Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Thực trạng lao động và việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn huyện thanh chương, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.31 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN
------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

TRẦN THỊ PHƯƠNG

Khóa học: 2012- 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN
------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

Sinh viên thực hiện: Trần Thị Phương

Giáo viên hướng dẫn:

Lớp: K46B- KTNN



Th.S Đào Duy Minh

Niên khóa:2012- 2016

Huế, 05/2016

2


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này, trong quá trình nghiên
cứu, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều
cá nhân và tổ chức:
Đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn tới quý thầy cô giáo Trường
Đại học Kinh tế Huế, các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế & Phát
triển đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo và trang bò cho tôi những kiến thức quý
báu trong 4 năm ngồi trên ghế nhà trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Th.S Đào
Duy Minh, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi với tất cả tinh thần
trách nhiệm và sự nhiệt tình trong suốt quá trình tôi hoàn thành khoá
luận của mình.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả anh chò đang công tác tại
Phòng LĐ-TBXH Huyện Thanh Chương, Tỉnh Nghệ An đã nhiệt
tình giúp đỡ, cung cấp số liệu cũng như chia sẻ những kinh nghiệm quý
báu giúp tôi hoàn thành khoá luận này.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng lòng biết ơn chân thành tới gia đình,
người thân, bạn bè đã động viên, giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập
và hoàn thành khoá luận của mình.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thanh Chương, ngày 17 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Trần Thò Phương
3
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Thanh Chương là một huyện miền núi nằm về phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An.
Dân cư ở đây khá đông. Đó vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn của huyện về nguồn lao
động cũng như giải quyết việc làm. Quá trình tìm hiểu tại địa phương mình, tôi quyết
định chọn đề tài: “Thực trạng lao động và việc làm của lao động nông thôn trên địa
bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An” làm đề tài nghiên cứu.
Mục đích chính của việc thực hiện đề tài này là phân tích, đánh giá được thực
trạng về lao động, việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Chương
giai đoạn 2013- 2015, từ đó đưa ra định hướng và giải pháp góp phần tạo việc làm và
nâng cao thu nhập cho người dân trên địa bàn huyện. Quá trình thực hiện đề tài, tôi đã
tiến hành thu thập số liệu từ nhiều phòng ban khác nhau ở UBND huyện Thanh
Chương. Ngoài ra, để nghiên cứu chính xác hơn, tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp ở
60 hộ trên địa bàn nghiên cứu.

Kết quả đạt được qua quá trình nghiên cứu:
- Về mặt lý luận: đề tài đã khái quát được một số khái niệm như: lao động, nguồn
lao động, việc làm, thu nhập, các chỉ tiêu đánh giá,...
- Về mặt nội dung: số liệu thứ cấp của đề tài đã làm rõ được một số thông tin cơ
bản của huyện về: đất đai, các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội, tổng số nhân khẩu,
tổng số lao động,...Số liệu sơ cấp được điều tra ở 60 hộ thuộc 2 xã trên địa bàn huyện
với 136 lao động đã cho thấy rõ hơn về tình hình, quy mô lao động của địa bàn nghiên
cứu. Đề tài còn phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian làm việc của lao động
qua các mặt: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hóa. Cuối cùng, đề tài đã đưa ra một số
giải pháp và kinh nghiêm tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn.

