Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 125 trang )


1

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN VĂN MINH



XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2012
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.


Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC


Trang


TRANG PHỤ BÌA


Lời cam đoan


MỤC LỤC


Danh mục các từ viết tắt


DANH MỤC CÁC BẢNG


MỞ ĐẦU
1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO THÔNG ĐƢỜNG
BỘ
8
1.1.
Giao thông, giao thông đường bộ, hành lang an toàn đường bộ
8
1.1.1.
Giao thông
8
1.1.2.
Giao thông đường bộ

8
1.1.3.
Hành lang an toàn đường bộ
9
1.2.
Trật tự an toàn giao thông đường bộ
10
1.3.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
12
1.3.1.
Khái niệm
12
1.3.2.
Vai trò của công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
19

Chƣơng 2: Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông Đƣờng bộ trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa
23
2.1.
Khái quát hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa
23
2.1.1.
Vị trí địa lý và dân cư
23
2.1.2.
Hệ thống giao thông

24
2.1.3.
Đặc điểm giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
26


5
2.1.4.
Cơ cấu quản lý hệ thống giao thông đường bộ
27
2.2.
Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa và công tác xử lý vi phạm
28
2.3.
Thực trạng vi phạm hành lang an toàn đường bộ trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa và công tác xử lý vi phạm
51
2.3.1.
Tình hình vi phạm hành lang an toàn đường bộ
51
2.3.2.
Công tác xử lý vi phạm hành lang an toàn đường bộ
56
2.4.
Nguyên nhân vi phạm pháp luật giao thông đường bộ
62

Chƣơng 3: Một số giải pháp hạn chế vi phạm pháp luật giao thông
đƣờng bộ, nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành

chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa
80
3.1.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao thông đường bộ và
pháp luật trong các lĩnh vực khác có liên quan
80
3.2.
Tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để,
kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ
83
3.3.
Tăng cường công tác kiểm định chất lượng an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới, quản lý phương tiện xe
cơ giới và công tác đào tạo, sát hạch thi cấp giấy phép lái xe
86
3.4.
Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, tăng cường
công tác bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và hành
lang an toàn đường bộ
88
3.5.
Đổi mới và duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật giao thông đường bộ
93

KẾT LUẬN
102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

104

PHỤ LỤC
113


6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ATGT
: An toàn giao thông
ATGTĐB
: An toàn giao thông đường bộ
GTĐB
: Giao thông đường bộ
QLNN
: Quản lý nhà nước
QPPL
: Quy phạm pháp luật
TNGT
: Tai nạn giao thông
TNGTĐB
: Tai nạn giao thông đường bộ
TTATXH
: Trật tự an toàn xã hội
UBND
: ủy ban nhân dân



7



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê số lượng nhà dân, công trình dịch vụ xăng dầu,
mở đường ngang đấu nối vào các quốc lộ 1A, 45, 47, 10,
217, 15 đến tháng 12 năm 2010
54
2.2
Thống kê số công trình nằm trong hành lang ATGT
đường Hồ Chí Minh đến tháng 12 năm 2010
55




8
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống xã hội mỗi hoạt động của con người đều gắn liền với
một loại hình giao thông nhất định, nhưng phổ biến nhất là giao thông đường
bộ (GTĐB). Là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng, việc phát triển

tốt GTĐB sẽ tạo tiền đề cho phát triển kinh tế- xã hội, củng cố an ninh quốc
phòng, đổi mới và phát triển đất nước.
Giao thông đường bộ, đường thủy và đường sắt được xây dựng hiện
đại không chỉ là trách nhiệm của các cấp chính quyền, mà còn là mong mỏi
của mọi tầng lớp nhân. Hệ thống GTĐB hoàn thiện sẽ tạo thuận lợi trong giao
thương hàng hóa, giao lưu giữa các vùng miền, các dân tộc, chi phí cho vận
tải được giảm xuống, giảm thời gian hành trình cho phương tiện, tiết kiệm chi
phí xã hội đồng thời là mục tiêu trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà
nước.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước về GTĐB, có thể nói chưa
bao giờ hệ thống GTĐB ở tỉnh Thanh Hóa phát triển như hiện nay. Đó là nhờ
sự nghiệp đổi mới do Đảng và Nhà nước đề ra, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh
ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Thanh Hóa, sự nỗ lực
của chính quyền địa phương và do sự đóng góp của nhân dân.
Thực tế GTĐB luôn là "nguồn nguy hiểm cao độ" hay phát sinh
những rủi ro bất lợi cho xã hội như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tai
nạn giao thông đường bộ (TNGTĐB) do vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này
gây ra. Trong những năm qua, không chỉ riêng Thanh Hóa, hiện tượng vi phạm
pháp luật GTĐB ngày một gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp, tai nạn giao
thông (TNGT) luôn có nguy cơ xảy ra, số vụ, số người chết, số người bị thương
do TNGT luôn biến động khó lường theo chiều hướng gia tăng, gây khó khăn


