Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Thanh tra và vấn đề phòng, chống tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.47 KB, 117 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***


Phạm Thị Huệ



Thanh tra và vấn đề phòng chống tham
nhũng




LUẬN VĂN THẠC SĨ






Hà nội – 2006

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 9


KHÁI LUẬN VỀ THAM NHŨNG VÀ VAI TRÕ CỦA CÔNG TÁC THANH TRA
ĐỐI VỚI VIỆC PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG 9
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và nguyên nhân của tham nhũng 9
1.1.1. Khái niệm tham nhũng 9
1.1.2. Nguồn gốc và nguyên nhân của tham nhũng 13
1.1.3. Tác hại của tham nhũng 19
1.1.4. Những đặc điểm của tệ tham nhũng trong giai đoạn hiện nay ở Việt nam. 23
1.1.5. Tham nhũng và chống tham nhũng ở một số nước trên thế giới 27
1.2. Vai trò của công tác thanh tra trong phòng, chống tham nhũng 32
1. 2.1. Vị trí, vai trò, mục đích của công tác Thanh tra đối với quản lý nhà nước. 32
1.2.3. Vai trò của công tác thanh tra đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. 41
Chương 2 44
CÔNG TÁC THANH TRA ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH PHÕNG, CHỐNG
THAM NHŨNG QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ 44
2.1. Kết quả công tác thanh tra phòng, chống tham nhũng qua các giai đoạn lịch sử. 44
2.1.1. Giai đoạn kháng chiến, kiến quốc (1945 -1954). 44
2.1.2. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975) 50
2.1.3. Giai đoạn từ khi thống nhất đất nước đến trước khi có Pháp lệnh Thanh tra
(1975-1990). 57
2.1.4. Giai đoạn đổi mới đất nước (từ khi có Pháp lệnh thanh tra 1990 đến nay). 62
2.3. Những khó khăn, vướng mắc, cản trở làm giảm hiệu quả hoạt động thanh tra
chống tham nhũng. 76
2.3.1. Nhận thức về hoạt động thanh tra còn hạn chế, chưa phù hợp, với chức năng,
nhiệm vụ của công tác này. 76
2.3.2. Hạn chế về mặt thể chế 78
2.3.3. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng còn hạn chế. 79
Chương 3 84
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC THANH TRA NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ

CUỘC ĐẤU TRANH PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG 84
3.1. Quan điểm phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay 84
3.1.1. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị
và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Ðảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh 84
3.1.2. Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng vừa tích cực, chủ động phòng ngừa
vừa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. 85
3.1.3. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài;
phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và
có trọng tâm, trọng điểm. 86
3.1.4. Chống tham nhũng phải gắn với việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ, xây
dựng rõ chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức. 87

2
3.1.5. Chống tham nhũng phải gắn liền với mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, kế
thừa truyền thống tốt đẹp của dân dộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài. 90
3.2. Giải pháp và kiến nghị đổi mới công tác thanh tra nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng. 92
3.2.1. Đổi mới nhận thức và quan điểm đối với hoạt động thanh tra 92
3.2.2. Hoàn thiện thể chế thanh tra 94
3.2.3. Kiện toàn tổ chức, hoạt động của các cơ quan Thanh tra 98
3.2.4. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ, thanh tra
viên nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. 101
3.2.5. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan kiểm toán,
điều tra, viện kiểm sát trong phòng, chống tham nhũng 104
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm qua, tham nhũng đã trở thành một vấn đề nhức nhối trong
xã hội Việt nam. Tham nhũng trong bộ máy nhà nước ngày càng có chiều
hướng gia tăng và nghiêm trọng tới mức trở thành yếu tố kìm hãm lớn nhất
đối với hiệu quả quản lý nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII
và IX đều khẳng định: tham nhũng cùng với buôn lậu là một trong 4 nguy cơ
cản trở công cuộc đổi mới; tham nhũng là “giặc nội xâm”, là quốc nạn. Đánh
giá về tình hình tham nhũng thời gian gần đây, Nghị quyết Đại hội Đảng IX
đã nhận định: “tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống
ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham
nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức
kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta”. Nghị quyết Đại
hội Đảng X tiếp tục khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”.
1.1. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trở thành mối quan tâm
đặc biệt đối với bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển và ổn định. Ở Việt
nam, cuộc chiến chống tham nhũng đã đạt được những kết quả nhất định kể từ
khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 240/QĐ-HĐBT ngày
26/06/1990 về đấu tranh chống tham nhũng. Nhưng theo nhận định của các cơ
quan chuyên môn và các chuyên gia thì cuộc đấu tranh này chưa thật sự có
chuyển biến tích cực, vì vậy tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả và
vẫn là một nhức nhối của xã hội. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay, tham nhũng đã phổ biến ở
nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, với thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo

2
quyệt và đặc biệt là quy mô các vụ tham nhũng ngày càng lớn, tính chất ngày

càng nghiêm trọng. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc
chiến chống tham nhũng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, phải phát huy sức
mạnh tổng hợp của nhân dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng bằng nhiều giải pháp tích cực, kiên quyết và triệt để, các giải pháp phải
mang tính đồng bộ và theo lộ trình nhất định.
Trong bối cảnh đó, với việc Việt nam ký kết Công ước của Liên hợp
quốc về chống tham nhũng; tham gia Chương trình hành động chống tham
nhũng khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Chương trình hành động chống
tham nhũng trong khuôn khổ APEC; ban hành Luật phòng, chống tham nhũng
năm 2005 càng khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng.
1.2. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện
nay, những biện pháp mang tính phòng ngừa là chủ yếu và có ý nghĩa
quan trọng. Bởi lẽ, những biện pháp này nhằm mục đích thủ tiêu những
nguyên nhân và điều kiện sản sinh ra tham nhũng. Do vậy, các biện pháp
phòng ngừa rất được chú trọng áp dụng trong cuộc đấu tranh này như: Các
biện pháp quản lý; pháp luật; biện pháp tổ chức…trong đó có hoạt động thanh
tra, kiểm tra, giám sát. Hoạt động thanh tra của hệ thống thanh tra hành chính,
thanh tra chuyên ngành sẽ phát hiện kịp thời những thiếu sót, sơ hở trong cơ
chế quản lý nhà nước, từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
là biện pháp phòng ngừa nạn tham nhũng hữu hiệu nhất ở nước ta hiện nay.
Chính vì vai trò quan trọng của công tác thanh tra trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng nên trong Luật phòng, chống tham nhũng đã quy
định việc thành lập đơn vị chuyên trách chống tham nhũng trong Thanh tra
Chính phủ và xác định Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm “Tổ chức, chỉ

3
đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật
về phòng, chống tham nhũng …” và “xây dựng hệ thống dữ liệu chung về
phòng, chống tham nhũng” (Điều 76 Luật phòng, chống tham nhũng năm

2005). Luật Thanh tra năm 2004 xác định: phòng, chống tham nhũng là một
trong những nhiệm vụ, chức năng quan trọng của các tổ chức thanh tra.
Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu để tài: “Thanh tra và vấn đề
phòng, chống tham nhũng” là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn, góp phần
tăng cường công tác thanh tra nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tham nhũng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng đặc biệt từ khi
Đảng và Nhà nước ta xác định tham nhũng là nguy cơ đối với sự tồn vong của
chế độ và đấu tranh chống tham nhũng, ngăn chặn và xoá bỏ tệ tham nhũng là
một trong những vấn đề nóng hổi hiện nay.
Đặc biệt quá trình nghiên cứu về tham nhũng và phòng chống tham
nhũng gắn bó chặt chẽ với quá trình xây dựng những đạo luật liên quan đến
lĩnh vực này như: Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo, Pháp lệnh Phòng, chống tham
nhũng; Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Luật Thanh tra; Luật Khiếu nại, tố cáo,
Luật Phòng, chống tham nhũng trong đó có quy định giao nhiệm vụ đấu tranh
phòng, chống tham nhũng là một trong những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu
của ngành thanh tra.
Quá trình nghiên cứu cũng như qui định của các văn bản pháp luật nói
trên mặc dù đã thể hiện một sự tiến bộ nhất định nhưng vẫn còn đặt ra nhiều
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Có rất nhiều công trình khoa học, tác phẩm nghiên cứu về tham nhũng

4
đã được công bố như: Luận án “Tham nhũng ở nước ta hiện nay và biện pháp
khắc phục” của Phó tiến sĩ triết học Lê Văn Cương, năm 1993; Đề tài nghiên
cứu khoa học “Thanh tra với cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay” do
Thanh tra nhà nước (nay là Thanh tra chính phủ) tiến hành năm 1995; Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ về tham nhũng do Ban Nội chính trung ương

Đảng chủ trì, năm 1997; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Tham nhũng và
phòng chống tham nhũng trong xây dựng cơ bản” do Bộ Công an chủ trì năm
2000; Luận văn tiến sĩ luật “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu
tranh chống tội phạm tham nhũng” của Trần Công Phàn, năm 2002; Dự án
“Nghiên cứu đấu tranh chống tham nhũng” của Ban Nội chính trung ương do
SIDA tài trợ kết thúc năm 2005; Hiện nay Thanh tra Chính phủ đang chủ trì
nghiên cứu đề tài độc lập cấp Nhà nước về “Luận cứ khoa học cho việc xây
dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham
nhũng ở Việt Nam đến năm 2020”; các bài nghiên cứu, bài viết của các nhà
báo, chuyên gia về lĩnh vực này như: “Tham nhũng và chống tham nhũng ở
nước ta”, Vũ Xuân Kiều, Tạp chí Cộng sản số 12-1996; “Tham nhũng: nhận
diện từ các khía cạnh pháp lý và cơ sở pháp lý mới” của GS,TS Đào Trí Úc,
Viện trưởng Viện NN&PL đăng trên Tạp chí Cộng sản số 2-1997; Phòng,
chống tham nhũng trong tình hình hiện nay”, Vũ Quốc Hùng, Tạp chí Xây
dựng Đảng số 9-2004;…
Các công trình, bài cáo nêu trên đã nghiên cứu những khía cạnh khác
nhau về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên cơ sở nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tham nhũng tại Việt nam trong giai đoạn
hiên nay. Nhưng có thể nói, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách tổng quát vai trò của công tác thanh tra đối với cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Việc nghiên cứu Luận văn này được tiến hành trong khi Việt nam đang

