1
PHẦN I : MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương binh – Xã hội tỷ lê lao
động nông thôn qua đào tạo nghề đến nay mới đạt 18,7%, còn rất thấp so với
bình quân chung của cả nước 25%; lao động nông thôn qua đào tạo nghề có
sự chênh lệch lớn giữa các vùng kinh tế (vùng đồng bằng Sông Hồng 19,4%,
đồng bằng Sông Cửu Long 17.9%, trong khi đó vùng Tây Bắc chỉ có 8,3%).
Bên cạnh đó cơ sở mạng lưới dạy nghề phát triển chủ yếu tập chung ở khu đô
thị, còn ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng cơ sở
dạy nghề rất ít, quy mô dạy nghề rất nhỏ, các điều kiện đảm bảo chất lượng
đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu. Thực tế này cho thấy công tác đào tạo
nghề cho lao động nông thôn trong một thời gian dài chưa được coi trọng
đúng mức. Có thể nói nhu cầu học nghề đang rất lớn nhưng trong thực tế,
nhiều bộ, ngành, các cấp và cả người lao động cũng chưa thực sự quan tâm tới
việc học nghề.
Nước ta đang phấn đấu trở thành nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa
vào năm 2020, trong khi, tới thời điểm này, vẫn có tới 73% người dân là nông
dân và 50% lao động nông nghiệp. Đây là bất hợp lí cần sớm xóa bỏ và thực
tế hiện nay đã chỉ ra cơ cấu trình độ và cơ cấu nghề, đào tạo nghề trong lao
động nông thôn chưa phù hợp, chưa bổ xung kịp thời các nghề mới theo yêu
cầy của thị trường lao động, thậm chí có chương trình, giáo trình dạy nghề đã
lạc hậu. Trong khi đó mạng lưới cơ sở dạy nghề nói chung tuy đã phát triển
nhưng chủ yếu tập chung ở đô thị. Khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa số lượng cơ sở dạy nghề rất ít, quy mô dạy nghề nhỏ, hoặc có thì diện
tích ít, thiếu xưởng thực tập thực hành
Huyện Nam Trực- tỉnh Nam Định lâu nay nông nghiệp vẫn là nghề
chủ yếu, nguồn nhân lực dồi dào vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao thu
nhập cho người lao động là những đòi hỏi thực tế đặt ra cho công tác đào tạo
nghề trên địa bàn huyện. Song hiện nay chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn
2
huyện đang gặp những bất cập chưa được giải quyết. Chính vì vậy mà tôi
chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề
cho lao dộng nông thôn trên địa bàn huyện Nam Trực - tỉnh Nam Định”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đào tạo nghề trong nông thôn của
huyên Nam Trực- tỉnh Nam Định trong thời gian qua, nguyên nhân của các
thực trạng đó, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở
nông thôn trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề ở nông thôn
Phân tích thực trạng đào tạo nghề của huyện trong thời gian qua và
tìm ra các nguyên nhân của thực trạng đó.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong
nông thôn trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
+Đối tượng được đào tạo trong nông thôn huyện Nam trực- tỉnh Nam
Định
+Người sử dụng lao động nông thôn huyện Nam Trực- tỉnh Nam Định
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Nội dung :
+ Đánh giá thực trạng đào tạo nghề huyện Nam Trực- tỉnh Nam Định
+Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề huyện Nam Trực- tỉnh
Nam Định
Không gian: huyên Nam Trực- tỉnh Nam Định
Phạm vi về thời gian: Đề tài đánh giá thực trạng công tác đào tạo
nghề và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề huyện Nam Trực- tỉnh
Nam Định trong những năm gần đây (năm 2007 –năm 2009)
3
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số vấn đề cơ bản về đào tạo nghề
Đào tạo
Là quá trình có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt các kiến thức, kĩ
năng, kĩ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để thực hiện thành
công một hoạt động xã hội cần thiết.
Đào tạo cũng có thể hiểu là quá trình học tập nhằm giúp cho người lao
động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụi của mình. Đó
chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc
của mình, là những hoạt động học tập để nâng cao trình độ, kĩ năng của người
lao động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
Như vậy, đào tạo là sự phát triển có hệ thống những kiến thức và kĩ
năng mà mỗi cá nhân có thể thực hiện đúng một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ
thể nào đó hoặc đào tạo nhấn mạnh vào mặt phát triển và rèn luyện năng lực,
tạo tiền đề để họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả
Đào tạo nghề
a. Khái niệm
Với cách tiếp cận về và đào tạo nghề như trên ta có thể hiểu: “Đào tạo
nghề là quá trình có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt những kiến thức ,
kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào đó, từ đó tạo ra năng lực để thực hiện
thành công nghề đã được đào tạo”
Thông qua quá trình đào tạo nghề, học sinh được học những hệ thống
kiến thức về lý thuyết cấn thiết cảu nghề, được thực hành trong thực tế để
hình thành kỹ năng, kỹ xảo của nghề, đồng thời họ còn được giáo dục và phát
triển cả thái độ, ý thức đối với nghề trong tương lai của bản thân họ. Sau khóa
học đào tạo nghề này người lao động sẽ nắm vững một nghề, một chuyên
4
môn rồi hoặc học để làm nghề, chuyên môn khác.
b. Các hình thức và phương pháp đào tạo
Hình thức đào tạo
Sau khi đã hiểu rõ khái niệm đào tạo phát triển nguồn nhân lực và
nhận thức được tầm quan trọng của công tác này tổ chức cần trang bị cho
mình những kiến thức về các hình thức và phương pháp đào tạo.
Như chúng ta đã biết nguồn lao động trong tổ chức bao gồm hai mảng
chính là công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn (hay lao động trực tiếp và
lao động gián tiếp). Đối với mỗi loại lao động sẽ có những hình thức đào tạo
khác nhau. Với công nhân kỹ thuật hình thức đào tạo có thể là đào tạo tại nơi
làm việc, tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp hay thông qua các trường chính
quy… Còn cán bộ chuyên môn có thể tiến hành dưới nhiều hình thức như đào
tạo chính quy dài hạn, đào tạo tại chức dài hạn, đào tạo từ xa… Tuy nhiên xét
một cách tổng thể có thể chia ra hai hình thức đào tạo chính là đào tạo trong
công việc và đào tạo ngoài công việc.
Đào tạo trong công việc:
Đào tạo trong công việc là hình thức đào tạo người học ngay tại nơi
làm việc. Trong hình thức đào tạo này người học sẽ học được các kiến thức,
kỹ năng, kỹ xảo thông qua thực tế làm việc dưới sự chỉ bảo hướng dẫn của
người lao động lành nghề, thường là người trong tổ chức.
