Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.22 KB, 69 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là đề tài chuyên đề thực tập nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả
nêu
trong chuyên đề thực tập là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn ñều đã được
chỉ rõ
nguồn

gốc.
Sinh viên
Dương Lê Tâm
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp, đề
tài: “Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh
Nghệ An
” Em luôn nhận được
sự
giúp đỡ tận tình quý báu của nhà trường, các
thầy, cô giáo, bạn bè, gia đình.
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
đến:
Ban giám hiệu trường Đại học kinh tế quốc dân, khoa
kinh


tếvà quản lý
nguồn nhân lực, quý thầy cô giáo đã tạo điều kiện cùng với sự tận tình giảng dạy,
giúp
đỡ động viên em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
chuyên đề thực tập tốt
nghiệp.
Đặc

biệt, tôi xin trân trọng cảm PGS.TS. Nguyễn Nam Phương, người đã tận
tình hướng dẫn
trong
quá trình thực hiện đề
tài.
Trân trọng cảm ơn cơ sở thực tập là Phòng Lao động – Thương binh và Xã
hội huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho
em được tham gia thực tập tại phòng và hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, dù đã cố gắng thật nhiều, nhưng do khả năng
và kinh
nghiệm
nghiên cứu còn hạn chế, nên đề tài không tránh khỏi những
thiếu sót. Em mong nhận được
sự
cảm thông và góp ý của quý thầy, cô giáo, và
những người quan tâm đến đề tài
này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Dương Lê tâm
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trên thế giới cơ cấu đào tạo phổ biến của các nước hiện nay là 1 cử
nhân - 4
trung

học
chuyên nghiệp - 10 công nhân kỹ thuật (CNKT), bên cạnh
đó thì tỉ lệ tương ứng ở Việt
Nam


1 cử nhân - 1,16 trung học chuyên nghiệp -
0,95 CNKT. Điều này dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu lao động của đất nước. Vì
vậy ngày 05 tháng 5 năm 2009 vừa qua Bộ LĐ
-TB&XH
xây dựng Đề

án “ Đào
tạo
nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020”, kinh phí
hơn
32.000 tỉ đồng
để đạt mục tiêu trên. Lãnh đạo Bộ
LĐ -TB&XH
khẳng định, đề án sẽ khắc phục
được
những yếu kém về đào tạo nghề từ trước đến

nay. Bên cạnh đó, sức ép về dân
số và việc làm ngày càng lớn dẫn đến cung về lao động vượt xa cung về lao động,
do đó việc đào tạo nghề ngày càng có một vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh
tế của đất nước trong thời gian tới.
Với chủ trương đó, việc dạy nghề cho lao động nông thôn, nơi chiếm đến hơn
70% dân số cả nước, ngày càng được đẩy mạnh và đã có những bước phát triển
đáng kể về chất lượng cũng như số lượng. Tuy nhiên, việc đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến nay vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ như việc lao động đã qua đào
tạo không tìm được việc làm hay bỏ nghề do thu nhập thấp, không thích hợp với
bản thân… Nguyên nhân chính cho những bất cập trên là do việc đào tạo nghề chỉ
chú trọng đến số lượng chỉ tiêu được giao mà không quan tâm đến chất lượng, bên
cạnh đó là công tác hướng nghiệp không được thực hiện đầy đủ, việc đào tạo nghề
gắn với tạo việc làm chưa có sự liên kết với nhau.
Thanh Chương là một huyện thuần nông, dân số đông, nguồn nhân lực dồi
dào nhưng đều là lao động nông thôn. Kinh tế của huyện chủ yếu là nông nghiệp,
tỷ lệ hộ nghèo cao so với mặt bằng chung của tỉnh. Nhận thấy những điểm yếu kém
và để theo kịp quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, Đảng và Chính
quyền huyện cũng đã nhận định tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề cho lao
động nông thôn, đồng thời triển khai và đẩy mạnh công tác đào tạo nghề trên địa
bàn huyện.
Việc nghiên cứu đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao năng
lực hoạt động của
các


sở dạy nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề và tạo
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
việc làm ổn định lâu dài cho người

lao
động là vấn đề vô cùng quan
trọng.
Để gópmột phần nhỏ bé vào giải quyết các vấn đề bất cập nêu trên, tôi
tiến
hành
nghiên cứu đề tài: “Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn
huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An
”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về đào tạo, đánh giá nhu cầu đào tạo nói
chung và đào tạo nghề nói riêng.
- Đánh giá thực trạng đào tạo và nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn
trên địa bàn huyện Thanh Chương trong những năm gần đây.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đào tạo nghề cho lao động nông
thôn trên địa bàn huyện Thanh Chương những năm qua.
- Dự báo nhu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển đào tạo
nghề trên địa bàn huyện Thanh Chương những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề thực tập là đào tạo nghề cho lao động
nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Chương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không
gian:
+
Nghiên cứu này được thực hiện trên phạm vi toàn huyện Thanh Chương.
+ Một số nội dung chuyên sâu được thực hiện ở một số mô hình tiêu biểu
trên phạm

vi
huyện Thanh Chương.
- Về thời
gian:
+ Các dữ liệu phục vụ cho đánh giá thực trạng đào tạo nghề, các loại hình
đào tạo của
các
cơ sở dạy nghề được thu thập từ năm 2007 đến
2009.
+
Các giải pháp chủ yếu đề xuất thực hiện có thể áp dụng từ năm
2010
đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu duy vật biện
chứng.
- Phương pháp thống kê, hồi cứu tài liệu, kế thừa các kết quả nghiên cứu
trong và ngoài
nước
về việc làm, đào tạo, thị trường lao động, nguồn nhân
lực.
- Phương pháp khái quát hóa, quy nạp, nội suy, so sánh đối chiếu
v.v
5. Kết cấu đề tài
Chuyên đề gồm các phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, danh
mục các tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương

- Chương 2: Thực trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện Thanh
Chương
- Chương 3:Giải pháp đào tạo nghề cho lao động nông thôn huyện Thanh
Chương, tỉnh Nghệ An
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
I.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
I.1.1. Khái niệm nghề
Khái niệm nghề theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau nhất
định.Cho đến
nay
thuật ngữ “nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau. Dưới đây là một số khái
niệm
về
nghề:
+
Khái niệm nghề ở Nga được định nghĩa: "Là một loại hoạt động lao động
đòi hỏi có
sự
đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh
tồn".
+
Khái niệm nghề ở Pháp: "Là một loại lao động có thói quen về kỹ năng,
kỹ xảo của
một
người để từ đó tìm được phương tiện

sống".
+ Khái niệm nghề ở Anh được định nghĩa: "Là công việc chuyên môn đòi
hỏi một sự
đào

tạo
trong khoa học học nghệ
thuật".
+
Khái niệm nghề ở Đ
ức
được định nghĩa:" Là hoạt động cần thiết cho xã hội
ở một lĩnh
vực
lao động nhất định đòi hỏi phải được đào tạo ở trình ñộ nào đó". Như
vậy nghề là một hiện
tượng
xã hội có tính lịch sử rất phổ biến gắn chặt với sự phân
công lao động, với tiến bộ khoa học
kỹ
thuật, và văn minh nhân loại. Bởi vậy được
nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu từ nhiều
góc
độ khác
nhau.
+ Ở Việt Nam, nhiều định nghĩa nghề được đưa ra song chưa được thống
nhất, chẳng hạn

định nghĩa được nêu: "Nghề là một tập hợp lao động do sự
phân công lao động xã hội quy định


giá trị của nó trao đổi được. Nghề
mang tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi
do

trình
độ của nền sản
xuất và nhu cầu xã hội. Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác
nhau, song chúng tôi thấy đều thống nhất ở một số nét đặc trưng nhất định như
sau:

Đ
ó
là hoạt động, là công việc về lao động của con người được lặp đi
lặp lại


Là sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã
hội.
• Là phương tiện để sinh
sống

Là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã
hội,

đòi hỏi phải có một quá trình đào tạo nhất định. Hiện nay xu thế phát triển của
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
nghề chịu tác

động
mạnh mẽ của tác động KHKT và văn minh nhân loại nói
chung và về chiến lược phát triển
KT-XH
của mỗi quốc gia nói riêng. Bởi vậy
phạm trù "Nghề" biến đổi mạnh mẽ và gắn chặt với xu
hướng
phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước
I.1.2. Đào tạo nghề
Khái niệm đào tạo thường đi liền với giáo dục và thành một cặp đôi là
giáo dục - đào
tạo.
Giáo dục được hiểu là các hoạt động và tác động hướng vào
sự phát triển và rèn luyện năng
lực
(bao gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo ) và
phẩm chất (niềm tin, tư cách, đạo đức ) ở con
người

để
có thể phát triển nhân
cách đầy đủ nhất và trở nên có giá trị tích cực đối với xã
hội.
Khái niệm đào tạo, theo từ điển tiếng Việt được hiểu là việc: "làm cho trở
thành người

năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [65,tr.279]. Cắt nghĩa
động từ đào tạo này là
hoạt


động
trang bị cho người lao động năng lực (kiến
thức, kỹ năng, thái độ) theo một tiêu chuẩn
định
trước để cho người lao động có
năng lực và trở nên hữu ích trong một số công việc hoặc hoạt
động



hội.
Từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt nam, khái niệm tương
đối đầy đủ
là:

"Đào
tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt
được các kiến thức, kỹ năng

kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng
lực để thực hiện thành công một hoạt động xã
hội
(nghề nghiệp) cần thiết.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà
nội, khái
niệm
đào tạo là: "Quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên
môn, nghiệp vụ cho người lao
động

để họ có thể đảm nhận được một công việc
nhất định" [83, tr.54]. Theo một khái niệm khác
về
đào tạo lao động kỹ thuật:
"là quá trình hoạt động đào tạo có mục đích, có tổ chức và có kế
hoạch
trong hệ
thống
đào
tạo kỹ thuật thực hành nhằm hình thành và phát triển kiến thức, kỹ
năng, thái độ cho mỗi


nhân
người lao động ở các cấp trình độ để có thể hành
nghề, làm công việc phức tạp với năng
suất
và hiệu quả cao, đồng thời có năng lực
thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của kỹ thuật và
công
nghệ trong thực tế"
[30,
tr.29].
Theo ILO: "Những hoạt động nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái
độ cần có cho
sự
thực hiện có năng suất và hiệu quả trong pham vi một nghề
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương

hoặc nhóm nghề. Nó bao gồm đào
tạo
ban đầu, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập
nhật và đào tạo liên quan đến nghề nghiệp chuyên
sâu"
.
Luật Dạy nghề đưa ra khái niệm như sau: "Dạy nghề là hoạt động dạy và
học nhằm trang
bị
kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người
học nghề để có thể tìm được
việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành
khóa học." [70, tr.9]. Luật cũng qui định có ba
cấp
trình độ đào tạo là sơ cấp nghề,
trung cấp nghề, cao đẳng nghề và về hình thức của hoạt động
dạy
nghề bao gồm
cả dạy nghề chính qui và dạy nghề thường
xuyên.
Tóm lại
khái niệm đào tạo nghề như sau:
"Đào
tạo nghề là hoạt động trang
bị
n
ă
n
g

lực (tri thức, kỹ năng và thái độ) hành nghề cho người lao động để
người lao động có thể
h
à
nh
nghề hoặc tự tạo việc
l
à
m
"
.
Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết
và thực
hành
để các học viên có ñược một trình ñộ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo,
thành thục nhất định về
nghề

nghiệp.
Học nghề:
Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực hành
của người
lao
động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất
định.
Đào
tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, gồm những
người đến tuổi
lao
động chưa được học nghề, hoặc những người trong độ tuổi lao

động nhưng trước đó chưa được
học
nghề. Đ
ào
tạo mới nhằm đáp ứng tăng
thêm lao động đào tạo nghề cho Xã
hội.
Đào
tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, có chuyên
môn nhưng do
yêu
cầu mới của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến việc thay đổi
cơ cấu ngành nghề, trình độ
chuyên
môn.
Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hóa
kiến thức
còn
thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ
năng nghề nghiệp theo
từng
chuyên môn và thường được xác nhận bằng một
chứng chỉ hay nâng lên bậc cao
hơn.
I.1.3. Lao động nông thôn
Khái niệm nguồn lao động nông thôn: nguồn lao động nông thôn là một bộ phận
dân số sinh sống và làm việc ở nông thôn trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp
luật (nam từ đủ 15 tuổi đến 60, nữ từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi) có khả năng lao động.
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
Lực lượng lao động nông thôn là một bộ phận của nguồn lao động ở nông
thôn bao gồm những người ở độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc
làm và những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm. Tuy nhiên, do đặc
điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực lượng tham gia sản xuất
nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao động mà còn có những
người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với những công việc phù
hợp với mình. Từ khái niệm nguồn lao động mà ta thấy lao động ở nông thôn rất
dồi dào, nhưng đây cũng là thách thức cho việc giải quyết việc làm ở nông thôn.
Do đó đẩy mạnh đào tạo nghề và tạo việc làm sau đào tạo nghề cho lao động nông
thôn là hướng giải quyết vấn đề cho lao động nông thôn.
I.2. ĐẶC ĐIỂM ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
Như vậy, đào tạo nghề cho lao động nông thôn là quá trình kết hợp giữa dạy
nghề và học nghề, đó là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết
và thực hành để những người lao động nông thôn có được một trình độ, kỹ năng, sự
khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội nông thôn. Do đó, đào tạo nghề cho lao động nông thôn có những đặc điểm
riêng biệt sau:
- Đặc điểm về đối tượng đào tạo: Xét về đối tượng đào tạo, đào tạo nghề cho
lao động nông thôn có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Một là, đối tượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn có số lượng lớn.
trên thực tế, loài người bắt đầu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, vì vậy phần lớn
dân số đều bắt đầu từ làm. Xã hội ngày càng phát triển ngành nghề mới càng xuất
hiện, bộ phận dân cư nông nghiệp dần dần chuyển sang các ngành nhề mới. quá
trình này được đẩy mạnh khi các nước bước vào công nghiệp hóa. Vì vậy, đối với
những nước này, tỷ lệ dân số sống ở nông thôn và làm nông nghiệp chiếm tỷ trọng
lớn, thường từ 60-70%.
Số lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn không chỉ lớn do số lượng
nguồn lao động nông thôn lớn, mà còn thể hiện ở chất lượng của nguồn lao động
nông thôn thấp nên yêu cầu đào tạo cao. Ở Việt Nam năm 2008, có 74,9% lao động

có việc làm chưa qua đào tạo, tương ứng là 33,64 triệu người. tỷ lệ này đối với lao
động nông thôn là 83,9% tương ứng 19,2 triệu người.
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
+ Hai là, đối tượng đào tạo nghề của lao động nông thôn rất đa dạng. Tính đa
dạng của đối tượng đào tạo được biểu hiện qua tính đa dạng của nguồn lao động
nông thôn
+ Ba là, đối tượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn có nguồn nội lực cho
đào tạo rất hạn chế. Số lượng các đối tượng đào tạo nghề rất lớn, phong phú về
nghề và hình thức đào tạo. Tuy nhiên, do đó là những cư dân ở nông thôn nên điều
kiện của họ cho việc học tập nghề rất hạn hẹp, nhất là học ở bậc cao và theo các
hình thức trường lớp.
- Đặc điểm về chủ thể đào tạo: Với đối tượng đào tạo nghề trên đòi hỏi hệ
thống đào tạo nghề, mà trước hết là chủ thể đào tạo (hệ thông các cơ sở đào tạo,
cán bộ đào tạo, chương trình và các hình thức đào tạo…) phải có sự thích ứng. Sự
thích ứng đó của hệ thống đào tạo tạo nên những đặc điểm của đào tạo nghề cho
lao động nông thôn, cụ thể:
+ Nông thôn trải theo không gian rộng lớn, nhất là khu vực nông thôn miền
núi. Hệ thống hành chính nông thôn cấp cơ sở là xã. Với đặc điểm phân bố dân cư
và hệ thống hành chính như trên, hệ thống đào tạo nghề cho lao động nông thôn
cũng có những điểm đặc thù so với đào tạo ở thành thị và có sự khác biệt giữa đào
tạo nghè cho lao động nông thôn đồng bằng với nông thôn miền núi, thậm chí cả
nông thôn ngoại ô với nông thôn đồng bằng nói chung.
Sự khác biệt ở hệ thống đào tạo được biểu hiện ở tính chuyên môn hóa cao của các
cơ sở đào tạo vùng nội và ngoại ô, tính tổng hợp của hệ thống đào tạo cho lao động
nông thôn ở các địa phương thuộc vùng xã nội đô, các vùng trung du và miền núi.
Không những vậy, hệ thống đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn thể hiện ở tính đa
dạng của các tổ chức tham gia đào tạo nghề, ở tính đa dạng của đối tượng dạy nghề.
Cũng từ đặc điểm trên dẫn đến điều kiện của hệ thống dạy nghề cho lao động

nông thôn có nhiều khó khăn hơn các cơ sở thành thị. Trong các cơ sở đào tạo nghề
cho lao động nông thôn vùng đồng bằng có nhiều thuận lợi hơn các cơ sở ở trung
du và miền núi. Vì vậy sức hấp dẫn đối với đội ngũ cán bộ và giáo viên của các cơ
sở đào tạo vùng trung du miền núi thấp hơn vùng đồng bằng, nên chất lượng của
đội ngũ này cũng thấp hơn. Với đặc điểm này, việc tổ chức xây dựng hệ thống đào
tạo nghề, nhất là ở các vùng khó khăn cần có sự trợ giúp đặc biệt của nhà nước.
Trong nông thôn, bên cạnh hệ thống các cơ sở đào tạo chuyên, hệ thống các
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
tổ chức
kinh tế như hộ thủ công truyền thống, các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp,
các tổ chức xã hội như hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, đặc biệt của các
tổ chức khuyến nông, lâm, ngư cũng đảm nhiệm chức năng đào tạo nghề. Vì vậy, xã
hội hóa các nguồn lực và đa dạng hóa các hình thức đào tạo nghề là giải pháp quan
trọng để nâng cao năng lực của tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
-
Đặc điểm về sử dụng kết quả đào tạo:
Về sử dụng kết quả đào tạo,đào tạo
nghề cho lao động nông thôn cũng có những biểu hiện đặc thù sau:
+
Nông thôn với điều kiện làm việc và sinh sống có nhiều khó khăn hơn thành
thị, lao động nông thôn chủ yếu là nông nghiệp có thu nhập thấp. Vì vậy sức hấp
dẫn lao động đào tạo chất lượng cao kém. Xét trên phương diện này, thu hút lao
động có chất lượng cao rất khó khăn. Để có đội ngũ lao động trình độ chuyên môn
phù hợp, một mặt cần có kế hoạch đào tạo theo yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực
của kinh tế nông thôn; mặt khác cần có chế độ thỏa đáng trong thu hút và sử dụng
lao động. Có như vậy, đào tạo cho lao động nông thôn mới đạt kết quả cao…
+ Bên cạnh sức thu hút lao động chất lượng cao kém, tính đa dạng của lao
động nông thôn cũng tạo nên những sự khác biệt trong sử dụng. Những lao động có

thu nhập cao, ổn định như lao động trong các nghề thủ công truyền thống, các hoạt
động dịch vụ mới có sức thu hút lao động cao. Vì vậy, đào tạo nghề cho các hoạt
động này có nhu cầu cao. Ngược lại, những hoạt động thu nhập thấp, lao động nặng
nhọc…như lao động nông nghiệp có sức thu hút kém, đào tạo nghề cho lao động
loại này có nhu cầu thấp, trong khi đó yêu cầu của sản xuất này lại rất cao. Xét trên
phương diện này, đặc điểm trong sử dụng lao động nông thôn chi phối lớn đến đào
tạo nghề cho lao động nông thôn.
+ Đối với lao động nông nghiệp, bên cạnh sức hấp dẫn kém, tạo nhu cầu thấp
cho đào tạo nghề, quá trình biến động nguồn lao động dẫn đến chất lượng lao động
thấp về trình độ, về sức khỏe và cao về độ tuổi. Hơn nữa, tính thời vụ của sản xuất
nông nghiệp dẫn đến sử dụng lao động nông nghiệp vào nhiều hoạt động với tính
chất nghề nghiệp khác nhau: nhiều công đoạn trong một cây trồng (cày, bừa, gieo,
cấy…) cà cho nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Vì vậy, đào tạo nghề cho lao động
nông nghiệp khác với đào tạo nghề cho hoạt động phi nông nghiệp là đối tượng đa
dạng, nội dung đào tạo nghề tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, nhiều
nghề khác nhau, dẫn đến khối lượng đào tạo lớn, thời gian đào tạo dài và các hình
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
thức đào tạo phong phú. Với tính chất trên, đào tạo trong từng gia đình kết hợp với
bổ sung của các tổ chức khuyến nông, lâm và các tổ chức xã hội, giữa đào tạo nghề
cơ bản với các hoạt động bồi dưỡng nâng cao có vai trò hết sức quan trọng.
I.3. NỘI DUNG, HÌNH THỨC VÀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC ĐÀO TẠO
NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
I.3.1. Nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, nội dung đào tạo nghề gồm đào tạo tay nghề và những
kiến thức tổng hợp. Vì vậy, đào tạo nghề theo nghĩa rộng bao hàm cả đào tạo văn
hóa (làm nền tảng cho đào tạo nghề); đào tạo nghề nghiệp (nội dung chính là đào
tạo chuyên môn theo từng nghề nghiệp của người lao động, hoạt động chính của

người lao động ở chuyên môn này); đào tạo kiến thức về kinh tế, thị trường, pháp
luật, tổ chức cuộc sống…
- Nội dung hiểu theo nghĩa hẹp: Đào tạo nghề theo chuyên môn của người
lao động, trong đó đào tạo nghề tập trung đào tạo chuyên môn theo từng nghề
nghiệp của người lao động. Các nội dung về nâng cao trình độ văn hóa, đào tạo
những kiến thức chung ngoài các kiến thức chuyên sâu về nghề nghiệp không được
đề cập theo phạm vi hẹp.
Tuy nhiên, dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đào tạo nghề cho lao động
nông thôn bao cũng bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Một là, xây dựng hệ thống mạng lưới dạy nghề, những chủ thể của quá trình
đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Hệ thống dạy nghề ở mỗi quốc gia, mỗi vùng, địa phương và các cơ sỏ sản
xuất kinh doanh rất đa dạng. Đó là hệ thống các trường nghề, bao gồm các trường
cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề và các trung tâm dạy nghề. Đó cũng có thể là
các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư, công… làm nhiệm vụ chung là khuyế khích
các hoạt động gắn với các ngành phát triển, trong đó có các hoạt động chuyển giao
tiến bộ công nghệ và dạy nghề gắn với quá trình chuyển giao đó. Và đó cũng có thể
là các tổ chức hội nghề, như hội nuôi ong, hội làm vườn, hội cơ khí… cũng có nội
dung hoạt động chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ và nâng cao trình độ tay
nghề của các hội viên. Đó cũng có thể là các tổ chức chính trị như hội nông dân,
họi phụ nữ, hội cựu chiến binh. Thậm chí đó là các doanh nghiệp, các gia đình dạy
nghề dưới hình thức truyền nghề…
Quy hoạch và thiết kế hệ thống các cơ sở đào tạo nghề theo từng cấp học,
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
từng hình thức đào tạo nghề và theo từng vùng địa phương là nội dung mang tính
tiền đề quan trọng. Trong quy hoạch mạng lưới các cơ sở dào tạo nghề, vấn đề cơ
cấu các loại hình cơ sở đào tạo nghề, xác định chức năng vị trí và đào tạo mối quan
hệ trong đào tạo nghề giữa các loại hình trong hệ thống có vai trò hết sức quan trọng.

Cần lưu ý rằng: Hệ thống đào tạo nghề cho lao động nông thôn tuy bao gồm
tất cả những chủ thể tham gia vào quá trình đào tạo nghề. Tuy nhiên, những chủ thể
này cần có sự chủ động và tiếp cận trực tiếp đến người học, vì đặc tính lao động
nông thôn và những điều kiện cho học nghề của những người học có những hạn
chế nhất định. Với sự khác biệt này, những tổ chức dạy nghề gần nông thôn, như
các trung tâm dạy nghề cấp huyện, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư, các tổ chức
chính trị ở nông thôn như hội nông dân, hội phụ nữ… thường phát huy có hiệu quả
hơn trong dạy nghề cho lao động nông thôn. Những tổ chức dạy nghề cấp cao như
cao đẳng nghề, trung cấp nghề cũng có vai trò đà tạo nghề cho lao động nông thôn,
nhưng tập trung vào nhóm ngành phi nông nghiệp và mức độ phát huy hạn chế
hơn.
- Hai là, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo nghề: Hệ
thống cơ sở vật chất là những điều kiện rất cần thiết cho hoạt động dạy nghề. Dạy
nghề là dạy và rèn kỹ năng lao động, vì vậy dạy nghề cần có hệ thống sơ sở vật
chất đồng bộ, nhất là các trang thiết bị phục vụ dạy nghề và rèn nghề. Kinh phí cho
việc mua sắm cá thiết bị là rất lớn, vì đó là các máy móc, các thiết bị cho người học
rèn tay nghề nên số lượng lớn và sử dụng thường xuyên. Vì vậy, xây dựng cơ sở
vật chất phục vụ cho đào tạo nghề có vai trò hết sức quan trọng. Thực hiện xây
dựng cơ sở vật chất có sự tham gia của các cấp quản lý vĩ mô với các hoạt động
quan trọng như: Quy hoạch hệ thống đào tạo nghề trên phương diện cơ sở vật chất,
cấp vốn cho các trường, các cơ sở đào tạo nghề và giám sát qua trình sử dụng vốn.
Vai trò này chủ yếu thuộc về Tổng Cục dạy nghề với tư cách là đơn vị thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về dạy nghề, các bộ ngành, các địa phương có liên
quan trong chức năng chủ quản của một số cơ sở đào tạo nghề cho lao động nông
thôn thuộc ngành và địa phương.
Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất cho đào tạo nghề cho lao động nông thôn
còn thuộc về chính các cơ sở đào tạo trong việc sử dụng nguồn vốn xã hội trong
xây dựng cơ sở vật chất của mình. Đăc biệt, các cơ sở đào tạo nghề còn năng động
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
trong việc huy động nguồn vốn từ các đơn vị sử dụng lao động, từ các tổ chức phi
chính phủ theo phương châm “ xã hội hóa” đào tạo nghề cho lao động nông thôn;
trong việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất của từng cơ sở đào tạo
nghề được xây dựng. đây cũng là cơ sở để tái xuất mở rộng các cơ sở vật chất của
các cơ sở đào tạo nghề.
- Ba là, xây dựng các chương trình đào tạo nghề: Các chương trình đào
tạo nghề là cơ sở để các cơ sở đào tạo nghề thực hiện các hoạt động đào tạo
nghề. Các chương trình phải rất cụ thể theo từng nghề và nhóm nghề. Các
chương trình hướng đến 2 mục tiêu là trang bị cho người học những kiến thức
cơ bản và rèn luyện kỹ năng nghề một cách cụ thể. Để xây dựng chương trình
đào tạo nghề, các cơ sở đào tạo nghề phải xác định được hệ thống ngành nghề
cơ sở sẽ tham gia đào tạo. Cơ sở xác định hệ thống ngành nghề là phạm vi sản
phẩm của các cơ sở đào tạo nghề sẽ cung ứng. Vì vậy, căn cứ xác định hệ
thống ngành nghề đào tạo là nhu cầu của các địa phương các cơ sở đào tạo
cung ứng lao động đào tạo. Xét trên khía cạnh này, mối quan hệ giữa công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với hệ thong ngành nghề sẽ phát sinh là cơ sở để xác
định nhu cầu đào tạo. Việc xác định nhu cầu ngành nghề đào tạo là sự kết hợp
giữa các địa phương với các cơ sở đào tạo trên địa bàn các địa phương theo
mức độ ảnh hưởng của các cơ sở đào tạo. Việc tổ chức xây dựng chương trình
đào tạo thuộc về chức năng của các trường dưới sự chỉ đào, giám sát và phê
duyệt của các cơ quan quản lý nhà nước.
Để có chương trình đào tạo có chất lượng, nhà nước có thể tổ chức xây dựng
các chương trình chuẩn theo từng cấp đào tạo nghề, có phần để từng cơ sở đào tạo
nghề bổ sung, lựa chọn cho phù hợp với điều kiện từng cơ sở và yêu cầu sử dụng
lao động của từng vùng.
Tuy nhiên, chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn so với chương
trình đào tạo nghề nói chung, cần cụ thể và dễ hiểu hơn. Thậm chí đào tạo nghề cho
lao động nông thôn vùng sâu, vùng xa, cho đồng bào dân tộc ít người cần theo
phương thức cầm tay, chỉ việc, hết sức cụ thể, không tách rời mà gắn lý thuyết với

thực hành theo từng kỹ năng nghề. Thời gian tổ chức các lớp dạy nghề thường
ngắn, vào những thời điểm thích hợp, thường là những lúc nông nhàn.
- Bốn là phát triển đội ngũ cán bộ đào tạo nghề: Đội ngũ cán bộ đào tạo nghề
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
bao gồm các cán bộ quản lý ở cơ sở đào tạo nghề và đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề, đây là những máy cái, trực tiếp truyền đạt các
kiến thức cơ bản về nghề; đồng thời cũng là những người hướng dẫn nghề và rèn
luyện tay nghề. Vì vậy, đội ngũ giáo viên dạy nghề phải là những người nắm vững
lý thuyết, nhưng rất giỏi về thực hành. Để có được đội ngũ giáo viên dạy nghề đáp
ứng yêu cầu, các cơ sở dạy nghề phải có chế độ tuyển dụng những người đủ tiêu
chuẩn về chuyên môn (có nền tẳng lý thuyết vững và trình độ tay nghề giỏi), có
long yêu nghề. Không chỉ vậy, các cơ sở đào tạo nghề cần có chế độ thường xuyên
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và có chính sách sử dụng đội ngũ giáo
viên theo hướng khuyến khích, tạo sự yên tâm với nghề, nhất là ở những nơi có sự
cạnh tranh cao giữa các trường nghề với các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp.
- Năm là xác định nhu cầu đào tạo nghề trong từng vùng, từng cơ sở đào tạo
trong vùng: Nhu cầu đào tạo nghề là cơ sở quan trọng để hệ thống đào tạo nghề
chẩn bị các điều kiện đào tạo nghề như xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo, chuẩn bị
các điều kiện vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên tương ứng. Ngược lại,
nhu cầu đào tạo cũng có thể được tính toán từ việc xem xét các điều kiện vật chất
và con người có thể huy động cho đào tạo nghề với nhu cầu từ sự phát triển kinh tế
xã hội. Việc xem xét mối tương quan giữa nhu cầu xã hội và khả năng về các điều
kiện có thể huy động là quy trình hợp lý nhất để xác định nhu cầu đào tạo nghề ở
một quốc gia, một vùng, địa phương trong một khoảng thời gian nhất định.
Tuy nhiên, xem xét nhu cầu đào tạo nghề cần xem xét tới đối tượng của hoạt
động dạy nghề, những người học nghề với nhu cầu học nghề thực sự của họ và các
điều kiện của chính họ để tham gia vào quá trình đào tạo nghề. Nông dân là những
người có điều kiện sống khó khăn nên kinh phí học nghề dưới dạng học phí thường

sử dụng ngân sách hoặc qua các chương trình hỗ trợ. Thậm chí có một số đối tượng
như người nghèo, các đối tượng chính sách khác còn phải hỗ trợ kinh phí cho
người học mới có thể tổ chức được. Vì vậy, xã hội hóa đào tạo nghề, giảm bớt gánh
nặng về kinh phí mới hy vọng nâng cao trình độ nghề cho lao động nông thôn, khu
vực có số lượng người cần đào tạo nghề rất lớn.
I.3.2. Hình thức đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Một trong những nhiệm vu quan trọng của kế hoạch đào tạo là xác định các
hình thức
đào

tạo
thích hợp. Hình thức đào tạo là cơ sở để xây dựng kế hoạch đào
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
tạo, đồng thời cũng là cơ
sở

để
tính toán hiệu quả kinh tế của đào tạo. Tùy theo yêu
cầu và điều kiện thực tế có thể áp
dụng
hình thức đào tạo này hay hình thức đào tạo
khác. Những hình thức đào tạo nghề đang được áp dụng chủ yếu hiện nay
là:
- Kèm cặp trong sản xuất: Là hình thức đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc,
chủ yếu là thực hành
ngay
trong quá trình sản xuất do xí nghiệp tổ chức. Kèm cặp

trong sản xuất được tiến hành dưới hai
hình
thức: kèm cặp theo cá nhân và kèm
cặp theo tổ chức, đội sản xuất. Với kèm cặp theo cá
nhân,

mỗi
thợ học nghề
được một công nhân có trình độ tay nghề cao hướng dẫn. Người hướng dẫn
vừa
sản xuất vừa tiến hành dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức kèm cặp theo tổ,
đội sản xuất,
thợ
học nghề được tổ chức thành từng tổ và phân công cho những
công nhân dạy nghề thoát ly
sản
xuất chuyên trách trình độ nghề nghiệp và
phương pháp sư phạm nhất định. Quá trình đào tạo
được
tiến hành qua các
bước:

Bước 1: Phân công những công nhân có tay nghề cao vừa sản xuất
vừa
hướng dẫn thợ học nghề. Trong bước này, người hướng dẫn vừa sản xuất
vừa
phải
giảng cho người học về cấu tạo máy móc thiết bị, nguyên tắc vận hành, qui trình
công
nghệ,

phương pháp làm việc. Người học theo dõi những thao tác, phương
pháp làm việc của
người

hướng
dẫn.
Đồng
thời doanh nghiệp hoặc phân xưởng
tổ chức dạy lý thuyết cho người học do
kỹ


hay kỹ thuật viên đảm
nhận.
Bước 2: Giao việc làm thử, người học bắt tay vào làm thử dưới sự kiểm tra
uốn nắn của
người
hướng
dẫn.
Bước 3: Giao việc hoàn toàn cho người học nghề khi người học nghề có thể
tiến hành
công
việc độc lập được, những người hướng dẫn vẫn thường xuyên
theo dõi giúp
đỡ.
- Các lớp cạnh doanh nghiệp: Là các lớp do doanh nghiệp tổ chức nhằm
đào tạo riêng cho
mình
hoặc cho các doanh nghiệp cùng ngành, cùng lĩnh vực.
Chủ yếu đào tạo nghề cho công nhân

mới
được tuyển dụng, đào tạo lại nghề,
nâng cao tay nghề, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật mới.
Hình
thức đào tạo này
không đòi hỏi có đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên
trách mà dựa vào các điều kiện sẵn có của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo
gồm hai phần:

thuyết và thực hành sản xuất, phần lý thuyết được giảng tập
trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật
phụ
trách, phần thực hành được tiến hành ở
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
các phân xưởng do các kỹ sư hoặc công nhân lành
nghề
hướng
dẫn.
- Các trường chính qui: Đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển trên
cơ sở kỹ thuật hiện
đại,

các
Bộ hoặc Ngành thường tổ chức các trường dạy nghề
tập trung, qui mô lớn, đào tạo công
nhân



trình độ cao, chủ yếu là đào tạo đội
ngũ công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ cao.
Thời
gian đào tạo từ hai
đến bốn năm tùy theo nghề đào tạo, ra trường được cấp bằng nghề. Khi tổ
chức
các
trường dạy nghề cần phải có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên chuyên trách
và cơ sở vật
chất
riêng cho đào tạo. Để nâng cao chất lượng
đào
tạo các trường
cần phải đảm bảo các điều kiện sau
đây:
+
Phải có đội ngũ giáo viên đủ khả năng chuyên môn và kinh nghiệm
giảng
dạy.
+
Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập,
các phòng
thí
nghiệm, xưởng trường. Nhà trường cần tổ chức các phân xưởng
sản xuất vừa phục vụ cho
giảng
dạy vừa sản xuất của cải vật chất cho xã hội.
Nếu không có điều kiện tổ chức xưởng sản xuất
thì
nên để gần các doanh

nghiệp lớn của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học. Các tài liệu

sách giáo khoa phải được biên soạn thống nhất cho các nghề, các trường.
- Các trung tâm dạy nghề: Đây là loại hình đào tạo ngắn hạn, thường dưới
một năm. Chủ yếu

đào tạo phổ cập nghề cho thanh niên và người lao
động.
I.3.3. Hệ thống tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Hệ thống tổ chức đào tạo dạy nghề gồm các trường chính qui và các cơ sở
dạy nghề.
Hệ
thống đào tạo chính qui: Bao gồm các trường thuộc Bộ, Ngành
và các địa phương. Số học sinh
đào
tạo các trường này được nhà nước giao chỉ
tiêu hàng năm và cấp kinh phí cho các trường theo
chỉ
tiêu; qui chế thi, cấp bằng
và cấp chứng chỉ theo qui định thống nhất của Nhà nước. Các cơ sở đào
tạo
nghề:
Theo bộ Luật Lao động bao gồm tất cả các cơ sở đào tạo ngoài hệ thống trường
đào
tạo
chính qui như: các trường dạy nghề của các tổ chức, cơ quan, Tổng công
ty, doanh nghiệp; các
trung
tâm đào tạo nghề quận, huyện; các trung tâm dịch vụ
việc làm. Các trung tâm đào tạo nghề

quận,
huyện và các trung tâm dịch vụ việc
làm đào tạo các lớp do các ngành và các thành phần kinh tế
yêu
cầu. Kinh phí của
các cơ sở này một phần được ngân sách nhà nước cấp, một phần do Bộ,
địa
phương chủ quản và người học tự đóng góp. Các trường dạy nghề tư thục và các
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
lớp dạy nghề

nhân: do các tổ chức, cá nhân tự tổ chức theo qui định của Nhà
nước. Kinh phí học tập chủ yếu
do
người học phải đóng góp. Hợp tác Quốc tế
về đào tạo nghề: Sự
mở cửa
của nền kinh tế, chính sách khuyến khích tăng
cường thu hút đầu tư
nước
ngoài khiến cho nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, các
công ty lớn trên thế giới đã tìm đến Việt
Nam
hợp tác trong nhiều lĩnh vực.
Chúng ta có thể khai thác khả năng của các tổ chức nước ngoài
trong
việc đào
tạo bồi dưỡng nghề với hình thức đào tạo thông qua hợp đồng giữa các bên, qua

các dự
án
đầu tư có khoản mục đào tạo mới và đào tạo lại. Hệ thống đào tạo nghề
Căn cứ vào thời gian đào
tạo,
đào tạo dạy nghề được chia làm hai loại: Đào tạo
dạy nghề dài hạn (cả đào tạo mới và đào tạo
lại):
Là hình thức đào tạo phổ biến
tại các trường chính qui của Nhà nước, các Bộ, Ngành và các
tỉnh.
Thời gian đào
tạo nghề dài hạn thường từ một năm trở lên. Đào tạo dạy nghề ngắn hạn: Là cách
tổ chức dạy nghề trong thời gian ngắn (từ ba đến mười hai tháng). Người học vừa
học lý thuyết
vừa

thực
hành theo hình thức kèm cặp tại nơi sản xuất, chủ yếu là
rèn luyện kỹ năng thực hành
nghề,
chuyển giao công nghệ… Nhằm tạo cơ hội cho
người học tìm được việc làm hoặc tự tạo ra việc
làm.
I.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÀO TẠO NGHỀ
I.4.1. Yếu tố về người học và cơ sở đào tạo
Chất lượng đào tạo nghề phụ thuộc vào hai khối đối tượng: bản
thân người
công nhân kỹ thuật và cơ sở đào tạo nghề ( Chất lượng cơ sở đào tạo) Quá trình
đào

tạo nghề có một số đặc trưng khác với giáo dục phổ thông và giáo dục đại
học.Đó là quá trính
đào
tạo trên cơ sở thiếp thu kết quả giáo dục phổ thông để đào
tạo về nghề nghiệp cho học sinh học
nghề.
Việc đào tạo để hình thành năng lực
nghề nghiệp giữ vai trò then chốt, chủ đạo. Quá
trình
đào tạo chú trọng đến một
hệ thống các kỹ năng thông qua thực hành, luyện tập.Đó chính

những yêu
cầu, vị trí công tác, hoạt động nghề nghiệp của người công nhân kỹ thuật. Đào tạo
nghề
được xem xét bởi nhiều thành tố
sau:
- Chất lượng đầu vào: bản thân người học nghề: Trình độ văn hóa, sở
trường nguyện
vọng,
sức khỏe, tình trạng kinh tế … của người học
nghề. Đây là
một yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến kết quả của quá trình đào tạo, nhất là đối với đối
tượng là lao động nông thôn. Phần lớn lực lượng lao động nông thôn là những
người có trình độ văn hóa tháp hơn so với những lao động của các khu vực thành
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
thị ( hơn nữa lao động nông thôn khu vực miền núi lại thấp hơn lao động nông thôn
khu vực đồng bằng). Do đó trình độ lao động và khả năng tiếp thu trong quá trình

đào tạo nghề cũng thấp hơn, điều này dẫn đến phải có các chương trình đào tạo
riêng phù hợp với lao động nông thôn. Về cơ bản, lao động nông thôn đều có điều
kiện kinh tế thấp, có mong muốn được đào tạo nghề để chuyển sang hoạt động
trong các lĩnh vực sản xuất khác hoặc cao hơn nông nghiệp nên tinh thần học hỏi
cao và có mục tiêu rõ ràng là một thuận lợi cho việc hướng nghiệp và đào tạo nghề.
- Quá trình đào tạo (hoạt động đào tạo nghề của cơ sở đào tạo
nghề) là yếu tố
quyết định đến chất lượng đầu ra của đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Vì đối
tượng là lao động nông thôn nên quá trình đào tạo phải có những yếu tố phù hợp
với đặc điểm của đối tượng đào tạo, cụ thể như:
+ Mục tiêu, nội dung, chương trình đào
tạo: Với lao động nông thôn thì mục
tiêu đào tạo là phải tạo ra cho họ có một ngành nghề mới ngoài nông nghiệp để họ có
thể kiếm việc làm mới phù hợp với khả năng, có thu nhập cao hoặc nâng cao trình độ
lao động nông nghiệp để lao động nông nghiệp đạt hiệu quả cao hơn. Nội dung đào
tạo ngoài những nội dung áp dụng cho đào tạo nghề nói chung thì cần phải đổi mới
để áp dụng vào đối tượng cụ thể là lao động nông thôn. Đối với chương trình đào tạo
nghề mới cho lao động nông thôn cần có nội dung cụ thể, đi từ cơ bản đến chuyên
sâu, từ lý thuyết đến thực tế như vậy người học mới tiếp thu tốt với vốn trình độ của
lao động nông thôn, chương trình đào tạo phải gắn với thực tế, thực hành nhiều hơn
đi đôi với việc truyền dạy những kỹ năng và phong cách lao động mới. Đối với đào
tạo nâng cao tay nghề cho lao động nông nghiệp cần phải áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp vào nội dung, chương trình đào tạo.
+ Đội

ngũ giáo viên, phương pháp đào tạo và cán bộ quản lý; (phẩm chất,
năng
lực). Vi lao động nông thôn có khả năng tiếp thu không cao và lần đầu được
tiếp thu những kiến thức mới về nghề được đào tạo nên đội ngũ giảng viên phải
nắm vững trình độ chuyên môn, phải có cách truyền dạy phù hợp cho đối tượng,

đặc biệt là tâm huyết với công việc đào tạo nghề.
+ Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học phù hợp đáp ứng nghề đào tạo (số
lượng,chất
lượng,
hiệu quả hoạt
động): Là một bộ phận không thể thiếu trong quá
trình đào tạo nghề, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học cho lao động nông thôn
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
phải đảm bảo được sự hỗ trợ đắc lực cho công tác giảng dạy và việc thực hành các
kỹ năng nghề nghiệp của người học.
+ Tài chính (kinh phí định mức đào tạo, vật tư thực hành, chi phí quản lý, thù
lao giáo viên
…): Đối tượng lao động nông thôn hầu hết đều có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn, để đảm bảo tốt công tác đào tạo nghề cho họ nhà nước và các cấp địa
phương phải đảm bảo hỗ trợ về mặt tài chính để người học có cơ hội tham gia đào
tạo nghề.
+ Dịch vụ đào tạo (cư xá, tư vấn việc làm, thông tin thị trường
lao động
…):
các hoạt động hướng nghiệp, tư vấn việc làm góp phần nâng cao chất lượng trước
và sau đào tạo.
- Học sinh tốt nghiệp: Năng lực và phẩm chất đạt được sau khi đào tạo theo
mục tiêu
đào
tạo; Sức khỏe đáp ứng nghề nghiệp; Kỹ năng sống (giao tiếp, hoạt
động xã
hội). Đặc biệt lao động nông thôn sau tốt nghiệp được tiếp thu nghề mới
khác xa so với những việc cũ là lao động nông nghiệp họ từng làm. Công việc sau

đào tạo sẽ đáp ứng nhu cầu về lao động cũng như những lợi ích kinh tế mà nó
mang lại. Người lao động sẽ sống vơi nghề mình đã chọn, áp dụng kỹ năng mình
học để tạo ra thu nhập cao hơn trước khi học nghề.
- Tham gia thị trường lao động (từ 6 đến 12 tháng kể từ khi ra
trường):
Trình độ chuyên môn đáp ứng yếu cầu làm việc (năng suất, tổ chức
hoạt
động); Mức độ hoàn thành nhiệm vụ công nhân kỹ thuật; Tính sáng tạo và thích
nghi trong
công
việc. Việc đánh giá kết quả giáo dục cần phản ánh được chất
lượng nhân cách có phù hợp hay
không
với yêu cầu đề ra. Cần phải xem xét chất
lượng đầu vào (tuyển sinh học sinh học nghề),
chất

lượng
của quá trình đào tạo
và chất lượng đầu ra (tốt nghiệp và tham gia vào cuộc sống). Đánh
giá
chất
lượng đào tạo không chỉ nhiệm vụ của các ñơn vị đào tạo nghề mà còn là của xã
hội. Đặc biệt là sự đánh giá trực tiếp của những người sử dụng sản phẩm đào
tạo (các doanh nghiệp, các
nhà
sản xuất
…).
I.4.2. Yếu tố về chính sách
Ngoài những yếu tố trên, yếu tố về chính sách, chủ trương của các cơ quan

chức năng về đào tạo nghề cho lao động nông thôn cũng đóng vai trò quan trọng.
Đảng, Chính phủ Việt nam đã giao cho Bộ
LĐ-TB&XH
về đào
tạo
nghề, với
mục tiêu là đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm, trong đó đào
tạo,
bồi
dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức cấp
xã.
Đề án
“Đào
tạo nghề cho
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
lao động nông thôn đến năm 2020”, kinh phí hơn 32.000 tỉ đồng
đã
đặt ra mục
tiêu
trên. Đề
án được Chính phủ thảo luận, cho ý kiến tại phiên họp thường kì
tháng 4 (diễn ra ngày
4
và 5/5) cần thực hiện từ 70-80% có việc sau học nghề. Để
đảm bảo 70-80% người học nghề có
việc
làm, Bộ sẽ huy động các


sở dạy nghề,
các trường CĐ,
ĐH
có đào tạo nghề cùng vào cuộc. Việc đào tạo nhắm đến đáp
ứng
nhu
cầu của sản xuất, kinh doanh, trong đó, các tài liệu và chương trình đảm
bảo phù hợp với các cơ
sở

sản

xuất.
Không có một mô hình đào tạo chung mà tuỳ
theo yêu cầu thực tế sẽ đào tạo đáp ứng.
“Việc
đào tạo sẽ rất đa dạng, linh hoạt để
gắn kết người học với việc
làm”.
Thực hiện Quyết định số
1956/QĐ-TTg
ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ
tướng Chính
phủ
phê duyệt Đề án
“Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020”. Ngày 20/4, Tổng cục
dạy
nghề đã tổ chức Hội nghị tập huấn “ Xây dựng

Đềán điều tra, khảo sát, dự báo nhu cầu và
xây
dựng mô hình dạy nghề cho lao
động nông
thôn.
Căn cứ vào kết quả điều tra, khảo sát, xây dựng mô hình thí
điểm dạy nghề cho lao động nông thôn. Để giúp các địa phương chủ động đề
xuất, xây dựng các mô hình thì điểm
và tổ chức thực hiện dạy nghề cho
lao động
nông thôn
thuộc các nhóm đối tượng
kể trên
trong năm 2010, Tổng cục dạy nghề
hướng dẫn một số nội dung xây dựng mô hình dạy
nghề
thí điểm trên cơ sở mô
hình sản xuất thành công trên địa bàn như
sau:
Tiêu chí xác định mô hình dạy nghề: Các nghề được dạy trong mô hình dạy
nghề có tính
đại
diện của địa phương. Mô hình có khả năng nhân rộng trên địa
bàn tỉnh/thành phố. Mô hình


tính
khả thi cao, dễ dàng triển khai thực hiện,
phù hợp với điều kiện của người lao động nông thôn


khả năng tổ chức ở địa
bàn. Mô hình phải đạt được hiệu quả kinh tế-xã hội (người được
học
nghề có khả
năng tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm; năng suất lao động cao hơn so với
trước

khi
học; thu nhập và đời sống của gia đình tốt hơn…).
Những tiêu chí cụ thể cần xác định khi xây dựng mô hình là: Xác định nhu
cầu học
nghề

của
lao động nông thôn trong độ tuổi lao động, có sức khỏe phù hợp
với ngành nghề đào tạo tại
địa
phương. Xác định nhóm đối tượng có nhu cầu học
nghề (theo 4 nhóm đối tượng nêu trên). Xác
định
đối tượng học nghề thuộc diện
hỗ trợ học nghề nào (theo diện hỗ trợ học nghề quy định tại Quyết định 1956

SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
-TTg).
Ngành nghề gì có khả năng tạo việc làm cao, dự kiến sẽ tổ chức đào tạo.
Đơn vị, tổ chức nào sẽ trực tiếp tổ chức, phối hợp tham gia tổ chức thực hiện
các lớp dạy nghề?

Hình
thức tổ chức các lớp dạy nghề như thế nào (kế hoạch,
tiến độ, thời gian học, địa điểm, chương
trình,

giáo
trình, học liệu, giáo viên)? Xác
ñịnh nhu cầu sử dụng lao động đã qua học nghề tại địa phương
của
các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh đóng trên địa bàn. Những cam kết về tổ chức việc
làm,
giới
thiệu việc làm cho lao động nông thôn sau khi được học nghề của các
doanh nghiệp, các tổ
chức

Chính
trị, Xã hội, Nghề nghiệp của địa phương (căn
cứ nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, nhu cầu sản xuất hàng
hóa, dịch vụ của địa phương); tỷ lệ lao động nông thôn sẽ có việc
làm
hoặc tự tạo
được việc làm sau khi học
nghề.
Các tỉnh/thành phố căn cứ tình hình kinh tế-xã hội thực tế tại
địa
phương, xác định những nghề phổ biến để xây dựng mô hình thí điểm dạy nghề.
Trước mắt
mỗi

tỉnh/thành phố lựa chọn 01 mô hình điểm dạy nghề nông
nghiệp, 01 mô hình dạy nghề phi
nông
nghiệp tại huyện triển khai thí điểm. Sau
đó phổ biến rãi đến các huyện trong tỉnh hoàn thành chỉ tiêu về đào tạo nghề trong
từng năm và từng giai đoạn cụ thể.
I.5. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG
THÔN
Phát triển nguồn lao động, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động nông
thôn là yêu cầu cấp thiết, một mặt do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nông thôn;
mặt khác do sự biến động nguồn lao động nông thôn đòi hỏi.
- Về xu hướng biến động của nguồn lao động nông thôn: Sự phát triển của
lực lượng sản xuất tạo ra các điều kiện để hình thành các ngành sản xuất mới, quá
trình đô thị hóa. Tình trạng đó dẫn đến sự biến động nguồn lao động nông thôn
theo hướng giảm cơ học và nguồn lao động nông thôn có xu hướng giảm dần cả về
số lượng và tỷ trọng trong tổng nguồn lao động của xã hội. Trên thực tế, bộ phận
nguồn lao động nông thôn có chất lượng cao luôn có xu hướng thoát ra khỏi nông
nghiệp, nông thôn đến với thành phố và các ngành phi nông nghiệp có thu nhập và
điều kiện làm việc tốt hơn. Điều đó dẫn đến chất lượng lao động ở nông thôn thấp
đi. Vì vậy, đào tạo nghề cho lao động nông thôn trở nên cấp thiết.
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
Trong điều kiện phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, tốc độ đô thị hóa ngày
càng tăng, nhu cầu lao động chất lượng cao cũng tăng theo. Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn vè đáp ứng yêu cầu của quá trình phân công lao động, của sự phát
triển các ngành nghề và đô thị mới; bổ sung cho sự giảm chất lượng nguồn lao
động nông thôn do sự biến động nguồn lao động theo xu hướng đó.
Chính vì vậy giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng


tầm quan trọng góp phần quyết định chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
sự
nghiệp đổi mới và hội nhập của đất nước. Đ

đáp ứng yêu cầu về con người và
nguồn nhân lực

nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH-
HĐH
,
cần tạo chuyển biến cơ bản,
toàn
diện về
GD-ĐT
- Đối với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội nông thôn: Đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn lao động nông thôn phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn
không chỉ bù đắp sự suy giảm chất lượng do các lao động có chất lượng cao di
chuyển ra khỏi nông thôn, mà còn do chính sự phát triển ngày càng cao của nông
thôn đòi hỏi
Như trên đã phân tích, sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội nói chung,
ở nông thôn nói riêng đã thúc đẩy phân công lao động theo ngành, theo lãnh thổ ở
nông thôn diễn ra ngày càng mạnh mẽ và chi tiết cả phương diện phân công lao
động xã hội và phân công lao động cá biệt.
Sự hình thành các ngành nghề mới xét trên khía cạnh phân công lao động
theo ngành và sự hình thành các vùng kinh tế mới, nhất là các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp, các vùng dân cư mới, các khu dịch vụ tập trung có sự tác động
đến cầu của đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp
nông thôn nói riêng. Quá trình hình thành các ngành nghề mới, các cụm, khu công
nghiệp, dịch vụ và đô thị mới là quá trình công nghiêp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
nói chung và nông thôn nói riêng. Vì vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp nông thôn tác động trực tiếp đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo
hướng nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và
ngược lại, đào tạo nghề nói chung và cho lao động nông thôn nói riêng đã tạo ra
những điều kiện để đẩy mạnh nhanh quá trình của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên phương diện nào đó, trình độ người lao động là yếu tố cầu thành lực lượng
sản xuất, đương nhiên sẽ là nhân tố tác động đến quá trình phân công lao động xã
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
hội mà biểu hiện là quá trình của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Nguyễn Nam Phương
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN HUYỆN THANH CHƯƠNG
2.1. TỔNG QUAN VỀ HUYỆN THANH CHƯƠNG
2.1.1. Điều kiện tự nhiên huyện Thanh Chương, Nghệ An
2.1.1.1. Về vị trí địa lí, hành chính
Thanh chương là một huyện miền núi của tỉnh Nghệ An có diện tích tự nhiên
là 112763 ha. Nằm về phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An.
- Phía Đông giáp huyện Đô Lương
- Phía Tây có dãy Trường Sơn – tiếp giáp huyện Căm Kớt, Tỉnh Bô-li-Khăm
–Xay Nước Cộng Hòa dân chủ nhân dân Lào.
- Phía Bắc giáp huyện Anh Sơn và huyện Đô Lương.
- Phía Nam giáp huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh.
Trung tâm huyện là thị trấn Thanh Chương cách thành phố Vinh 46Km. Toàn
huyện có 40 xã, Thị trấn (Trong đó có 23 xã miền núi, 8 xã vùng cao và 5 xã chung
biên giới Việt - Lào).
Địa hình phức tạp chia cắt bởi 5 con sông , trong đó sông Lam chảy qua huyện
48Km chia Huyện thành 2 vùng Tả ngạn và Hữu Ngạn. Chạy dọc theo sông Lam có

đường 553 dài 70Km nối liền từ huyện Anh Sơn đến Hà Tĩnh và huyện Nam Đàn.
2.1.1.2. Địa hình, đất đai
Địa hình huyện Thanh Chương gồm đủ 3 loại: đồng bằng, trung du và đồi núi,
nhiều sông suối. Trong đó:
- Vùng đồi núi: có 31 xã chiếm 74 % diện tích tự nhiên và 65% dân số của
huyện. Thế mạnh của vùng là rừng và đất đồi thích hợp trồng cây lâm nghiệp dài
ngày như thông, tràm, cây ăn quả và vùng nguyên liệu mía, sắn, chè phục vụ cho
nhà máy đường, nhà máy tinh bột sắn, nhà máy sản xuất chè, nhiều khoáng sản như
đá vôi
- Vùng đồng bằng gồm 8 xã và 1 thị trấn chiếm 26% diện tích tự nhiên và
35% dân số của huyện. Với địa hình rộng thích hợp với trồng cây lương thực, cây
ăn quả và khai thác các tài nguyên đá vôi, thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở hạ
tầng giao thông, các khu công nghiệp, đô thị
SVTH: Dương Lê Tâm Lớp: Kinh tế lao
động 51

×