5
xây dựng những văn bản hướng dẫn thi hành Luật phòng, chống tham nhũng
và Luật Thanh tra nhằm tạo ra một cơ chế phòng ngừa tham nhũng có hiệu
quả trong bối cảnh Việt nam đang chuẩn bị gia nhập Công ước Chống tham
nhũng của Liên hợp quốc. Trên cơ sở kế thừa những kết quản nghiên cứu và
tổng kết vai trò của công tác thanh tra với đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trên thế giới và trong lịch sử Việt nam, luận văn đã tiếp cận và tập trung vào

một số vấn đề thực tiễn để khái quát làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như thực
tiễn, từ đó kiến nghị những giải pháp tăng cường công tác thanh tra nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện
nay ở Việt nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và phân tích thực tiễn,
luận văn nêu bật vai trò của công tác thanh tra trong phòng ngừa, phát hiện và
bước đầu xử lý tệ nạn tham nhũng. Từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm tăng
cường công tác thanh tra góp phần hữu hiệu nâng cao hiệu quả trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là sự hình thành và phát triển của
tham nhũng để tìm ra nguyên nhân, bản chất của tham nhũng; các quan niệm
khác nhau về tham nhũng; tác hại mà tham nhũng gây ra đối với sự ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội; những đặc trưng của tham nhũng trong nền kinh tế
thị trường ở Việt nam hiện nay.
- Luận văn nghiên cứu những vẫn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
công tác thanh tra trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng bao gồm: những
vẫn đề lý luận về vai trò của thanh tra đối với quản lý nhà nước; quan điểm
của Đảng, Nhà nước và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của công tác

6
thanh tra trong quản lý nhà nước nói chung và trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng nói riêng. Những vấn đề thực tiễn đặt ra qua hoạt động thanh tra
đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lịch sử phát triển của ngành từ khi
thành lập đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong việc nghiên cứu hoạt
động thanh tra kinh tế - xã hội; chống tham nhũng; giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong các giai đoạn lịch sử đặc biệt là trong khoảng thời gian từ khi Pháp
lệnh Thanh tra ra đời đến khi có Luật thanh tra. Từ đó khẳng định vai trò của

công tác thanh tra là công cụ phòng, chống tham nhũng hữu hiệu.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Việc nghiên cứu luận văn này được dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ
Chí Minh về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vài trò của công tác thanh tra trong quản lý Nhà nước nói chung và
phòng, chống tham nhũng nói riêng; xem xét công tác thanh tra chống phòng,
tham nhũng trên quan điểm lịch sử cụ thể, qua từng thời kỳ của cách mạng
Việt nam.
-Việc nghiên cứu đề tài của luận văn dựa trên phương pháp duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về nhà nước và pháp luật, đồng thời đứng trên
quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
- Bên cạnh đó, tác giả đã vận dụng các phương pháp, so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn để xem xét, giải quyết các vấn đề
cụ tể về lý luận và thực tiễn.

7
6. Ý nghĩa của luận văn
Trong điều kiện tham nhũng đang phát triển tràn lan với mức độ ngày
càng nghiêm trọng như hiện nay, việc tìm ra nguyên nhân và đưa ra những đề
xuất kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng
thông qua thanh tra (một lĩnh vực hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng trong
phòng ngừa và chống tham nhũng) là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn. Mặt khác
việc nghiên cứu đề tài còn góp phần làm rõ những vẫn đề lý luận để xem xét,
đánh giá những những mặt tích cực cũng như những hạn chế của công tác thanh
tra trong phòng, chống tham nhũng hiện nay, trên cơ sở đó xác định phương
hướng đổi mới nâng cao vai trò của hoạt động này trong thời gian tới.
7. Kết quả nghiên cứu
Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tham nhũng và

thanh tra nhưng thông qua việc tiếp cận, nghiên cứu cụ thể, trực tiếp và toàn
diện của luận văn này, tác giả mong muốn đưa ra những kết luận khoa học để
khẳng định rõ hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của công tác
thanh tra với đấu tranh phòng, chống tham nhũng; đánh giá một cách khách
quan, toàn diện những quy định pháp luật và đóng góp thực tế của thanh tra
trong thời gian qua để đề xuất những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung các quy
định pháp luật nhằm phát huy hơn nữa vai trò của hoạt động thanh tra trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng đầy cam go hiện nay.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương thể hiện các nội dung chính sau:
Chương I. Khái luận về tham nhũng và vai trò của công tác thanh tra
trong phòng, chống tham nhũng.

8
Chương II. Công tác thanh tra đấu tranh phòng, chống tham nhũng qua
các giai đoạn lịch sử.
Chương III. Đổi mới nhằm tăng cường công tác thanh tra góp phần
nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng


9
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ THAM NHŨNG VÀ VAI TRÕ CỦA CÔNG TÁC
THANH TRA ĐỐI VỚI VIỆC PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và nguyên nhân của tham nhũng
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một phạm trù lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của
Nhà nước và tồn tại song song cùng với sự phát triển của Nhà nước. Lịch sử
nhà nước từ khi xuất hiện đến nay cho thấy, tham nhũng như một khuyết tật