Nhóm hình thức đào tạo này gồm:
Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc áp dụng chủ yếu với công nhân sản
xuất ngoài ra còn áp dụng với một số công việc quản lý. Quá trình đào tạo
gồm hai giai đoạn là dạy lý thuyết và thực hành. Trong khi dạy lý thuyết
người chỉ dẫn công việc sẽ chỉ rõ những bước thực hiện công việc và giải
thích về quy trình công nghệ cho người học hiểu rõ. Sau khi nắm vững lý
thuyết người học sẽ được thực hành bước đầu là làm thử sau đó làm toàn bộ
công việc dưới sự chỉ dẫn của người dạy kết hợp với việc quan sát người dạy
làm và trao đổi khi có vấn đề khúc mắc. Đến khi người học thành thạo toàn
5
bộ quy trình thực hiện công việc thì việc chỉ dẫn công việc sẽ kết thúc.
Đào tạo theo kiểu học nghề áp dụng với toàn bộ công nhân sản xuất và
áp dụng đối với những nghề mang tính truyền thống, công nghệ không cao.
Quá trình thực hiện cũng gồm hai giai đoạn là học lý thuyết và thực hành. Lý
thuyết sẽ được học tập trung trên lớp do những kỹ sư hoặc công nhân lành
nghề đảm nhận. Sau đó người học sẽ được đưa đến làm việc dưới sự hướng
dẫn của người hướng dẫn trong vòng từ 1 đến 3 năm. Người học sẽ thực hiện
những khâu có kỹ năng từ đơn giản đến phức tạp cho tới khi thành thạo tất cả
các kỹ năng của nghề.
Kèm cặp và chỉ bảo áp dụng đối với lao động quản lý tức lao động gián
tiếp. Quá trình thực hiện cũng gồm có học lý thuyết và thực hành thông qua
sự kèm cặp, chỉ bảo của những người quản lý giỏi hơn nhằm giúp người học
học được những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc trước mắt và công
việc cho tương lai. Kèm cặp và chỉ bảo được tiếp cận theo ba cách là kèm cặp
bởi người quản lý trực tiếp thường các doanh nghiệp hay dùng, kèm cặp bởi
một người đồng nghiệp có kinh nghiệm hơn và kèm cặp bởi một người cố vấn
(người lao động trong công ty đã về hưu) cách kèm cặp này có ưu điểm là
không ảnh hưởng đến công việc của người đương chức, có nhiều thời gian và
kinh nghiệm.
Luân chuyển và thuyên chuyển công việc đối tượng áp dụng là lao động
quản lý và những người này được coi là cán bộ nguồn của tổ chức. Người
quản lý sẽ được chuyển từ công việc này sang công việc khác để nhằm cung
cấp cho họ những kinh nghiệm làm việc ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong tổ
chức. Hình thức này cũng được tiếp cận theo ba cách: thứ nhất chuyển người
quản lý đến nhận một cương vị quản lý ở một bộ phận khác trong tổ chức với
chức năng và quyền hạn như cũ. Cách tiếp cận thứ hai là chuyển người quản
lý đến nhận một cương vị làm việc ngoài lĩnh vực chuyên môn. Thứ ba là
luân chuyển người học trong phạm vi nội bộ một nghề nghiệp chuyên môn,
một lĩnh vực nhất định.
6
Mỗi một hình thức đào tạo có những ưu nhược điểm riêng song ưu
điểm nói chung của hình thức đào tạo trong công việc là tiết kiệm được chi
phí do thời gian đào tạo ngắn, không phải thuê người dạy và phương tiện
giảng dạy. Hình thức này có thể tiếp cận trực tiếp giúp người học nắm bắt
nhanh kỹ năng công việc và phát triển văn hoá làm việc theo nhóm. Ngoài ra
đào tạo trong công việc còn có ý nghĩa thiết thực vì người học được làm việc
và có thu nhập trong khi học. Tuy nhiên đào tạo trong công việc cũng có
nhược điểm là quá trình học không theo một hệ thống nên không thể áp dụng
với những nghề có công nghệ hiện đại, người học bắt chước cả những thói
quen không tốt của người dạy.
Để áp dụng hình thức đào tạo trong công việc tổ chức cần đáp ứng
được hai điều kiện là lựa chọn được những người dạy có kỹ năng, kinh
nghiệm, tâm huyết với công việc và phải xây dựng kế hoạch đào tạo chặt chẽ
nhằm kiểm soát về chi phí và thời gian cho đào tạo.
Đào tạo ngoài công việc:
Đào tạo ngoài công việc là hình thức đào tạo mà người học tách khỏi
hoàn toàn sự thực hiện công việc trên thực tế nhưng có thể diễn ra ở trong
hoặc ngoài doanh nghiệp.
Đào tạo ngoài công việc gồm các hình thức:
Tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp áp dụng đối với công nhân sản
xuất, với những nghề tương đối phức tạp mà nếu tiếp cận theo kiểu chỉ dẫn
công việc có thể gây hại cho người lao động hoặc tổ chức. Quá trình đào tạo
gồm hai giai đoạn dạy lý thuyết và thực hành. Phần lý thuyết được giảng tập
trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách còn phần thực hành thì được
tiến hành ở các xưởng thực tập chuyên dụng do các kỹ sư và công nhân lành
nghề hướng dẫn. Hình thức này giúp người học học có hệ thống hơn, không
gây ra sự xáo trộn hoặc gián đoạn trong sản xuất, an toàn cho người lao động
trong sản xuất và đảm bảo cơ sở sản xuất của doanh nghiệp.
Cử đi học ở các trường chính quy áp dụng với mọi đối tượng lao động,
7
tính hệ thống cao và đặc biệt áp dụng với những nghề có tính chất hiện đại.
Người học sẽ được trang bị đầy đủ cả kiến thức lý thuyết lẫn kỹ năng thực
hành. Tuy nhiên phải xem xét đến vấn đề chi phí và kỹ năng đào tạo.
Đào tạo sử dụng các bài giảng hoặc các cuộc hội thảo áp dụng cho cả
lao động quản lý và công nhân sản xuất. Các buổi giảng bài hay hội nghị có
thể được tổ chức ở doanh nghiệp hoặc ở một hội nghị bên ngoài. Được tiếp
cận theo hai cách là tổ chức riêng hoặc kết hợp với các chương trình đào tạo
khác. Người học sẽ được thảo luận theo từng chủ đề dưới sự hướng dẫn của
người lãnh đạo nhóm từ đó học được các kiến thức và kinh nghiệm cần thiết.
Đào tạo theo kiểu chương trình hoá với sự trợ giúp của máy tính áp
dụng đối với lao động quản lý. Đây là phương pháp đào tạo kỹ năng hiện đại
nên đòi hỏi người học phải thành thạo kỹ năng sử dụng máy vi tính và phải tự
thao tác theo các chỉ dẫn của chương trình. Chương trình đào tạo sẽ được viết
sẵn trên đĩa mềm của máy tính và gồm ba chức năng cơ bản: Đưa ra các câu
hỏi tình huống để người học suy nghĩ và tìm cách giải quyết, có bộ nhớ để lưu
những thông tin người học có thể cập nhật để xử lý và cho kết quả, cho người
học những thông tin phản hồi. Hình thức này có thể sử dụng để đào tạo rất
nhiều kỹ năng mà không cần có người dạy.