4
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

MỤC LỤC

5
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

BQ

Bình quân

BQC

Bình quân chung

CĐ- ĐH

Cao đẳng- Đại học

CNH- HĐH

Công nghiệp hoá- hiện đại hoá

ĐVT

Đơn vị tính

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GDTX

Giáo dục thường xuyên

HĐND


Hội đồng nhân dân

LĐBQ

Lao động bình quân

LĐ- TBXH

Lao động - Thương binh xã hội

NSLĐ

Năng suất lao động

TĐTTBQ

Tốc độ tăng trưởng bình quân

TĐVH

Trình độ văn hóa

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông


TNMT

Tài nguyên môi trường

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

XDGN

Xoá đói giảm nghèo

6
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh
XKLĐ

Xuất khẩu lao động

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ


7
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động và việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là
mối quan tâm lớn của hầu hết các quốc gia, hơn hết là một đất nước đang phát triển
như Việt Nam. Việc làm ở nước ta là một trong những vấn đề xã hội gốc rễ căn bản
cần được các cấp chính quyền quan tâm và theo dõi thường xuyên.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế, do đó đã làm thay đổi đáng kể quy
mô, cơ cấu lao động và vấn đề về giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho người
lao động. Giải quyết đủ việc làm cho người lao động chính là giải quyết tận gốc những
căn nguyên, nguồn gốc sâu xa nhất của các vấn đề xã hội gay cấn, đảm bảo giữ gìn trật
tự kỷ cương và an toàn xã hội. Tuy nhiên, dân số nước ta đang tăng lên nhanh chóng.
Theo Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, hằng năm, nước ta bổ sung từ 1,2- 1,6
triệu lao động. Nguồn nhân lực được bổ sung lớn về số lượng nhưng chất lượng không
được đảm bảo, nhất là lao động nông thôn dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, tỷ lệ
lao động nông nhàn và tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn đang diễn ra nhiều năm
qua. Theo báo cáo tình hình kinh tế- xã hội năm 2015 của Tổng cục thống kê, lao
động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành nghề kinh tế năm 2015 đạt 52,9
triệu người. Trong đó, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt chỉ đạt 21,9%( khu vực thành
thị là 38,3% và khu vực nông thôn là 13,9%), tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn là 1,83%.
Vì vậy, làm thế nào để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đang là bài toán lớn

cần được chính quyền quan tâm và giải quyết trong khi trình độ đào tạo chuyên môn
của người lao động còn khá hạn chế.
Thanh Chương là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An
với diện tích đất tự nhiên là 1126,92 km2, dân số 224.272 người (Chi cục thống kê
huyện Thanh Chương, 2015). Người dân của Huyện sống chủ yếu bằng nông nghiệp
và một số nghành nghề phi nông nghiệp có thể làm tăng thu nhập. Hằng năm có một
số lượng lớn người dân bước vào độ tuổi lao động song chất lượng nguồn lao động
8
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

còn hạn chế như không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không biết ngoại ngữ, tin
học nên gặp khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho người dân. Thêm vào đó là
việc dân số tăng nhanh, hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh diễn ra hằng năm nên việc giải quyết
việc làm đã khó nay càng khó hơn. Do đó, việc đưa ra các chính sách nhằm nâng cao
chất lượng nguồn lao động và giải quyết việc làm là cần thiết và quan trọng.
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn đó, tôi đề xuất thực hiện đề tài : “Thực trạng
lao động và việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh
Nghệ An” làm đề tài nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài nhằm đánh giá được thực trạng nguồn lao động và việc
làm của huyện Thanh Chương, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn lao động, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất cũng
như tinh thần của người dân huyện Thanh Chương.
2.2. Mục tiêu cụ thể

-

Hệ thống hóa về cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề lao động, việc làm;

-

Phân tích, đánh giá thực trạng lao động và việc làm của lao động nông thôn từ đó cho
biết những nhân tố ảnh hưởng đến lao động và việc làm của người dân.

-

Đề xuất định hướng và giải pháp giải quyết nguồn lao động dư thừa, tạo việc làm, tăng
thu nhập cho lao động nông thôn.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: thực trạng lao động và việc làm của lao động nông thôn huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

-

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: huyện Thanh Chương, tỉnh nghệ An.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp: trong quá trình thực tập tại UBND huyện Thanh Chương, tôi đã
tiến hành thu thập được các số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài. Cụ thể, số liệu được
thu thập tại phòng LĐTBXH, phòng TNMT, phòng Tài chính- kế hoạch, Chi cục
thống kê của huyện, UBND các xã được điều tra.
9

SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

- Số liệu sơ cấp:
+ Quy mô mẫu: nguồn sơ cấp của đề tài tôi lấy từ việc đi điều tra thực tế ở 60
hộ dân trong 2 xã trên địa bàn huyện.
+ Phương pháp chọn mẫu: việc chọn 60 hộ điều tra trên địa bàn 2 xã là ngẫu
nhiên. Do điều kiện thời gian bị hạn chế trong quá trình làm đề tài nên tôi chỉ chọn
điều tra trong 60 hộ.
4.2. Xử lý số liệu
Số liệu sau khi điều tra và làm sạch được tổng hợp lại trong exel để tiến hành xử lý.
4.3. Phân tích số liệu
- Thống kê mô tả;
- So sánh, chỉ số bình quân;
- Chuyên gia, chuyên khảo;
- Các phương pháp phân tích khác;