bẩm sinh của “quyền lực”, là loại tội phạm cực kỳ nguy hiểm bởi tính chất và
hậu quả mà nó gây ra. Có thể nói, tham nhũng có từ rất lâu và cũng có rất
nhiều cách hiểu về khái niệm này xuất phát từ điều kiện, đặc thù riêng của
mỗi quốc gia và phương pháp tiếp cận khác nhau của các nhà nghiên cứu.
Từ điển Bách khoa của Brue Khaus Cộng hoà Liên Bang Đức nêu khái
niệm: “Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy
ra đối với công chức có quyền hành”
[21,10]
. Người Áo cho rằng: “Tham nhũng
là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột”
[21,10]
. Các chuyên gia của Ngân Hàng
thế giới và Tổ chức minh bạch quốc tế lại cho rằng: “Tham nhũng có thể được
định nghĩa như là sự làm dụng quyền lực công để mưu cầu lợi ích cá nhân hay
một lợi ích của một nhóm người mà ta phải trung thành với nó”
[45,28]
.
Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế
chống tham nhũng (năm 1969) thì tham nhũng được định nghĩa đơn giản,
trong một phạm vi hẹp, đó là "sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi
riêng”. Còn theo định nghĩa của Ban nghiên cứu của Hội đồng châu Âu thì
khái niệm tham nhũng đã có sự phát triển rộng hơn, bao gồm hành vi hối lộ
và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực hiện một
trách nhiệm nào đó trong khu vực nhà nước hoặc tư nhân nhưng đã vi phạm

10
trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi bất hợp pháp nào cho cá nhân
hoặc cho người khác
[21,108].


Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi lợi dụng
quyền hành để tham ô và hạch sách, nhũng nhiễu dân”
[43, 1523]
. Quan niệm này
xuất phát từ chính bản thân cụm từ “tham nhũng” gồm hai yếu tố: Tham và
nhũng. Tham là hám lợi, tư lợi, vụ lợi. Nhũng là lợi dụng quyền hành, chức
trách được giao để sách nhiễu, nhũng nhiễu nhằm làm thoả mãn lòng tham.
Pháp lệnh chống Tham nhũng năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm
2000) quy định “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật
vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân,
xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”
[15,1]
. Cũng theo quy
định của Pháp lệnh này, tham nhũng là hành vi xảy ra trong khu vực công,
khu vực nhà nước, đồng thời Pháp lệnh cũng liệt kê rõ các hành vi tham
nhũng, bao gồm: tham ô, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi;
lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
giả mạo trong công tác vì vụ lợi. Những hành vi này cũng chính là các loại tội
về tham nhũng đã được Bộ luật hình sự quy định. Luật Phòng, chống tham
nhũng của Việt nam được Quốc hội Khoá 11 thông qua tại kỳ họp thứ 8,
(tháng 11/2005) quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”
[7,1]
. Đồng thời, xác
định phạm vi điều chỉnh là hành vi tham nhũng của những người có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị thuộc khu vực
nhà nước (tương tự như Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998).


11
Có thể nhận thấy, quan niệm về tham nhũng ở các nước trên thế giới
không giống nhau tuỳ thuộc vào truyền thống lịch sử, yếu tố văn hoá, điều
kiện kinh tế - xã hội, tình hình tham nhũng và phương pháp tiếp cận. Nhìn
chung, tồn tại hai loại khái niệm phổ biến nhất về tham nhũng:
- Khái niệm tham nhũng được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm hành vi
của mọi chủ thể có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn
và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể
của hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, công chức, viên chức hoặc người
khác thuộc khu vực nhà nước hoặc khu vực tư nhân.
- Theo nghĩa hẹp thì tham nhũng được hiểu là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó vì vụ lợi, tức là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn,
tài sản của Nhà nước.
Quan niệm thứ hai được thừa nhận rộng rãi hơn cả và là khái niệm
chính thống được pháp luật Việt Nam quy định (trong Luật phòng, chống
tham nhũng). Trong luận văn này, tác giả cũng tiếp cận và phân tích tham
nhũng dưới góc độ này nhằm nêu bật được vai trò của thanh tra với tư cách là
một thiết chế quyền lực công đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, việc pháp luật của Việt nam quy định giới hạn phạm vi hẹp
như vậy là để nhằm bảo đảm cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng tập trung
vào những hành vi tham nhũng xảy ra phổ biến nhất, bảo đảm tính trọng tâm,
trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả trong đấu tranh chống tham nhũng. Đồng
thời bảo đảm cho khu vực tư phát triển, khuyến khích đầu tư nước ngoài với
việc bảo đảm các quyền tài sản của công dân, quyền bí mật trong kinh doanh,
quyền cạnh tranh lành mạnh của doanh nghiệp.

12
Với quan niệm này, tham nhũng được coi là hành vi của người có

chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, nhận
hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi. Theo đó, tham nhũng
bao gồm ba yếu tố chính:
- Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ quyền hạn;
- Hành vi tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hoặc
không thực hiện việc gì đó thuộc phạm vi trách nhiệm của mình;
- Mục đích là thu lợi cho bản thân hoặc cho người có liên quan đến bản
thân mình.
Hành vi tham nhũng thường được biểu hiện bằng việc các công chức
nhà nước cố ý làm trái hoặc không thực hiện các quy định pháp luật trong
chấp hành chức trách, công vụ được giao. Pháp luật các nước đều quy định
tham nhũng là loại tội phạm hình sự với nhiều tội danh khác nhau, biểu hiện
tập trung và điển hình nhất là ở loại tội phạm tham ô và nhận hối lộ.
Có nhiều cách phân chia tham nhũng thành các loại dựa theo các tiêu
chí khác nhau: dựa trên tiêu chí mức độ, có thể phân chia tham nhũng thành:
tham nhũng lớn và tham nhũng nhỏ. Tham nhũng lớn thường xuất phát từ
những quyết định quan trọng của cơ quan nhà nước và nó liên quan đến việc
sử dụng những khoản công quỹ lớn của Nhà nước. Số lượng những vụ tham
nhũng lớn không nhiều nhưng nó gây thiệt hại lớn về tài sản và những ảnh
hưởng không tốt về mặt chính trị. Tham nhũng nhỏ là những hành vi của công
chức có chức vụ không cao trong bộ máy chính quyền với những lợi ích thu
được không lớn, tuy không gây thiệt hại nhiều về tài sản nhưng nó lại diễn ra
thường xuyên, phổ biến và ảnh hưởng đến phần lớn cư dân, những người có
thu nhập khá thấp vì thế nó cũng làm xấu đi đáng kể tính phục vụ nhân dân
của cơ quan công quyền, mặt khác nó còn làm méo mó hoạt động của cơ quan