Đào tạo theo phương thức từ xa bằng cách sử dụng sự hỗ trợ của các
phương tiện nghe nhìn. Người học và người dạy không ở một địa điểm và
cùng một thời gian mà người học học các kỹ năng kiến thức thông qua các
phương tiện như băng, đĩa casset, truyền hình… Với hình thức đào tạo này
người học có thể chủ động bố trí thời gian học tập cho phù hợp với kế hoạch
của mình và những người học ở các địa điểm xa trung tâm vẫn có thể tham
gia các khoá học, chương trình đào tạo có chất lượng cao. Tuy nhiên hình
thức đào tạo này đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải có tính chuyên môn hoá cao,
chuẩn bị bài giảng và chương trình đào tạo phải có sự đầu tư lớn.
Đào tạo theo kiểu phòng thí nghiệm áp dụng với lao động quản lý.
Hình thức này tiếp cận thông qua các bài tập tình huống, trò chơi kinh doanh,
8
diễn kịch, mô phỏng trên máy tính hoặc là các bài tập giải quyết vấn đề nhằm
giúp người học thực tập giải quyết các tình huống giống như trên thực tế.
Mô hình hoá hành vi cũng tương tự như hình thức diễn kịch nhưng có
kịch bản sẵn để người học tham khảo trước khi tiến hành.
Đào tạo kỹ năng xử lý công văn giấy tờ áp dụng với lao động quản lý
chủ yếu là những người ở bộ phận hành chính, thư ký, quản lý… Mục đích
giúp người học nâng cao sự thành thạo trong việc xử lý công văn giấy tờ lập
kế hoạch làm việc.
Hình thức đào tạo ngoài công việc có ưu điểm việc học không bị tác
động bởi môi trường làm việc do đó người học có thể tập trung suy nghĩ hơn,
việc học không làm gián đoạn quá trình sản xuất, tính hệ thống cao hơn nên
có thể dùng để dạy cả nghề hiện đại. Thông tin được tiếp cận rộng hơn, cập
nhật hơn do đó mở rộng tầm nhìn giúp thay đổi những tư duy và quan điểm
lạc hậu. Tuy nhiên chi phí đào tạo cao, thời gian học dài và chi phí cơ hội cao.
Phương pháp đào tạo
Phương pháp đào tạo là cách thức mà người dạy sử dụng để truyền đạt
kiến thức cho người học. Việc lựa chọn đúng phương pháp đào tạo cho từng
đối tượng sẽ giúp quá trình học đạt hiệu quả và chất lượng. Hiện nay có rất
nhiều phương pháp đào tạo nhưng chúng ta có thể tiếp cận trên hai phương
diện là các phương pháp dạy lý thuyết và các phương pháp dạy thực hành tay
nghề.
+Dạy lý thuyết
Để dạy lý thuyết cho người học người dạy có thể sử dụng các phương
pháp sau:
-Phương pháp giảng giải đây là phương pháp mà người dạy sẽ dùng kiến
thức của mình giảng giải cho người học hiểu được bản chất của vấn đề. Có
thể giảng giải bằng lời nói thuần tuý hoặc lời nói kết hợp với hình ảnh minh
hoạ, lời nói kết hợp với mô hình để người học dễ hình dung.
-Phương pháp đối thoại là phương pháp thầy trò cùng nêu vấn đề cùng
9
tranh luận để đi đến thống nhất cách hiểu bản chất vấn đề. Phương pháp này
giúp người học phát huy tính năng động sáng tạo, ý thức độc lập trong tư duy.
-Phương pháp nghiên cứu tình huống là phương pháp đặt ra tình huống
như trong thực tế để người học và người dạy cùng nghiên cứu tìm ra giải pháp
tối ưu để giải quyết vấn đề. Phương pháp này vừa tạo ra sự hiểu biết sâu sắc
về lý thuyết vừa tạo ra kỹ năng xử lý tình huống.
-Phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp vận dụng các lý
thuyết đã học để nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong thực tế và giải quyết vấn
đề đặt ra một cách bài bản khoa học. Phương pháp giúp người học có năng
lực giải quyết vấn đề thực tế thực sự, tạo cho họ tính độc lập tự chủ trong học
tập và nghiên cứu.
+ Các phương pháp dạy thực hành tay nghề
-Phương pháp dạy theo đối tượng là phương pháp người học được thực
hành trên một đối tượng cụ thể theo một trật tự xác định. Ưu điểm của
phương pháp này là tạo ra hứng thú cao nhưng có nhược điểm là không tạo ra
được các thao tác động tác lao động tiên tiến, đôi khi còn hợp thức hoá các
thao tác động tác lao động lạc hậu.
-Phương pháp dạy theo các thao tác là phương pháp người học chỉ thực
hiện một thao tác hoặc một số động tác lao động tiên tiến, chuẩn mực đến khi
thuần thục cao và chính xác theo quy định. Phương pháp này có ưu điểm tạo
ra các thao tác động tác lao động tiên tiến và các hoạt động tối ưu. Tuy nhiên
nhược điểm của phương pháp này là khi cứ thực hiện mãi một thao tác sẽ gây
sự nhàm chán không tạo được hứng thú cho người học.
-Phương pháp tổng hợp vừa theo đối tượng vừa theo thao tác là phương
pháp dạy theo đối tượng nhưng đến các thao tác cơ bản, chủ yếu, quan trọng
và tốn nhiều thời gian thì dừng lại để sử dụng phương pháp dạy theo thao tác.
Phương pháp này phát huy được ưu điểm và khắc phục được nhược điểm của
hai phương pháp trên.
-Phương pháp tự học là phương pháp người học dựa vào sơ đồ, biểu
10
đồ, hình ảnh và các giải thích hướng dẫn để tự thực hiện theo nhằm đạt được
cách thức làm việc cụ thể.