9
cho hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) và ảnh hưởng lớn đất trật tự an toàn xã
hội (TTATXH). Với những hậu quả của việc vi phạm pháp luật GTĐB ngoài
việc gây mất TTATXH, thì TNGTĐB còn gây ra sự ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe cộng đồng, lấy đi tương lai thế hệ trẻ của đất nước, làm tăng thêm nỗi lo,
gánh nặng cho mỗi gia đình, cho mỗi địa phương và cho toàn xã hội, đồng
thời ảnh hưởng to lớn đến tài chính của các địa phương.

Nhưng vấn đề TNGTĐB cũng có thể dự đoán và phòng ngừa thông
qua các hoạt động của các cơ quan QLNN, hành động của nhân dân và toàn
xã hội. Đó là việc xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực này. Đây vừa là biện pháp hàng đầu để ngăn chặn vi phạm
pháp luật, nhưng đồng thời "là một biện pháp giáo dục hiệu quả nhất"- Theo
ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị An
toàn giao thông toàn quốc (Thông báo số 17/TB-VPCP ngày 30 tháng 01 năm
2008).
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là một hoạt động
phức tạp, xuất phát từ sự đa dạng của các đối tượng và các phương tiện tham
gia GTĐB, việc thực hiện nhiệm vụ của lực lượng chức năng đôi lúc còn chưa
nghiêm, chưa minh bạch, thiếu cương quyết, chưa kịp thời, chưa thấu tình, đạt
lý. Hơn nữa, sự phân công, phân cấp quản lý trong lĩnh vực này chưa rõ ràng;
bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhiệm chức năng xử lý vi phạm
hành chính về GTĐB vẫn còn nhiều hạn chế, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho
lực lượng này còn thiếu; hệ thống cơ sở hạ tầng của tỉnh Thanh Hóa cũng
chưa đồng bộ, thiếu liên hoàn.
Đề nâng cao hiệu quả hiệu công tác QLNN, giữ gìn trật tự an toàn
giao thông đường bộ (ATGTĐB), ngăn ngừa vi phạm, giảm nhẹ thiệt hại do
vi phạm pháp luật GTĐB gây ra đồng thời tăng cường hiệu quả xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực GTĐB, trên phương diện lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật tôi chọn đề tài "Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực


10
giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" làm luận văn tốt nghiệp
cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước tình hình phát triển như hiện này, GTĐB luôn là đề tài được
được các nhà lập pháp, nhà quản lý, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.

Ở Việt nam trong những năm gần đây có một số đề tài nghiên cứu liên
quan đến lĩnh vực GTĐB có thể kể ra như sau:
- Nguyễn Quang Huy, Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo
trật tự an toàn giao thông (qua thực tế tỉnh Thái Nguyên), Luận văn thạc sĩ
Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2007. Luận văn đã làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật GTĐB, thực hiện pháp luật và thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực GTĐB; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực
hiện pháp luật trong việc đảm bảo ATGTĐB, đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB; những tồn tại, hạn chế,
nguyên nhân khách quan, chủ quan của những tồn tại hạn chế trong thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm trật tự ATGTĐB. Luận văn cũng đưa ra
quan điểm, một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật trong lĩnh vực đảm bảo trật tự ATGTĐB.
- Đào Văn Minh, Quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an toàn
giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Luận
văn thạc sĩ bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2008. Luận văn đã đánh giá khái quát thực trạng tình hình trật tự
ATGTĐB, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của công tác
QLNN bằng pháp luật của chính quyền xã, thị trấn ở tỉnh Thanh Hóa về trật
tự ATGTĐB. Luận văn cũng đã đề xuất một số kiến nghị, trong đó kiến nghị
về hoàn thiện thể chế, ban hành văn bản quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền
cụ thể của chính quyền cơ sở trong quản lý bằng pháp luật về trật tự
ATGTĐB.