13
nhà nước. Theo mức độ hậu quả mà nó gây ra, tham nhũng được phân loại
thành tham nhũng nghiêm trọng và tham nhũng ít nghiêm trọng, dựa theo đối
tượng tham nhũng được phân loại thành tham nhũng cấp cao và tham nhũng

cấp thấp…
1.1.2. Nguồn gốc và nguyên nhân của tham nhũng
Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và nguyên nhân của
tham nhũng, và thực tế cũng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tệ nạn tham
nhũng, có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân
trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân phổ biến và nguyên nhân đặc
thù. Trên cơ sở nghiên cứu hành vi tham nhũng gắn liền với sự ra đời và phát
triển của Nhà nước, trong luận văn này, tác giả tiếp cận nguồn gốc và nguyên
nhân của tham nhũng ở hai mặt chủ quan và khách quan như sau:
1.1.2.1. Nguyên nhân khách quan.
a) Tham nhũng là căn bệnh của xã hội, xuất hiện từ khi có giai cấp
Tham nhũng là một phạm trù lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của
Nhà nước và tồn tại song song cũng với sự phát triển của Nhà nước. Trong xã
hội cộng sản nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật,
quyền lực tồn tại trong xã hội để quản lý các công việc của xã hội là quyền
lực xã hội, nó chưa tách khỏi xã hội mà gắn liền với xã hội, hoà nhập với xã
hội. Vì cơ sở kinh tế của xã hội là chế độ công hữu, không ai có tài sản riêng,
mọi người bình đẳng về địa vị và quyền lợi kinh tế, họ cùng nhau quản lý tài
sản công, do đó trong xã hội không có tình trạng tham nhũng. Khi trong xã
hội bắt đầu có sự phân chia thành các giai cấp có lợi ích đối lập nhau, luôn
đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình. Từ đó, đã xuất hiện nhà nước, với tư
cách là cơ quan quyền lực nhằm điều hoà những lợi ích khách quan, thậm chí
đối lập nhau giữa cá nhân với cá nhân, giữa tập đoàn người này với tập đoàn

14
người khác, giữa cá nhân hoặc tập đoàn người và xã hội. Quyền lực bao giờ
cũng được thực thi thông qua con người cụ thể và một khi những con người
cụ thể đó sử dụng quyền lực được nhà nước trao cho mình để vụ lợi thì hành
vi đó là hành vi tham nhũng. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước
là có sự xuất hiện của tham nhũng.

Tuy nhiên, không phải mọi loại “quyền lực” ở mọi hình thái kinh tế –
xã hội đều là nguồn gốc làm phát sinh tham nhũng mà chỉ có quyền lực ở xã
hội có giai cấp, có nhà nước mới là nguồn gốc làm phát sinh tham nhũng.
Nhưng không phải chỉ có quyền lực nhà nước mới làm phát sinh tham nhũng,
mà cả các loại quyền lực công khác như quyền lực của tổ chức chính trị – xã
hội, của một tập thể hay cộng đồng nào đó cũng có thể làm phát sinh tham
nhũng (trong đó, chủ yếu, thường xuyên và phổ biến nhất vẫn là quyền lực
nhà nước). Nói một cách khác, ở đâu tồn tại quyền lực công cộng (trừ quyền
lực công cộng dưới chế độ cộng sản nguyên thủy), có những người giữ những
chức vụ, quyền hạn nhất định, nhân danh quyền lực ấy thì ở đó có nguy cơ
xuất hiện tham nhũng. Như vậy, tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn liền
với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước,
quyền lực nhà nước và các quyền lực công cộng khác.
b) Với Việt nam, tham nhũng nảy sinh do Việt nam là nước đang phát
triển, đang trong quá trình chuyển đổi, trình độ quản lý xã hội còn yếu kém,
quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo đã tạo điều kiện sơ hở cho các hành vi, hiện
tượng tham nhũng, tiêu cực và các tội phạm khác có điều kiện phát triển.
Hệ thống pháp luật của nhà nước ta còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ,
chưa hoàn thiện, chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực
tiễn của đất nước. Mặc dù trong thời gian qua Nhà nước ta đã có nhiều cố
gắng, tiến hành đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực lập pháp,