Ý nghĩa của đào tạo nghề
Đào tạo nghề luôn mông mỏi đạt được mục tiêu là tạo ra những người
lao động có trình độ cao, từ đó giúp cho họ hiểu rõ hơn về công việc, nắm
vững hơn về nghề nghiệp của mình và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình một cách tự giác hơn, với thái độ tốt hơn, cũng như nâng cao khả năng
thích ứng của họ với công việc trong tương lai. Có nhiều lí do để nói rằng
công tác đào tạo nghề là quan trọng và cần được quan tâm đúng mức, trong
đó có thể kể đến;
• Đáp ứng yêu cầu của công việc ngày càng phức tạp
• Đáp ứng nhu cần học tập, phát triển của người lao động
• Đào tạo nghề là giải pháp quan trọng có tính chất chiến lược đối
với sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước
Đào tạo nghề rất quan trọng và nó có ý nghĩa trên nhiều mặt:
Về mặt kinh tế
Quá trình đào tạo nghề nhìn về trực diện là quá trình tiêu tốn tiền của cả
người học và cả xã hội nhưng đó chỉ là sự đầu tư rất nhỏ so với kết quả đào
tạo nghề mang lại về mặt kinh tế
Nâng cao năng suất lao động của cá nhân người lao động cũng như
năng suất lao động của toàn xã hội
Giúp người lao động thực hiện có hiệu quả hơn công việc của mình
Giảm chi phí không đáng có trong quá trình lao động sản xuất do
không hiểu quá trình công nghệ, kĩ thuật sản xuất
Nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ chức có sử dụng nhiều lao
động qua đào tạo nghề
Duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Làm cho doanh nghiệp có sự năng động hơn trong điều kiện cạnh
tranh
11
Giảm bớt sự giám sát đối với người lao động được đào tạo nghề là
những người có khả năng tự giám sát
Quá trình đào tạo nghề làm cho ngươì lao động có nhiều cơ hội hơn
trong việc tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập, là phương tiện để cải tạo đời
sống hay nếp sống
Về mặt xã hội
Đào tạo nghề tạo ra một lực lượng lao động có trinh độ tay nghề, trình độ
chuyên môn. Vì thế, nó có ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội
• Tạo ra sự thích ứng giữa người lao động với công việc hiện tại cũng
như tương lai
• Đáp ứng nhu cầu nguyện vọng phát triển của người lao động
• Là cơ sở để sử dụng và phát triển những kiến thức của khoa học nghiên
cứu
• Là phương tiện để chuyển giao, thích nghi và phổ biến công nghệ khoa
học và tiên tiến
• Góp phần thay đổi cơ cấu lao động
Thông qua đào tạo nghề, số lượng lao động nghề tăng lên làm cơ cấu lao
động theo cấp trình độ Đại học: Cao đẳng: Nghề thay đổi. Đào tạo nghề càng
nhiều thì cơ cấu này càng nghiêng nhiều về phía lao động nghề, đây là mục
tiêu để tất cả các quốc gia hướng tới. Đồng thời, tỉ trọng lao động lao động
chia theo các ngành nông nghiệp; công nghiệp- xây dựng; dịch vụ -du lịch và
giảm lao động trong nông nghiệp. Thông qua sự thay đổi cơ cấu lao động, cơ
cấu kinh tế cũng thay đổi. Về số tuyệt đối, giá trị tất cả các ngành sẽ tăng lên
do lao động trong các ngành đã được đào tạo nghề nên khả năng làm việc sẽ
tốt hơn. Về số tương đối, giá trị trong các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng
lên, góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế
• Đào tạo nghề còn góp phần giải quyết việc làm cho những người được
đào tạo sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc kiếm việc là, tư đó cải thiện
đời sống, thúc đẩy công tác xoá đói giảm nghèo
12
Về mặt văn hoá
Nhờ đạo tạo nghề, người lao động có cách thức làm việc khoa học, biết
sắp xếp công việc một cách hợp lý, sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào để
tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó
thông qua đào tạo nghề, người sử dụng lao động còn giảm bớt thời gian giám
sát đối với người lao động vì bản thân người lao động đã tự giám sát chính họ
khi họ làm việc.
Như vậy, văn hoá được hiểu trong trường hợp này là văn hoá trong
doanh nghiệp, văn hoá thể hiện trong quá trình lao động của mỗi người lao
động. Đó chính là việc tuân thủ những nội quy lao động, việc thực hiện tốt, có
hiệu quả công việc về nhiệm vụ người lao động phải làm, là cách cư xử, đối
xử giữa những người lao động trong cùng một doanh nghiệp, một tổ chức và
rộng ra là giữa những người lao động trong toàn xã hội…
Nếu người lao động hoàn toàn không có một nghề, không được đào tạo
bất cứ một nghề nào (lao động hoàn toàn mang tính chất phổ thông) thì quá
trình lao động của họ gặp nhiều khó khăn, công việc tiến hành không suôn sẻ.
Họ không hiểu được bản chất của công việc họ làm dẫn tới tình trạng làm việc
một cách thiếu khoa học, làm theo tinh thần “chủ quan”, không đặt trách
nhiệm cao của bản thân vào công việc, không có ý thức tác hợp với mọi người
xung quanh…qua đó sẽ gây thiệt hại vô ích với tài sản chung. Những người
không được đào tạo nghề làm việc theo lối “nông nghiệp, có là làm việc
không có tổ chức, nội quy lao động bị xem nhẹ nhiều, họ sẽ bỏ qua những chi
tiết mà họ coi là “vặt vãnh” nhưng lại rất quan trọng cho cả một dây chuyền
sản xuất. Ví dụ như yêu cầu tính kĩ thuật cao trong sản xuất các thiết bị điện
tử, nhưng chi tiết điện tử được sản xuất ra nếu đáp ứng tốt chất lượng sẽ phải
là những chi tiết có đủ độ cách nhiệt, an toàn… thậm chí phải chính xác đến
từng cái ốc vít, nhưng với những người lao động không được đào tạo nghề mà
thực hành trong điều kiện sản xuất như vậy thì họ sẽ làm một cách đại khái,
miễn sao ra được sản phẩm cuối cùng mà không cần tìm hiểu rõ chất lượng
13
sản phẩm đã đáp ứng được với yêu cầu hay chưa. Điều này thể hiện một khía
cạnh không tốt của người lao động. Khi người lao động được đào tạo nghề
cẩn thận sẽ hình thành nên một xã hội lao động có văn hoá, người lao động
nào cũng chấp hành tốt kỉ luật lao động, thực hiện đúng quy trình công nghệ,
kỹ thuật sản xuất sản phẩm, giữa những người lao động có sự trao đổi nghề
theo cách hợp tác, tương trợ giúp lẫn nhau. Chúng ta mong rằng, xã hội của
chúng ta trong một tương lai sẽ đạt đến mức “một xã hội lao động văn hoá”
Về mặt trật tự an toàn xã hội
Trật tự xã hội là những chuẩn mực nào đó do pháp luật hoặc những luật
lệ của xã hội mà mọi người phải tuân theo hay bị cương chế tuân theo. An
toàn xã hội là việc xã hội đảm bảo đủ các chuẩn mực trong phạm vi của chật