11
- Vũ Ngọc Dương, Thực trạng và giải pháp về trật tự an toàn giao
thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Hải Dương, tạp chí khoa học công nghệ và
môi trường số 4 năm 2009 đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2009. Đề tài đã
nghiên cứu đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp đảm bảo an toàn trật

tự giao thông trên địa bàn tỉnh Hải Dương, nâng cao năng lực quản lý trật tự
ATGTĐB cho lực lượng công an và lực lượng Thanh tra giao thông.
- Trần Văn Luyện, Trần Sơn, Nguyễn Văn Chính, Trật tự an toàn giao
thông đường bộ, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
năm 2003. Sách đã trình bày những nhận thức chung về trật tự ATGTĐB, tình
hình trật tự GTĐB, những giải pháp bảo đảm trật tự ATGTĐB mà không có
mục đích khai thác sâu về xử lý vi phạm pháp luật GTĐB là những nội dung
trọng tâm của đề tài "Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" sẽ đề cập đến.
- Lê Ngọc Tiến, Giáo dục pháp luật- biện pháp quan trọng trong giảm
thiểu tai nạn giao thông, Tạp chí Giao thông vận tải, số 7, năm 2004.
Lý Huy Tuấn, Quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đô thị, Tạp
chí QLNN, số 3, năm 2003.
Lê Ngọc Tiến, Giáo dục pháp luật- biện pháp quan trọng trong giảm
thiểu tai nạn giao thông đường bộ, Tạp chí Giao thông vận tải, số 7, năm 2004.
Từ nội dung của những công trình khoa học trên cho thấy đề tài mà tác giả
luận văn chọn sẽ không trùng lặp, là đề tài mới có giá trị thực tiễn tại địa phương
tỉnh Thanh Hóa, thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích


12
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận chung vấn về GTĐB và
một số đặc điểm của hệ thống GTĐB tỉnh Thanh Hóa. Trên cơ sở nắm vững đặc
điểm của GTĐB và thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích những vấn đặc điểm hệ thống GTĐB, hành lang
ATGTĐB tại tỉnh Thanh Hóa.

+ Phân tích, đánh giá thực trạng ATGTĐB nói chung và hành lang an
toàn đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2003 đến năm 2010, công
tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB của các lực lượng chức năng.
+ Tìm ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến vi phạm pháp luật GTĐB,
đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về GTĐB; đưa
ra giải pháp nhằm kiềm chế TNGT, hạn chế vi phạm pháp luật GTĐB, tăng
cường hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, thực
hiện tốt công tác giữ gìn trật tự ATGTĐB, quản lý và bảo vệ hành lang
ATGTĐB nhằm tăng cường hiệu quả công tác QLNN trong lĩnh vực này trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, đối tượng nghiên
cứu ở đề tài này là hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ có hạn học viên chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích số
liệu các vụ vi phạm GTĐB, TNGT do vi phạm hành chính trong lĩnh vực


13
GTĐB, vi phạm hành lang an toàn đường bộ từ năm 2003 đến năm 2010 trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Bám sát chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
giao thông, phát triển hệ thống giao thông, an toàn giao thông (ATGT) và
hành lang an toàn đường bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; các chủ trương tỉnh Thanh Hóa về GTĐB, phát triển đồng bộ GTĐB,
có sự tính toán khoa học giữa sự phát triển GTĐB và sự phát triển kinh tế - xã
hội. Có sự so sánh giữa lý luận và thực tiễn về vi phạm GTĐB, hành lang an

toàn đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử
dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh để nêu bật tình hình, từ đó
đề xuất các giải pháp hạn chế vi phạm pháp luật GTĐB, kiềm chế TNGT và
nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính về GTĐB trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa.
6. Đóng góp của luận văn
Từ vấn đề mà luận văn nghiên cứu bước đầu chỉ đạt được một số điểm
mới sau:
- Xây dựng một số khái niệm liên quan đến GTĐB, vi phạm hành
chính trong lĩnh vực GTĐB và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB.
- Phân tích thực trạng vi phạm pháp luật GTĐB trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa.
- Trên cơ sở thống kê một cách có hệ thống tình hình vi phạm
ATGTĐB và việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2003 đến năm 2010. Luận văn sẽ nêu các giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính, hạn


14
chế tình trạng vi phạm pháp luật GTĐB tại tỉnh Thanh Hóa góp phần nâng
cao hiệu quả công tác quản lý trong lĩnh vực GTĐB hiện nay và trong thời
gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua nghiên cứu đề tài xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giúp cho học viên nắm vững các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về GTĐB,
chiến lược phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng GTĐB của tỉnh Thanh Hóa.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo
cho các cơ quan QLNN về GTĐB, cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, làm tài

liệu tập huấn, phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật về GTĐB cho cán bộ,
công chức có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về GTĐB.
Một số kiến nghị, giải pháp của đề tài có giá trị tham khảo đối với các
cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp
luật về GTĐB.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật giao thông đường bộ trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế vi phạm pháp luật giao thông
đường bộ, nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.