15
hành pháp, tư pháp và đã thu được những kết quả nhất định. Nhưng cũng phải
nhận thấy rằng, chúng ta vẫn còn nhiều bất cập trên các lĩnh vực này: về cơ
bản chúng ta vẫn chưa hoàn toàn thoát ra khỏi cơ chế quản lý hành chính tập
trung quan liêu, trình độ quản lý vẫn còn ở mức thấp. Những tồn tại này là
điều kiện thuận lợi để nạn tham nhũng trở nên phổ biến trong mọi lĩnh vực, ở
mọi ngành, mọi cấp
Công tác quản lý điều hành của Nhà nước về kinh tế - xã hội chưa chặt

chẽ còn nhiều hạn chế, sơ hở, dễ bị lợi dụng để thực hiện hành vi tư lợi cá
nhân. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu quả,
năng lực quản lý điều hành đất nước còn nhiều hạn chế. Trong quản lý hành
chính, vẫn còn nhiều những quy định thiếu thực tế và không cần thiết; định
nghĩa và tiêu chuẩn áp dụng không rõ ràng trong nội dung các quy định, thể
chế pháp luật; thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà là môi trường để nạn
nhũng nhiễu, hạch sách dân chúng nảy sinh trong cán bộ công chức, tâm lý
thích ăn đút lót nhằm bù đắp thu nhập vốn rất thấp của cán bộ, công chức vẫn
thịnh hành.
c) Do tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường bên cạnh tính tích cực cũng là một nguyên nhân
làm xuất hiện tham nhũng và có thể làm cho tình trạng tham nhũng đã có trở
nên trầm trọng hơn. Qua gần hai mươi năm phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tích đã đạt được, chúng
ta cũng phải đối mặt mới những tiêu cực, hạn chế là mặt trái của cơ chế thị
trường. Đó là sự cạnh tranh khốc liệt, những khoản lợi nhuận khổng lồ mà sự
thông thoáng của cơ chế thị trường có thể mang lại đã hình thành tâm lý làm
giầu tối đa của các nhà kinh doanh. Sức hấp dẫn của đồng tiền làm cho người
sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi giá, và họ

16
luôn tìm cách hối lộ, đút lót, móc ngoặc với công chức nhà nước để tạo lợi thế
trong kinh doanh. Cơ chế kiểm soát tài chính lại chưa đủ mạnh để có thể hạn
chế những mối liên kết này, do vậy, những lỗ hổng trong cơ chế, chính sách
đã bị lợi dụng tối đa để thu lợi bất chính.
Trong bối cảnh đó, cơ chế quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường
vẫn còn mang nặng dấu ấn sự can thiệp của nhà nước. Những Tổng công ty,
doanh nghiệp nhà nước với những ưu đãi về thuế và nhiều ưu đãi khác vẫn chi
phối thu nhập quốc dân. Những yếu tố này đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế. Mặt khác, thủ tục cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, vay

vốn, v.v., rườm rà, nhiều thủ tục; cơ chế quản lý tài chính công, cấp phát ngân
sách, quy tắc đấu thầu không minh bạch đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho
tham nhũng phát triển. Rất nhiều cơ hội mờ ám và cơ hội gia tăng các khoản
lợi bất chính, nhưng khi hành vi tham nhũng bị phát hiện thì cơ chế áp dụng
các chế tài lại chưa đủ mạnh để trừng trị, răn đe. Xu thế toàn cầu hoá về kinh
tế đang diễn ra sôi động với việc trao đổi thương mại và sự luân chuyển các
nguồn tài chính và “rửa tiền” cũng là yếu tố làm nghiêm trọng thêm tình trạng
tham nhũng.
Từ những phân tích trên có thể thấy, cùng với sự phát triển của các
hình thái nhà nước thì kinh tế thị trường và sự can thiệp quá mức của nhà
nước là những tiền đề khách quan làm cho nạn tham nhũng phát triển.
1.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan.
Tham nhũng là hành vi chiếm đoạt tài sản của công làm của riêng
mình, động cơ, mục đích của tham nhũng là vụ lợi. Con người sống và hành
động theo những nhu cầu và mục đích của mình, sống và hành động theo lợi
ích. Lợi ích kinh tế là động lực cơ bản, là mục tiêu hoạt động của con người
và là nguồn gốc sự phát triển của xã hội.

17
Việc thực hiện các lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở thu nhập.
Thu nhập là thước đo, là hình thức biểu hiện mức độ thực hiện các lợi ích
kinh tế. Nhìn từ góc độ kinh tế chúng ta có thể nói rằng, tham nhũng là phần
thu nhập không hợp pháp của các nhân viên trong bộ máy nhà nước dưới các
hình thức biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, quà tặng do lạm dụng chức vụ,
quyền hạn, vị trí trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai, bất
cứ công chức nào cũng có thể tham nhũng được. Thực tế cho thấy, những
người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy công quyền, nhất là những người
giữ vị trí quan trọng liên quan đến tài chính, tổ chức là những người có nhiều
cơ hội nhất để tham nhũng. Họ có thể bị người khác lợi dụng để câu kết hoặc
tự bản thân họ do không thắng được thói ích kỷ, cá nhân đã lợi dụng, lạm