tự xã hội. Trái ngược với tình trạng an toàn xã hội là tình trạng mất trật tự xã
hội. Những người không có việc làm sẽ rơi vào tình trạng thiếu thốn về vật
chất hay bức bách về tinh thần, từ đó họ sẽ có những ý nghĩa và việc làm
không mong muốn như là mức độ thấp, họ hay soi mói, dò xét hành động của
mọi người xung quanh rồi nói xấu người này, người khác. Ở mức độ cao họ
có thể sẽ ăn trộm, ăn cướp, ăm cắp, thậm chí cả giết người. Tất cả những việc
trên đều gây ra sự mất ổn định xã hội, gây ra xung đột trong nội bộ nhân dân,
cho toàn xã hội. Mặt khác, những người thất nghiệp trong điều kiện ngày nay
lại phần nhiều tập trung vào những người lao động không được qua bất kì một
khoá đào tạo nào về nghề nghiệp (lao động của họ hoàn toàn mang tính chất
phổ thông). Như vậy người lao động qua đào tạo nghề sẽ có nhiều cơ hội tìm
được việc làm ổn định, có thu nhập đảm bảo đời sống hàng ngày hơn là
những người không được đào tạo, bồi dưỡng. Từ đó họ sẽ có sự tập trung vào
công việc, vào nghề nghiệp của mình, tránh được những tệ nạn xã hội, tránh
được những va trạm không đáng có trong xã hội do có quá nhiều thời gian
nhàn rỗi. Đây là ý nghĩa vô cùng to lớn của đào tạo nghề. Do vậy công tác
này hơn bao giờ hết cần sự quan tâm và ủng hộ của Đảng, Nhà nước, của cá
nhân người lao động, của toàn xã hội. Thanh tra, kiểm tra thực hiện quy chế,
14
nôi dung chương trình đào tạo nghề và việc chấp hành pháp lệnh, chính sách
chế độ đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo thựôc tỉnh quản lý. Thực hiện một
số nhiệm vụ khác có liên quan đến đào tạo nghề do tỉnh giao. Báo cáo tháng,
quý, năm hoạt động dạy nghề với tỉnh. Trong xuốt quá trình hoạt động, phòng
lý đào tạo nghề đã được thực hiện nhiều nhiệm vụ, làm tốt chức năng của
mình để sự nghiệp đào tạo nghề ở huyện Nam Trực- tỉnh Nam Định ngày
càng phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng
Sự cần thiết của công tác đào tạo nghề
Đào tạo nghề có thể cung cấp một đội ngũ lao động có trình độ cho sự
phát triển nền kinh tế đất nước.Họ là những người đưa lí thuyết đến thực
hành, đưa khoa học công nghệ tới các vùng chậm phát triển
C.Mác đã viết rằng: “Những người công nhân tiên tiến hoàn toàn nhận
thực được rằng tương lai của giai cấp mình mà cũng chính là tương lai của
loài người tuỳ thuộc vào công tác giáo dục thế hệ công nhân trẻ "
(C.Mác Ph.ăng nghen. Tuyển tập xuất bản lần 2, tập 16 trang 198)
Công tác đào tạo nghề cho mọi người để họ đi vào lao động sản xuất
luôn luôn là một yếu tố quan trọng trong việc tái sản xuất sức lao động vì thế
mà công tác đó là một điều kiện bắt buộc để phát triển nền sản xuất xã hội .Vì
vậy ở nghị quyết hội nghị lần thứ IV ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VII) đã khẳng định sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước
bước vào thế kỉ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không,
phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện
thế hệ thanh niên ,công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một
trong yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng trong xã hội XHCN, đặt biệt là trong
bối cảnh đang tiến hành xây dựng và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới. Ở VN hiện nay thì vấn đề con người là vấn đề chủ chốt. Một trong
những công tác hàng đầu để hình thành con người mới XHCN đó chính là đào
15
tạo nghề cho người lao động.
Những nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề
a.Tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Dạy nghề nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu công nhân kĩ thuật nhân viên
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Do đó sự phát triển của công tác dạy nghề
gắn với sự phát triển kinh tế xã hội. Thực tế cũng cho thấy trong những năm
thập kỉ 80 của thế kỉ XX khi nền kinh tế của nước ta đang trong thời kì khủng
hoảng, nhu cầu CNKT, NVNV cũng giảm theo. Điều đó đã tác động và làm
cho hệ thống các trường dạy nghề cũng suy giảm. Đến năm 1996 khi nền kinh
tế nước ta thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng và có mức tăng trường khá thì
nhu cầu công nhân kĩ thuật, nhân viên nghiệp vụ (NVNV) tăng cả về số lượng
và chất lượng, đòi hỏi công tác dạy nghề phải phát triển theo .
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo sự chuyển dịch về cơ cấu lao
động. Sự chuyển dịch này đòi hỏi phải đào tạo nghề cho người lao động đang
hoạt động trong những lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chuyển sang hoạt động
ở kĩnh vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ.
b. Cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá và yêu cầu hội nhập khu vực và
quốc tế
Trong tình hình hiện nay chất lượng lao động là yếu tố hàng đầu quyết
định sự thành bại trong cạnh tranh quốc tế.
Trong những năm gần đây, Việt Nam gặp rất nhiều bất lợi trong cạnh
tranh. Yếu tố quan trọng của sự hạn chế này là Việt Nam có một lực lượng lao
động có chất lượng thấp.Vì vậy việc nâng cao chất lượng lao động nước ta
đang là một đòi hỏi cấp thiết. Chất lượng lao động chỉ có thể được nâng cao
thông qua quá trình giáo dục đào tạo, trong đó đào tạo nghề là một cấu thành
quan trọng. Yêu cầu này đòi hỏi công tác dạy nghề phải phát triển nhanh cả
về quy mô lần chất lượng.
c. Đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển dạy
nghề
16
Những đường lối và chủ trương, chính sách của Đảng nếu đúng và phù
hợp sẽ là điều kiện rất thuận lợi để phát triển công tác dạy nghề
Nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (tháng
12/năm1996) đã đánh giá: “Giáo dục chuyên nghiệp nhất là đào tạo công
nhân kĩ thuật có lúc suy giảm mạnh mất cần đối lớn về cơ cấu trình độ trong
đội ngũ lao động ở nhiều nghành sản xuất. Quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn
còn quá bé nhỏ, trình độ, thiết bị đào tạo lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu
CNH HĐH”. Từ đó nghị quyết đã đưa ra chủ trương là đẩy mạnh đào tạo
công nhân lành nghề, tăng quy mô học nghề, tăng cường đầu tư củng cố và
phát triển các trường dạy nghề, xây dung một số trường trọng điểm, đào tạo
công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu
cầu xuất khẩu lao động.