15
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ

1.1. GIAO THÔNG, GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ, HÀNH LANG AN TOÀN
ĐƢỜNG BỘ
1.1.1. Giao thông
Khi nói đến giao thông là nói đến "việc đi lại từ nơi này đến nơi khác
của người và phương tiện chuyên chở" [57, tr. 381].
GTĐB là đòi hỏi có tính tất yếu, cần thiết của quá trình phát triển đời
sống xã hội ở mỗi một xã hội và mỗi quốc gia. Sự phát triển của giao thông
mang tính lịch sử và phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế, khoa học-
công nghệ nhất định.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người có thể nói từ khi còn sơ khai
đến xã hội văn minh ngày nay đều gắn bó chặt chẽ với hoạt động giao thông
mà trước hết là GTĐB, sau đó phát triển các loại hình giao thông khác như
giao thông đường thủy, giao thông đường sắt, giao thông đường không.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì đường bộ được hiểu là "Thứ đường đi
trên đất liền dùng cho người đi bộ và xe cộ, nói chung" [57, tr. 356]. Theo
Luật GTĐB năm 2008 thì định nghĩa "Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ,
hầm đường bộ, bến phà đường bộ" [70].
1.1.2. Giao thông đƣờng bộ
Giao thông đường bộ là một hiện tượng xã hội có xu hướng biến động
phát triển mạnh mẽ không chỉ ở Việt Nam mà còn diễn ra hầu hết các quốc
gia trên thế giới. GTĐB và phát triển GTĐB đang được xem xét ở nhiều góc
độ kinh tế- xã hội, chính trị dưới tác động của sự phát triển khoa học- kỹ thuật
tiên tiến. Và trên cơ sở của những khái niệm về đường bộ tại mục 1.1.1 có thể


16
hiểu: GTĐB là việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện
chuyên chở trên đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ.
Khi xem xét GTĐB với tư cách là một hiện tượng xã hội. Dưới góc độ
luật học hiện tượng GTĐB đang đặt ra những vấn đề pháp lý sau đây:
Thứ nhất, GTĐB là một nhu cầu của con người trong xã hội. Nhưng
những cá thể con người, tổ chức người nhất định không thể tự lo để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Đặc biệt là với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội thì chỉ có
Nhà nước mới có thể có khả năng tổ chức, có tiềm lực kinh tế và là chủ sở
hữu đất đai mới có thể xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB. Tuy rằng ở mức độ
nào đó Nhà nước phải huy động sức dân, nhưng trách nhiệm thuộc Nhà nước.
Trách nhiệm này mang tính pháp lý được quy định trong chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước.
Thứ hai, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB luôn là

đối tượng điều chỉnh của pháp luật GTĐB. Nhà nước hướng dẫn và điều
chỉnh các quan hệ này để các quan hệ này diễn ra có sự kiểm soát và "trong
vòng luật".
Thứ ba, các quan hệ trong hoạt động GTĐB được thực hiện bởi nhiều
chủ thể với những mục đích kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh khác
nhau. Cũng như các loại quan hệ xã hội khác, GTĐB cần được chế định hóa,
quy phạm hóa và tiến tới pháp điển hóa do vậy đó là những lý do hết sức cơ
bản để tạo ra sự ra đời của các văn bản pháp luật. Luật GTĐB năm 2001, Luật
GTĐB năm 2008 ra đời đã tạo ra một "luật chơi" thống nhất, nhất quán, ổn
định cho mọi tổ chức và cá nhân.
1.1.3. Hành lang an toàn đƣờng bộ
Trong các bộ phận cấu thành mạng lưới GTĐB. Hành lang an toàn
đường bộ là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng GTĐB, là bộ phận
trọng yếu của tuyến đường, đảm bảo sự bền vững của công trình và sự an toàn
cho hoạt động giao thông vận tải, vì vậy việc quản lý, bảo vệ hành lang an


17
toàn đường bộ là hoạt động chung của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị- xã hội, lực lượng vũ trang và của toàn dân.
Giữ gìn, chống lấn chiếm, cơi nới, sử dụng trái phép đất hành lang an
toàn các tuyến đường; chấm dứt việc giao đất, cho thuê đất dọc trong hành
lang các tuyến đường, không phù hợp với qui định của pháp luật, ảnh hưởng
đến an toàn các công trình và hành lang đường bộ; đưa việc quản lý, sử dụng
hành lang an toàn đường bộ theo đúng quy định của pháp luật, việc khai thác
và sử dụng đất dành cho đường bộ, hành lang an toàn đường bộ cũng như
việc, mở đường nhánh, đấu nối đường nhánh vào đường chính phải có trong
quy hoạch, được cấp có thẩm quyền cho phép bằng văn bản, tránh vi phạm
pháp luật GTĐB là một trong những nội dung hết sức quan trọng trong công
tác QLNN và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về GTĐB.

Sự an toàn trong hoạt động của đường bộ phụ thuộc rất lớn vào sự ổn
định hành lang an toàn. Luật GTĐB quy định: "Hành lang an toàn đường bộ
là giải đất dọc hai bên đất của đường bộ, tính từ mép ngoài đất của đường bộ
ra hai bên để đảm bảo an toàn giao thông đường bộ" [70]. Bao gồm: giới hạn
hành lang đối với đường bộ; giới hạn hành lang an toàn đối với cầu, cống;
giới hạn hành lang an toàn đối với hầm đường bộ; giới hạn hành lang an toàn
đối với bến phà, cầu phao; giới hạn hành lang an toàn đối với kè bảo vệ
đường bộ; giới hạn bảo vệ trên không của công trình đường bộ xây dựng mới;
giới hạn khoảng cách an toàn đường bộ theo chiều ngang.
Như vậy có thể thấy được hành lang an toàn đường bộ là bộ phận nằm
trong kết cấu hạ tầng GTĐB, ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn và bền vững
của công trình cũng như những hoạt động diễn ra trên công trình đường bộ.
1.2. TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá về trật tự
ATGTĐB. Có quan điểm cho rằng: Trật tự ATGT là sự đảm bảo cho mọi hoạt


18
động giao thông được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thống nhất và mỹ
quan môi trường, hạn chế thấp nhất vi phạm pháp luật giao thông, hạn chế ùn
tắc giao thông, kiềm chế TNGT, ngăn ngừa thiệt hại do TNGT gây ra.
Ý kiến khác lại cho rằng: Trật tự ATGTĐB là việc chấp hành triệt để
những yêu cầu kỹ thuật, quản lý đối với công trình giao thông và phương tiện
giao thông, quy định đối với người tham gia giao thông khi hoạt động trên
đường bộ, làm cho giao thông được trật tự, an toàn, thông suốt, thuận tiện.
Theo từ điểm Bách khoa Công an nhân dân thì:
Trật tự an toàn giao thông đường bộ là hệ thống các mối
quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng mà mọi người
tham gia giao thông phải tuân theo để đảm bảo hoạt động giao

thông thông suốt, trật tự an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao
thông, gây thiệt hại về người và tài sản [76, tr. 130].
Như vậy, trật tự ATGTĐB được hiểu là:
- Hoạt động giao thông được điều chỉnh bằng một hệ thống quy phạm pháp
luật (QPPL) bắt buộc mọi chủ thể tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân theo.
- Hạn chế thấp nhất TNGT xảy ra, đảm bảo an toàn cho người và tải
sản khi tham gia giao thông.
- Hạn chế ùn tắc giao thông, đảm bảo giao thông thuận lợi, có hiệu
quả, tiết kiệm được chi phí vận chuyển, thời gian hành trình trên đường.
Trật tự ATGTĐB có mối quan hệ khăng khít với TTATXH. Trong đó,
TTATXH có thể được hiểu: là trạng thái của các quan hệ xã hội được hình
thành và điều chỉnh bởi hệ thống QPPL của Nhà nước, quy phạm chính trị,
quy phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của một
dân tộc, một Nhà nước, là tình trạng xã hội ổn định, ở đó mọi công dân sống


19
và lao động có tổ chức, có kỷ cương, mọi lợi ích chính đáng được bảo đảm,
không bị xâm hại.
Trật tự ATGT cũng là một phần quan trọng của TTATXH, có mối
quan hệ nhân quả và không tách rời TTATXH. Về mặt nhận thức, thói quen
và tâm lý của người tham gia giao thông cũng chính là của con người tham
gia hoạt động kinh tế xã hội. Kỷ cương trong quản lý kinh tế- xã hội cũng có
ý nghĩa quyết định kỷ cương trong giao thông, vì con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội.
Như vậy, trật tự ATGTĐB có đảm bảo thì mới góp phần đảm bảo
TTATXH. Hoạt động GTĐB diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, liên quan đến mọi
tầng lớp dân cư, mọi chủ thể trong xã hội. Trật tự ATGTĐB được bảo đảm sẽ
tạo cho GTĐB thông suốt, tài sản, tính mạng, mọi lợi ích chính đáng khác của
những chủ thể tham gia giao thông được đảm bảo an toàn hơn, người dân có

cuộc sống yên lành, ổn định, nhu cầu đi lại, phát triển kinh tế được thuận lợi.
Do vậy TTATXH cần được giữ vững.
Trật tự ATGT có tính xã hội sâu rộng, bảo đảm cuộc sống bình an và
hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà. Thiệt hại do TNGT gây ra về người và
của là rất lớn và đang gia tăng những mối nguy hại cho một gia đình, một xã
hội, một quốc gia. Những người bị thương vong phần lớn là những người lao
động chính, nên để lại nhiều gánh nặng lâu dài. Vì vậy trật tự ATGT ổn định
là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Tóm lại, từ vai trò tất yếu của GTĐB là đòi hỏi, yêu cầu phải có sự quản
lý của nhà nước đồng thời phải có những biện pháp để hạn chế thiệt hại do vi
phạm pháp luật GTĐB để lại, trong đó có biện pháp sử dụng các quy định của
pháp luật để xử lý những hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia GTĐB.
1.3. XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG
ĐƢỜNG BỘ


20
1.3.1. Khái niệm
Trong một nhà nước, việc quản lý xã hội bằng pháp luật luôn được
xen kẽ với việc áp dụng những chế tài xử phạt trong mỗi một lĩnh vực. Nếu
không có những quy định cho việc thực hiện các chế tài nghiêm khắc, phù
hợp với tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, thì sẽ dẫn đến pháp luật khó
có thể đi vào cuộc sống và được người dân nghiêm túc thực hiện. Pháp luật và
Nhà nước là những hiện tượng đặc biệt luôn có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Nhà nước và pháp luật có những nguyên nhân, tiền đề xã hội ngay từ
buổi bình minh và trong suốt quá trình vận động, phát triển.
Trong lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc cổ đại, học thuyết
của Khổng Tử là một trong những minh chứng rõ nét cho việc đưa ra những
tương tưởng QLNN, Ông chủ trương dùng đạo đức để trị nước, lấy đạo nhân
làm triết lý, lấy nhân, lễ, nghĩa, trí, lợi làm thành các nguyên tắc căn bản để

xây dựng các chính sách cai trị, bên cạnh đó việc sử dụng pháp luật vẫn là
cần thiết. Theo dịch giả Nguyễn Hiến Lê trong phần dịch chương "Chính
hình" của Khổng Tử bài II.3 có đoạn: "Dùng đạo đức để bắt dẫn dân, dùng lễ
giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà làm theo đường chính",
bài XII.13 I [75, tr. 175].
Tư tưởng của Hàn Phi Tử thì lại đối nghịch với tư tưởng của Nho gia.
Ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật: Pháp luật
không hùa theo người sang. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ không cũng
không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của
của đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu (Hàn Phi Tử.
Thiên Hữu Độ). Do đó Hàn Phi Tử không bàn đến nhân nghĩa, cũng không
trọng lễ như Khổng Tử, Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng
thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.
Montesquieu trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật" đã khẳng định:
"Sống trong một xã hội, muốn duy trì trật tự phải quy định rõ quan hệ giữa


21
người cai trị và người được cai trị. Đó là luật chính trị. Lại phải quy định quan
hệ giữa công dân. Đó là luật dân sự" [64, tr. 44].
Như vậy theo dòng lịch sử, dù ở thời xa xưa việc QLNN dưới quan
điểm đức trị, hay pháp trị thì dùng pháp luật quản lý đất nước và sử dụng
pháp luật là công cụ để xử lý người không tuân thủ pháp luật luôn là một lựa
chọn có hiệu quả để quản lý đất nước, phát triển và ổn định xã hội.
Trong xã hội hiện đại ngày nay việc dùng pháp luật để QLNN lại càng
quan trọng. Để quản lý xã hội nói chung và hoạt động quản lý nói riêng trong
từng lĩnh vực thì việc sử dụng các "hình phạt" luôn được lựa chọn để làm cho
pháp luật thể hiện được tính nghiêm minh, mọi người phải tôn trọng và thực
hiện. Lĩnh vực GTĐB cũng không phải là ngoại lệ.
Thực hiện chủ trương chung của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng
định "Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [49, tr. 120].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định
"Quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng" [50, tr. 94]. Để
QLNN bằng pháp luật có hiệu quả, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đưa ra yêu cầu: "Quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng
việc giáo dục đạo đức" [51, tr. 129].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại tiếp tục đề cao vai
trò của pháp luật trong hệ thống các công cụ quản lý xã hội: "Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công
dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật" [52, tr. 132].
Như vậy từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến Đại
hội IX của Đảng, mục tiêu quản lý xã hội bằng pháp luật là mục tiêu nhất
quán. Quan điểm, tư tưởng này của Đảng được thể chế hóa trong Hiến pháp
năm 1992 và Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 12 Hiến pháp 1992 được sửa đổi,


22
bổ sung theo Nghị quyết 51/2001-QH ngày 25 tháng 12 năm 2001 quy định:
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật" [67, tr. 17].
Với sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực GTĐB, vấn đề đặt ra là
những quy định của nhà nước về vấn đề này như thế nào? Vậy luật GTĐB là gì?
Có thể hiểu: Luật GTĐB là tổng thể các quy định về quy tắc GTĐB;
kết cấu hạ tầng GTĐB; phương tiện và người tham gia GTĐB; vận tải đường
bộ và quản lý nhà nước về GTĐB.
Pháp luật GTĐB có thể khái quát: Pháp luật GTĐB là tổng thể các

QPPL do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực GTĐB.
Với tư cách là công cụ để Nhà nước quản lý GTĐB thì pháp luật
GTĐB có nguồn rất rộng. Đó là các QPPL về đất đai, các QPPL về dân sự,
các QPPL về kinh doanh vận tải của các thành phần kinh tế, các QPPL hành
chính và tư pháp, các tội phạm trong lĩnh vực GTĐB quy định trong Bộ luật
hình sự… Trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới hiện nay pháp luật
GTĐB còn là các điều ước quốc tế do nước ta tham gia hoặc ký kết.
Vấn đề đặt ra là tại sao Nhà nước phải quản lý lĩnh vực GTĐB? Hoạt
động QLNN nói chung và quản lý trong một lĩnh vực cụ thể nào đó có thể
bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau. Phổ biến là quản lý bằng
phương pháp hành chính, phương pháp kế hoạch chính sách, phương pháp
kinh tế và phương pháp tư tưởng. Nhưng tựu chung Nhà nước nào cũng phải
dùng pháp luật như một công cụ đồng thời là phương pháp chủ yếu để quản lý
xã hội, đó chính là pháp luật.
Từ những khái niệm về pháp luật GTĐB, Luật GTĐB, thì có thể khái
quát vấn đề vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB như sau:


23
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là những hành vi của cá
nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực GTĐB một cách
cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: Các hành vi vi phạm quy tắc GTĐB;
các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB; các hành vi vi phạm
quy định về phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về
người điều khiển phương tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định
về vận tải đường bộ; các hành vi vi phạm khác về GTĐB.
Những hành vi vi phạm pháp luật về GTĐB có thể làm phát sinh
những quan hệ pháp luật sau đây:

- Vi phạm pháp luật dân sự.
- Vi phạm pháp luật hành chính.
- Vi phạm kỷ luật nhà nước (đối với cán bộ, công chức, viên chức
hành chính trực tiếp thực hiện hoạt động QLNN trong lĩnh vực GTĐB).
- Vi phạm pháp luật về đất đai.
Vậy xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này như thế nào, và có
tác dụng như thế nào đối với hoạt động QLNN? Xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực GTĐB có thể hiểu: là hoạt động của cơ quan nhà nước áp
dụng đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quy định của pháp luật GTĐB về quy tắc GTĐB; các hành vi vi phạm quy
định về kết cấu hạ tầng GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về phương tiện
tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương
tiện tham gia GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường bộ; các
hành vi vi phạm khác về GTĐB mà không phải là tội phạm và theo quy định
phải bị xử phạt hành chính.


24
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02 tháng 4
năm 2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực GTĐB, có các hình thức xử lý vi phạm hành chính:
1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
được quy định tại Nghị định này, cá nhân, tổ chức vi phạm phải
chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
Khi áp dụng hình thức phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối
với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung
tiền phạt quy định đối với hành vi đó; nếu vi phạm có tình tiết giảm
nhẹ, thì mức tiền phạt có thể giảm xuống thấp hơn mức mức trung

bình nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền
phạt; nếu vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể
tăng lên cao hơn mức trung bình nhưng không được vượt quá mức
tối đa của khung tiền phạt.
2. Tùy theo tính chất, mức đội vi phạm, cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử
phạt bổ sung:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc không thời hạn;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính [41].
Vậy những chủ thể nào có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực GTĐB. Theo quy định tại Điều 47 Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02
tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực GTĐB:


25
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Trưởng Công an các
cấp (trừ Trưởng Công an cấp xã) có thẩm quyền xử phạt đối với các
hành vi vi phạm quy định tại Nghị định này trong phạm vi quản lý
của địa phương mình.
2. Cảnh sát giao thông đường bộ có thẩm quyền xử phạt đối
với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ đối với
người và phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ được quy
định trong Nghị định này.
3. Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ
động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng công an
cấp xã trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có liên quan
đến trật tự an toàn giao thông đường bộ có thẩm quyền xử phạt đối

với các hành vi vi phạm quy định tại các điểm, khoản, điều của
Nghị định này…
4. Thanh tra giao thông đường bộ trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ được giao có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi
phạm quy định về hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tại các
điểm dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng
nghỉ, trạm kiểm tra tải trọng xe, trạm thu phí, cơ sở kinh doanh vận
tải đường bộ, khi phương tiện (có hành vi vi phạm) dừng, đỗ trên
đường bộ; hành vi vi phạm về đào tạo, sát hạch, cấp Giấy phép lái
xe, hoạt động kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe
cơ giới, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, bảo đảm tiêu
chuẩn kỹ thuật công trình đường bộ và một số hành vi khác quy
định tại các điểm, khoản, điều của Nghị định này [41].
Như vậy có thể hiểu: Xử lý vi phạm pháp luật GTĐB là hoạt động của
những chủ thể có thẩm quyền QLNN trong lĩnh vực GTĐB được tiến hành
bằng biện pháp cưỡng chế. Các biện pháp cưỡng chế hành chính gồm có: các


26
các biện pháp cưỡng chế phạt tiền, phạt cảnh cáo và các biện pháp cưỡng chế
khác theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
Xử lý vi phạm hành chính về GTĐB là một hoạt động quan trọng
trong hoạt động QLNN về GTĐB để pháp luật được thực hiện một cách
nghiêm túc, tạo sự răn đe đồng thời giáo dục, thuyết phục người tham gia vào
quan hệ pháp luật GTĐB, đưa mọi hoạt động GTĐB vào khuôn khổ theo sự
quản lý, điều tiết của Nhà nước.
Để hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB đảm
bảo hiệu lực và hiệu quả của hoạt động, nó phải được diễn ra thường xuyên,
liên tục. Dưới tác động điều chỉnh của những QPPL GTĐB thì các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB được đặt vào một "vòng trật tự" theo ý chí

của Nhà nước. Từ đó, nhà nước kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ các
hoạt động GTĐB diễn ra trên quy mô toàn quốc, từng địa phương, từng vùng
và từng khu vực.
1.3.2. Vai trò của công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đƣờng bộ
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB là hoạt động trong
tổng thể các vấn đề thuộc nội dung của hoạt động QLNN. Do vậy những kết
quả thuận lợi, ổn định từ công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về GTĐB.
Thứ nhất, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB nhằm đảm
bảo phát triển bền vững kinh tế- xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ công nghệ thông tin và kinh tế tri thức.
Một hệ thống GTĐB hiện đại sẽ tạo đà phát triển cho phát triển kinh tế xã hội,
là yếu tố hàng đầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế
cho hoạt động kinh doanh cho các chủ thể ở tất cả các địa phương trong tỉnh
Thanh Hóa và trong cả nước. Trái lại một hệ thống GTĐB yếu kém, sẽ không


27
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, tức là hiệu lực, hiệu quả QLNN
trong lĩnh vực GTĐB chưa được đầy đủ và chặt chẽ.
Giao thông vận tải nói chung, GTĐB nói riêng được hình thành trên
cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Bàn về
giao thông vận tải, Các Mác đã từng khẳng định:
Những quan hệ giữa các quốc gia khác nhau đều phụ thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao
động và giao thông trong nước của quốc gia đó. Nguyên lý đã được
mọi người công nhận. Nhưng không chỉ những mối quan hệ giữa
nước này và nước khác mà cả toàn bộ cơ cấu nội bộ của bản thân
nước đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của giao thông

trong và ngoài nước đó [59, tr. 5].
Có thể nhận định rằng phát triển GTĐB và phát triển kinh tế- xã hội là
hai quá trình có liên quan chặt chẽ với nhau, là điều kiện và tiền đề cho nhau.
Xây dựng một mạng lưới GTĐB chính là tiền đề, điều kiện cho sự phân bố
hợp lý lực lượng sản xuất trên từng địa phương, vùng, miền hay các làng
nghề, là sự kết nối giao thương giữa nhân dân các địa phương và là điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển của các vùng kinh tế, đặc biệt với một số địa
phương ở các huyện miền núi với các huyện, thị xã, thành phố.
Hòa chung với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay,
muốn thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh Thanh Hóa, việc xây dựng kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, trong đó xây dựng và phát triển GTĐB phải đi trước một
bước. Với việc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa lần thứ XVI (2006-2010) của tỉnh đã xác định được việc nâng cấp, quy
hoạch xây dựng hoàn thiện mới nhiều công trình giao thông có ý nghĩa đặc
biệt cho việc phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Thanh Hóa, đồng thời còn thúc

×