dụng quyền lực, địa vị và chức vụ đó để chiếm đoạt dưới mọi hình thức giá trị
tiền bạc, của cải của Nhà nước, xã hội và người khác nhằm thoả mãn nhu cầu
lợi ích của bản thân. Nói cách khác, nguy cơ xảy ra tham nhũng luôn tiềm
tàng trong những người có chức vụ, quyền hạn nếu như họ không thắng được
cái “tôi” trong người họ, nếu không đủ bản lĩnh, phẩm chất, thì khi có điều
kiện họ sẽ dễ lợi dụng ưu thế để giành lấy lợi ích cho riêng mình. Như vậy,
vấn đề lợi ích là yếu tố chủ quan dẫn đến tham nhũng. Khi yếu tố lợi ích kết
hợp với sự tham lam, tha hoá, biến chất, xuống cấp về đạo đức của những
người có chức vụ, quyền hạn thì khả năng xảy ra tham nhũng là rất cao.
Trong thời kỳ đổi mới ở nước ta, trước tác động của mặt trái nền kinh
tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bị thói tham lam, tính ích kỷ,
cá nhân chi phối, họ không cưỡng lại được sức hút to lớn của những lợi ích
mờ ám dẫn đến vi phạm pháp luật, tham nhũng. Đạo đức “cần, kiệm, liêm,
chính” nhiều khi bị chủ nghĩa thực dụng, cá nhân lấn át.
Chế độ tiền lương tuy đã có bước cải cách nhưng vẫn chưa bảo đảm
nhu cầu cuộc sống của nhiều cán bộ, công chức, khiến họ luôn có nhu cầu

18
kiếm thêm để bù đắp thu nhập thấp, do vậy dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng
khi có điều kiện, cơ hội. Tiền lương thấp cộng với áp lực của các nhu cầu sinh
hoạt của bản thân, của con cái, gia đình trong nền kinh tế thị trường đã khiến
cho một số cán bộ, công chức không giữ được mình nên đã tham nhũng.
Trong khi cơ chế chính sách không được quy định cụ thể, rõ ràng, minh
bạch, chế độ tiền lương chưa thoả đáng thì vẫn còn tồn tại những suy nghĩ
“phải tin tưởng vào cán bộ” của mình chứ, họ không xấu xa, không lợi dụng
những sơ hở của chính sách, pháp luật để tham nhũng đâu. Đây chính là sai
lầm làm cho tham nhũng phát triển.
Nghị quyết Đại hội Đảng Toàn quốc lần X chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra

nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ
năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng còn
thiếu tính thuyết phục. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề
quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều
mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.”. Tháng
8/2006, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa X tiếp tục khẳng
định: “Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư
tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu
trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”
Tóm lại, tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác
nhau. Chừng nào còn Nhà nước và các hình thức quyền lực chính trị bị tha
hoá bởi thói tham lam, ích kỷ thì còn có thể xảy ra tham nhũng.

19
1.1.3. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng là căn bệnh đồng hành trong hoạt động của mọi nhà nước,
đó là biểu hiện của sự “tha hoá quyền lực nhà nước”, “ là một loại vi – rút có
khả năng làm què quặt các chính phủ”
[38,15]
. Tham nhũng xảy ra ở tất cả các
nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, có mặt trong mọi lĩnh
vực liên quan đến hoạt động quản lý xã hội. Tuỳ từng nơi, từng thời kỳ cụ thể,
nạn tham nhũng hoành hành ở các mức độ khác nhau, nhưng luôn mang lại
những hậu quả tiêu cực về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Trên cơ sở
những kiến thức thu lượm được từ quá trình nghiên cứu về tình hình tham
nhũng và đấu tranh chống tham nhũng ở một số nước trên thế giới cũng như ở
Việt nam trong thời gian qua, chúng tôi khái quát một số hậu quả chủ yếu mà
tham nhũng gây ra như sau:

Thứ nhất, Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của nhà nước, của
tập thể và của nhân dân.
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó để thực hiện các hành vi trái pháp luật nhằm chiếm
đoạt tài sản hoặc các lợi ích bất hợp pháp khác. Với động cơ vụ lợi, một số
người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy nhà nước hoặc lợi dụng những
quyền hạn nhất định được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giao cho để thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc các lợi ích khác của
nhà nước, của tập thể hoặc cá nhân. Hậu quả của hành vi tham nhũng không
chỉ là việc tài sản, lợi ích của nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị xâm
phạm, biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng mà nó
còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Thậm chí nó còn làm đất nước tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học, công
nghệ, làm thất thoát nguồn lực đầu tư dẫn đến là giảm hiệu quả sử dụng

20
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hoặc vốn vay nước ngoài, tiếp nhận những
công nghệ lạc hậu, v.v.
Thứ hai, tham nhũng làm chậm quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia.
Kết qủa nghiên cứu trên thế giới cho thấy, tham nhũng thường xảy ra ở
mức độ nghiêm trọng ở các nước đang phát triển và chậm phát triển. Tệ tham
nhũng là nguy cơ làm cho các quốc gia này bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các nước phát triển. Bởi tham nhũng là nguyên nhân khiến các nước nghèo sử
dụng không có hiệu qủa các nguồn đầu tư trong nước và nước ngoài cho phát
triển kinh tế - xã hội. Ở Việt nam, tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình
đổi mới. Ngoài sự yếu kém về thể chế, trình độ quản lý, thì ngay cả những
quan điểm, chủ trương và tư duy đổi mới cùng cơ chế, chính sách, pháp luật
đúng đắn phù hợp đã bị những kẻ tham nhũng bóp méo làm công cụ để thực
hiện những lợi ích cá nhân. Tham nhũng đã biến sự thông thoáng của cơ chế,

chính sách thành sự ban ơn, vụ lợi của một số người. Mặt khác, tham nhũng
khiến cơ chế kiểm tra, giám sát và các biện pháp giám sát khác của nhà nước
bị lợi dụng và trở thành công vụ hù doạ đòi của hối lộ của những kẻ tham
nhũng. Đồng thời tham nhũng cũng gây ra những rào cản đối với quá trình thu
hút đầu tư nước ngoài của Việt nam trong thời gian qua.
Thứ ba, tham nhũng là xói mòn và băng hoại những chuẩn mực đạo
đức xã hội, làm vẩn đục mối quan hệ xã hội và những giá trị đạo đức tốt đẹp
có tính truyền thống của dân tộc, làm mất đi bản sắc văn hoá của các dân tộc.
Trong những năm qua ở Việt nam, tham nhũng không chỉ phát sinh ở
trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ bản, quản lý đất
đai,v.v. mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực phi kinh tế như văn hoá, y
tế, giáo dục, thể dục thể thao, thậm chí ngay cả trong cơ quan bảo vệ pháp

21
luật. Tham nhũng len lỏi vào các mối quan hệ thường nhật ở mọi nơi, mọi lúc.
Tham nhũng xuất hiện ngay cả lĩnh vực văn hoá, những công trình văn hoá dở
dang hay xuống cấp, những tác phẩm nghệ thuật bị méo mó bởi có sự hiện
diện của nạn tham nhũng. Hành vi tham nhũng xảy ra không ít trong các
chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách, tham
nhũng cả tiền, hàng hoá cứu trợ cho đồng bào gặp thiên tai. Nghiêm trọng hơn
nữa, tình trạng tham nhũng đã diễn ra ở ngay trong những cơ quan bảo vệ
pháp luật. Không ít vụ việc vi phạm pháp luật không được đưa ra xét xử đúng
người, đúng tội mặc dù chứng cứ đã rõ ràng chỉ vì tình trạng ăn hối lộ của
chính những người được giao trọng trách bảo vệ trật tự kỷ cương luật pháp.
Đó là những sự thật đau lòng, nhức nhối mà hầu như mỗi con người trong xã
hội chúng ta đều không khó khăn gì để nhận thấy. Trầm trọng hơn, tham
nhũng - bằng cách len lỏi vào các mối quan hệ thường nhật ở mọi nơi, mọi lúc
– đã làm tha hoá độ ngũ cán bộ, công chức. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ
cán bộ, công chức đã bị những lợi ích và đòi hỏi vật chất tầm thường cám dỗ,
họ đã không còn giữ được đạo đức, lý tưởng cách mạng, nghiêm trọng hơn đã

có sự cấu kết, móc ngoặc, thông đồng giữa các công chức để cùng đục khoét
tài sản của nhà nước. Điều đáng báo động là việc tham nhũng, ăn hối lộ
dường như đã trở thành thói quen của một số cán bộ, công chức. Bộ máy nhà
nước ta đang yếu đi đáng kể, hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý bị giảm
sút nghiêm trọng bởi chính sự tha hoá biến chất của một bộ phận những người
đang có trách nhiệm trong bộ máy đó. Nghị quyết Đại hội Đảng X đã khẳng
định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”. Đây là một thực trạng đáng
báo động không những cho tình hình kinh tế – xã hội mà cho cả thể chế của

22
chúng ta trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, Tham nhũng tạo ra sự mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước và đến một chừng mực nào
đó gây mất ổn định chính trị, kinh tế - xã hội.
Theo Robert Klitgaard, một chuyên gia chống tham nhũng của Hoa kỳ
thì: “Tham nhũng là một vấn đề nhạy cảm, nhiều công dân các nước đang
phát triển đã ngần ngại đề cập chủ đề này, đơn giản là vì nó đã làm cho họ
quá mệt mỏi. Họ đã từng thấy các nhà lãnh đạo lên gân, lên cốt lý thuyết về
đạo đức nhưng lại đấu tranh chống tham nhũng một cách nửa vời và chẳng
đem lại hiệu quả gì…”
[21,23]
. Ở nhiều nước đang phát triển, quan điểm thất bại
và sự tuyệt vọng là hai cách phản ứng duy nhất của nhân dân đối với nạn
tham nhũng ngày một thêm trầm trọng.
Trong những năm qua tại Việt nam, tệ tham nhũng đã diễn ra ở mức độ
nghiêm trọng. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp trung ương, tại những
chương trình, dự án lớn, nó còn tràn làn trong các cấp chính quyền cơ sở là cơ

quan tiếp xúc với nhân dân hàng ngày, hàng giờ, liên quan và ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi ích của nhân dân như Đảng ta đã nhận định: "Cơ chế thị trường
và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực to lớn, cũng đã bộc
lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng đến ý thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
nhân dân ta"
[3, 11]
Người dân ngày càng lo ngại, băn khoăn mỗi khi có việc
phải đến cơ quan chính quyền, họ thường không trực tiếp đến các cơ quan
chức năng để đề nghị giải quyết mà thường tìm cách “đi cửa sau”, nhờ cậy
người thân quen “bắt mối” với cán bộ, công chức trong các cơ quan đó để giải
quyết công việc. Đây cũng là con đường mà người dân thường lựa chọn
không chỉ khi có việc với chính quyền mà ngay cả khi ốm đau, phải đến bệnh

×