Như vậy, ta thấy đầy là một sự ưu tiên rất lớn của Đảng và Nhà nước
trong công tác dạy nghề.
d. Các yếu tố dân số
Quy mô và cơ cấu dân số quyết định đến số lượng, quy mô và cơ cấu
của các trường dạy nghề. Nước có cơ cấu dân số trẻ thì mạng lưới dạy nghề
phải lớn còn những nước có quy mô dân số vừa và nhỏ thì phát triển những
trường dạy nghề mang tính chuyên sâu.
e. Thái độ xã hội về nghề và công tác đào tạo nghề
Xu hướng vào được đại học mới có thể kiếm được một nghề ổn định
đang ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của công tác đào tạo nghề trong
các trường CNKT. Học sinh không muốn thi vào hoặc nếu đỗ thì cũng tìm
cách thi lên đại học. Điều này làm cho đầu vào của các trường dạy nghề có
thể khá đông nhưng đầu ra lại ít. Tạo nên tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.
2.1.2. Mạng lưới các cơ sở dạy nghề
a. Khái niệm
Mạng lưới các cơ sở dạy nghề là hệ thống các cơ sở dạy nghề bao gồm
các trường dạy nghề chuyên nghiệp, các trường cao đẳng và trung học có
17
chức năng dạy nghề, các trung tâm dạy nghề, các trung tâm tham gia dạy
nghề, các cơ sở dạy nghề của tập thể, tư nhân và các làng nghề tham gia dạy
nghề và truyền nghề.
b. Các cơ sở dạy nghề
Lớp dạy nghề
Lớp dạy nghề là đơn vị đào tạo nằm trong các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, mở lớp dạy nghề khi có nhu cầu đào tạo đơn giản, công nhân chưa
lành nghề là chủ yếu. Ngoài ra còn đào tạo nghề phức tạp, chương trình hoàn
chỉnh khi nghề đó chưa đủ điều kiện hình thành một nghề đào tạo trong
trường.
Lớp bồi dưỡng nghề trong cơ sở sản xuất kinh doanh làm nhiệm vụ bồi
dưỡng công nhân chưa lành nghề thành lành nghề và lành nghề bậc cao. Lớp
dạy nghề bao gồm lớp dạy nghề của xí nghiệp và lớp dạy nghề của tư nhân.
Trường dạy nghề
Trường dạy nghề là đơn vị cơ sở, là tế bào sống của ngành dạy nghề
trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trường dạy nghề quản lý và sử dụng một
bộ phận cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội, đào tạo những người trực tiếp làm
ra của cải vật chất kỹ thuật của xã hội, qua đó sử dụng có hiệu quả lao động
sống và lao động quá khứ.
Trung tâm dạy nghề
Là những cơ sở ngắn hạn trong hệ thống giáo dục toàn quốc dân, do cơ
quan nhà nước, tổ chức cá nhân, tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế hoặc một
nhóm cá nhân lập ra theo quy định của pháp luật nhằm đào tạo nghề bổ túc
cho người lao động.
2.1.3 Một số vấn đề cơ bản về chất lượng
2.1.3.1 Chất lượng và đặc điểm của chất lượng
Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ
những thời cổ đại, tuy nhiên chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều
tranh cãi. Tùy theo đối tượng sử dụng, từ "chất lượng" có ý nghĩa khác nhau.
18
Người sản xuất coi chất lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các qui định và
yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất lượng
được so sánh với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi
phí, giá cả. Do con người và nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên cách
hiểu của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau. Nói như
vậy không phải chất lượng là một khái niệm quá trừu tượng đến mức người ta
không thể đi đến một cách diễn giải tương đối thống nhất, mặc dù sẽ còn luôn
luôn thay đổi. Tổ chức Quốc tế về Tiệu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS
9000:2000, đã đưa ra định nghĩa sau: Chất lượng là khả năng của tập hợp các
đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng và các bên có liên quan. Ở đây yêu cầu là các nhu cầu và
mong đợi được công bố, ngụ ý hay bắt buộc theo tập quán.
Từ định nghĩa trên ta rút ra một số đặc điểm sau đây của khái niệm chất
lượng:
1/ Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phầm vì lý do
nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng
kém, cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại.
Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính
sách, chiến lược kinh doanh của mình.
2/ Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn
biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không
gian, điều kiện sử dụng.
3/ Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phi xét và chỉ xét đến mọi
đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể.
Các nhu cầu này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên
quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã
hội.
4/ Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các qui định, tiêu chuẩn
nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ
19
có thể cảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được trong chúng trong quá
trình sử dụng.
5/ Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà ta vẫn
hiểu hàng ngày. Chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình.
Khái niệm chất lượng trên đây được gọi là chất lượng theo nghĩa hẹp. Rõ ràng
khi nói đến chất lượng chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố giá cả và dịch vụ
sau khi bán, vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn đó là những yếu tố mà
khách hàng nào cũng quan tâm sau khi thấy sản phẩm mà họ định mua thỏa
mãn nhu cầu của họ.
2.1.3.2 Chất lượng đào tạo
Khái niệm chất lượng đào tạo có thể được tiếp cận từ nhiều giác độ
khác nhau. Ở đây chúng ta chỉ tiếp cận chất lượng đào tạo từ sản phẩm của
đào tạo đó là các kiến thức và kỹ năng mà người học có được sau các khoá
đào tạo. Kiến thức và kỹ năng là những tiêu chí tổng hợp phản ánh chất lượng
của quá trình đào tạo người lao động. Tuy nhiên có thể đánh giá những tiêu
chí này thông qua một số chỉ tiêu như kết quả học tập các môn lý thuyết và
thực hành nghề
2.1.3.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề
Khi nói đến chất lượng là chúng ta nói đến bản chất bên trong của một
sự vật, sự việc nào đó. Như đã nói ở trên, chất lượng đào tạo nghề là trạng
thái đào tạo nghề, hay nói một cách dễ hiểu thì đó là kết quả của một quá trình
đào tạo. Chất lượng đào tạo nghề là một khái niệm trừu tượng, do đó việc đo
lường chất lượng đào tạo nghề cũng chỉ mang tinh chất tương đối. Để đánh
giá chất lượng sau một quá trình đào tạo, chúng ta thường tập trung vào hai
khối đối tượng chính: bản thân người học và cơ sở đào tạo nghề (chất lượng
cơ sở đào tạo).
Quá trình đào tạo nghề có một số đặc trưng khác với giáo dục phổ thông
và giáo dục đại học. Đó là quá trính đào tạo trên cơ sở tiếp thu kết quả giáo
dục phổ thông để đào tạo về nghề nghiệp cho học sinh học nghề. Việc đào tạo
20
để hình thành năng lực nghề nghiệp giữ vai trò then chốt, chủ đạo. Quá trình
đào tạo chú trọng đến một hệ thống các kỹ năng thông qua thực hành, luyện
tập. Đó chính là những yêu cầu, vị trí công tác, hoạt động nghề nghiệp của
người công nhân kỹ thuật.
