chính xác thì rút ngắn được con đường phải đuổi kịp
theo kiểu “đi tắt, đón đầu”, bỏ qua những bước đi trung gian không cần thiết
phải đi để nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển.
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã vạch ra những định hướng
chiến lược lớn cho khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2020. Trong đó
xác định những mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng nhất cho toàn ngành cũng
như một số lĩnh vực quan trọng, đây là bước kế thừa và phát triển các nhiệm
vụ trong các giai đoạn cách mạng trước đây xung quanh việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất và nâng cao
năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ.
Mục tiêu bao quát chung của định hướng là làm sao để nước ta trở
thành nước công nghiệp vào năm 2020, khoa học và công nghiệp vừa là công
cụ vừa là tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hoá. Một trong
các nội dung chủ yếu của nó là phải đưa ra được “lộ trình công nghệ” có một
mốc từng giai đoạn từ thấp lên cao của năng lực nội sinh: nhập, làm chủ, thích
nghi và sáng tạo công nghệ. Mặt khác, phải bảo đảm phát triển bền vững về
sinh thái, về xã hội và về tốc độ tăng trưởng. Chiến lược hiện nay chính là sự
thích ứng với giai đoạn cách mạng mới với các nhân tố mới như nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần; vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách mở làm bạn với tất cả các
nước.
Hiện nay, nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về hoạt động
khoa học và công nghệ là xây dựng bản thân chiến lược dựa trên định hướng
chiến lược đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII và từ
nay đến năm 2020 trong chiến lược phải có mở để thích nghi với diễn biễn
tình hình mới và xu thế phát triển kinh tế và khoa học và công nghệ trong
nước và thế giới. Để đạt được những yêu cầu trên đây, việc tổ chức làm sao
cho tất cả các câp, ngành cùng tham gia vạch ra chiến lược chung từ yêu cầu
cụ thể của ngành mình, cấp mình là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Bộ
Khoa học và Công nghệ, cơ quan được Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì quá
trình xây dựng chiến lược. Nội dung bản chiến lược phải thể hiện được những
điểm then chốt sau:
Một là, phải cụ thể hoá nhiệm vụ cho các lĩnh vực khoa học bao gồm
21
khoa học xã hội và nhân văn, khoa học công tự nhiên, khoa học kỹ thuật và
công nghệ. Khoa học xã hội phải bảo đảm những cơ sở khoa học cho việc làm
chủ xã hội, quyết tâm thực hiện hoài bão xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Khoa học kỹ thuật phải ra sức tranh thủ nắm vững những lực lượng sản
xuất mới do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới mang lại,
làm cho nền kinh tế thực sự năng động, có sức cạnh tranh trên thế giới.
Hai là, trong xây dựng chiến lược và kế hoạch phải giải quyết những
mâu thuẫn giữa một mặt phải tranh thủ đi ngay vào những công nghệ tiên
tiến, ngoài ra phải tận dụng những cơ sở vật chất – kỹ thuật đang có. Trong
hiện đại hoá và cải tiến kỹ thuật có các thành tựu tân tiến của công nghệ hiện
đại, công nghệ hiện đại trái với quan niệm cho rằng sa thải lao động, làm mất
công ăn việc làm. Nhưng trên thực tế nó đã giúp mở ra những cơ hội tạo ra
những công việc mới trong xã hội.
Ba là, chúng ta phải xác định được một lộ trình công nghệ cụ thể các
ngành nhằm từng bước vươn lên trình độ trung bình trong khu vực. Trước hết
chúng ta phải lấy ứng dụng và chuyển giao công nghệ là chính cần tranh thủ
đi thẳng vào công nghệ tiên tiến nhất mà chúng ta có thể đầu tư cũng như làm
chủ.
Bốn là, nền công nghệ tiên tiến, như kinh nghiệm cho thấy phải được
gánh đỡ trên đội ngũ những cán bộ khoa học và công nghệ tương xứng, trên
hết trên những ngành công nghệ trọng điểm như công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, hoá dầu, chế tạo máy. Đội ngũ cán bộ
này cần được trang bị những công cụ làm việc đủ tốt để duy trì hoạt động
sáng tạo, cần có các phòng thí nghiệm ngang tầm quốc tế.
Từ những chiến lược này sẽ lấy đó làm nền tảng xây dựng các quy
hoạch và kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ như việc quy hoạch
mạng lưới các viện nghiên cứu, các khu công nghệ cáo, kế hoạch đào tạo cán
bộ khoa học kỹ thuật, quy hoạch các trường đào tạo nhân tài. Kế hoạch phải
được xây dựng theo một cơ chế mới, sao cho các đề án nghiên cứu và ứng
dụng công nghệ phải xuất phát từ những nhu cầu thực của phát triển công
nghiệp, dịch vụ, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhu cầu cho phát triển
tương lai cũng là một nhân tố quan trọng trong kế hoạch hoá để đảm bảo phát
triển bền vững, lâu dài của khoa học và công nghệ nước ta.
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ là chỗ dựa vững chắc cho
22
việc xây dựng chính sách khoa học và công nghệ. Chẳng hạn như việc xây
dựng chính sách đầu tư và khuyến khích nghiên cứu theo hướng trọng điểm
ưu tiên, chính sách nghiên cứu khoa học, chính sách phát triển công nghệ,
chính sách hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, chính sách quản lý
khoa học và công nghệ đều không thể tách rời khỏi phương hướng chủ đạo
của chiến lược phát triển khoa học và công nghệ. Chiến lược khoa học và
công nghệ, cần phải điều chỉnh có hiệu quả hệ thống nghiên cứu cơ sở và
nghiên cứu ứng dụng với triển khai công nghệ khai thác dài hạn và ngắn hạn;
bố trí hợp lý nhân lực, vật lực, tài lực và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phục
vụ đắc lực cho xây dựng kinh tế và sự phát triển của bản thân khoa học công
nghệ.
1.2.2.2. Xây dựng pháp luật trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Mọi chủ trương, chính sách về phát triển khoa học và công nghệ đều
được thể hiện dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật để đi vào thực tiễn.
Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy và các chính sách,
chế độ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ từ trung ương
đến địa phương. Quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của nước ta
được căn cứ vào Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội
thông qua ngày 12/11/1996. Mỗi cấp quản lý nhà nước đều có trách nhiệm
nhất định trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản ban
hành ở cấp dưới là sự cụ thể hoá các văn bản của cơ quan cấp trên.
1.2.2.3. Quản lý hoạt động nghiên cứu triển khai
Mỗi loại nghiên cứu có những nét đặc thù trong phương pháp tiến
hành, mục tiêu định trước, mức độ đầu tư, mức độ rủi ro hay sắc xuất thành
công, thất bại khác nhau nên đòi hỏi có những biện pháp quản lý khác nhau.
Không có những biện pháp, chính sách chung cho tất cả các loại hình nghiên
cứu, thậm chí các giai đoạn khác nhau của một công trình nghiên cứu lớn. Vì
thế công tác quản lý cũng cần phân biệt rõ các loại nghiên cứu mà mình quản
lý để có phương pháp quản lý thích hợp.
Ở nước ta hiện nay quản lý hoạt động nghiên cứu – triển khai theo các
bước sau: (1) xây dựng nhiệm vụ (2) trình duyệt nhiệm vụ (3) tổ chức chỉ đạo
thực hiện (4) nghiệm thu kết quả (5) công bố và sử dụng kết quả nghiên cứu.
Mục tiêu của quản lý hoạt động nghiên cứu và triển khai là phải nhằm nâng
23
cao hiệu quả của các nguồn đầu tư cho khoa học, đảm bảo kết quả nghiên cứu
sau khi thu được ứng dụng trong thực tiễn sản xuất và đời sống. Muốn vậy
việc hình thành các nhiệm vụ nghiên cứu ban đầu có vị trí vô cùng quan trọng
trong toàn bộ quá trình quản lý hoạt động nghiên cứu – triển khai.
1.2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoa học và công nghệ
Như một chức năng tất yếu của quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ, việc thanh tra kiểm tra để đảm bảo rằng các cơ quan, các đối tượng
quản lý thực hiện đúng những quy định đề ra bởi chủ thể quản lý là một công
việc thường xuyên của các cơ quan quản lý. Việc phát hiện ra những sai phạm
kịp thời sẽ giúp cơ quan quản lý nhanh chóng điêù chỉnh các quyết định, ngăn
chặn những thiệt hại có thể xảy ra đồng thời góp phần giáo dục, cảnh báo
những trường hợp sai phạm tương tự có thể xảy ra trong hệ thống quản lý. Về
mặt nào đó thanh tra kiểm tra là một cơ chế phản hồi ngược trong hệ thống
quản lý khoa học và công nghệ.
1.2.2.5. Quản lý tác hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Mở rộng hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu của phát triển khoa học và
công nghệ. Các nước đang phát triển cần có sự quản lý các mối quan hệ này
phục vụ cho mục tiêu chiên lược và chính sách khoa học và công nghệ. Trọng
tâm của hợp tác quốc tế là vấn đề tạo lập được một môi trường thông thoáng
cho sự giao lưu khoa học và công nghệ phù hợp với yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một mặt tranh thủ nắm bắt những kiến thức
và công nghệ tiên tiến của thế giới thông qua trao đổi, học tập kinh nghiệp của
nước ngoài. Mặt khác chủ động kế thừa những thành tựu đó để tạo thế nâng
cao tiềm lực khoa học và công nghệ trong nước đi tắt đón đầu vươn lên giành
vị thế độc lập tự chủ tránh bị lệ thuộc một chiều vào bên ngoài.
1.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ
1.3.1. Thời kỳ 1958 - 1986
Ngày 29/4/1958 kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá 1, đã quyết nghị thành lập
Uỷ ban Khoa học Nhà nước (UBKHNN) để giúp Chính phủ xây dựng và phát
triển khoa học và kỹ thuật.
Ngày 4/3/1959, thừa uỷ quyền của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ
ký sắc lệnh số 016/SL chính thức thành lập UBKHNN. Theo sắc lệnh