10
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG I.
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM
1.1. Cơ sở lý luận về lao động - việc làm
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người trong đời sống nhằm tạo ra
của cải, vật chất phục vụ nhu cầu, là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất.
Có nhiều khái niệm khác nhau về lao động.
Trong giáo trình phân tích lao động xã hội [1] của Khoa Kinh tế lao độngTrường ĐH Kinh tế quốc dân viết: “Lao động là hoạt động có mục đích của con
người, thông qua hoạt động đó con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng
thành những vật có ích phục vụ nhu cầu của con người”.
Trong giáo trình Kinh tế học chính trị Mác- Lênin [2] viết: "Lao động là hoạt
động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ các
nhu cầu của đời sống con người". Theo C. Mác, lao động là hoạt động cơ bản của con
người trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,… Tuỳ theo
lĩnh vực, tính chất hoạt động mà lao động được phân chia thành lao động sản xuất kinh
doanh, lao động khoa học, lao động văn hoá, nghệ thuật,… Những người tham gia
hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội được gọi là người lao động.
Bộ luật lao động của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [3] viết: “ Lao
động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá
trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố
quyết định sự phát triển của đất nước”.
Trong giáo trình Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp [4] của Tiến sĩ Phùng Thị
Hồng Hà định nghĩa: “Lao động là hoạt động có mục đích của con người, thông qua
11
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Th.S Đào Duy Minh

công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải
vật chất cần thiết cho nhu cầu của mình và của xã hội”.
Từ các quan điểm trên, ta có thể kết luận chung về lao động như sau: Lao động
là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất tự nhiên thành của
cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình sản xuất, con người sử
công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho
lợi ích của con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người,
là cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hoá và xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất
cứ quá trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình triến kinh tế, xã hội quy tụ
lại là ở con người. Con người với lao động sáng tạo của họ đang là vấn đề trung tâm
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thực sự giải phóng sức sản xuất,
khai thác có hiệu quả các tiềm năng thiên nhiên, trước hết giải phóng người lao động,
phát triển kiến thức và những khả năng sáng tạo của con người. Vai trò của người lao
động đối với phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng
là rất quan trọng.
Lao động nông thôn: lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao
động và tham gia hoạt động trong hệ thống các ngành kinh tế nông thôn như trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong
nông thôn.
Nguồn lao động nông thôn là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở nông
thôn trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật (nam từ đủ 15 đến 60 tuổi, nữ
từ đủ 15 đến 55 tuổi) có khả năng lao động.
Lực lượng lao động ở nông thôn là bộ phận của nguồn lao động ở nông thôn bao
gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc làm và
những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Tuy nhiên do đặc điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực
lượng tham gia sản xuất nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao động
mà còn có những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với những

công việc phù hợp với mình. Từ khái niệm nguồn lao động ở nông thôn mà ta thấy lao
12
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

động ở nông thôn rất dồi dào, nhưng đây cũng chính là thách thức trong việc giải
quyết việc làm ở nông thôn.
1.1.1.2. Việc làm
Theo điều 13 chương 2 Bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam [3] năm 1994 đã ban hành: "Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Với quan niệm về việc làm như trên
sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn để giải
phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Với khái niệm trên,
các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
-

Các công việc được trả công dưới dạng tiền mặt hoặc hiện vật.

-

Những công việc tự làm để tạo thêm thu nhập cho bản thân hoặc cho gia đình nhưng
không được trả công cho công việc đó.
Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế ILO ( International Labour
Organization), người có việc làm là người làm trong các lĩnh vực, nghành nghề, dạng
hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân
và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. Nói chung bất cứ ngành nghề

nào cần thiết cho xã hội mang lại thu nhập cho bản thân và không bị pháp luật nghiêm
cấm thì đó gọi là việc làm.
Như chúng ta đã biết hai phạm trù việc làm và lao động có liên quan với nhau và
cùng phản ánh một loaị lao động có ích của một người, nhưng hai phạm trù đó hoàn
toàn không giống nhau vì :
Có việc làm thì chắc chắn có lao động nhưng ngược lại có lao động thì chưa
chắc đã có việc làm vì nó phụ thuộc vào mức độ ổn định của công việc mà người lao
động đang làm.
Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng
và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết khác để kết hợp
sức sản xuất và sức lao động. Như vậy để tạo việc làm cần 3 yếu tố cơ bản: tư liệu sản
xuất, sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp sức sản xuất và sức
lao động.
13
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

14
SVTH: Trần Thị Phương

GVHD: Th.S Đào Duy Minh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

1.1.2. Đặc điểm, vai trò của nguồn lao động nông thôn

1.1.2.1. Đặc điểm của nguồn lao động nông thôn
- Lao động nông thôn sống và làm việc rải rác trên địa bàn rộng. Đặc điểm này
làm cho việc tổ chức hiệp tác lao động và việc bồi dưỡng đào tạo, cung cấp thông tin
cho lao động nông thôn là rất khó khăn
- Lao động nông thôn có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn thấp hơn so
với lao động thành thị.
Bảng 1: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo phân theo
thành thị, nông thôn
Đơn vị tính: %
Năm

2012
2013
2014
13/12
14/13
TĐTTBQ
Vùng
- Thành thị
31.7
33,7
34,3
106,31 101,78
4,02
- Nông thôn
10,1
11,2
11,2
110,89
100

5,30
( Nguồn: Tổng cục thống kê dân số và lao động Việt Nam năm 2012- 2014)
Nhìn vào số liệu trên, ta nhận thấy được tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo
chiếm một tỷ lệ thấp( chỉ bằng 1/3 so với thành thị). Qua từng năm, tỷ lệ đào tạo ở cả
thành thị và nông thôn đều tăng lên nhưng vẫn chưa cao, nhất là ở khu vực nông thôn.
Do vậy , Nhà nước cần đẩy mạnh và quan tâm hơn nữa tới chất lượng lao động ở nông
thôn khi mà họ chủ yếu học nghề thông qua việc hướng dẫn của thế hệ trước hoặc tự
truyền cho nhau nên lao động theo truyền thống và thói quen là chính. Điều đó làm
cho lao động nông thôn có tính bảo thủ nhất định, tạo ra sự khó khăn cho việc thay đổi
phương hướng sản xuất và thực hiện phân công lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế
nông thôn.
- Lao động nông thôn mang tính thời vụ rõ rệt. Đây là đặc điểm đặc thù không
thể xóa bỏ được của lao động nông thôn. Nguyên nhân của nét đặc thù trên là do đối
tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi. Chúng là những cơ thể sống
trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế đan xen nhau. Cùng một
loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác nhau có điều kiện tự nhiên khác nhau chúng
cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển khác nhau. Tính thời vụ trong nông nghiệp
là vĩnh cửu và không thể xoá bỏ được trong quá trình sản xuất. Chúng ta chỉ có thể tìm
15
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

cách làm giảm tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Tính thời vụ làm phức tạp thêm
quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào trong sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả nguồn
lao động. Do vậy, việc sử dụng lao động trong nông thôn kém hiệu quả, hiện tượng
thiếu việc làm là phổ biến. Vì vậy, muốn giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao

động nông thôn thì phải bằng mọi biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa tính thời vụ
bằng cách phát triển đa dạng nghành nghề trong nông thôn, thâm canh tăng vụ, xây
dựng cơ cấu cây trồng hợp lý.
- Lao động nông thôn có khả năng tiếp cận và tham gia thị trường kém, thiếu khả
năng nắm bắt và xử lý thông tin thị trường, khả năng hạch toán hạn chế. Do đó, khả
năng giao lưu và phát triển sản xuất hàng hoá cũng bị hạn chế.
- Lao động nông thôn tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa cao.
Chất lượng của người lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, chuyên môn
kỹ thuật và sức khoẻ.
+ Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật: nguồn lao động của nước ta đông về
số lượng nhưng sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn chế nhiều mặt
chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe trong bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế
quốc tế. Do đó, để có một nguồn lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì
nhà nước cần phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng để có nguồn nhân lực đủ trình độ
để phát triển đất nước.
+ Về sức khoẻ: Sức khoẻ của người lao động nó liên quan đến lượng calo tối
thiểu cung cấp cho cơ thể mỗi ngày, môi trường sống, môi trường làm việc,vv.... Nhìn
chung lao động nước ta do thu nhập thấp nên dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày
chưa đáp ứng được một cách đầy đủ. Vì vậy, sức khỏe của nguồn lao động cả nước nói
chung và của nông thôn nói riêng là chưa tốt.
1.1.2.2. Vai trò của nguồn lao động nông thôn đối với sự phát triển đất nước
Theo Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Education Resources)
[5] lao động là một trong ba nhân tố của bất cứ một quá trình sản xuất nào và trong
thời đại ngày nay khi mà các nguồn lực trở nên khan hiếm thì nó được xem xét là yếu
tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, vai trò của nguồn lao động nói chung và
16
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Th.S Đào Duy Minh

nguồn lao động nông thôn nói riêng là rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh
tế đất nước.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang thực hiện CNH - HĐH đất
nước trong đó CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn được đặc biệt quan tâm. Vì vậy lao
động nông thôn có vai trò hết sức quan trọng nó được thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, nguồn lao động nông thôn tham gia vào quá trình phát triển các ngành
trong nền kinh tế quốc dân.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nguồn lực trong nông nghiệp
có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động xã hội. Song, cùng với sự
phát triển của quá trình công nghiệp hoá, nguồn nhân lực trong nông nghiệp vận động
theo xu hướng giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Quá trình biến đổi đó diễn ra
theo hai giai đoạn sau:


Giai đoạn đầu: diễn ra khi đất nước bắt đầu công nghiệp hoá, nông nghiệp chuyển sang
sản xuất hàng hoá, năng suất lao động nông nghiệp được giải phóng trở nên dư thừa và
được các ngành khác thu hút, sử dụng vào hoạt động sản xuất- dịch vụ. Nhưng do tốc
độ tăng tự nhiên của lao động trong khu vực công nghiệp còn lớn hơn tốc độ thu hút
lao động dư thừa từ nông nghiệp, do đó ở thời kỳ này tỷ trọng lao động nông nghiệp
mới giảm tương đối, số lượng lao động tuyệt đối còn tăng lên. Giai đoạn này dài hay
ngắn là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế của đất nước quyết định.
Chúng ta có thể nhìn thấy hiện tượng này ở Việt Nam hiện nay đó là hiện tượng có
nhiều nông dân bỏ ruộng và đi làm các việc phi nông nghiệp khác hoặc đi làm thuê với
thu nhập cao hơn là làm nông nghiệp.




Giai đoạn thứ hai: nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao động nông
nghiệp tăng nhanh và năng suất lao động xã hội đạt trình độ cao. Số lao động dôi ra do
nông nghiệp giải phóng đã được ngành khác thu hút hết. Vì thế giai đoạn này số lượng
lao động ở nông thôn giảm cả tương đối và tuyệt đối. Chúng ta đang trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá và chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn,
hi vọng sẽ nâng cao được năng suất lao động ở nông thôn, từ đó sẽ từng bước rút bớt
được lao động ở nông thôn để tham gia vào các ngành sản xuất khác.
17
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

Thứ hai, nguồn lao động nông thôn tham gia vào sản xuất lương thực thực phẩm.
Nước ta là một nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời dân số sống chủ yếu
bằng nghề nông. Vì vậy, nguồn lao động nông thôn tham gia vào sản xuất nông nghiệp
là rất đông đảo. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế và sự gia tăng về dân số thì nhu cầu
về lương thực thực phẩm ngày càng gia tăng.


Việc sản xuất lương thực thực phẩm chỉ có thể đạt được trong ngành nông nghiệp và
sức lao động để tạo ra lương thực, thực phẩm là do nguồn lao động nông thôn cung
cấp.



Nền kinh tế phát triển gắn với sự phát triển của quá trình đô thị hoá, thu nhập của
người dân tăng lên đòi hỏi khối lượng lương thực, thực phẩm ngày càng lớn và yêu

cầu về chất lượng cũng ngày càng cao. Để có thể đáp ứng đủ về số lượng và đáp ứng
yêu cầu về chất lượng thì nguồn lao động nông thôn phải được nâng cao về trình độ
tay nghề và kinh nghiệm sản xuất



Như chúng ta đã biết vào những năm 1980 của thế kỷ trước hàng năm chúng ta phải
nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, và trong những năm đó bình quân lương thực đầu
người của chúng ta chỉ đạt 268,2 kg/người/năm. Nhưng do chất lượng nguồn lao động
nông thôn ngày càng được nâng cao trong những năm sau đó, đặc biệt trong thời gian
gần đây như : số lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, học vấn của người lao
động ngày càng được nâng lên nên năng suất và sản lượng lương thực tăng nhanh cả
về số lượng và chất lượng. Không những cung cấp lương thực, thực phẩm ổn định cho
nhu cầu trong nước mà hằng năm chúng ta đã xuất khẩu nông sản, thu được ngoại tệ
đáng kể cho đất nước trong thời gian qua đã tạo điều kiện vật chất cho quá trình CNH
- HĐH đất nước. Để việc cung cấp lương thực, thực phẩm ổn định và chất lượng
không ngừng được nâng cao thì nguồn lao động nông thôn đóng vai trò hết sức quan
trọng.
Thứ ba, nguồn lao động nông thôn tham gia vào quá trình sản xuất nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến Nông - Lâm - Thuỷ sản Công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản với các yếu tố đầu vào là các sản phẩm mà người lao động nông thôn làm ra.
Trong thời kỳ CNH - HĐH thì phát triển công nghiệp chế biến là rất quan trọng để
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
18
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh


Thứ tư, lao động nông thôn là thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành khác.
Lao động nông thôn là thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn của các ngành khác và
của chính bản thân ngành nông nghiệp. Năm 2013, lực lượng lao động của cả nước là
53.245,6 nghìn người. Trong đó, khu vực nông thôn có 37.203,1 nghìn lao động chiếm
69,9% lực lượng lao động toàn quốc. Đến thời điểm 2014, lực lượng lao động cả nước
có 53.748,0 nghìn lao động. Trong đó lực lượng lao động nông thôn có 37.222,5 nghìn
người, chiếm 69,3% lực lượng lao động cả nước. Với dân số trên 50 triệu người thì có
thể nói nông thôn là một thị trường tiêu thụ rộng lớn cần phải được khai thác triệt để. (
Theo nguồn số liệu của tổng cục thống kê về dân số và việc làm năm 2013- 2014)
1.1.3. Vai trò của tạo việc làm trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với
từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt
động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi
hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân
mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc
làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá nhân, thực
tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những vùng nhất
định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng), vào những
nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp,..).
Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng
cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có.
Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào
không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh
tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng
cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, tức là
luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững, ngược lại nó cũng duy
trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
19

SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội,
vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt
khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được
duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội, không tạo ra các
tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ…
Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có
thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời
sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều
trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa
lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra khi không có việc
làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo, là nguyên nhân nảy sinh ra các
mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình chính trị của một quốc gia.
Vai trò việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì vậy để
đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi nhà nước phải có những chiến
lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này.
1.1.4. Phân loại việc làm
Có nhiều cách phân loại việc làm theo các chỉ tiêu khác nhau .
* Phân loại việc làm theo mức độ sử dụng thời gian lao động :
+ Việc làm đầy đủ: với cách hiểu chung nhất là người có việc làm là người
đang có hoạt động nghề nghiệp, có thu nhập từ hoạt động đó để nuôi sống bản thân
và gia đình mà không bị pháp luật ngăn cấm. Tuy nhiên việc xác định số người có
việc làm theo khái niệm trên chưa phản ánh trung thực trình độ sử dụng lao động xã

hội vì không đề cập đến chất lượng của công việc làm. Trên thực tế nhiều người lao
động đang có việc làm nhưng làm việc nửa ngày, việc làm có năng suất thấp thu
nhập cũng thấp.
Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu đó là : mức độ sử dụng thời
gian lao động và thu nhập . Mọi việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động phải sử dụng
đầy đủ thời gian lao động theo luật định (Việt nam hiện nay quy định 8 giờ một ngày),
mặt khác việc làm đó phải mang lại thu nhập không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu
20
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

cho người lao động (nước ta hiện nay quy định mức lương tối thiểu cho một người lao
động trong một tháng là :1.210.000 đồng).
Vậy với những người làm việc đủ thời gian qui định và có thu nhập lớn hơn tiền
lương tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đầy đủ.
+ Thiếu việc làm: với khái niệm việc làm đầy đủ như trên thì thiếu việc làm là
những việc làm không tạo điều kiện cho người lao động tiến hành nó sử dụng hết quỹ
thời gian lao động, mang lại thu nhập cho họ thấp dưới mức lương tối thiểu và người
tiến hành việc làm không đầy đủ là người thiếu việc làm.
Theo tổ chức lao động thế giới ILO thì khái niệm thiếu việc làm được biểu hiện
dưới hai dạng sau:
- Thiếu việc làm vô hình: là những người có đủ việc làm làm đủ thời gian, thậm
chí còn quá thời gian qui định nhưng thu nhập thấp do tay nghề, kỹ năng lao động thấp
, điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém, cho năng suất lao động thấp thường có
mong muốn tìm công việc khác có mức thu nhập cao hơn .
Thước đo của thiếu việc làm vô hình là :

K = 100% x

Thu nhập thực tế
Mức lương tối thiểu hiện hành

-Thiếu việc làm hữu hình: là hiện tượng người lao động làm việc với thời gian ít
hơn quỹ thời gian qui định, không đủ việc làm và đang có mong muốn kiếm thêm việc
làm và luôn sẵn sàng để làm việc.
Thước đo của thiếu việc làm hữu hình là:
K= 100% x

Số giờ làm việc thực tế
Số giờ làm việc theo quy định

+ Thất nghiệp: người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động nhưng không
có việc làm, có khả năng lao động, hay nói cách khác là sẵn sàng làm việc và đang đi
tìm việc làm .
Thất nghiệp được chia thành nhiều loại:
- Thất nghiệp tạm thời: phát sinh do di chuyển không ngừng của sức lao động
giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
21
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

- Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động ,
việc làm. Sự không ăn khớp giữa số lượng và chất lượng đào tạo và cơ cấu về yêu cầu

của việc làm, mất cân đối giữa cung và cầu lao động.
- Thất nghiệp chu kỳ : phát sinh khi mức cầu chung về lao động thấp và không
ổn định . Những giai đoạn mà cầu lao động thấp nhưng cung lao động cao sẽ xảy ra
thất nghiệp chu kỳ .
* Phân loại việc làm theo vị trí lao động của người lao động:
+Việc làm chính : là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời gian
nhất và đòi hỏi yêu cầu của công việc cầnqq trình độ chuyên môn kỹ thuật .
+Việc làm phụ : là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời gian
nhất sau công việc chính.
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến lao động và việc làm của
lao động nông thôn
1.1.5.1. Các nhân tố tự nhiên
Thu nhập của lao động nông thôn một phần rất lớn là thu từ nông nghiệp, do đó
các yếu tố về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, từ đó ảnh
hưởng lớn đến thu nhập của lao động nông thôn.
Các yếu tố về điều kiện tự nhiên gồm:
+ Vị trí địa lý
Những vùng thuận lợi là những vùng gần các trung tâm đô thị, các trung tâm
kinh tế và văn hoá sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các thông tin khoa học kỹ
thuật, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cũng như mua sắm các tư liệu sản xuất
phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những vùng nông thôn sâu, cách xa các
trung tâm kinh tế và văn hoá sẽ rất khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá,
sản xuất thuần nông là chính, trình độ sản xuất hạn chế dẫn tới thu nhập thấp.
+ Điều kiện về đất đai, địa hình
Như ta đã biết đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vòng quay của bánh xe
thời gian thì con người xuất hiện và tác động vào đất đai, cải tạo đất đai và biến đất đai
từ sản phẩm của tự nhiên lại mang trong mình sức lao động của con người. Đất đai là
một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là yếu tố mang tính
22
SVTH: Trần Thị Phương



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Việt
Nam là một nước nông nghiệp, hơn 70% dân số sống ở nông thôn dựa vào nông
nghiệp để sinh sống. Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu chủ yếu và không thể thay
thế được. Nó có vai trò hết sức quan trọng, tuy nhiên do bị giới hạn về mặt diện tích
nên đề người lao động nông thôn có việc làm thì Đảng và Nhà nước cần có các chính
sách hỗ trợ, khuyến khích, tuyên truyền để người dân biết quý trọng từng tấc đất,
đồng thời đưa ra các giải pháp để làm tăng sức sản xuất của ruộng đất, làm tăng hệ số
sử dụng đất trong năm.
Về địa hình, những vùng trung du và miền núi (đặc biệt là miền núi) có địa hình
hiểm trở bị chia cắt do đó rất khó khăn trong việc phát triển giao thông và thuỷ lợi.
Việc áp dụng máy móc kỹ thuật cũng rất hạn chế do đất đai bị chia cắt manh mún. Vì
vậy, năng suất lao động thấp, hạn chế trong khả năng giao lưu kinh tế và tiếp cận với
thị trường, với các thông tin về văn hoá, khoa học kỹ thuật do vậy cũng hạn chế quá
trình sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến thu nhập.
+ Điều kiện khí hậu, thuỷ văn
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống mà cơ thể và môi
trường là một thể thống nhất. Do vậy các điều kiện về khí hậu và thuỷ văn có vai trò
vô cùng quan trọng trong phát triển nông nghiệp. Các vùng có khí hậu thuận lợi, điều
kiện tưới tiêu thuận lợi sẽ có năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp cao mang
lại thu nhập cao cho nông dân. Ngược lại những vùng có nhiều yếu tố bất lợi về thời
tiết khí hậu, khan hiếm nguồn nước sẽ khó khăn trong phát triển sản xuất và từ ;đó ảnh
hưởng tới thu nhập và đời sống của dân cư. ở nước ta, những vùng có điều kiện khó
khăn điển hình là vùng miền Trung, miền núi và trung du Bắc Bộ. Các sự biến đổi thất
thường của thời tiết như hạn hán, bão, lũ lụt, sương muối...luôn gây những thiệt hại to

lớn cho sản xuất và đời sống. Để hạn chế thiệt hại của những hiện tượng này cần phải
có hệ thống thông tin dự báo hiện đại để có phương án phòng chống có hiệu quả [6]
1.1.5.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội
Nhóm các nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến lao động và việc làm của lao
động nông thôn bao gồm:
- Mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
23
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

Đây là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết là hệ thống giao thông,
thuỷ lợi, hệ thống thông tin và năng lượng. Hệ thống giao thông thuận lợi sẽ giảm chi
phí vận tải, thuận lợi cho giao lưu kinh tế và văn hoá với các vùng khác từ đó hình
thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá và phát triển các ngành nghề phi nông
nghiệp. Hệ thống điện, thông tin giúp cho người dân có khả năng trang bị máy móc kỹ
thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thuận lợi trong việc tiếp thu những
thành tựu mới về khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí được nâng cao. Hệ thống trường
học, bệnh viện có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và
đào tạo nhân lực. Vì vậy, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tác động một cách tổng
hợp tới quá trình phát triển kinh tế xã hội và mức sống của dân cư.
- Trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của người lao động.
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là thường xuyên tiếp xúc với các cơ thể
sống, do đó, đòi hỏi người lao động phải có kỹ thuật cao, có kinh nghiệm. Vì thế, nâng
cao trình độ tay nghề cho người lao động là hết sức cần thiết. Con người với tư cách là
chủ thể của mọi sáng tạo, mọi hoạt động lao động, vì vậy, chất lượng của nguồn lao
động quyết định hiệu quả của hoạt động lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá và

hiện đại hoá hiện nay, con người được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực cho phát
triển. Do đó, trình độ văn hoá, trình độ khoa học kỹ thuật của người lao động có ảnh
hưởng quyết định đến phát triển kinh tế. Điều đó đòi hỏi không ngừng đào tạo, tập
huấn cho nông dân, phát triển mạnh giáo dục ở các vùng nông thôn để hình thành một
lực lượng lao động có chất lượng ngày càng cao.
- Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất là yếu tố quan trọng
Để phát triển kinh tế phải có nguồn vốn đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất và làm
cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Với trình độ phát triển
kinh tế ở nông thôn hiện nay, hầu hết các hộ nông dân đều thiếu vốn sản xuất. Với các
hộ gia đình trẻ mới tách hộ thì tình trạng thiếu vốn càng trầm trọng. Do vậy, để tạo
việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn thì cần phải giúp đỡ người nông dân
có khả năng huy động mọi nguồn vốn vào sản xuất, đồng thời mở lớp tập huấn cho
người nông dân nâng cao khả năng quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong
24
SVTH: Trần Thị Phương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.S Đào Duy Minh

sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần cung cấp vốn cho nông dân qua
nhiều hình thức để mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng thu nhập.
- Thị trường
Thị trường là yếu tố quan trọng quyết định đến việc mở rộng việc làm và tăng thu
nhập cho lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, thị trường nông sản ở nước ta đang gặp
nhiều khó khăn do chất lượng nông sản còn kém, người dân còn chưa áp dụng công
nghệ, khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nên sản phẩm làm ra khó cạnh tranh với
các nước khác. Ngoài ra, việc sản xuất nông sản của lao động nông thôn còn mang tính
tự phát, không nắm bắt được thôn tin thị trường nên thường dẫn đến cung vượt cầu,

làm cho sản phẩm khó tiêu thụ hoặc bị ép giá. Do đó, để tạo việc làm và ổn định thu
nhập thì Nhà nước cần có chính sách, định hướng trong việc cung cấp thông tin thị
trường đầy đủ, kịp thời, chính xác cho người dân biết để người dân nắm bắt thông tin
để có định hướng sản xuất tốt hơn.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra chậm chạp
Về cơ bản, nông thôn Việt nam sản xuất hàng hóa vẫn chủ yếu là tự cung, tự cấp. Lao
động nông thôn đa phần tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, hệ số sử dụng đất không
cao. Thu nhập của họ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu nhưng không cao. Do đó, cần có
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiêp, dịch
vụ. Để làm được điều đó, cần có sự đầu tư về cơ sở, hạ tầng nông thôn như: giao
thông, thủy lợi, điện, nước...Tiến hành cho người dân vay vốn với lãi suất thấp để mở
rộng quy mô sản xuất, đưa các tiến bộ khoa học kĩ thuật, chuyển giao công nghệ nhằm
tăng năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ và thời gian làm việc, người dân sẽ có
thêm nhiều thời gian để làm thêm các công việc khác và kiếm thêm thu nhập.
- Truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của từng địa phương, từng dân tộc.
Mỗi địa phương có những phong tục tập quán riêng, có truyền thống văn hoá
riêng, mỗi dân tộc cũng có những truyền thống, những phong tục tập quán riêng. Có
những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển
kinh tế xã hội và ngược lại cũng có những phong tục tập quán, lạc hậu trở thành vật
cản cho sự tiến bộ xã hội. Truyền thống giúp đỡ nhau trong đời sống hàng ngày, trong
làm ăn kinh tế, trong khuyến học...là những truyền thống tốt đẹp. Có những làng xã
25
SVTH: Trần Thị Phương


×