Đối với quá trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn có những đặc
trưng và đặc điểm riêng biệt. Một đặc trưng rõ nét nhất mà chúng ta có thể
thấy ngay đó là các khóa đào tạo nghề cho lao động nông thôn được mở ra
dưới nhiều hình thức khác nhau cùng với những tiêu chí lựa chọn đầu vào
khác nhau. Với các lớp học được mở tại các cơ sở dạy nghề có tiêu chí lựa
chọn đầu vào một cách cụ thể và nhất định. Còn với những khóa đào tạo nghề
mở tại địa phương do không có quy định cụ thể nào về lựa chọn đầu vào,
không phân biệt giới tính, tuổi tác, trình độ… Đó là những người ham học
hỏi, tự nguyện tham gia vào các lớp học, có nhu cầu muốn tìm việc làm có thu
nhập tốt hơn sau khi kết thúc khóa học… Hơn nữa, để các lớp đào tạo nghề
mở ra thực sự đem lại kết quả cao nhất thì việc đáng quan tâm hàng đầu của
các cán bộ, giáo viên là dựa vào nhu cầu mong muốn học nghề gì của các học
viên, và dựa vào đặc trưng của từng vùng, miền, địa phương.
Muốn đào tạo nghề thực sự mang lại hiệu quả và chất lượng phụ thuộc
vào các yếu tố:
• Chất lượng đầu vào (bản thân người học nghề): Trình độ văn hóa, sở
trường nguyện vọng, sức khỏe, tình trạng kinh tế … của người học nghề.
• Quá trình đào tạo (hoạt động đào tạo nghề của cơ sở đào tạo nghề)
- Mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo: phù hợp với nhu cầu của xã
hội, chương trình đào tạo hợp lý và có tính thực tiễn cao trong thực tế.
- Đội ngũ giáo viên: Giáo viên giảng dạy là những người trực tiếp hướng
dẫn, giảng dạy lý thuyết và thực hành cho người học. Chất lượng giáo viên
đòi hỏi phải đạt chuẩn theo quy định của pháp luật. Đội ngũ giáo viên chính là
nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo nghề. Việc thực hiện tiêu chuẩn
hóa đội ngũ giáo viên kết hợp với không ngừng nâng cao trình độ giáo viên cả
21
về chuyên môn, ngoại ngữ để những kiến thức chuyên môn của thầy truyền
tải cho người học phù hợp với nhu cầu thực tế, học sinh ra trường có thể thực
hiện ngay được công việc theo ngành nghề đào tạo.
- Cơ sở vật chất: Đây là nhân tố quan trọng không thể thiếu được trong
công tác đào tạo nghề. Ở các cơ sở đào tạo nghề, cơ sở vật chất bao gồm
phòng học lý thuyết, phòng thực hành, thư viện, nhà ở cho học sinh, khu làm
việc cho cán bộ, giáo viên dạy nghề, với các lớp đào tạo nghề tại địa phương,
cơ sở vật chất bao gồm phòng học cho các học viên, chỗ ăn, ở phục vụ giáo
viên,… Cơ sở vật chất đạt chuẩn quy định tạo điều kiện làm việc và học tập
thuận lợi, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
- Thiết bị và phương tiện dạy học: Trong quá trình đào tạo, thiết bị và
phương tiện dạy và học có tính chất quyết định đến kỹ năng, tay nghề của học
sinh. Trong chương trình dạy nghề, thời gian thực hành, thực tập chiếm 60% 70% thời gian đào tạo toàn khóa. Vì vậy, việc đáp ứng đủ thiết bị và phương
tiện dạy nghề là rất cần thiết.
- Tài chính (kinh phí định mức đào tạo, vật tư thực hành, chi phí quản lý,
thù lao giáo viên …): Tài chính cho các cơ sở dạy nghề có vị trí hết sức quan
trọng, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của các cơ sở dạy nghề. Tài
chính bao gồm các khoản chi cho việc đầu tư có sở vật chất, mua sắm trang
thiết bị, chi phí công tác quản lý, tiền lương và các hoạt động khác của
trường. Có thể nói đào tạo nghề là hình thức đào tạo tốn kém nên rất cần sự
đầu tư đúng mức của chính phủ và được sự hỗ trợ kinh phí từ các nguồn khác.
- Dịch vụ đào tạo (cư xá, tư vấn việc làm, thông tin thị trường lao động
…): Đây là những dịch vụ cần thiết và hữu ích đối với học sinh, là cơ sở giúp
cho học sinh sau khi tốt nghiệp các lớp đào tạo nghề có thể tìm được việc làm
phù hợp với ngành nghề được đào tạo, tạo điều kiện cho họ có thề phát huy
được khả năng của mình trong quá trình làm việc, từ đó giúp cho thu nhập của
họ tăng lên và ổn định hơn.
• Học sinh tốt nghiệp: Năng lực và phẩm chất đạt được sau khi đào tạo
22
theo mục tiêu đào tạo; Sức khỏe đáp ứng nghề nghiệp; Kỹ năng sống (giao
tiếp, hoạt động xã hội). Đây là kết quả của quá trình đào tạo, thể hiện chất
lượng của việc đào tạo nghề cho mỗi học viên.
• Tham gia thị trường lao động (từ 6 đến 12 tháng kể từ khi ra trường):
trình độ chuyên môn đáp ứng yếu cầu làm việc (năng suất, tổ chức hoạt
động); Mức độ hoàn thành nhiệm vụ công nhân kỹ thuật; Tính sáng tạo và
thích nghi trong công việc.
Việc đánh giá kết quả giáo dục cần phản ánh được chất lượng nhân cách
có phù hợp hay không với yêu cầu đề ra. Cần phải xem xét chất lượng đầu
vào (tuyển sinh học sinh học nghề), chất lượng của quá trình đào tạo và chất
lượng đầu ra (tốt nghiệp và tham gia vào cuộc sống). Đánh giá chất lượng đào
tạo không chỉ nhiệm vụ của các đơn vị đào tạo nghề mà còn là của xã hội, đặc
biệt là sự đánh giá trực tiếp của những người sử dụng sản phẩm đào tạo (các
doanh nghiệp, các nhà sản xuất …). Qua sự đánh giá từ nhiều phía, chúng ta
có thể đo lường được chất lượng đào tạo nghề cho lao động, từ đó tìm được
những hướng đi hợp lý nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
2.1.3.4 Yêu cầu đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, kinh tế
Việt Nam đang dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hơn bao giờ hết, Việt
Nam cần phải khẳng định vị thế của mình trên thế giới, cũng như hoàn thành
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa; do đó, Việt Nam cần phải có
những chiến lược cùng với những hướng đi phù hợp với điều kiện kinh tế của
mình, đồng thời phải nắm bắt kịp thời tình hình kinh tế trên thế giới. Một
trong những vấn đề cần được quan tâm và giải quyết một cách nhanh chóng,
kịp thời và đúng đắn chính là phát triển nguồn nhân lực, tức là chúng ta cần
phải quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động hiện
nay. Không thể phủ nhận những kết quả có được ngày hôm nay nhờ vào
nguồn nhân lực dồi dào là thế mạnh của chúng ta. Tuy nhiên, với tình hình
23
phát triển hiện nay của nước ta cũng như trên thế giới thì chất lượng nguồn
nhân lực cần được quan tâm hơn nữa.
CNH-HĐH đòi hỏi phải có một cơ cấu lao động hợp lý, nghĩa là phải có
một tỉ lệ phù hợp giữa các thành tố của nguồn lực lao động. Phải chú ý đến
công nhân lao động lành nghề, nâng cao năng lực thực hành và tăng hàm
lượng chất xám sao cho đội ngũ công nhân lành nghề và các kỹ nghệ gia, kỹ
thuật gia phải chiếm tỉ trọng chủ yếu. Đây là một tiêu chí đòi hỏi sự phấn đấu
không ngừng của cả nước, toàn xã hội, toàn ngành giáo dục, giáo dục chuyên
nghiệp và dạy nghề nói riêng trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Trên thực tế, trong nhiều năm qua chúng ta mới đầu tư chú ý đến phát triển
giáo dục phổ thông, giáo dục đại học chưa coi trọng giáo dục nghề nghiệp,
dẫn đến giáo dục chuyên nghiệp, nhất là đạo tạo công nhân mất cân đối. Qui
mô đào tạo nghề hiện nay vẫn quá nhỏ bé, manh mún, thiết bị đào tạo lạc hậu,
không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Chính những vấn đề nêu trên đòi hỏi phải không ngừng đẩy mạnh công
tác đào tạo nghề, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chất lượng lao động phải cao
không những để đáp ứng nhu cầu lao động trong nước mà còn để đáp ứng
nhu cầu xuất khẩu lao động, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Việc phân
công lao động và hợp tác quốc tế là xu hướng ngày càng phát triển. Xuất khẩu
lao động là chiến lược lâu dài, thường xuyên của các quốc gia phát triển. Đối
với nước ta, xuất khẩu lao động không những vừa giải quyết việc làm cho lao
động, tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho bản thân gia
đình người lao động, mà còn tiếp thu học tập chuyên môn kỹ thuật hiện đại
của các nước có nền công nghiệp phát triển.
Lựa chọn con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa nhưng Đảng và Nhà
nước ta vẫn nhận định Nông nghiệp là một ngành quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế đất nước, do đó chất lượng lao động nông thôn cũng được
các cấp lãnh đạo hết sức quan tâm. Trong những năm qua, vấn đề đào tạo
24
nghề cho lao động nông thôn được Đảng và Nhà nước ta triển khai một cách
tích cực và thường xuyên, tạo cho họ có nhiều cơ hội trong việc tìm kiếm việc
làm, nhờ đó làm tăng thu nhập cho họ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
vẫn gặp phải những hạn chế nhất định mà chúng ta cần phải tìm cách giải
quyết một cách nhanh chóng, hợp lý.
Vấn đề cấp bách hiện nay là phải khẩn trương bồi dưỡng về mọi mặt cho
số công nhân, số lao động chưa qua đào tạo đầy đủ, tăng nhanh về qui mô với
chất lượng cao. Muốn vậy phải nâng cao chất lượng dạy nghề, bởi những năm
qua cùng với sự suy giảm về số lượng, chất lượng dạy nghề cũng đã có những
giảm sút nghiêm trọng. Nguyên nhân của sự giảm sút đó là:
- Trang thiết bị hiện nay ở các cơ sở dạy nghề thiếu thốn, lạc hậu.
- Đội ngũ giáo viên dạy nghề chưa đồng đều. Trình độ ít được nâng cao
cho phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ. Trình
độ sư phạm và quản lý nhiều năm qua ít được chú ý, bổ sung, bồi dưỡng, đào
tạo lại.
- Chương trình nội dung đào tạo, hệ thống giáo trình vẫn trong tình trạng
lạc hậu, thiếu thống nhất, vì vậy chưa theo kịp sự tiến bộ của khoa học – công
nghệ mới.
- Đối với lao động nông thôn, mặc dù chiếm phần lớn tổng lực lượng lao
động trong cả nước nhưng năng suất lao động của lực lượng này thấp do họ
làm việc chỉ dựa vào kinh nghiệm chứ không qua trường lớp đào tạo nào dẫn
đến chất lượng sản phẩm làm ra thấp, ít có tính cạnh tranh trên thị trường thế
giới
Tổng hợp những ý kiến trên, dẫn đến chất lượng đào tạo đặc biệt là đào
tạo kỹ năng nghề của người học nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động, nên rất khó tìm việc làm; thiếu công nhân lành nghề, công
nhân bậc cao, không đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Có thể nói rằng, lựa chọn sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là chúng ta bắt đầu quá trình phát triển theo chiều sâu, trong đó chất
25
lượng lao động có ý nghĩa quyết định. Cùng với việc mở rộng qui mô đào tạo,
nâng cao chất lượng dạy nghề là một đòi hỏi khách quan, cấp bách nhằm thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
2.1.3.5 Chất lượng nguồn lao động nông thôn
Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ
bản là: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Quá trình phát triển nguồn nhân lực con
người là quá trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu để ngày càng
đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế. Trong giai đoạn phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện nay chúng ta càng nhận thức
rõ vai trò quyết định của nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực có chất lượng
cao vốn là yếu tố vật chất quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất.
Là một quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo song tình
hình sức khoẻ của người lao động nông thôn còn hạn chế nhất là về cân nặng
và chiều cao. Điều này chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sinh hoạt ăn uống
hàng ngày hay nói đúng hơn là bị chi phối bởi mức thu nhập.
Do dân số và lao động tăng nhanh, năng suất lao động thấp kém vì vậy
mức thu nhập của dân cư nông thôn rất thấp. Cuộc điều tra mức sống tiến
hành năm 1992-1993 và số liệu thống kê cũng cho thấy mức thu nhập bình
quân đầu người một tháng ở nông thôn là 148,1 nghìn đồng (1994), có 20,6%
số hộ thu nhập không đủ thanh toán khẩu phần ăn duy trì cuộc sống, 21,55%
số hộ thu nhập dưới mức trung bình 18,13% số hộ có thu nhập khá và chỉ có
7,1% số hộ có thu nhập cao. Như vậy, số hộ có thu nhập dưới mức trung bình
và không đủ ăn chiếm tới 42,15%, số nghèo ở vùng nông thôn là 57% gấp 2
lần số nghèo ở thành thị, cho nên khoảng 90% số hộ nghèo thuộc về nông
thôn, kết quả từ cuộc điều tra mức sống dân cư năm 1997-1998 cho thấy tỷ lệ
đói nghèo đã giảm từ 50% (năm 1993) xuống còn 30-35%.Từ năm 1999- năm
2006 mức thu nhập ở cả thành thị và nông thôn đã tăng lên rõ rệt, thể hiện ở
bảng sau: