Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Ôn thi môn tài chính tiền tệ theo chuyên đề TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.92 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
I/ Cải cách tài chính ở VN theo hướng tự do hóa: …………………………trang 2
a/ Tự do hóa tài chính – xu hướng và giải pháp chính sách ……………………trang 2
b/ Viet Nam đang trên đường cải cách và tự do hóa ………………………. …trang 7
c/ Tự do hóa tài chính và những vấn đề cần quan tâm của hệ thống ngân hàng VN trag 9
d/ Thực trạng, xu thế và giải pháp chính sách cho vấn đề tự do hóa tài chính ở Việt nam nói chung và Ngân hàng Việt Nam nói
riêng………………….………………. …trang 12
II/ Thực tiễn tính chuyển đổi đồng tiền Việt Nam……………………….…………….trang 18
a/ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tính chuyển đổi của tiền tệ……….…trang 18
III/ Hiện tượng đô la hóa………………………………………………………………………trang24
a/ Vài nét về "Đôla hóa" nền kinh tế…………………………………………trang25
b/ Đô la hóa và điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam….…………………trang27
IV/ Kiểm soát vốn nước ngoài trong bối cảnh hội nhập: ……………………………trang 33
a/ Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh luồng vốn nước ngoài biến động từ 2007 đến nay (2010)
………………………………………………………………….……trang 33
b/ Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế……………………trang 40
1
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
I/ Cải cách tài chính ở VN theo hướng tự do hóa
a/ Tự do hóa tài chính – xu hướng và giải pháp chính sách
1. Khái niệm và bản chất của tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính
quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao
gồm: Tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM), tự do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa
hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.
Tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài chính với nước ngoài. Tự do hóa tài chính trong nước là cho
phép các tổ chức tài chính trong nước tự do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính trong nước
được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành theo tín hiệu thị trường. Tự do hóa tài chính với nước ngoài
bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao dịch vốn.
Có thể nói, bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài


chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền
gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Tự do hóa tài chính được phân làm hai cấp độ: Tự do hóa tài chính nội địa (xóa bỏ kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng) và tự do hóa tài
chính quốc tế (loại bỏ kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý ngoại hối). Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất và cần
thiết phải kiểm soát quá trình tự do hóa lãi suất, cụ thể là:
- Xác định thời điểm bắt đầu và tốc độ tự do hóa lãi suất căn cứ vào những tiến bộ đạt được trong cải cách khu vực DNNN và khu vực
ngân hàng;
- Quyết định lộ trình và trật tự tiến hành tự do hóa lãi suất của các công cụ tài chính khác nhau để không gây ảnh hưởng xấu tới hệ thống
ngân hàng;
- Ngân hàng Trung ương cần có chiến lược chỉ đạo chính sách tiền tệ trong khuôn khổ hệ thống tài chính đã tự do hóa;
- Chuẩn bị những công cụ tài chính mới sau khi thực hiện tự do hóa tài chính.
2. Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa tài chính và những bài học rút ra đối với Việt Nam
Kinh nghiệm tự do hóa tài chính cho thấy tầm quan trọng của việc xử lý ngay từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ
thống tài chính – ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực và ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng. Nguyên nhân cơ bản
của các cuộc khủng hoảng tài chính thường bắt nguồn từ các biện pháp tự do hóa tài chính.
Có nhiều cách tiếp cận vấn đề tự do hóa tài chính. Trong đó, các nước OECD tập trung vào tự do hóa các luồng vốn, đầu tiên là tự do hóa
đầu tư nước ngoài trực tiếp, cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn; ADB dựa vào rủi ro để đánh giá và xây dựng lộ trình tự do hóa tài chính
với mục tiêu cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn; cách tiếp cận của IMF cũng khá phức tạp, đó là xem xét đầy đủ mọi vấn đề từ cải cách
vi mô, cơ cấu, xây dựng thể chế, các chính sách kinh tế vĩ mô và cơ chế tỷ giá để xây dựng lộ trình tự do hóa.
Đối với Trung Quốc đã xây dựng lộ trình tự do hóa tài chính dựa trên cách tiếp cận của ADB. Trình tự mở cửa thị trường tài chính của
Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở thừa nhận sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro và thực hiện tự do
hóa thận trọng, đầu tiên là khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp theo là đầu tư gián tiếp nước ngoài vào TTCK, cuối cùng là tự
do hóa các khoản vay nợ nước ngoài, cụ thể là:
- Giải quyết nợ xấu để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng;
- Xây dựng thể chế để có hệ thống luật pháp công khai minh bạch;
2
- Từng bước tự do hóa tài chính nội địa;
- Từng bước tự do hóa lãi suất;
- Tổ chức lại và củng cố các TCTD để tăng cường năng lực cạnh tranh;

- Thực hiện cơ chế tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn;
- Giải quyết khó khăn tài khóa để giảm bớt tình trạng thất nghiệp.
Tự do hóa tài khoản vốn là mục tiêu cuối cùng, nhưng Trung Quốc chưa đủ điều kiện nên được thực hiện có giới hạn với sự giám sát chặt
chẽ, nhất là đối với dòng vốn ngắn hạn vào TTCK và dòng vốn ra. Về quản lý nợ vay nước ngoài, Chính phủ quyết định hạn mức vay nợ
trung, dài hạn hàng năm, quy định thời hạn trả nợ và loại tiền vay và phân bổ cho các ngành nghề, khu vực.
Trong quá trình tự do hóa tài chính, kiểm soát luồng vốn được coi là vấn đề được nhiều nước quan tâm đặc biệt, mục tiêu là đảm bảo tính
tự chủ của CSTT và giảm áp lực đối với tỷ giá. Kiểm soát luồng vốn cũng nhằm bảo vệ sự ổn định tài chính – tiền tệ khi phải đối mặt với
nguy cơ lạm phát do những luồng vốn vào liên tục, nhất là nguồn vốn ngắn hạn. Tuy nhiên, các biện pháp kiểm soát luồng vốn cũng có
mặt trái của nó:
- Kiểm soát luồng vốn, nhất là những hạn chế toàn diện được áp dụng, có thể gây trở ngại cho các giao dịch vốn và giao dịch vãng lai;
- Các biện pháp kiểm soát có thể đòi hỏi chi phí hành chính khá lớn nhằm đảm bảo thực thi có hiệu quả;
- Các biện pháp kiểm soát vốn nhằm bảo vệ thị trường trong nước có thể dẫn đến việc trì hoãn điều chỉnh những chính sách cần thiết;
- Các biện pháp kiểm soát vốn có thể làm nảy sinh những nhận thức tiêu cực về thị trường, quốc gia áp dụng phải tốn kém hơn và khó
khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn nước ngoài.
Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy, việc kiểm soát luồng vốn ra thường được quan tâm nhiều hơn. Sau khủng hoảng (rối loạn) tài chính,
một số nước như Tây Ban Nha, Malaysia, Thái Lan tái thực hiện kiểm soát luồng vốn ra trước áp lực lớn về tỷ giá, mục tiêu là ngăn chặn
đầu cơ và ổn định thị trường ngoại hối trong bối cảnh dự trữ ngoại hối giảm mạnh, các cơ quan tiền tệ trong nước có khoảng thời gian
nhất định để khắc phục những mất cân bằng về kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng. Trong đó, Tây Ban Nha phải thỏa
thuận với các nước thành viên trong hệ thống về quyết định thay đổi tỷ giá, Thái Lan áp dụng cơ chế “neo” tỷ giá tại thời điểm áp đặt
kiểm soát, Malaysia thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Nhằm hạn chế luồng vốn ra, Malaysia thực hiện đánh
thuế vào lợi nhuận từ đầu tư gián tiếp không kể cổ tức và lãi thu được, thu nhập liên quan đến các giao dịch vãng lai và các luồng đầu tư
trực tiếp nước ngoài; Thái Lan yêu cầu các tổ chức tài chính hạn chế và đình chỉ các giao dịch với người không cư trú (bao gồm cho vay
đồng baht qua giao dịch hoán đổi, giao dịch kỳ hạn về đồng baht và bán đồng baht lấy ngoại tệ), phải thanh toán bằng đô la Mỹ đối với
giao dịch mua hối phiếu bằng đồng baht trước kỳ hạn và những công cụ nợ khác, cấm các nhà đầu tư cổ phiếu nước ngoài chuyển vốn về
nước bằng đồng baht (nhưng được tự do chuyển vốn bằng ngoại tệ), người không cư trú phải áp dụng tỷ giá nước ngoài khi chuyển đổi lợi
nhuận bằng đồng baht thu được từ việc bán chứng khoán.
Về kiểm soát luồng vốn ra, kinh nghiệm của các nước cho thấy:
- Để đảm bảo hiệu quả, các kiểm soát phải toàn diện và cần được tiến hành một cách bắt buộc đồng thời với cải cách và điều chỉnh chính
sách cần thiết. Hiệu quả của những kiểm soát này dường như bị hạn chế trong những thị trường phức tạp;
- Bên cạnh những tác động tích cực, các biện pháp kiểm soát có thể dẫn đến phản ứng tiêu cực hơn từ các thị trường tài chính quốc tế và

làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế;
- Các kiểm soát không có tác dụng bảo vệ kéo dài khi phải đối mặt với động cơ tránh kiểm soát, nhất là chênh lệch thu nhập hấp dẫn và kỳ
vọng lớn của thị trường vào việc giảm tỷ giá hối đoái;
- Khả năng kiểm soát hoạt động thị trường nước ngoài có thể là phương tiện để hạn chế luồng vốn vào và ngăn chặn các áp lực đầu cơ;
- Các biện pháp hiệu quả hạn chế rủi ro của các giao dịch hợp pháp, bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài và các giao dịch phòng ngừa liên
quan đến thương mại, nhưng có thể làm tăng chi phí tiếp cận thị trường vốn quốc tế.
3
Đối với Việt Nam, quá trình tự do hóa tài chính cần được thực hiện theo những định hướng cơ bản sau:
- Tự do hóa tài chính phải được tiến hành theo lộ trình thích hợp, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế với tốc độ cao và
bền vững;
- Tự do hóa phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá và được tiến hành trước một bước trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế;
- Tự do hóa tài chính phải chịu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ quốc gia;
- Tự do hóa tài chính phải được tiến hành cùng với việc tự do hóa kinh tế và thương mại.
3. Thực trạng cải cách và tự do hóa tài chính tại Việt Nam
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986, nền kinh tế Việt nam từng bước chuyển sang hoạt
động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo đó, hệ thống ngân hàng cũng không
ngừng được cải cách để nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính. Tác động và kết quả trực tiếp của tiến trình này là
việc tiền tệ hoá sâu sắc các nguồn lực kinh tế và các quan hệ kinh tế. Điều này cũng có nghĩa là cải cách kinh tế đã và sẽ tiếp tục gắn chặt
với tự do hoá tài chính trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau, mở ra những tiềm năng và cơ hội phát triển cho hệ thống ngân hàng.
Với sự ra đời của Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng 5/1990)
đã đưa đến việc hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp. Theo đó, các NHTM thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ
ngân hàng; NHNN thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và chức năng NHTW. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về ngân hàng được
hoàn thiện về căn bản với việc ban hành Luật NHNN và Luật các TCTD vào tháng 12/1997. Quá trình tự do hoá tài chính được thực hiện
theo những bước đi cụ thể và đã đạt được kết quả đáng khích lệ, bao gồm:
- Hình thành và phát triển hệ thống điều hành tiền tệ dựa trên cơ sở thị trường với hệ thống các công cụ gián tiếp;
- CSTT đã được đổi mới căn bản và có trật tự theo hướng tăng cường các công cụ và phương pháp điều hành gián tiếp, phù hợp với sự
thay đổi về thể chế và hạ tầng tài chính;
- Cơ chế điều hành lãi suất từng bước được đổi mới và đã được tự do hóa theo cơ chế thị trường (từ lãi suất áp đặt sang “trần – sàn”, đến
khống chế trần và cuối cùng là lãi suất thỏa thuận);

- Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa, xóa bỏ nhiều loại giấy phép theo hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế và
yêu cầu hội nhập quốc tế, bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính, của Luật Doanh nghiệp trong việc phân định rõ
quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tạo ra sự thông thoáng hơn cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc thực hiện chính sách quản lý
ngoại hối đã được tiến hành theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền quản lý để nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả hoạt động
của các địa phương, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp NHNN có điều kiện
tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách theo mô hình ngân hàng trung ương hiện đại;
- Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều chỉnh, đến tỷ giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị
trường;
- Từ tháng 12/2005, các giao dịch vãng lai đã được tự do hóa hoàn toàn và các giao dịch vốn đã được nới lỏng đáng kể với việc ban hành
Pháp lệnh Ngoại hối. Hiện nay, các giao dịch vốn, nhất là dòng vốn ra vẫn được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ
thống tài chính và giảm thiểu rủi ro do việc rút vốn ồ ạt ra nước ngoài;
- Hoạt động tín dụng thay đổi từ tín dụng phân phối cho một số ít đối tượng khách hàng sang tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế
và tách bạch hoạt động cho vay chính sách với cho vay thương mại;
- Mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cho các thành phần kinh tế và tổ chức tài chính trong và ngoài nước, từng bước chuyển từ
hoạt động cung ứng dịch vụ độc quyền của ngành ngân hàng sang thị trường tài chính đa ngành;
- Hệ thống thanh toán và thị trường tài chính đã được hình thành và phát triển, góp phần hỗ trợ cho quá trình tự do hóa và cải cách khu
vực tài chính – ngân hàng, lòng tin của công chúng vào VND và hệ thống ngân hàng ngày càng được tăng cường.
4
4. Giải pháp chính sách cho quá trình tự do hóa tài chính tại Việt Nam
Cho tới nay, Việt Nam đã đi được hơn nửa chặng đường tự do hóa tài chính và tự do hóa tài chính là lựa chọn hợp lý trong điều kiện thực
hiện các cam kết hội nhập trong khuôn khổ WTO, gắn tự do hóa tài chính và cải cách khu vực tài chính trong một lộ trình thống nhất. Tuy
nhiên, Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể về cải cách và phát triển khu vực tài chính. Vì vậy, cần tập trung nghiên cứu và giải quyết
những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, chính sách thương mại, chính sách tỉ giá và các chính sách kinh
tế vĩ mô khác;
- Đổi mới căn bản hệ thống thiết chế an toàn và giám sát tài chính theo các thông lệ và chuẩn mực quốc tế;
- Có biện pháp hợp lý và linh hoạt về kiểm soát các luồng vốn, nhất là nguồn vốn ra và nguồn vốn ngắn hạn vào TTCK;
- Đẩy nhanh tiến độ cải cách ngân hàng nhằm nâng cao tiềm lực tài chính, làm cơ sở để đổi mới công nghệ và trình độ chuyên môn quản
lý, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam;
- Đẩy nhanh tiến độ cải cách doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, góp phần giảm gánh nặng

đối với Ngân sách Nhà nước. Đồng thời, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các Luật thuế nhằm củng cố nguồn thu ngân sách trong khi
nguồn thu thuế bị giảm mạnh trong quá trình thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ;
- Thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho mở cửa thương mại nhằm đáp ứng yêu cầu của WTO và AFTA, trong đó chú trọng đến việc đơn
giản hóa và minh bạch hóa các chính sách thuế, thủ tục hải quan, thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, mở rộng đối tượng được phép tham gia
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ;
- Nâng cao năng lực điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá theo nguyên tắc thị trường nhằm hạn chế rủi ro thị trường đối với khu vực tài
chính trong quá trình tự do hóa;
- Quan tâm phát triển hệ thống thanh toán và dịch vụ hỗ trợ thị trường tài chính theo hướng hiện đại hóa, đồng thời tăng cường quản lý,
giám sát nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động tài chính diễn ra thông suốt và an toàn;
- Chính sách đầu tư nên tập trung vào việc giảm thiểu bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu, đồng thời khuyến khích đầu tư vào các ngành
xuất khẩu và các ngành sản xuất có hàm lượng công nghệ cao;
- Trong quá trình tự do hóa tài chính, cần xử lý sớm, ngay từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính, nhất là
hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán.
b/ Viet Nam đang trên đường cải cách và tự do hóa
Việt Nam là ở một nơi hoàn toàn khác với so với các nước láng giềng. Việt Nam từng được cho là thị trường mới nổi tại Châu Á, có mức
tăng trưởng kinh tế ổn định kể từ những năm 1990 và hưởng được một “thời gian vàng” trước khi cuộc suy thoái bắt đầu hồi năm 2008.
Theo một số dự tính, Việt Nam có thể sẽ trở thành một trong các nước có mức phát triển nhanh nhất trong các nền kinh tế mới nổi của thế
giới vào năm 2025. Câu chuyện tăng trưởng của họ bắt đầu từ thời kỳ Đổi mới vào năm 1986, thông qua các chính sách thị trường tự do
với mục đích tạo ra một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương trình cải cách đã khuyến khích quyền sở hữu tư nhân trong các ngành công nghiệp, và ở thời điểm cao nhất, Việt Nam đã có vốn
đầu tư nước ngoài và bình quân đầu người cao nhất so với bất kỳ quốc gia nào khác trong khu vực.
Ngày nay, xuất khẩu hạt điều và hạt tiêu đen của Việt Nam đã chiếm một phần ba thị phần toàn cầu, và là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai
chỉ sau Thái Lan. Với các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Việt Nam cũng được xếp là nước xuất khẩu dầu khí lớn thứ ba trong
khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam cũng đã thành công trong việc xóa giảm nạn nghèo đói và thất nghiệp, tất nhiên điều này không dễ dàng chút nào trong một
quốc gia có đến 90 triệu dân số. Nhưng sau các phát triển mạnh mẽ này thì các nhà quan sát nói rằng Việt Nam đang bắt đầu mất đi thời
kỳ huy hoàng của họ.
5
Tổng nguồn vốn FDI mà Việt Nam nhận được trong năm 2011, phần lớn được đầu tư vào các ngành sản xuất và giáo dục, đã giảm rất
nhiều so với năm ngoái. Trong 11 tháng đầu tiên, Việt Nam chỉ thu được 12.7 tỷ USD vốn FDI, giảm 20% so với cùng kỳ năm ngoái.

Hơn nữa, thương mại và thâm hụt ngân sách đã trở nên tồi tệ hơn bởi giá trị tiền đồng sụt giảm và mất giá 8% so với đồng đô la Mỹ trong
năm nay. Trong năm 2010, tiền đồng cũng đã bị phá giá đến ba lần.
Một vấn nạn giải khác mà Việt Nam phải đối mặt là lạm phát dai dẳng, đứng ở mức 20% trong nhiều tháng nay. Các số liệu mới nhất cho
thấy rằng lạm phát đã chậm lại trong ba tháng liên tiếp trong tháng Mười một năm nay ở mức 19,83%.
Một nhà phân tích ngân hàng có nhiều kinh nghiệm làm việc tại Việt Nam cho StarBizWeek biết rằng vì Việt Nam là một nước xã hội chủ
nghĩa, nên công nhân ở đây luôn tổ chức các cuộc đình công quy mô lớn. “Các công đoàn lao động ở đây cũng rất mạnh, và vì tiền lương
không thể tăng nhanh để theo kịp với mức lạm phát, nên các cuộc biểu tình thường xuyên diễn ra. Và tất nhiên năng suất đã bị ảnh hưởng
trầm trọng.”
Trong khi đó, nhà phân tích cũng đã chứng kiến thị trường chứng khoán của Việt Nam đã sụt giảm đến 80% xuống còn 200 điểm từ mức
1.000 điểm. Lạm phát và lãi suất cao đã dẫn đến các cuộc bán tháo của các nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến tình trạng hoảng loạn đối với
các nhà đầu tư nội địa.
Hơn nữa, Việt Nam lại sa lầy vào nạn quan liêu và tham nhũng. “Ở Trung Quốc, tham nhũng thường xảy ra ở các cấp cao, nhưng tại Việt
Nam, tệ nạn tham nhũng có mặt hầu như trong toàn bộ hệ thống. Chi phí cho các ông chủ chưa hẳn đã đủ mà các cấp bên dưới cũng phải
được nhận tiền lại quả”, một nhà phân tích giải thích.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang trên đà cải cách, bắt đầu từ việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tương tự như các
công ty liên kết của chính phủ Malaysia.
Trong vòng bốn năm, hơn 2.000 doanh nghiệp nhà nước trong đó bao gồm các tập đoàn lớn, đã được giảm xuống chỉ còn lại 692 doanh
nghiệp, trong đó có các ngành công nghiệp vận chuyển, khai thác mỏ, và dầu khí. Tuy nhiên, chính phủ sẽ giữ lại khoảng 70% cổ phần
trong các doanh nghiệp này.
Ngành ngân hàng cũng cần phải được cải cách toàn diện. Sau nhiều năm chỉ số tín dụng tăng vọt, các ngân hàng hiện nay đang gánh nặng
một số lượng lớn các món nợ xấu, và AFP cho biết con số này có thể lên đến 10% tài sản của họ.
Việt Nam có khoảng 100 ngân hàng thuộc sử hữu nhà nước, tư nhân hoặc nước ngoài nhưng đa số trong số họ đang trong tình trạng thiếu
tiền mặt trầm trọng. Theo ngân hàng trung ương cho biết thì các khoản vay đến nay đã vượt lên 244% GDP trong tháng Chín.
Để khắc phục điều này, chính phủ có kế hoạch giảm số ngân hàng đang hoạt động hiện nay xuống còn một nửa vào năm 2015, và hy vọng
sẽ tạo ra hai hoặc ba ngân hàng lớn trong khu vực.
c/ Tự do hóa tài chính và những vấn đề cần quan tâm của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề tự do hóa tài chính từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới không còn là sự lựa chọn của bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đang là xu thế tất yếu bắt buộc các quốc gia phải thực hiện để đưa nền kinh tế của quốc gia mình đi vào quỹ đạo chung của kinh tế thế giới. Do đó, để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển kịp với vác quốc gia trong khu vực thì một trong những vấn đề quan trọng là từng bước cải cách hệ thống tài chính, hoàn thiện hệ thống ngân hàng theo hướng hội nhập.
Tự do hóa tài chính được hiểu một cách khái quát là việc hạn chế sự can thiệp của Nhà nước bằng các công cụ hành chính vào các mặt hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, để hệ thống tài chính tự điều tiết theo cơ chế vận hành của thị trường.
Từng bước hội nhập
Với cái nhìn chiến lược và phương chăm đúng đắn, các nhà quản lý và điều hành kinh tế đã tiến hành cải cách hệ thống tài chính, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam để từng bước hội nhập với kinh tế toàn cầu. Nhìn chung trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có những việc làm thiết thực đánh dấu cho tiến trình hội nhập trong giai đoạn đầu:

- Thiết lập được các mối quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF); Ngân hàng thế giới (WB) kể từ năm 1992.
- Gia nhập và trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995.
- Tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế: Diễn đàn hợp tác Á – Âu năm tháng 3.1996 với tư cách là thành viên sáng lập. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11.1998.
- Tham gia khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
- Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo được hành lang pháp lý an toàn trong kinh doanh. Điều này được đánh dấu bởi việc ban hành hàng loạt các luật, sửa đổi bổ sung một số điều khoản trong các bộ luật sao cho phù hợp với tình hình hoạt động trong giai đoạn đổi mới của nền kinh tế và thông lệ quốc tế trong trong tiến trình hội nhập. Chẳng hạn luật doanh nghiệp, luật ngân hàng
- Điều đặc biệt đáng lưu ý là vào tháng 7.2000, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và ký kết hiệp định thương mại Việt Mỹ, đến tháng 12.2001 Quốc hội hai nước đã chính thực thông qua hiệp định này.
6
- Về việc điều hành lãi suất: đã từng bước gỡ bỏ dần các ràng buộc trong cơ chế điều hành lãi suất. Qua nhiều lần thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, hiện nay đã tiến tới tự do hóa lãi suất hoàn toàn.
+ Sau khi hệ thống Ngân hàng Việt Nam được tổ chức theo mô hình Ngân hàng 2 cấp, hoạt động theo cơ chế thị trường thì cơ chế lãi suất bao cấp đã được loại bỏ.
+ Từ tháng 6.1992 đến cuối năm 1995 điều hành lãi suất theo khung lãi suất (bao gồm lãi suất trần với lãi suất cho vay và lãi suất sàn với lãi suất huy động).
+ Từ đầu năm 1996 đến tháng 7.2000 Ngân hàng Nhà nước áp dụng mức lãi suất trần đối với lãi suất cho vay.
+ Từ tháng 8.2000 đến tháng 5.2001 áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản, nghĩa là Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép trên cơ sở đó ngân hàng thương mại sẽ quyết định lãi suất kinh doanh của mình. Trong cơ chế này lãi suất cơ bản đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định lãi suất kinh doanh của ngân hàng
+ Từ tháng 6.2001 đến tháng 5.2002 áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản đối với đồng Việt Nam và lãi suất thị trường đối với ngoại tệ(USD).
+ Từ tháng 6.2002 đến nay thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận cho cả Việt Nam đồng và ngoại tệ. Nghĩa là việc ban hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước chỉ mang tính chất làm tín hiệu cho thị trường, lãi suất được hình thành hoàn toàn dựa trên quan hệ cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm trong quan hệ tài chính
- Tổ chức phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ, một mặt là để huy động ngoại tệ mặt khác nhằm đưa sản phẩm tài chính của Việt Nam đi vào giao dịch trên thị trường quốc tế. Qua đó cho thấy thiện chí của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
- Về điều hành tỷ giá: Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện việc công bố tỷ giá trên cơ sở tỷ giá bình quân chung trên thị trường liên Ngân hàng và kèm theo biên độ dao động cho phép, cụ thể kể từ tháng 07.2002 đến nay biên độ dao động là 0.2 %. Điều này cho thấy tỷ giá hoàn toàn được điều chỉnh một cách linh hoạt theo cơ chế thị trường
- Từng bước cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng Việt Nam theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập, nội dung chủ yếu là cơ cấu về vấn đề tài chính của hệ thống ngân hàng cụ thể là:
+ Tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh, theo kế hoạch giai đoạn từ năm 2002 đến 2005 là 7.840 tỷ đồng Việt Nam dưới dạng trái phiếu đặc biệt do Chính phủ phát hành, hiện nay việc tăng vốn đã thực hiện xong đợt I với tổng lượng trái phiếu phát hành khoảng 3.840 tỷ đồng Việt Nam, phần còn lại sẽ tiếp tục thực hiện cho đến năm 2005.
+ Tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần theo hướng sáp nhập các NHTMCP có tiềm lực tài chính yếu vào các NHTM CP có tiềm lực tài chính mạnh hơn, giải thể các ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, kết quả hiện nay chỉ có 21 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị trên tổng số 30 ngân hàng ban đầu và 15 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn trên tổng số 21 ngân hàng ban đầu.
Kết quả trên chỉ cho thấy bước đi thuận lợi ban đầu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Nhưng để đạt được mục đích cuối cùng trong tiến trình hội nhập thì cần phải nhận thức sâu hơn nữa những thuận lợi và khó khăn cũng như thời cơ và thách thức để có bước chuẩn bị tốt hơn
Thuận lợi
-Khi đề cập đến những thuận lợi trong tiến trình hội nhập thì trước hết phải kể đến vai trò lãnh đạo của Nhà nước, luôn luôn thể hiện sự nhất quán trong quản lý và điều hành nền kinh tế, chủ động đổi mới và hội nhập đúng lúc, phù hợp với xu thế của thời đại.
-Môi trường đầu tư tại Việt Nam được đánh giá là có mức độ an toàn cao, ổn định về an ninh và chính trị, được công ty Standard and Poor xếp hạng tín nhiệm là BB vào tháng 5.2002 so với công ty Moody’s Invertor Service xếp hạng B vào tháng 04.2001. Điều này chứng tỏ Việt Nam là môi trường đầu tư có nhiều hứa hẹn.
-Kế thừa được những kinh nghiệm của một số quốc gia đi trước.
-Được sự đồng tình ủng hộ của tất cả các đơn vị cá nhân trong tất cả các thành phần kinh tế.
Khó khăn
Mặc dầu có những thuận lợi từ nhiều phía song trong tiến trình hội nhập vẫn không tránh khỏi những khó khăn nhất định:
- Do có một thời gian khá dài duy trì cơ chế tập trung bao cấp, nên khi chuyển sang cơ chế thị trường còn nhiều vướng mắc trong vấn đề quản lý.
- Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, gần 40 năm tồn tại và hoạt động theo mô hình ngân hàng một cấp. Do đó khi chuyển sang mô hình ngân hàng 2 cấp không tránh khỏi một số hạn chế nhất định.
Về phía Ngân hàng trung ương:

+ Chưa thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các ngân hàng thương mại. Việc thanh tra kiểm soát, xử lý nợ tồn động đối với các ngân hàng thương mại chưa được thực hiện đúng mức.
+ Ngân hàng trung ương chưa thể hiện được tính độc lập tương đối trong quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng. Do đó trong mảng nghiệp vụ ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại chưa được quan tâm đúng mức, thể hiện rõ nhất là đối với ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, do đó tạo ra một trạng thái cạnh tranh không cân sức trong lĩnh vực ngân hàng.
Về phía ngân hàng thương mại:
+ Năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất yếu, đặc biệt là đối với các NHTMCP. Do đó khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam đối với ngân hàng thương mại nước ngoài có phần hạn chế. Trong đó NHTMQD thành phần chủ chốt của hệ thống ngân hàng Việt Nam có vốn tương đối lớn nhưng so với ngân hàng nước ngoài thì rất thấp. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam có vốn cao nhất trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh nhưng chỉ có khoảng 140 triệu USD. Đối với NHTMCP thì mức vốn bình quân chung dưới 10 triệu USD, trong đó Eximbank được xem là NHTM CP có vốn lớn nhưng cũng chỉ khoảng 300 tỷ VND thấp hơn rất nhiều so với mức vốn của chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Do đó đây là một bất lợi rất lớn
trong vấn đề cạnh tranh khi hội nhập.
+ Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại chưa phong phú, chủ yếu là các nghiệp vụ truyền thống, do đó làm cho hoạt động của ngân hàng trở nên đơn điệu chưa thật sự thu hút đối với khách hàng:
Về nghiệp vụ nguồn vốn :
Hình thức huy động còn hạn chế chủ yếu dưới dạng nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm .… Trong cơ cấu vốn huy động thì vốn ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn so với các thành phần khác . Điều này chứng tỏ NHTM chưa xây đựng được chiến lược huy động vốn dài hạn, chưa kết hợp được hình thức huy động vốn với các phương thức thanh toán hiện đại. Do đó không thể khai thác hết nguồn vốn tìm năng trong nền kinh tế.
Về nghiệp vụ sử dụng vốn:
Nghiệp vụ sử dụng vốn hiện nay chủ yếu là hoạt động tín dụng nhưng trong mảng này chưa mở rộng được hoạt động cho vay mới chẳng hạn tín dụng thấu chi, chiết khấu chứng từ có giá, cho vay tiêu dùng thì chỉ áp dụng cho thành phần kinh tế nhà nước. Hoạt động đầu tư thì chủ yếu tập trung vào mua các tín phiếu và tín dụng kho bạc chưa mạnh dạn đầu tư vào các loại chứng khoán khác.
Về kinh doanh dịch vụ ngân hàng:
Được xem là mảng nghiệp vụ mang lại tỷ suất lợi nhuận cao nhưng chưa có sự quan tâm đúng mức. Dịch vụ chủ yếu của ngân hàng hiện nay là dịch vụ thanh toán, chuyển tiền…. Chất lượng sản phẩm dịch vụ còn hạn chế chưa tạo được lợi thế trên thị trường
+ Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cán bộ công nhân viên chưa đồng đều. Ngân hàng chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ ngân hàng.
7
+ Trong quản lý chưa có sự tách bạch giữa nghiệp vụ chính sách và nghiệp vụ kinh doanh, chủ yếu là ở các NHTM QD. Do đó tạo sức ỳ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Qua những thuận lợi và khó khăn vừa nêu trên đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức đòi hỏi các nhà quản lý điều hành nền kinh tế cần phải quan tâm nhiều hơn nữa trong việc cải tổ lại hệ thống ngân hàng Việt Nam.
d/ Thực trạng, xu thế và giải pháp chính sách cho vấn đề tự do hóa tài chính ở Việt nam nói chung và Ngân hàng Việt Nam nói riêng
- Trước hết bằng cách “chia” theo chiều dọc: Thị trường tài chính (TTTC) VN gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường này đã trải qua một quá trình tự do hóa dần dần từ những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 khi ngành Ngân hàng chuyển sang mô hình 2 cấp và hoạt động theo cơ chế thị trường. Quá trình đó biểu hiện qua các động thái nới lỏng quan hệ lãi suất từ áp đặt sang “trần-sàn”, đến khống chế trần và cuối cùng là thoả thuận; Là quá trình thay đổi từ tỷ giá cố định, sang tỷ giá cố định có điều chỉnh , đến công bố tỷ giá theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường; Là quá trình từ “phân phối” tín dụng cho một số ít đối tượng khách hàng đến tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế, từ tín dụng đan xen đến tín dụng tách bạch chính sách với thị trường để mở rộng khả năng cung ứng
dịch vụ Ngân hàng cho nền kinh tế; Là quá trình từ Nhà nước độc quyền mở Ngân hàng đến Ngân hàng của mọi thành phần kinh tế, kể cả loại Ngân hàng được sở hữu bởi nhân tố nước ngoài; Là quá trình ngành Ngân hàng độc quyền cung ứng dịch vụ tín dụng, thanh toán đến một thị trường tài chính đa ngành cùng tham gia cung ứng vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế v.v.
Trên thực tế, chưa bao giờ thị trường tài chính Việt nam sôi động như giai đoạn từ tháng 5/2006 đến hết tháng 2/2007 – Trong đó, tâm điểm là TTCK với mức “tự do” hầu như ở đỉnh cao nhất – Người có tiền, Công ty, Doanh nghiệp có “hàng” – Chủ yếu là hàng cổ phiếu cả ở thị trường có tổ chức lẫn TTCK tự do phi tập trung đã “đồng loạt” tăng nhiệt độ cho thị trường vốn! Dưới hình thức “tăng vốn điều lệ”, cùng với một tiềm năng “cầu” khá lớn (so với tổng số hàng hoá còn khan hiếm ban đầu), TTCK VN đã tạo điều kiện “vàng” cho nhiều Công ty, DN, NHCP gần như “tay không bắt giặc” từ các nguồn lực trong xã hội để nâng chênh lệch vốn thực lên nhiều lần. Lẽ ra, đây phải là tín hiệu đáng mừng và là thiên chức số 1 của TTCK.
Để ý rằng trong một Hội thảo khoa học về phát triển thị trường tài chính VN hồi cuối năm 2005, nhiều diễn giả và đại biều tham dự đã dự báo được coi là lạc quan rằng: tổng doanh số trên TTCK sơ cấp vào cuối năm 2006 có thể “lên tới” 10-12% GDP, nhưng đến cuối 2006 con số thực tế đã lớn gấp hơn 3 lần con số dự báo lạc quan đó. Tuy nhiên, do “thành tựu” này đã diễn ra trong một thời gian cực ngắn - Mỗi lần “đóng thầu” tăng vốn ở thị trường sơ cấp là mỗi lần Công ty phát hành “cầm chắc” một lượng giá trị phát hành chứng khoán vốn giá cao (so với mệnh giá), vô danh, vô thời hạn bỏ lại cho thị trường thứ cấp những cuộc “chạy tiếp sức” với nhiều phen tăng nhiệt đến khó tin, bất chấp đích thực Công ty phát hành sơ cấp yếu hay khỏe, lợi nhuận thấp hay cao, tương lai tối hay sáng thì hiện tượng
trên đáng phải báo động hơn là đáng mừng. Thậm chí có cả loại Công ty “chưa kịp cất tiếng khóc chào đời” cũng “bán hàng sơ cấp gọi vốn” trên thị trường tự do!
Chỉ số chứng khoán VN- INDEX từ tháng 5/2006 đến 2/2007 đi lên gần như “một mạch” từ dưới 350 lên trên 1.200! Đến tháng 3/2007 may mà, TTCK bắt đầu “tỉnh ngộ”, tự điều chỉnh lại làm cho nhiệt độ cổ phiếu chuyền nhiệt dần cho các thị trường khác như: bất động sản và vàng và đến những tháng đầu quí 2 năm 2007 này, sự tụt dốc của chỉ số chứng khoán lại tiếp tục rơi xuống dưới con số 980 Tuy vậy, hầu như chỉ có “người chạy tiếp sức” trên thị trường thứ cấp mới “gặp tai nạn”, còn Công ty phát hành “xong sơ cấp” là coi như “xong”! Điều đó hoàn toàn bình thường vì chỉ có vốn đưa vào thị trường sơ cấp mới tạo ra vốn điều lệ hoặc đầu tư cho sản xuất, còn vốn chạy lòng vòng trên thị trường thứ cấp chỉ là quá trình “cơ cấu lại” cấu trúc các nhà sở hữu và ở đó, vốn chỉ chạy từ túi người này sang
túi phi sản xuất của người khác, mặc dù chính thị trường thứ cấp mới là “nhựa sống” cho thị trường sơ cấp và là dung môi để duy trì tính lỏng của chứng khoán.
Tuy nhiên, nếu các nhà quản lý Nhà nước về TTCK không tỏ thái độ chính sách về minh bạch và cập nhật kiến thức rộng rãi cho cộng đồng thì rất có thể đến giai đoạn tiếp theo – Sau một khoảng thời gian “chờ” các hàng hoá “chất lượng cao” từ các đại gia NHTMNN, DNNN lớn CPH sẽ lặp lại diễn biến như giai đoạn bùng phát nhiệt độ trước đây. Thậm chí ngay cả những nhân viên, công chức của các DNNN hay NHTMNN CPH được quyền mua theo qui chế với giá = 60% giá “đóng thầu” tại thị trường sơ cấp cũng lo sợ bị “xã hội” lôi lên mức giá rất cao để sau đó ít còn nhà đầu tư nào giám “chạy tiếp sức” nữa. Phần chênh lệch giá ở thị trường sơ cấp thì thuộc về chủ sở hữu cũ (là Nhà nước). Sau đó nếu “nhiệt độ” trên thị trường thứ cấp lại nguội dần và không ngoại trừ “nguội” hơn cả giá tại thời điểm
đóng thầu ở thị trường sơ cấp thì chính những “nhân viên, công chức” mua cổ phần trước đó sẽ bị thiệt thòi cùng với sự thiệt thòi chung của những cá nhân, tổ chức “chạy tiếp sức” trên thị trường thứ cấp! Tuy nhiên, bài học về những “vết thương” của TTCK do “ăn xổi ở thì” thời gian qua sẽ không còn “cơ hội vàng” cho các NHTMNN, DNNN lớn có thể kỳ vọng đem lại chênh lệch giá cho Nhà nước được nhiều lần như các NHCP, Công ty, DN nhỏ và vừa đã từng “chộp” được như hồi cuối năm 2006 đầu 2007 nữa!
Trong những lúc nóng, lạnh khác nhau của TTCK thì thị trường tiền tệ, tín dụng và các thị trường đầu tư khác ra sao?
Tại Việt Nam trong suốt thời gian bùng phát nhiệt độ tại TTCK đã có ít nhất 3 nguyên nhân để giải thích và cũng là 3 tâm điểm gợi ý chính sách để quản lý TTTC nói chung. Đó là:
Do giá trị xuất phát của Công ty phát hành tại thị trường sơ cấp bị định giá quá thấp dưới giá trị thực (nhiều DN, NHCP chưa tính đủ giá trị quyền sử dụng đất và dự kiến giá trị thương hiệu kỳ vọng khi định giá giá trị DN) - Điều này làm phương hại đến tài sản của chủ sở hữu Công ty, DN (chủ yếu là các DN vừa và nhỏ của Nhà nước CPH, làm cho Nhà nước bị thiệt thòi).
Quan hệ cung – cầu mất cân đối lớn: hàng vừa rẻ, vừa ít, trong khi “cầu” vừa nhiều, vừa đang khó tìm nơi đầu tư có lợi.

Hiệu ứng đám đông – Các nhà đầu tư trên cả thị trường sơ cấp và nhất là trên thị trường thứ cấp đua nhau mua một cách phi chuyên nghiệp và bị “cuốn hút” bởi các trò ảo thuật của các nhà đầu tư lớn sành sỏi từ nước ngoài hoặc thậm chí của “người trong cuộc”. ở những trung tâm kinh tế lớn hồi cuối năm 2006, đầu năm 2007: “người người chứng khoán, nhà nhà chứng khoán” và trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư đã ra sức “đánh bóng” không công cho Công ty phát hành, bất luận Công ty đó “sức khoẻ” thực hư ra sao – Hiệu ứng đám đông dạo đó mạnh đến mức mà “người ta” giám mua ngay cả khi giá cổ phiếu bình quân đã tăng lên tới hơn 15 lần chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm “sản xuất và phát triển” của Công ty phát hành! Từ hiện tượng trên, “vốn” từ các “kênh khác” dưới nhiều hình thức chắc
chắn đã “chảy” vào dòng sông cổ phiếu trên thị trường lúc đầu là sơ cấp và sau đó đặc biệt là trên thị trường thứ cấp!
Hình như “tiền đẻ trực tiếp ra tiền”! Nếu vậy thì dân ta cần phải hô: “tiền ở Việt nam muôn năm”! Một điều lạ nữa ở TTCK Việt nam là dường như các nhà đầu tư chỉ chăm chú vào các chứng khoán vốn – Cổ phiếu và rất lơ là với các chứng khoán nợ cũng như các nghiệp vụ phái sinh đến từ các chứng khoán nợ đó! Thử hỏi thị trường cổ phiếu có phải là “quả đấm” thép cho đầu tư phát triển sản xuất không? Câu trả lời là Không! Bởi một lẽ đơn giản là người ta không thể huy động vốn điều lệ để ném vào sản xuất, mà thiên chức của vốn điều lệ là “bành trướng” thế lực của Công ty hay của NHTM làm vốn mồi hoặc vốn đối ứng mà nhờ đó có thể thu hút các dòng vốn trong xã hội để đầu tư sản xuất. Chính lẽ đó, qui mô của “tổng giá trị cổ phiếu” rút cục vẫn không thể vượt qua một danh giới đủ lớn xung quanh
ngưỡng hiệu quả sao cho vừa đủ để làm “chim mồi” săn bắt một thế giới chim trời lớn hơn gấp nhiều lần nó
Sự tự điều chỉnh gần đây của TTCK đã thức tỉnh giấc ảo mộng vàng của nhiều nhà đầu tư. Với sự thức tỉnh này, chắc chắn những vòng chu kỳ biến thiên giá tiếp theo trên TTCK Việt Nam sẽ từng bước phản ánh đúng qui luật hơn – Thị trường hàng hoá và dịch vụ chứ không phải tự TTCK điều chỉnh giá của TTCK. Thế mới thấm thía quan điểm của K.Mac: “giai cấp tư sản không thể tự làm giàu trên lưng nó được” càng đúng và hàm một ý rất sâu sắc trong các giải thích về sự “lòng vòng” của các dòng vốn trong nội bộ thị trường tài chính thì rút cuộc sẽ dẫn đến những bi kịch của chính thị trường này. Nền kinh tế Việt nam đang cần bội lần vốn đầu tư so với tổng giá trị “cổ phiếu” mà nhiều “nhà” đầu tư đang ra sức “đánh bóng, mạ kền” hoặc kích động các cuộc “chạy tiếp sức” với kỳ vọng thu được nhiều “lãi
con buôn” hơn là thu từ cổ tức – Cái giá đích thực của cổ phiếu! Các NHTM nếu không tỉnh ngộ trong việc chủ động kiểm soát tỷ lệ dòng vốn vay chuyển từ mục đích đầu tư sản xuất sang đầu tư cổ phiếu thì đương nhiên sẽ tiếp tục phải trả giá như nhiều NHTM đã phải trả một cách quá đắt. Các dòng chảy của vốn từ nơi lợi ích thấp tới nơi có lợi ích cao cũng là lẽ tự nhiên.
Theo đó, chắc chắn việc huy động vốn của các NHTM sẽ khó khăn hơn nhiều so với việc cho vay ra. Vấn đề là “tăng” dư nợ vào đâu? Câu trả lời chắc chắn nhất chỉ có người vay mới rõ. Tuy nhiên, không thể nghi ngờ gì việc vốn đi vay sẽ chảy vào nơi kỳ vọng tạo nhiều lợi ích nhất cho đến khi “tỉnh cơn say” mới vỡ lẽ rằng lẽ ra vốn vay phải chủ yếu đổ vào các dự án sản xuất, dịch vụ khả thi. Buồn thay, khi người vay “tỉnh ngộ” thì không những chính họ đã trọng thương mà còn “kịp” kéo theo cả việc gây thương tích cho các chủ nợ của họ: Ngân hàng! Các NHTM chắc không phải không biết điều đó? Vấn đề là hành động ra sao mà thôi. Rõ ràng là thị trường tiền tệ, tín dụng và thị trường chứng khoán luôn có những dòng chảy qua lại với nhau. Đây cũng là qui luật và là “vẻ đẹp” về sự giao thoa giữa thị
trường tiền tệ và thị trường vốn. Tuy nhiên, nếu để các dòng chảy này tự phát phát triển thì nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tài chính “để thị trường tự điều chỉnh theo cách của bàn tay vô hình” là không thể đảm bảo chắc chắn không xẩy ra, mặc dù rút cuộc thị trường cũng sẽ đảo chiều và khởi sắc theo qui luật sau khi đã vấp hoặc ngã gây thương tích nặng nề! Để ý rằng, TTCK không phải chỉ là thị trường cổ phiếu.
NHTM hoàn toàn có thể “kích hoạt” cho TTCK bằng cách tự mình khống chế một tỷ lệ đủ an toàn trong cho vay đầu tư cổ phiếu và “lỏng hoá” các chứng khoán nói chung bằng cách tăng cường cho vay đầu tư trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình bằng tài sản thế chấp, bằng dịch vụ lưu ký trái phiếu và sẵn sàng “lỏng hóa” các trái phiếu bằng tín dụng cầm cố trái phiếu và phát triển thêm các dịch vụ phái sinh từ trái phiếu, cổ phiếu. Ngân hàng chỉ có thể hoạt động có hiệu qủa khi kết hợp được dịch vụ tín dụng với các dịch vụ phi tín dụng trên nguyên tắc mọi nẻo đường phải chắc chắn dẫn tới “Thành Rôm”, với “Thành Rôm” được khẳng định là các dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả của nền kinh tế – Bản chất của lợi nhuận hay lợi tức thu được trong thị trường tài chính bao giờ cũng là kết quả phân
phối lại (chứ không phải phân phối lần đầu) giá trị thặng dư được sáng tạo ra từ nền sản xuất - Vị Giám đốc NHTM nào mà không hiểu điều đó. Nhưng vấn đề là ở chỗ: “chính sách hóa” và đưa nó vào cuộc sống ra sao mới là cái mà cuộc sống đang chờ! Thiết nghĩ các NHTM phải chủ động hơn là chờ NHNN buộc phải can thiệp hành chính theo quyền lực để giúp các NHTM tỉnh ngộ
- Chia thực trạng vấn đề tự do tài chính theo chiều ngang: Từ sau khi có Luật đầu tư nước ngoài tại VN lần đầu tiên năm 1988 đến nay, về cơ bản Việt nam là một nước “nhập khẩu tư bản” nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp là chủ yếu. Đến Đại Hội IX của Đảng năm 2001 đã coi “khu vực có vốn đầu tư nước ngoài” là một trong 6 thành phần kinh tế chính thức của Việt nam. Tốc độ đầu tư vào tuy không đều qua các năm, nhưng đã hình thành một xu hướng tăng liên tục. Đặc biệt là từ đầu năm 2007 đến nay sau khi VN trở thành thành viên WTO thì tốc độ gia tăng đầu tư nước ngoài vào VN đã rất mạnh trở lại so với những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước và ở qui mô cao hơn. Tổng vốn luỹ kế đầu tư trực tiếp vào VN đã lên đến trên 50 tỷ USD – Trong đó, chỉ riêng lượng vốn đổ vào trong vòng
1 năm qua đã chiếm tới 40%. Bình quân 10 năm lại đây, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã: Tạo ra trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm; Sử dụng gần 10% lao động công nghiệp; Tham gia hơn 20% tổng đầu tư toàn xã hội bình quân/năm Đã trực tiếp góp phần làm cho nền kinh tế VN tiếp cận với công nghệ và trình độ quản lý hiện đại của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, qua những diễn biến “nóng, lạnh” trên TTCK thời gian qua cũng đã cảnh báo cần phải có những giải pháp thận trọng trong quá trình từ tự do hóa tài khoản vãng lai đến tự do hóa tài khoản vốn.
Những động thái đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt nam cũng đã bắt đầu hình thành và đang trở thành một “làn sóng” đầu tư thứ 3 từ nước ngoài (sau FDI, ODA) được khởi xướng chính thức từ khoản “vay” 750 triệu tổng giá trị trái phiếu Chính phủ năm 2006 và dòng vốn đầu tư vào TTCK VN từ giữa năm 2006 đến nay liên tục gia tăng, ước khoảng hơn 1 tỷ USD “tiền gốc” quay vòng.
Giới hạn về tỷ trọng nắm giữ vốn sở hữu cổ phần trong các Công ty TC, NHCP và NHTM Nhà nước sẽ cổ phần hoá thuộc lĩnh vực NH đã tăng từ 10% lên “trần” 30% theo Nghị Định mới nhất - NĐ số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 của Chính Phủ V/v “nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM VN”.
Lộ trình nới lỏng các hạn chế về qui mô và lĩnh vực hoạt động của các Định chế nước ngoài tại khu vực TC – NH ở VN theo cam kết WTO cũng đã vạch rõ xu hướng cho các
Tích cực áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong hoạt động Ngân hàng th¬ương mại - Đặc biệt là chuẩn mực về kế toán, kiểm toán, qui chế quan hệ bắt buộc giữa các Ngân hàng trung gian với Ngân hàng trung ¬ương về tái cấp vốn, thị trường mở, thanh toán quốc gia và các chuẩn mực về thanh tra - giám sát Ngân hàng;
8
Mở cửa thị trường Ngân hàng, nới lỏng dần theo lộ trình các hạn chế về quyền tiếp cận và nội dung hoạt động của chi nhánh cũng như Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam bắt đầu được xem xét cho thành lập từ 1/4/2007;
Xoá bỏ dần, tiến tới xoá bỏ tối đa các giới hạn đối với các Ngân hàng nước ngoài về số lượng đơn vị; hình thức pháp nhân; tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài (tại NĐ 69 đã dẫn, ngoài tỷ lệ “trần” ghi ở điều 4, nhà đầu tư nước ngoài còn được “mua lại” cổ phần của nhà đầu tư trong nước theo điều 8.3); tổng giao dịch nghiệp vụ Ngân hàng; mức huy động vốn VND; loại sản phẩm, loại dịch vụ Ngân hàng trên lãnh thổ Việt nam.
Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với luật lệ quốc tế để tạo sân chơi bình đẳng cho các NHTM trên lãnh thổ Việt Nam cùng phát triển và cạnh tranh lành mạnh
- Về “đầu tư ra nước ngoài”: Cho đến nay, việc “đầu tư” ra nước ngoài của VN đã khá đa dạng dưới các hình thức: Liên doanh khai thác dầu khí ở nước ngoài (hiện có 4 liên doanh); Ngân hàng liên doanh với nước ngoài hoạt động ở cả “2 đầu” (có 5 NH liên doanh); Một số dự án từ nguồn ODA và FDI của Việt nam dành cho một số nước láng giềng trong lĩnh vực xây dựng cầu, đường và thuỷ điện; Mở tài khoản tiền gửi ở nước ngoài và; Việc áp dụng các hình thức tín dụng thương mại khi xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài v.v.Tất cả các hình thức trên còn rất khiêm tốn cả về doanh số và không gian hoạt động. Thực ra, thuật ngữ “mở cửa” và “tự do hoá tài chính” ở Việt nam hiện nay chủ yếu là “trải thảm đỏ” để đón vốn vào hơn là đầu tư ra - Điều này cũng phản ánh đúng thực trạng của một nền kinh tế
đang phát triển ở giai đoạn đầu như Việt nam.
- Về xu hướng tự do hóa tài chính trong nước: Chắc chắn sẽ phải vận động theo sức hút của tiến trình tự do hoá tài chính không biên giới của thế giới trong kỷ nguyên WTO. Các xu hướng rõ nhất có thể nhìn thấy và dự báo bao gồm: Nới rộng các giới hạn về: Quyền của các thành phần tham gia cung ứng dịch vụ Ngân hàng, tỷ lệ sở hữu cổ phần thông qua việc mua cổ phần và các thương vụ mua, bán, sáp nhập; tỷ lệ chuyển tiền; điều kiện tham gia mạng thanh toán quốc tế; sự hình thành các khu vực đồng tiền chung; các giới hạn về biên độ tỷ giá; các hình thức thanh toán qua biên giới Để hiện thực hoá các xu hướng nói trên, chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều loại mô hình Định chế tài chính và nghiệp vụ mới theo hướng: Chuyển mạnh từ đơn sở hữu sang đa sở hữu, từ Công ty hoá sang Tập Đoàn hoá, từ chuyên
doanh thuần sang đa năng và từ đa năng chung chung (hạch toán gộp) sang “chuyên doanh” trong đa năng (phân cấp quản trị kinh doanh theo nhóm sản phẩm, loại khách hàng và hạch toán độc lập trong hạch toán tổng ).
Từ các xu hướng đã và đang phát triển nói trên, giải pháp để thúc đẩy tự do hoá tài chính đối với Việt nam lúc này, tôi cho rằng cần bao gồm đồng loạt các hình thức và hành động sau đây:
- Phải chủ động tự do hoá tài chính trên cơ sở: Minh bạch hoá mối quan hệ giữa CSTT và CSTK, làm cho cả 2 chính sách này ngày càng lành mạnh bằng cách trao nhiều quyền lực cho NHTW trong việc hoạch định và thực thi CSTT. NHTW phải đủ sức và đủ công cụ để bảo đảm ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam; Đủ sức kiểm soát và làm chủ các nghiệp vụ chính của NHTW như: Điều hành thị trường tiền tệ; Điều hành và kiểm soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia; Đảm bảo trên đất Việt nam chỉ tiêu tiền VN và nhanh chóng thực hiện lộ trình tự do chuyển đổi cho đồng tiền VN; Đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt động thanh tra – giám sát hoạt động Ngân hàng của mọi loại Định chế tài chính (ngay cả khi có Uỷ Ban giám sát tài chính ngoài NHTW);
- Mọi hoạt động có tính chất đầu tư của khu vực tài chính công phải thực hiện thống nhất theo cơ chế thị trường, đều phải bị điều chỉnh thống nhất bởi Luật chuyên ngành về Ngân hàng; Hạn chế dần và có kỷ cương minh bạch, công khai về các hoạt động tín dụng chính sách ưu đãi đối với khu vực thuộc đối tượng chính sách ưu đãi của Nhà nước; Thống nhất một mạng thanh toán quốc gia đối với mọi Pháp nhân có quan hệ thanh toán với Ngân hàng, kể cả khu vực NSNN và khu vực tài chính Nhà nước ngoài NSNN.
- Cần phải đứng trên lợi ích của Nhà nước để dẫn dắt thị trường bằng cách có chính sách “dãn” rộng hơn khoảng cách giữa các lần cổ phần hoá từng NHTMNN hay từng DNNN nếu không, một bộ phận tài sản của Nhà nước sẽ có xu hướng rơi vào tay cá nhân các nhà đầu cơ!
- Đào tạo và từng bước phổ cập kiến thức phổ thông về cung ứng và “mua” các dịch vụ tiện ích từ Ngân hàng. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín dụng trực tiếp giữa cá nhân với Ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp thông qua các Công ty, Nhà máy chế biến, Tập đoàn công nghiệp, Tập đoàn thương mại đồng thời có chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ việc mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng của cả Pháp nhân và thể nhân để cùng với các giải pháp công nghệ nhanh chóng nhất thể hóa thẻ thanh toán trên lãnh thổ Việt nam
Tóm lại: “tự do hóa” tài chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các quyền tham gia, cũng như tiếp cận dịch vụ trên TTTC cho các bên kiếm tìm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được của Pháp Luật. Tự do hóa tài chính do đó trước hết luôn gắn chặt với năng lực minh bạch và khả năng kiểm soát

Mức độ tự do hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực quản trị, công nghệ, kiểm soát rủi ro và tính minh bạch trong các quan hệ theo Luật pháp liên quan ở trong nước và thông lệ quốc tế từng thời kỳ phát triển. Mặt khác, tự do hoá tài chính cũng là một xu thế khách quan không thể nhẫn nại “ngồi chờ” sự hoàn thiện năng lực và môi trường Luật Pháp của từng quốc gia
II/ Thực tiễn tính chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
a/ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tính chuyển đổi của tiền tệ
Trong thời gian qua, khi trao đổi về tính chuyển đổi của tiền tệ có nhiều chuyên gia đưa ra những giải pháp cho vấn đề chuyển đổi của
đồng Việt Nam (VND) rất đáng được quan tâm và cần có sự trao đổi.
Có ý kiến cho rằng, để nâng cao khả năng chuyển đổi của VND, cần thực hiện các giải pháp: đổi mới cơ chế điều hành chính sách tiền tệ
dựa trên lãi suất và lạm phát cơ bản làm mục tiêu; thực hiện chiến dịch tầm thường hoá đô la Mỹ bằng cách phát huy hơn nữa tác dụng
của thị trường ngoại hối; xoá bỏ các giấy phép mua bán ngoại tệ trong giao dịch vãng lai, nâng cao khả năng xuất khẩu bằng VND… Bài
viết này muốn đề cập đến một số vấn đề liên quan đến bản chất của việc chuyển đổi tiền tệ; góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực
tiễn, thuận lợi cũng như thách thức đối với quốc gia chưa có điều kiện kinh tế chín muồi mà vội áp dụng chế độ chuyển đổi đồng bản tệ
của mình; đề cập đến tính thời sự, khả năng nâng cao tính chuyển đổi của VND theo các giải pháp do một số chuyên gia đưa ra.
1. Chuyển đổi tiền tệ là một phạm trù kinh tế.
Trước hết, tôi tán thành với ý kiến cho rằng, chuyển đổi tiền tệ và duy trì cơ chế chuyển đổi – là một vấn đề kinh tế phức tạp, đòi hỏi phải
có nhiều thay đổi về chất trong nền kinh tế quốc gia, cũng như trong quan hệ ngoại thương. Tuy nhiên, về ý kiến cho rằng chuyển đổi của
đồng tiền là vấn đề khá trừu tượng, khó đánh giá chính xác và đo lường trực tiếp, thiết nghĩ, cần phải làm sáng tỏ hơn. Tôi cho rằng, tính
chuyển đổi tiền tệ là một phạm trù được xác định bởi tổng hoà các mối quan hệ kinh tế, bao gồm quan hệ tiền tệ – tín dụng – ngân hàng,
ngoại thương… Khi điều kiện kinh tế chưa chín muồi thì tất nhiên sẽ không có một tiêu chí nào để xác định tính chuyển đổi của đồng tiền.
Nhưng khi đồng bản tệ của các quốc gia trở thành đồng tiền chuyển đổi tự do, thì rõ ràng vấn đề không còn trừu tượng và khó xác định.
Hiện nay các đồng tiền của các nước trên thế giới được chia ra làm 2 nhóm: nhóm các đồng tiền tự do chuyển đổi và nhóm các đồng tiền
không tự do chuyển đổi.
Vì chuyển đổi tiền tệ là một phạm trù kinh tế, nên khi bàn đến, người ta quan tâm đến nhiều yếu tố, tựu trung là những điều kiện cơ bản
cần và đủ cho đồng tiền của bất cứ một quốc gia nào có thể chuyển đổi. Các điều kiện đó là: Tiềm năng kinh tế của một nước và khả năng
cân đối tài chính quốc gia; hình thái hình thành giá cả hàng hoá; tổ chức thị trường bán buôn nội địa phát triển một cách ổn định, có khả
năng đáp ứng bất cứ nhu cầu tiêu dùng nào của những người sở hữu đồng tiền; ngành công nghiệp xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao
trên thị trường quốc tế, đảm bảo cán cân thanh toán một cách ổn định; có mức dự trữ ngoại tệ đủ cho nền kinh tế; thị trường hối đoái năng
động; cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho việc chuyển đổi đồng tiền.
Như vậy, bất cứ một yếu tố nào trong số các yếu tố nêu trên đều có đại lượng để tính toán. Nếu chúng ta cho rằng chuyển đổi tiền tệ là vấn
đề trừu tượng, khó đánh giá và đo lường trực tiếp thì chúng ta không thể xây dựng được những giải pháp khả thi cho việc chuyển đổi của
đồng bản tệ.
9

Từ những luận giải trên, có thể thấy rằng, khả năng chuyển đổi của tiền tệ phụ thuộc vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội và hệ thống
pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy, trong thực tiễn kinh tế thế giới, tính chuyển đổi tiền tệ có các mức độ khác nhau như: “chuyển đổi
đầy đủ” và “chuyển đổi hạn chế”.
Đồng tiền của bất cứ một quốc gia nào được xem là “chuyển đổi đầy đủ” nếu việc chuyển đổi ra đồng tiền của quốc gia khác không bị luật
pháp của quốc gia đó khống chế ở bất cứ phương diện nào, đồng thời thoả mãn được hai yếu tố trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là
được sử dụng rộng rãi trong trong định giá và thanh toán đối với các giao dịch ngoại thương và được mua bán rộng rãi trên các thị trường
ngoại hối. Chính vì vậy, “chuyển đổi đầy đủ” còn gọi là chuyển đổi tự do.
Trong trường hợp “Chuyển đổi hạn chế” thì đồng bản tệ của quốc gia bị luật pháp hạn chế phạm vi, cũng như đối tượng sử dụng. Ví dụ
như người cư trú sử dụng được, nhưng người không cư trú thì không được sử dụng, hoặc đồng tiền đó được sử dụng đối với nghiệp vụ
vãng lai, nhưng không được sử dụng đối với giao dịch vốn…
Có hai loại “chuyển đổi hạn chế”. Đó là chuyển đổi “nội hạt” và chuyển đổi “ngoại hạt”. Nghiệp vụ chuyển đổi này phụ thuộc vào nơi cư
trú và hoạt động của doanh nghiệp là chủ sở hữu đồng bản tệ. Chuyển đổi “ngoại hạt” xảy ra khi cần có ngoại tệ để thanh toán cho nước
ngoài, trường hợp này chỉ sử dụng cho người cư trú là pháp nhân và thể nhân có quan hệ nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Chuyển đổi nội
hạt, thì ngược lại, chỉ áp dụng trong trường hợp người cư trú đổi đồng bản tệ ra đồng ngoại tệ để chi tiêu tại nước sở tại.
2. Những ưu việt và thách thức đối với quốc gia khi chuyển đổi đồng bản tệ
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng, đồng bản tệ của quốc gia nào trở thành đồng tiền chuyển đổi, thì nó sẽ có vai trò tích cực đối
với việc phát triển nền kinh tế quốc dân của quốc gia đó .
Chuyển đổi tiền tệ chỉ tồn tại trong một nền kinh tế phát triển bền vững, tự do cạnh tranh và không bị ràng buộc bởi bất cứ một hạn chế
nào về quan hệ thương mại và thanh toán.
Tính chuyển đổi của đồng tiền có vai trò định hướng cho các nhà sản xuất cũng như tiêu thụ hàng hoá. Trong điều kiện hội nhập, thì thị
trường nội địa là một phần của thị trường thế giới, và ngược lại, thị trường thế giới sẽ là cầu nối cho sự phát triển của thị trường nội địa.
Khi đồng bản tệ của một quốc gia có cơ chế tự do chuyển đổi thì các nhà sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của quốc gia đó, khi có kế hoạch
định hướng thị trường, sẽ có phương án lựa chọn thị trường tối ưu hơn so với điều kiện đồng bản tệ không tự do chuyển đổi.
Vì vậy, có thể nói rằng tính chuyển đổi của tiền tệ làm cho thị trường nội địa và thế giới liên kết lẫn nhau chặt chẽ hơn, tạo khả năng cho
thị trường nội địa phản ứng một cách linh hoạt đối với biến đổi trên thị trường thế giới và như vậy, nó có thể tác động tích cực đến việc
phát triển nền kinh tế quốc gia có đồng bản tệ chuyển đổi.
Tuy nhiên, tính chuyển đổi của đồng tiền sẽ đặt quốc gia có đồng tiền chuyển đổi vào những thách thức nhất định. Trong điều kiện hội
nhập, sẽ diễn ra quá trình thích ứng và cân bằng các yếu tố kinh tế của từng quốc gia riêng lẻ với thị trường thế giới trên các phương diện
chi phí sản xuất, giá cả hàng hoá, chất lượng và trình độ kỹ thuật của sản phẩm… Khi nền kinh tế thế giới phát triển thì nền kinh tế nội địa
phải thay đổi cơ cấu theo định hướng nâng cao chất lượng hoạt động nhằm tạo ra những hàng hoá có khả năng cạnh tranh về giá cả cũng

như chất lượng. Như vậy, tính chuyển đổi của đồng bản tệ sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế tiến đến một cơ cấu tối ưu và sử dụng một
cách hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động và tài chính quốc gia.
Thế nhưng, nếu nền kinh tế quốc gia không có đủ điều kiện và vì vậy, không có khả năng phản ứng một cách cân bằng và kịp thời đối với
những thay đổi trên thị trường thế giới thì kết quả sẽ là ngược lại. Đó là thách thức thứ nhất đối với quốc gia chưa có điều kiện kinh tế
chín muồi, nhưng vội vàng áp đặt đồng tiền của mình trở thành đồng tiền chuyển đổi.
Một yếu tố hết sức quan trọng cần phải nhận biết là trước khi đồng tiền quốc gia trở thành đồng tiền chuyển đổi, các nhà sản xuất chỉ tính
đến các quan hệ nội địa vì có sự bảo hộ của các hạn chế về thương mại và thanh toán, nhưng trong cơ chế tự do chuyển đổi, các nhà sản
xuất phải đối đầu với dòng hàng hoá cạnh tranh từ thị trường thế giới. Để đối phó, người ta phải đẩy mạnh sản xuất hàng hoá và mở rộng
thị trường tiêu thụ để tăng nguồn thu nhằm bù đắp phần thâm hụt trong xuất – nhập khẩu do nhập khẩu tăng nhanh. Nếu không làm được
như vậy thì cơ chế chuyển đổi sẽ là nguy cơ đối với khả năng mất cân bằng trong thanh toán. Đó là thách thức thứ hai.
Chúng ta biết rằng, giải quyết đối kháng giữa năng lực cạnh tranh giữa thị trường nội địa và thị trường thế giới và duy trì khả năng cân
bằng trong thanh toán chỉ có thể thực hiện được, nếu mức chi phí sản xuất, giá cả hàng hoá trên lãnh thổ quốc gia sẽ tương ứng với mức
chi phí và giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới theo chế độ tỷ giá hiện hành giữa đồng bản tệ và ngoại tệ. Vì vậy, trong cơ chế chuyển
đổi tiền tệ, người ta phải duy trì một chế độ tài chính nghiêm ngặt, bảo đảm sự phát triển ổn định nền kinh tế thông qua việc áp dụng một
chính sách tín dụng- tiền tệ và ngân sách phù hợp, không được để xảy ra tình trạng mất cân đối trong thanh toán kéo dài. Điều kiện cho
một cơ chế chuyển đổi đồng bản tệ hoạt động bình thường là phải có nguồn dự trữ ngoại tệ đầy đủ, cũng như khả năng khai thác nguồn
vốn để có thể duy trì được sự ổn định nền kinh tế trong trường hợp mất cân bằng trong thanh toán. Nếu không thì nền kinh tế sẽ rơi vào
khó khăn. Đó là thách thức thứ ba đối với việc chuyển đổi đồng tiền quốc gia trong điều kiện kinh tế chưa chín muồi.
3. Xung quanh các giải pháp nâng cao khả năng chuyển đổi VND
Nếu VND trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi khi có đầy đủ các điều kiện kinh tế – pháp luật, nó sẽ tạo ra những động lực cho phát triển
nhanh nền kinh tế, là thước đo để so sánh một cách khách quan mức độ phát triển kinh tế Việt Nam so với các nước và xác định chính xác
tỷ trọng kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế thế giới. Vì vậy, làm cho VND trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi là rất cần thiết.
Tuy nhiên, như đã đề cập trên đây, chuyển đổi tiền tệ , đòi hỏi phải có sự thay đổi theo chiều sâu nhiều quan hệ trong nền kinh tế. Nếu
không có những bước đi thích hợp để tạo tiền đề cho chuyển đổi đồng tiền thì không những sẽ không đạt được mục tiêu chuyển đổi mà
còn gây tác hại cho nền kinh tế.
Trong lĩnh vực chuyển đổi tiền tệ, các nước trên thế giới đã có những bước đi hết sức thận trọng. Chẳng hạn, trong số hơn 150 thành viên
của IMF, thì đến nay mới có hơn 70 nước có cơ chế chuyển đổi đồng bản tệ của mình. Đó là những nước thực hiện đúng cam kết theo
điều VIII, Điều lệ IMF là tự do hoá thanh toán và các giao dịch vãng lai. Các nước như Anh, Pháp, Tây Đức (hiện nay Đông và Tây Đức
đã thống nhất), ý, Thụy Điển, Hà Lan, Thụy Sĩ, Ai len và Luc- xăm bua – phục hồi cơ chế chuyển đổi đồng bản tệ của mình sau 15 năm
kể từ ngày Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Các quốc gia khác thì bắt đầu chế độ chuyển đổi đồng bản tệ của mình muộn hơn. Ví dụ

10
như Nhật – vào năm 1964, Đan Mạch – 1967, Phần Lan 1979, Tây Ban Nha – 1986… Đa phần các quốc gia trong số này thực hiện chế độ
chuyển đổi đồng bản tệ của mình đối với các nghiệp vụ thương mại vãng lai và duy trì những hạn chế cần thiết đối với các giao dịch
chuyển vốn và đầu tư nước ngoài.
Như vậy, sự không đồng nhất về thời gian, phương thức chuyển đổi cho thấy rằng tính chuyển đổi của tiền tệ phụ thuộc vào quá trình phát
triển kinh tế của từng nước.
Bàn đến việc nâng cao khả năng chuyển đổi của VND, trước hết, chúng ta xem xét khả năng chuyển đổi hiện nay của VND ở mức độ
nào? Sau đó mới có thể đề cập đến những giải pháp nâng cao khả năng chuyển đổi của nó.
Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội đất nước, đồng tiền Việt Nam được chuyển đổi ra ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Tính chuyển đổi này được luật định bằng các quy định của Nhà nước. Theo Nghị định của
Chính phủ số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối thì người cư trú là các doanh nghiệp, chi nhánh công ty nước ngoài,
nhà thầu nước ngoài, tổ chức tín dụng ở Việt Nam, cơ quan nhà nước, cơ quan lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, … được mua ngoại tệ
bằng VND để thanh toán cho các giao dịch vãng lai hay các giao dịch được phép khác. Ngoài ra, một số đối tượng thuộc người không cư
trú như cơ quan ngoại giao, cơ quan đại diện nước ngoài có nguồn thu hợp pháp bằng VND có thể mua ngoại tệ tại các ngân hàng được
phép ở Việt Nam.
Xét về bản chất thì việc mua ngoại tệ một chiều như trên phản ảnh tính chuyển đổi của VND. Tuy nhiên, đây là việc chuyển đổi có điều
kiện như phải có nguồn thu hợp pháp, phải có xác nhận của cơ quan hữu quan hoặc các chứng từ chứng minh rõ nhu cầu và tính hợp lệ
của việc mua ngoại tệ. Tính chuyển đổi của VND trong điều kiện này phụ thuộc vào quyết định của Nhà nước và phụ thuộc vào nhu cầu
của thị trường và nhu yêu cầu phát triển nền kinh tế, xã hội của đất nước. Như vậy, khả năng và phạm vi chuyển đổi VND do chính sách
và chủ trương của Nhà nước quyết định. Nói một cách khác, Nhà nước có thể thay đổi tính chuyển đổi nội bộ của đồng bản tệ. Nhiều
nước trên thế giới mà đồng bản tệ của họ chưa chuyển đổi tự do, vẫn thực hiện chuyển đổi nội bộ như vậy.
Ngày 18/10/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định 131/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/1998/NĐ-CP về
quản lý ngoại hối. Trong đó, dỡ bỏ những rào cản cuối cùng đối với các hoạt động thanh toán và chuyển tiền liên quan đến giao dịch vãng
lai là bước đi mang tính quyết định chứng tỏ quyết tâm của Việt Nam trong việc tiến tới một hệ thống giao dịch vãng lai quốc tế không
còn hạn chế và là cơ sở pháp lý quan trọng để IMF xem xét quyết định công nhận Việt Nam đã hoàn toàn thực hiện đúng các nghĩa vụ nêu
trong Điều VIII, Điều lệ IMF. Tiếp đó, ngày 13/12/2005, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Ngoại hối, có hiệu lực từ
ngày 1/6/2006. Có thể nói, 2 văn bản này sẽ tạo ra một cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai, từng bước tự
do hoá các giao dịch vốn, phù hợp với các quy định của Điều lệ IMF và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi xem xét vấn đề chuyển đổi của VND, một số tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp như đã đề cập ở phần đầu của bài viết. Xét về mặt lý
thuyết lẫn thực tiễn thì một số trong các giải pháp nêu trên không có ý nghĩa đối với việc chuyển đổi VND.

Trước hết về “giải pháp tầm thường hoá đô la”. Điều làm nhiều người quan tâm là làm cách nào để có được một chiến dịch như vậy.
Trước hết, nói đến chiến dịch là nói đến toàn bộ các việc làm được thực hiện một cách tập trung và khẩn trương trong một thời gian nhất
định để thực hiện một mục đích nhất định.
Thế nhưng, chuyển đổi tiền tệ là một phạm trù kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố và quan hệ trong nền kinh tế quốc dân, chứ không đơn
thuần bị chi phối bởi hiện tượng “đô la hoá”. Vì vậy, nếu chúng ta có thể “tầm thường hoá” đô la thì chúng ta cũng không làm được cuộc
“cách mạng” trong việc chuyển VND sang cơ chế chuyển đổi tự do được.
Cần lưu ý rằng một trong những điều kiện quan trọng để một đồng tiền quốc gia trở thành đồng tiền chuyển đổi là quốc gia đó có dự trữ
ngoại tệ đủ cho nhu cầu của nền kinh tế, mà đó là một quá trình trung – dài hạn. Tôi cho rằng, tác giả của giải pháp trên có ý tưởng vận
dụng các công cụ về giá cả lãi suất để tác động đến người dân và các doanh nghiệp từ bỏ hoặc hạn chế dự trữ đồng đô la Mỹ để chuyển
sang VND. Về ý tưởng này có mấy vấn đề cần lưu ý:
Trước hết, chúng ta nên xem xét và lựa chọn là nên đi theo cách nào: kinh tế hay hành chính.
- Nếu vận dụng các biện pháp hành chính để nâng cao vị thế của VND thì không ổn. Vấn đề cần đặt ra là chúng ta phải làm sao để bảo
đảm và duy trì đồng tiền Việt Nam một cách ổn định. Khi đồng tiền của chúng ta ổn định thì tự thân thị trường sẽ tìm con đường cho dân
chúng và doanh nghiệp. Khi đó người ta sẽ tự do lựa chọn đồng tiền nào để thanh toán, cất trữ …. để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Nguồn ngoại tệ có được bằng nhiều kênh như huy động kiều hối, xuất khẩu hàng hoá, lao động, vay mượn …
- Việt Nam đang trên tiến trình hội nhập. Điếu đó có nghĩa là giữa thị trường Việt Nam và thị trường Mỹ sẽ diễn ra quá trình giao thoa và
cân bằng nhiều yếu tố của thị trường bởi tác động của nhiều quy luật khách quan, mà điều tiết bằng các biện pháp chủ quan sẽ không thực
hiện được.
Vấn đề thứ hai là “giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu bằng VND”. Đẩy mạnh xuất khẩu bằng VND có nghĩa là việc các nhà xuất khẩu Việt
Nam chấp nhận để nhà nhập khẩu nước ngoài sử dụng VND để thanh toán cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Tác giả giải pháp này dự báo
rằng, tỷ lệ xuất khẩu bằng VND sẽ được tăng dần hằng năm: năm 2006 là 10%, năm 2010 là 30%. Vấn đề cơ bản chúng ta cần phải biết
trong hình thức xuất khẩu đó là nguồn “ngoại tệ” bằng VND mà các nhà nhập khẩu nước ngoài thanh toán cho nhà xuất khẩu Việt Nam
lấy từ đâu? Do xuất khẩu cho Việt Nam có được hay do vay của Chính phủ Việt Nam. Nếu do xuất khẩu cho Việt Nam mà có được,có
nghĩa là VND đã được sử dụng trong định giá hàng hoá và dịch vụ ngoại thương? Nếu vậy thì các nhà xuất khẩu nước ngoài mở tài khoản
bằng VND tại các ngân hàng thương mại Việt Nam để duy trì số tiền Việt Nam có được do xuất khẩu và sẽ dùng số tiền Việt Nam đó để
thanh toán cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Nếu như vậy, thì chủ tài khoản là các nhà xuất khẩu nước ngoài có thể sử dụng VND để
chuyển ra bất cứ loại ngoại tệ nào để sử dụng cho các mục đích của họ. Nếu không thì quan hệ ngoại thương theo hình thức nhà nhập
khẩu nước ngoài xuất khẩu cho Việt Nam và thanh toán bằng VND dưới dạng ghi nợ và nhà xuất khẩu Việt Nam xuất khẩu cho nước
ngoài sẽ nhận số tiền Việt Nam mà nhà xuất khẩu có được. Về bản chất thì đây chỉ là quan hệ song phương giống như hình thức hàng đổi
hàng, việc định giá được thực hiện qua đồng tiền chuyển đổi của nước thứ ba. Như vậy, về hình thức xuất khẩu theo giải pháp nói trên

không có vai trò trong việc chuyển đổi VND.
11
4. Cần phải có các giải pháp trung và dài hạn
Việc nâng cao khả năng chuyển đổi của VND là một yêu cầu cũng như mục tiêu của Chính phủ, thế nhưng để đạt được mục tiêu đó chúng
ta cần những bước đi phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đảm bảo rằng tính chuyển đổi của VND có nội hàm
kinh tế và ổn định, có vai trò không những đối với nền kinh tế Việt Nam, mà còn đối với nền kinh tế thế giới. Tác giả bài viết này cho
rằng, Việt Nam cần một khoảng thời gian từ 7 đến 10 năm nữa để có đủ các điều kiện kinh tế – xã hội cho việc chuyển đổi tự do VND.
Trong khoảng thời gian đó, một loạt các giải pháp cần phải được thực hiện:
- Hình thành thị trường hối đoái năng động, xoá bỏ dần các hạn chế đối với các giao dịch và thanh toán vãng lai;
Hoàn thành cơ bản công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh;
- Tái cơ cấu ngành; phát triển đồng đều và ổn định các khu vực của nền kinh tế quốc dân;
- Cải cách thể chế Ngân hàng Nhà nước; củng cố hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững;
- Thực hiện chính sách tiền tệ – tín dụng hợp lý, đảm bảo nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, nhưng phải ổn định được sức mua của
VND;
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở phát triển bền vững các doanh nghiệp; đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở ưu tiên
đầu tư các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh;
- Phát triển nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia, đảm bảo nhu cầu phát triển bình thường nền kinh tế.
III/ Hiện tượng đô la hóa
Moi nguoi vao trang web nay xem ne! day du lam! ^^
/>a/ Vài nét về "Đôla hóa" nền kinh tế
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thu hút các nguồn ngoại tệ, đặc biệt là USD. Đây là nguồn lực quan trọng
giúp chung ta giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng v.v Nhưng điều gì cũng có hai mặt của nó. Chính
lượng USD ồ ạt đổ vào Việt Nam nếu không được kiểm soát tốt cũng sẽ gây ra hậu quả to lớn, đó là tình trạng đô la hóa nền kinh tế.
Đôla hóa là gì?
Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu
thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
Đô la hóa được phân ra làm 3 loại như sau:
Đô la hóa không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức
thừa nhận. Ở những nước có nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng đồng đô la nhưng
Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô la, cấm dùng đô la đối với hầu hết giao dịch trong nước.

Đô la hóa bán chính thức hay còn gọi là đô la hóa từng phần là tình trạng đồng đô la ưđược sử dụng như một đơn vị kế toán, phương tiện
trao đổi, dự trữ giá trị và phương tiện thanh toán trong khi đồng nội tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng đô la có chức năng như một đồng
tiền hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các nước ở tình trạng này vẫn duy trì một Ngân hàng Trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ
của họ.
Đô la hóa chính thức hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là
đồng ngoại tệ không chỉ được sẻ dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán
của Chính phủ. Nếu đồng ngoại tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ.
Thông thường, các nước chỉ áp dụng đô la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Tình trạng đôla hóa ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như:
Indonesia, Thái Lan, Malaysia chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống
còn 15%.
Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa chọn: một là
đem gửi ở ngân hàng nước ngoài_những nước có lãi suất tiết kiệm bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi
suất hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các doanh nghiệp trong nước vay.
12
Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD tương đối lớn, song, hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro
do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng
có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ 2:
đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này
không những đẩy nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh bằng VNĐ
nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá.
Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy
bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia
dụng nhập ngoại v.v Mặc dù hai loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu
khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VN và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những
hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng liên kiện, nên giá của
chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài
ra, doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua

mạng sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai.
Nguyên nhân tình trạng đôla hóa
Trên thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn USD. Với mức chênh lệch lãi suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VNĐ sẽ cho
ta mức lãi tiết kiệm cao hơn bất chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD hơn là VNĐ. Tại sao?
Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và
những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm
cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa,
sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang
VNĐ. Người ta thích dùng USĐ không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó.
Một nguyên nhân khác đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh
để huy động ngoại tệ:
Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD
Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam.
Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ
quan nước ngoài tại Việt Nam được trả bằng ngoại tệ.
Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn,
nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.
Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v Bên
cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước.
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế.
Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản
lý.
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm
trọng.
Trước thực trạng trên, chúng ta cần phải nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm
thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa bỏ hoàn toàn
và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế. Chúng ta phải
chấp nhận sự hiện diện của đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực
13

b/ Đô la hóa và điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Trong thập kỷ qua, mặc dù lạm phát đã được kiểm soát và có xu hướng ổn định ở mức thấp, đô la hoá vẫn còn là hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, trong đó có Việt Nam.
Trong một môi trường kinh tế còn tình trạng đô la hóa thì việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng gặp nhiều khó khăn, cần phải đánh giá đúng thực trạng và những tác động của nó đến việc điều hành chính sách để đề xuất các giải pháp hiệu quả. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ phân tích xu hướng đô la hóa theo một số cách tiếp cận, đánh giá tác động của hiện tượng đô la hóa đối với việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm qua, đồng thời đưa ra một số gợi ý chính sách trong thời gian tới.
1. Đô la hóa tiền gửi có xu hướng giảm xuống trong khi mức độ đô la hóa tiền mặt biến động phụ thuộc vào rủi ro kinh tế vĩ mô
Trước hết, cần phải thấy rằng đối với các nền kinh tế có mức độ tiền tệ hoá cao, các khu vực của nền kinh tế có xu hướng gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thì việc đánh giá mức độ đô la hoá của nền kinh tế nói chung cũng như từng khu vực nói riêng không mấy khó khăn (dựa vào tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán hoặc tổng tiền gửi; tỷ lệ giữa tín dụng ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán hay tổng tín dụng). Theo tiêu chí đánh giá của IMF, một nước có tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30% là nước có mức độ đô la hóa cao. Ở các nền kinh tế có mức độ tiền tệ hoá thấp, việc đánh giá mức độ đô la hoá càng trở nên khó khăn, bởi nhiều nền kinh tế vẫn còn hiện tượng sử dụng ngoại tệ tiền mặt cho các thanh toán thường ngày. Do vậy, bên cạnh việc đánh giá mức độ đô la hóa dưới
dạng tiền gửi, tiền vay, cần đánh giá tình trạng đô la hóa tiền mặt để có những giải pháp phù hợp hơn.
Nhìn nhận dưới góc độ đô la hóa tiền gửi, mức độ đô la hóa ở Việt Nam có xu hướng giảm xuống, từ trên 30% vào cuối những năm 90 xuống dưới 20% hiện nay. Tuy nhiên, phân tích theo các giai đoạn, mức độ đô la hóa biến động: Giảm mạnh trong giai đoạn 1991-1993 là do lợi tức của VND cao hơn nhiều so với lợi tức của USD, nhu cầu ngoại tệ cho các giao dịch kinh tế đối ngoại chưa cao khi mở cửa nền kinh tế, lượng ngoại tệ của dân cư gửi tại ngân hàng không đáng kể; trong giai đoạn 1994 - 1996 khá ổn định; từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, lợi tức của VND thấp hơn so với lợi tức của USD, khu vực dân cư và các doanh nghiệp có xu hướng chuyển sang nắm giữ bằng USD, do đó, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán tăng lên và ở mức khoảng 30% trong giai
đoạn 2000 - 2001; từ năm 2002 đến 2007, đô la hóa có xu hướng giảm trở lại nhờ lợi tức của VND hấp dẫn hơn ngoại tệ, mức biến động của tỷ giá không lớn (tỷ giá chỉ tăng khoảng trên 6% trong vòng 5 năm từ 2002 - 2007 nhờ cung ngoại tệ dồi dào, nhất là cung ngoại tệ từ việc thu hút vốn nước ngoài); từ năm 2008 đến nay, mức độ đô la hóa khá ổn định (khoảng 20%). Đánh giá nguyên nhân tại sao mức độ đô la hóa không tiếp tục giảm như giai đoạn trước là do thời kỳ này lạm phát đã tăng cao trở lại, tỷ giá có sức ép tăng, lãi suất ngoại tệ tăng cao (Xem biểu đồ 1).
Nhìn nhận dưới góc độ đô la hóa tiền vay (tín dụng ngoại tệ/M2), mức độ đô la hóa có sự biến động khá mạnh, giảm mạnh từ mức 31% trong năm 1995 xuống 13 - 16% trong giai đoạn 2000 - 2005, tăng lên khoảng 20% trong mấy năm trở lại đây. Tín dụng ngoại tệ có mối liên hệ chặt chẽ với tiền gửi ngoại tệ, nó phụ thuộc vào quyết định đầu tư của doanh nghiệp, cá nhân và của chính quyết định huy động vốn và đầu tư của ngân hàng thương mại (NHTM). Đối với các doanh nghiệp, việc lựa chọn cách thức mua hay vay ngoại tệ phụ thuộc vào so sánh lãi suất phải trả khi đi vay bằng VND và ngoại tệ. Còn đối với các ngân hàng, nguồn vốn ngoại tệ huy động được dùng để cấp tín dụng ngoại tệ, gửi tại các ngân hàng nước ngoài hoặc bán lấy VND cũng phụ thuộc vào mức độ rủi ro ngoại hối, lợi ích giữa cho
vay bằng VND hay ngoại tệ có lợi ích hơn, chênh lệch lãi suất trong nước và quốc tế, vấn đề thanh khoản, cân đối vốn ngoại tệ Thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn 1995 - 1996, lãi suất vay ngoại tệ trong nước cao hơn lãi suất trung bình trên thế giới và khu vực đã tạo động lực lớn thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng trả chậm. Bởi vậy, mặc dù nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu lớn nhưng nhu cầu vay vốn ngoại tệ từ các NHTM trong nước không tăng mạnh. Còn đối với các NHTM, chúng ta không quên vào thời kỳ 1999 - 2000, lãi suất quốc tế tăng cao hơn lãi suất trong nước. Chịu ảnh hưởng của xu hướng này, các NHTM Việt Nam cũng từng bước nâng lãi suất huy động ngoại tệ. Tuy nhiên, khó có thể nâng lên tương đương vì đụng phải trần lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy
định. Chênh lệch giữa lãi suất quốc tế và lãi suất trong nước (vào khoảng 1,4 - 1,8% vào thời điểm đầu năm 2000) đã khiến việc huy động ngoại tệ trong nước, chuyển ra nước ngoài trở thành một hoạt động sinh lời hấp dẫn đối với các NHTM, đặc biệt, khi vào thời điểm đó thị trường tín dụng trong nước đang ở trạng thái đông cứng vì sức hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế kém. Hay trong năm 2009, khi Chính phủ thực hiện hỗ trợ lãi suất VND, nhiều doanh nghiệp đã vay VND để mua ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu, gây áp lực đối với nhu cầu mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Sang năm 2010, khi chấm dứt hỗ trợ lãi suất, nhu cầu tín dụng ngoại tệ lại tăng mạnh.
Để đo lường mức độ đô la hóa tiền mặt trong nền kinh tế là công việc rất khó khăn. Theo một nghiên cứu của IMF vào năm 1995, trên thị trường tự do, ước tính có khoảng 2,5 tỷ USD. Vào năm 2002, Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật bản đã phối hợp với NHNN tiến hành nghiên cứu về thực trạng đô la hóa ở Việt Nam, trong đó, thực hiện điều tra hoạt động của khoảng 90 doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc tại địa bàn Hà Nội. Kết quả cho thấy vào thời điểm đó, quy mô giao dịch bình quân ngày vào khoảng 10 triệu USD/ngày, tương đối lớn so với quy mô khoảng 19 triệu USD trên thị trường chính thức. Cũng trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu của JICA và NHNN dựa trên số liệu chuyển tiền kiều hối (hạng mục chuyển tiền tư nhân ròng trong bản cán cân thanh toán) và tính toán thay đổi tiền gửi tiết kiệm
ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng để đánh giá mức độ gia tăng đô la hóa tiền mặt. Phương pháp này được dựa trên cơ sở thực tiễn là khi khu vực dân cư thu được một lượng ngoại tệ ròng, nếu họ bán hoặc gửi toàn bộ vào hệ thống ngân hàng, tiền gửi ngoại tệ của khu vực dân cư sẽ tăng lên một cách tương ứng và do vậy, sẽ làm cho tài sản Có ngoại tệ ròng của hệ thống ngân hàng tăng lên. Nếu họ giữ tiền mặt, thì lượng ngoại tệ tiền mặt trong lưu thông sẽ gia tăng. Sử dụng cách tính toán này, nhóm nghiên cứu ước tính rằng trong giai đoạn từ 1996 - 2001, tổng lượng kiều hối vào Việt Nam khoảng 6,4 tỷ USD nhưng huy động vào hệ thống ngân hàng chưa đầy 4 tỷ USD, như vậy, có khoảng 2,7 tỷ USD được đưa thêm vào lưu thông trên thị trường tự do. Và nếu theo cách tính này thì từ năm 2002 đến nay, có một
lượng lớn ngoại tệ tiếp tục nằm trong lưu thông dưới dạng này hay dạng khác, hoặc là để thanh toán trong các giao dịch, kể cả thanh toán hàng hóa nhập lậu. Lượng ngoại tệ tiền mặt đưa vào lưu thông ngoài từ kênh chuyển tiền kiều hối ra, còn có thể tích lũy từ nhiều kênh khác nhau như lương của người Việt Nam làm việc tại các đại sứ quán, lãnh sự quán , ngoại tệ chuyển qua biên giới của những người đi du lịch, các thuỷ thủ, phi công hay những thương gia nước ngoài, ngoại tệ tiền mặt từ việc xuất khẩu lậu, và thậm chí rút ngoại tệ ra khỏi ngân hàng để găm giữ trong dân cư Do vậy, một số nước đã sử dụng cách tiếp cận theo cách nhìn từ chênh lệch số liệu thống kê (Statistical Discrepances), nghĩa là đánh giá hạng mục lỗi và sai sót trên bảng cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy
rằng nếu nhìn vào lỗi và sai sót trong bảng cán cân thanh toán quốc tế để đánh giá mức gia tăng tiền mặt trong lưu thông thì chưa hợp lý lắm bởi lỗi và sai số còn do sự sai sót và nhầm lẫn trong thống kê của nhiều hạng mục trong cán cân thanh toán quốc tế. Bởi vậy, chúng ta có thể đánh giá xu hướng gia tăng của đô la hóa tiền mặt nếu phương pháp thống kê cán cân thanh toán không có gì thay đổi. Số liệu cán cân thanh toán cho thấy lỗi và sai sót trong hạng mục cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam bắt đầu tăng mạnh từ năm 2008 đến nay (2008: -1,16 tỷ USD; 2009: 12,18 tỷ USD; 6T/2010: -7,04 tỷ USD) còn nhiều năm trước biến động không lớn lắm. Sự đột biến trong hạng mục lỗi và sai số thống kê trong 2 năm trở lại đây một phần là do lỗi thống kê cán cân thanh toán của các Bộ, Ngành liên quan
nhưng có thể nói có một phần không nhỏ là do các tổ chức và cá nhân có xu hướng găm giữ ngoại tệ tiền mặt khi kinh tế trong nước chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Đây cũng là nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế khi tình hình cung cầu ngoại tệ biến động căng thẳng trong một số thời điểm.
2. Đô la hóa và thách thức đối với việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ
Đô la hóa gia tăng đặt thách thức đối với việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, từ khâu thống kê các tổng lượng tiền, xác định các mục tiêu cũng như sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để truyền tải tác động nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng.
Thứ nhất, khi còn tình trạng đô la hóa bằng tiền mặt, việc đo lường tổng phương tiện thanh toán (M2) nền kinh tế sẽ hạn chế bởi không thể tính toán lượng ngoại tệ tiền mặt tham gia vào lưu thông với chức năng phương tiện trung gian thanh toán như VND. Chúng ta có thể thấy M2 được thống kê trên bảng cân đối tiền tệ của toàn ngành, gồm tiền mặt trong lưu thông ký hiệu là C (tiền mặt VND ngoài
ngoại tệ tiền mặt của khách du lịch Do vậy, việc tính toán lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm, để kiểm soát M2 tăng trưởng phù hợp với tăng trưởng kinh tế và lạm phát gặp khó khăn.
14
Thứ hai, việc kiểm soát M2 thông qua điều hành lượng tiền cơ sở (MB) khó khăn hơn vì: (i) Tổng phương tiện thanh toán bao gồm cả VND và ngoại tệ nên số nhân tiền tệ của hai đại lượng này biến động khác nhau tùy thuộc vào diễn biến lãi suất, tỷ giá, tâm lý găm giữ ngoại tệ ; (ii) Với tình trạng đô la hóa tồn tại, khối tiền MB sẽ kém quyền lực hơn là trong điều kiện nền kinh tế không có tình trạng đô la hóa, do vậy, khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN gặp khó khăn; (ii) Luồng vốn vào dưới dạng tiền gửi của người không cư trú về nguyên tắc sẽ không có số nhân tiền tệ, nhưng trường hợp các NHTM được phép sử dụng để cấp tín dụng thì xuất hiện số nhân tiền tệ. Bởi vậy, khi quá trình tự do hóa luồng vốn càng nhanh, thì áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán còn bị cộng hưởng bởi tình trạng đô la
hóa, đặc biệt, khi mục tiêu chính sách tập trung nhiều vào tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, khi tồn tại tình trạng đô la hóa cả bên tài sản Nợ (tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng) và bên tài sản Có (tín dụng ngoại tệ) thì dễ dẫn đến những mất cân đối về loại tiền, luôn có sự dịch chuyển giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, đặc biệt, khi lãi suất và tỷ giá có nhiều thay đổi. Đối với những nước có thâm hụt thương mại và cán cân vãng lai kéo dài thì mất cân đối ngoại tệ luôn bị đe dọa vì thường xuyên có sự dịch chuyển giữa tiền gửi USD và tiền gửi VND. Số liệu lịch sử cho thấy thời kỳ 1995 - 1997, hệ thống ngân hàng có tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tiền gửi ngoại tệ ở mức 103 - 147% nhưng giảm mạnh xuống còn khoảng 45 - 50% trong giai đoạn 1999 - 2002 và bắt đầu tăng mức trên 90% vào những năm gần đây.
Thứ tư, trong điều kiện nền kinh tế còn bị đô la hóa, hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ hạn chế và tác động rất phức tạp, làm cho việc thiết lập cơ chế chuyển tải chính sách tiền tệ khó khăn hơn. Ví dụ, đối với cơ chế truyền dẫn qua kênh lãi suất, để đạt mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, lãi suất điều hành của Ngân hàng Trung ương giảm, tác động làm giảm lãi suất thị trường, theo đó, sẽ kích thích tiêu dùng, đầu tư, bởi vậy làm tăng tổng cầu, tăng lạm phát. Tuy nhiên, do có tình trạng đô la hóa, khi lãi suất thị trường giảm, thay vì vay vốn để đầu tư và tiêu dùng, người dân có vay nội tệ để mua ngoại tệ ngay tại trong nước nếu họ cho rằng tỷ giá có xu hướng tăng. Điều này khiến mục đích của việc giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế khó có thể đạt được. Hay một ví dụ khác, sử dụng công
cụ chính sách tỷ giá để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu nhưng như thế sẽ có thể gây khó khăn cho chính các doanh nghiệp xuất khẩu nếu các doanh nghiệp này có dư nợ tín dụng ngoại tệ lớn, tỷ giá tăng lên vừa có lợi cho doanh nghiệp nhưng cũng bất lợi cho doanh nghiệp, trường hợp này doanh nghiệp có thể có những phản ứng khác nhau. Bởi vậy, đôi khi tác động của chính sách không đạt được mục tiêu như mong muốn vì đô la hóa là môi trường dễ phát sinh những biến động và khó có thể đo lường tác động của chính sách.
Thứ năm, gây áp lực tới NHNN can thiệp trên thị trường ngoại hối ngay cả khi tổng thể nền kinh tế không bị mất cân đối cung cầu ngoại tệ vì các khu vực của nền kinh tế có xu hướng găm giữ ngoại tệ. Một nền kinh tế không có sự găm giữ ngoại tệ, Ngân hàng Trung ương chỉ bán ngoại tệ khi các khu vực trong nền kinh tế đã giao dịch với nhau nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại khác, ngay cả khi tổng thể nền kinh tế có dư cung ngoại tệ, NHNN vẫn phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Số liệu trong báo cáo thường niên của NHNN cho thấy, trong năm 2009, luồng vốn nước ngoài vào ròng lớn hơn thâm hụt cán cân vãng lai, phản ánh nền kinh tế có thặng dư ngoại tệ. Tuy nhiên, trên thực tế, tài sản Có ngoại tệ ròng của NHNN giảm tới gần 8,2 tỷ USD. Một trong
những nguyên nhân là do các khu vực của nền kinh tế găm giữ ngoại tệ, không bán cho hệ thống ngân hàng nhưng mặt khác, lại có nhu cầu mua ngoại tệ, tạo căng thẳng trên thị trường ngoại hối, kết quả là NHNN phải can thiệp trên thị trường ngoại hối với mức độ lớn để đáp ứng cho nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Nếu ngoại tệ được thông suốt giữa các khu vực, cung cầu ngoại tệ cho các giao dịch tự định tự cân đối được, NHNN không cần phải bán ra.
Thứ sáu, sự thay thế giữa tài sản bằng ngoại tệ và nội tệ ngay ở trong nước diễn ra dễ dàng hơn khi nền kinh tế còn tình trạng đô la hóa. Ở nền kinh tế không có đô la hóa, khi chu chuyển vốn vẫn chịu sự kiểm soát, sự thay thế tài sản nội tệ và ngoại tệ sẽ kém nhạy cảm với chênh lệch giữa lãi suất quốc tế và trong nước. Nhưng trong điều kiện của Việt Nam còn đô la hóa, sự thay thế tài sản nội tệ và ngoại tệ có thể diễn ra nhanh chóng và khá nhạy cảm bởi chênh lệch lãi suất trong nước và quốc tế (sự thay thế diễn ra càng nhiều thì biến động về cân đối theo loại tiền của hệ thống ngân hàng càng lớn). Năm 2009, do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất khiến vay bằng VND hấp dẫn hơn vay ngoại tệ, bởi vậy, nhiều doanh nghiệp thay vì vay ngoại tệ có nhu cầu vay VND và mua USD, làm tăng cầu mua
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Yếu tố tâm lý găm giữ ngoại tệ gia tăng do được hậu thuẫn bởi một thị trường chợ đen vẫn tồn tại. Trái lại, sang năm 2010, khi dừng chính sách hỗ trợ lãi suất, trước nhu cầu nhập khẩu hàng hóa gia tăng, nhiều doanh nghiệp đã tăng cường vay ngoại tệ thay vì vay VND để mua ngoại tệ khiến cho tín dụng ngoại tệ tăng cao.

3. Nguyên nhân hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam
Đã có nhiều phân tích, đánh giá nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa, có thể tổng kết, đánh giá qua những nguyên nhân sau:
Một là, đô la hóa do nhu cầu thanh toán quốc tế gia tăng và do ảnh hưởng của các dòng vốn quốc tế. Kể từ khi thực hiện mở cửa nền kinh tế, kim ngạch
Hai là, kiều hối gia tăng cùng với các quy định cho phép các cá nhân nắm giữ ngoại tệ dưới hình thức tiết kiệm và tài khoản ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng, cất giữ dưới dạng ngoại tệ tiền mặt.
Ba là, đô la hóa do chưa cân bằng lợi ích nắm giữ giữa đồng VND và USD, chủ yếu do biến động về tỷ giá, lãi suất thực tế và kỳ vọng, nhất là khi đồng Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi, lạm phát của Việt Nam tương đối cao so với các nước trên thế giới và khu
Bốn là, mặc dù Pháp lệnh Ngoại hối hiện hành quy định trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo không được thực hiện bằng ngoại hối trừ một số trường hợp, nhưng trên thực tế, việc thực thi và xử lý các quy định pháp lý này chưa nghiêm, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, lực lượng quản lý thị trường nên giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ tiền mặt vẫn tồn tại trên thị trường tự do. Với sự tồn tại của thị trường này, mỗi khi kinh tế có rủi ro bất ổn, thị trường ngoại hối sẽ bị xáo trộn, tồn tại hai tỷ giá chênh lệch nhau giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường chợ đen, xuất hiện tâm lý đầu cơ ngoại tệ
4. Một số gợi ý chính sách chống đô la hóa trong thời gian tới
Để khắc phục tình trạng đô la hóa, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, không chỉ các giải pháp từ hệ thống ngân hàng, mà cần có nhiều giải pháp được thực hiện bởi nhiều cơ quan chức năng của nhà nước, ý thức của từng doanh nghiệp và từng người dân. Cụ thể:
- Về phía các cơ quan quản lý, cần có những đánh giá về tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó có những chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, phù hợp với mục tiêu hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
- Phải có đánh giá về tình hình thực hiện Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg ngày 4/7/2007 về việc phê duyệt đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Khi đánh giá, cần phải chỉ rõ những giải pháp nào đã thực hiện, giải pháp nào chưa thực hiện, nguyên nhân tại sao để từ đó có những giải pháp xử lý phù hợp trong thời gian tới.
- Điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá cần theo hướng tăng lợi ích nắm giữ VND ở mức hợp lý để khuyến khích sử dụng đồng nội tệ, hạn chế sử dụng ngoại tệ. Công cụ có thể sử dụng là tăng dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ cao hơn nhiều so với dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi (có nước đã tăng dự trữ bắt buộc lên tới mức 30 - 50% áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ nhằm thu hẹp quy mô nắm giữ đồng ngoại tệ) hay trần lãi suất đối với tiền gửi ngoại tệ.
- Về nguyên tắc, nên tập trung vào hạn chế tình trạng đô la hóa bên tài sản Có trước, nghĩa là thu hẹp quy mô tín dụng ngoại tệ, để hạn chế việc sử dụng lãi suất để cạnh tranh thu hút tiền gửi ngoại tệ. NHNN cần sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế chuyển dần từ cơ chế huy động và cho vay ngoại tệ sang quan hệ mua bán ngoại tệ.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành trong việc giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối trên phạm vi cả nước, thuộc mọi thành phần kinh tế, phải đảm bảo xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cần có chế tài xử phạt nặng đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối.
- Đi đôi với việc giám sát và xử lý nghiêm việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối, đảm bảo trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, các NHTM, tổ chức kinh tế cần tăng phí đổi tiền lên cao để người dân hạn chế nắm giữ ngoại tệ, chuyển sang nắm giữ VND.
- Cuối cùng là ý thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong việc thực hiện nghiêm các quy định pháp luật ngoại hối. Có như vậy, kinh tế vĩ mô mới ổn định, tác động tốt tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
IV/ Kiểm soát vốn nước ngoài trong bối cảnh hội nhập:
a/ Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh luồng vốn nước ngoài biến động từ 2007 đến nay (2010)
Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, kinh tế vĩ mô trong nước
đã trải qua những thăng trầm do tác động phức tạp của kinh tế thế giới, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu vừa qua.
Một trong những vấn đề cần quan tâm, đó là luồng vốn nước ngoài biến động mạnh, tăng lên mức đỉnh điểm vào năm 2007 nhưng lại sụt
giảm nhanh chóng, dẫn tới cán cân thanh toán quốc tế năm 2009 lần đầu tiên thâm hụt trong suốt thập kỷ qua. Bài viết tập trung đánh giá
việc điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh luồng vốn nước ngoài biến động từ năm 2007 đến nay và chỉ ra những vấn đề cần quan
15
tâm trong điều hành chính sách tiền tệ và sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh
đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, chính sách chu chuyển vốn của Việt Nam đã thông thoáng hơn nhiều so với giai đoạn
trước. Các quy định quản lý dòng vốn đầu tư trực tiếp, chủ yếu là các quy định về lĩnh vực cấm, điều kiện để đảm bảo thu hút vốn đầu tư
trực tiếp đúng định hướng phát triển các ngành kinh tế, đây là quy định các nước đều áp dụng tùy theo điều kiện kinh tế của từng nước, tỷ
lệ sở hữu của phía nước ngoài khuyến khích cao. Luồng vốn đầu tư gián tiếp vẫn còn chịu các quy định về tỷ lệ sở hữu vốn của phía nước
ngoài, thể hiện sự thận trọng trong việc mở cửa dòng vốn này, nhưng quy định hạn chế một năm các nhà đầu tư nước ngoài mới được

chuyển lợi nhuận về nước đã được dỡ bỏ. Các dòng vốn đầu tư khác như vay nợ nước ngoài vẫn tuân thủ các quy định về hạn mức và việc
đăng ký các khoản vay để tránh việc vay nợ nước ngoài quá mức, vượt tầm kiềm soát; các quy định về đầu tư dưới dạng tiền và tiền gửi
theo hướng phải cấp phép, đưa ra các quy định về thu chi tài khoản tiền gửi, để đảm bảo tránh hiện tượng đầu cơ tiền tệ, gây rủi ro rút vốn
ngắn hạn. Sự thông thoáng hơn của chính sách chu chuyển vốn, cộng với độ mở cửa nền kinh tế lớn hơn nhiều so với các nước trên thế
giới và khu vực (tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 150% GDP), khiến cho kinh tế vĩ mô chịu tác động phức tạp của kinh tế thế giới, đặt ra
những thách thức đối với việc điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2007 trở lại đây.
Trong giai đoạn này, quy mô và sự biến động của các luồng vốn gia tăng; cơ cấu vốn nước ngoài biến động, tỷ trọng vốn ngắn
hạn có năm tăng cao và biến động nhiều hơn. Năm 2007, với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút được một lượng lớn vốn tư nước
ngoài, tổng các luồng vốn nước ngoài gồm giải ngân vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp, vay nợ nước ngoài đã đạt mức đỉnh điểm,
tăng gấp 13 lần so với năm 2000 và gấp 4 lần so với năm 2005. Do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, vốn
khả dụng toàn cầu giảm, tốc độ vốn chảy vào Việt Nam đã chậm lại trong năm 2008 - 2009 trước khi khôi phục trở lại trong năm 2010.
Quy mô của dòng vốn nước ngoài so với nền kinh tế năm 2007 ở mức khoảng 21% GDP, sau đó giảm xuống khoảng 7 - 13% GDP từ
năm 2008 đến nay. Con số này cao hơn nhiều so với mức 4 - 5% GDP trong giai đoạn 2000 - 2004 và khoảng 7% trong giai đoạn 2005 -
2006, phản ánh tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này dựa vào nguồn vốn nước ngoài nhiều hơn giai đoạn trước. Về cơ cấu luồng vốn,
vẫn chủ yếu là nguồn vốn dài hạn, nhưng luồng vốn ngắn hạn cũng có năm tăng cao. Chẳng hạn năm 2007, vốn ngắn hạn bao gồm vay nợ
nước ngoài ngắn hạn và vốn đầu tư gián tiếp chiếm tỷ trọng 42% tổng luồng vốn, cao hơn nhiều so với mức khoảng trên 20% của năm
2005 - 2006 và giảm mạnh xuống mức 12% năm 2008 và khoảng 3% trong năm 2009. Đây có thể nói là sự biến động đột biến, tăng rất
cao nhưng cũng giảm rất mạnh. (Xem đồ thị 1)


Nguồn: Tổng hợp từ Bảng Cán cân thanh toán quốc tế, trang Việt nam 582, Thống kê Tài chính quốc tế của IMF các năm
2007,2009, 2010. Tổng luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam ròng gồm đầu tư trực tiếp ròng, đầu tư gián tiếp ròng và vay nước ngoài
ngắn hạn; trung, dài hạn ròng.
Cùng với những biến động về hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, thu nhập, chuyển tiền một chiều, sự biến động của
luồng vốn nước ngoài tạo nên biến động khá lớn đối với tình trạng cán cân thanh toán quốc tế, theo đó tác động mạnh tới cấu phần tài
sản có nước ngoài ròng trong tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế, tác động tới danh mục tài sản Có và tài sản Nợ của hệ thống
các NHTM, đặt nhiều thách thức đối với điều hành chính sách tiền tệ. Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam biến động mạnh từ năm
2007 trở lại đây. Năm 2007, với sự gia tăng đột biến của luồng vốn nước ngoài, cán cân vốn và tài chính thặng dư ở mức lớn, vượt quá
nhu cầu tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thặng dư ở mức trên 10 tỷ USD. Sang năm 2008, thặng dư cán cân thanh
toán giảm mạnh, chỉ còn khoảng 473 triệu USD trước khi chuyển sang thâm hụt ở mức trên 8 tỷ USD trong năm 2009. Sự biến động

mạnh của thặng dư cán cân thanh toán đã khiến cấu phần tài sản Có nước ngoài ròng (NFA - Net Foreign Assets) trong tổng phương tiện
thanh toán (M2) có mức tăng trưởng mạnh. M2 năm 2007 tăng khoảng 49%, trong đó NFA đóng góp cho tăng trưởng M2 khoảng 15%
16
nhưng sang năm 2008 chỉ đóng góp 0,44%, năm 2009, sự sụt giảm của NFA tác động làm giảm 7,72% tăng trưởng M2. Luồng vốn luân
chuyển với khối lượng nhiều hơn đã có tác động tới hoạt động huy động và cho vay cũng như tác động tới việc quản lý danh mục đầu tư,
quản lý danh mục tài sản Nợ, tài sản Có của hệ thống các ngân hàng. Các NHTM huy động được một lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ của
các tổ chức kinh tế và dân cư; đồng thời đây là nguồn vốn quan trọng để các NHTM mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế; ngoài nghiệp
vụ huy động và cho vay ngoại tệ là những nghiệp vụ truyền thống, nhiều ngân hàng chú trọng đến mảng hoạt động kinh doanh ngoại tệ,
đặc biệt vào những thời điểm có sự chênh lệch lớn về lãi suất quốc tế và trong nước. Bởi vậy, trong quản lý điều hành chính sách tiền tệ,
việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán gặp nhiều khó khăn, cân đối vốn của các NHTM thường xuyên biến động, nhất là khi nền kinh
tế còn bị đô la hóa, sự dịch chuyển giữa tài sản nội tệ và ngoại tệ gây bất ổn định thị trường nội tệ, có thời điểm gây khó khăn trong việc
ổn định thị trường ngoại tệ. (Xem đồ thị 2)


Nguồn: Trang Việt nam 582, Thống kê tài chính quốc tế của IMF các năm 2007,2009.
NDA là tài sản có trong nước ròng, NFA là tài sản có nước ngoài ròng.

Với vai trò là Ngân hàng Trung ương và cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) Việt Nam đã linh hoạt trong việc chuyển hưởng điều hành, sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết tổng
lượng tiền trong nền kinh tế, điều tiết lãi suất và tỷ giá phù hợp nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống.
Chính sách tiền tệ, theo đuổi đa mục tiêu trong những năm trước đây, nhưng từ năm 2007 trở lại đây, việc xác định mục tiêu cuối
cùng đã khá linh hoạt, có thứ tự ưu tiên. Từ cuối năm 2007, khi lạm phát trở lại mức hai chữ số và tiếp tục tăng mạnh trong nửa đầu năm
2008, Chính phủ đã xác định mục tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng là ưu tiên kiềm chế lạm
phát là hàng đầu và điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ mức 8,5% - 9% xuống còn 7%. Từ tháng 9/2008 đến năm
2009, khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ lan rộng ra khắp toàn cầu, có nhiều diễn biến phức tạp đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế
nước ta, Chính phủ đã điều chỉnh mục tiêu từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang thực hiện các giải pháp kích cầu để ngăn ngừa ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế toàn cầu. Sang năm 2010, kinh tế trong nước đã từng bước phục hồi, nhưng nền kinh tế còn phải đối mặt với một số
rủi ro như nhập siêu ở mức cao, áp lực tăng lạm phát trở lại, thâm hụt ngân sách cao, Chính phủ xác định tăng cường ổn định kinh tế vĩ
mô, trên cơ sở đó bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao hơn cả về số lượng và chất lượng, đồng thời ngăn ngừa lạm phát cao trở lại.

Các công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng linh hoạt, đa dạng hơn và có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa các công cụ. (1) Lãi
suất cơ bản, tái chiết khấu, tái cấp vốn được giữ ổn định trong năm 2007 nhưng năm 2008 chuyển sang điều hành linh hoạt (tăng 3 lần,
giảm 6 lần), trong năm 2009 (giảm 2 lần, tăng 1 lần), giữ ổn định trong 6 tháng đầu năm 2010; trong điều hành, có kết hợp cả biện pháp
trực tiếp. Quy định trần lãi suất theo Công điện số 02 vào tháng 2/2008 để ổn định nhanh khi thị trường tiền tệ bị xáo trộn bởi cuộc đua lãi
suất. Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu tích cực, NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động VND và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, theo
đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản do NHNN công bố. Sang năm 2010, triển khai cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay ngắn hạn từ tháng
2/2010 và các khoản vay trung dài hạn từ tháng 4/2010; (2) Công cụ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh linh hoạt, tăng một lần lên gấp đôi
vào giữa năm 2007 và tăng 1 lần và giảm 4 lần trong năm 2008; năm 2009 (giảm 3 lần). Bên cạnh quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc
(DTBB), trong giai đoạn này NHNN còn linh hoạt trong việc trả lãi cho dự trữ bắt buộc (giữ không đổi đối với lãi suất trong DTBB đối
với VND là 1,2%/năm trong năm 2007, tăng lên 3,6 - 5 - 10% năm và giảm còn 9 - 8,5% trong năm 2008; tiếp tục giảm còn 3,6% xuống
1,2% trong năm 2009 trước khi giữ ổn định trong năm 2010. Đối với lãi tiền gửi DTBB vượt bằng ngoại tệ giữ nguyên trong năm 2007 -
17
2008 ở mức 1%/năm, giảm xuống 0,5% - 0,1% trong năm 2009 và ổn định trong năm 2010; đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở, đây
có thể nói là công cụ được sử dụng chủ yếu để điều tiết tiền tệ của NHNN trong những năm qua. Trong năm 2007, vốn khả dụng của các
TCTD có tình trạng dư thừa nên NHNN đã tổ chức các phiên đấu thầu bán là chủ yếu, nhưng từ 2008 đến nay, NHNN chủ yếu thực hiện
mua giấy tờ có giá để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. Cùng với việc điều hành linh hoạt khối lượng tiền qua kênh này, lãi suất áp dụng
đối với các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở cũng được điều chỉnh khá linh hoạt phù hợp với mục tiêu điều hành từng thời điểm; (4) về
hoạt động tái cấp vốn, trong giai đoạn 2007-2009, NHNN đã thực hiện tái cấp vốn một cách linh hoạt nhằm hỗ trợ khả năng thanh khoản
cho các ngân hàng (trong năm 2007, khối lượng tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM ở mức thấp, nhưng từ năm 2008 đến nay, tái cấp
vốn là một kênh quan trọng khi các ngân hàng gặp khó khăn trong thanh khoản, cần hỗ trợ từ phía NHNN); (5) lãi suất tái cấp vốn, tái
chiết khấu áp dụng khi thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu phù hợp với mức điều chỉnh lãi suất cơ bản; (6) tỷ giá, được điều
hành theo hướng linh hoạt, thông qua mở rộng biên độ tỷ giá mua bán USD của các NHTM từ +0,25% tăng lên +0,5% (từ tháng 1/2007)
và tăng lên ±0,75% (vào cuối tháng 12/2007), lên ±3% trong năm 2008 và ±5% trong năm 2009, trở lại mức 3% trong năm 2010; can
thiệp ngoại tệ linh hoạt với liều lượng hợp lý trên thị trường ngoại hối; thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các TCTD để giúp các TCTD điều
hoà cân đối vốn; (7) phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc vào tháng 3/2008 với kỳ hạn 365 ngày, lãi suất 7,8% đồng thời quy định
không cho phép các TCTD được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch trong các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở. Từ
tháng 10/2008, nhằm tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay, duy trì tăng trưởng bền vững, NHNN đã cho phép các TCTD
được sử dụng tín phiếu bắt buộc để tham gia giao dịch trong các nghiệp vụ tái cấp vốn, thị trường mở và được rút trước hạn theo yêu cầu.
Việc triển khai các chính sách hỗ trợ lãi suất nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất - kinh doanh được

NHNN coi là nhiệm vụ trọng tâm. Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định hỗ trợ lãi suất, NHNN đã khẩn trương xây dựng,
ban hành các văn bản hướng dẫn và tổ chức triển khai trong toàn ngành; phối hợp với các bộ, ngành trung ương và các địa phương tuyên
truyền, chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện đi đôi với việc chú trọng công tác kiểm tra, đôn đốc và xử lý kịp thời các thắc mắc của doanh
nghiệp; thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận và xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp, hộ sản xuất và xử lý các hiện tượng tiêu cực.
Bên cạnh các công cụ nêu trên, trong quá trình điều hành, NHNN cũng áp dụng các biện pháp hỗ trợ khác, kể cả các biện pháp
hành chính như kiểm soát tốc độ tăng tín dụng, khống chế tỷ lệ dư nợ cho vay, kinh doanh chứng khoán; điều chỉnh tỷ lệ sử dụng vốn
ngắn hạn để cho vay trung dài hạn; để đảm bảo thi hành nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, yêu cầu các TCTD không được thu
phí liên quan đến hoạt động cho vay, phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng kêu gọi các TCTD đồng thuận lãi suất theo chỉ đạo của Chính phủ
và điều hành của NHNN; tăng cường công tác thanh tra, giám sát toàn hệ thống, đảm bảo khả năng thanh toán và an toàn hoạt động; đẩy
mạnh thông tin, tuyên truyền về chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng để tạo sự đồng thuận của công chúng và doanh nghiệp; thường
xuyên trao đổi, thông tin kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ cho các tổ chức tài chính quốc tế lớn (IMF, ADB, WB, UNDP ) và cộng đồng
quốc tế để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, tránh hiểu sai và đưa thông tin không chính xác về kinh tế Việt Nam.
Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nêu trên, NHNN đã góp phần vào việc
thực hiện chủ trương kích thích kinh tế của Chính phủ, giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn Việt
Nam hội nhập sâu rộng và nền kinh tế thế giới lại chịu tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. (1)
Cơ chế hỗ trợ lãi suất mặc dù chưa có tiền lệ nhưng được triển khai quyết liệt, thông suốt đã tạo lòng tin, sự đồng thuận và động lực cho
doanh nghiệp và người dân. Việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã đạt được mục tiêu là tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất
giảm chi phí vay vốn, giảm giá thành sản phẩm, duy trì và mở rộng sản xuất – kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa tồn kho, phát huy hiệu quả
các dự án đầu tư, tạo việc làm cho người lao động. Chi phí trả lãi vay ngân hàng năm 2009 của phần lớn các doanh nghiệp chỉ bằng 50%
của năm 2008 (sau khi được hỗ trợ lãi suất, doanh nghiệp chỉ còn phải trả lãi suất 4 -6%), tác động hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó
khăn, phát triển sản xuất - kinh doanh; góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, có tác động nhất định đến
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong một số lĩnh vực như nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, xây dựng, tạo động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn hậu suy giảm; (2) trong bối cảnh luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam suy giảm, khả năng huy động
vốn trên thị trường chứng khoán còn hạn chế, tín dụng ngân hàng đóng vai trò là kênh cung ứng vốn quan trọng cho nền kinh tế, góp phần
ngăn chặn suy giảm kinh tế và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tín dụng tăng trưởng 53% trong năm 2007, 25% năm 2008, 39% năm 2009, 6
tháng đầu năm 2010 tăng 10,52%; (3) trong quá trình thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế, NHNN vẫn coi công tác thanh tra, giám
sát là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành, việc không hạ thấp điều kiện tín dụng khi thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất góp phần
đảm bảo an toàn hệ thống, nhờ vậy, hệ thống các TCTD vẫn trụ vững và phát huy vai trò trung gian tài chính trong bối cảnh nhiều tổ chức
tài chính có uy tín trên thế giới bị đỗ vỡ; (4) tăng trưởng kinh tế tuy chậm lại (5,32%, giảm so với 6,23% năm 2008) nhưng Việt Nam vẫn
là một trong số ít các nước đạt tăng trưởng dương trong bối cảnh kinh tế thế giới và nhiều nước lâm vào suy thoái; (5) Lạm phát sau khi

tăng cao trong năm 2007 (12,63%) và 2008 (19,89%) đã giảm xuống mức một con số 6,52% trong năm 2009 và 4,78% trong 7 tháng đầu
năm 2010. (Xem đồ thị 3)

18
Nguồn: Niêm giám Thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê
Trên cơ sở phân tích việc điều hành chính sách tiền tệ và kết quả thực hiện giai đoạn 2007-2009, có thể đưa ra một số nhận định
về một số vấn đề cần quan tâm và giải pháp để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh tự do hoá từng bước các
giao dịch vốn, đó là:
Thứ nhất, luồng vốn vào tiềm ẩn rủi ro mất cân bằng đối nội (tăng trưởng kinh tế cao đi kèm với lạm phát gia tăng), đồng thời
cũng rủi ro đối với mất cân bằng đối ngoại (cán cân thanh toán biến động mạnh), việc xác định mục tiêu chính sách tiền tệ cần tiếp tục có
sự linh hoạt, trong nhiều thời điểm, phải có sự ưu tiên mục tiêu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền
vững. Đối với mục tiêu trung gian, ngoài việc xác định là chỉ tiêu tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng, cũng cần nghiên cứu
thêm về khả năng đặt mục tiêu là lãi suất, hoặc tỷ giá khi việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán khó khăn do biến động mạnh của các
luồng vốn.
Thứ hai, việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết thị trường tiền tệ gặp khó khăn khi luồng vốn nước ngoài biến
động và tình trạng nền kinh tế bị đô la hoá. Nếu cơ cấu luồng vốn không hợp lý, đặc biệt luồng vốn ngắn hạn ở mức lớn, chứa đựng nhiều
rủi ro và nguy cơ bất ổn định, việc điều hành chính sách tiền tệ luôn phải đối mặt với thách thức và gặp khó khăn trong việc ổn định tiền
tệ, đòi hỏi phải thiết lập một hệ thống giám sát luồng chu chuyển vốn, đặc biệt là các luồng vốn ngắn hạn, thậm chí phải giám sát được
hàng ngày.
Thứ ba, trong điều kiện thị trường và bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước biến động phức tạp, các TCTD còn chênh lệch về
quy mô, tiềm lực tài chính, trình độ quản trị rủi ro thì việc kết hợp giữa các biện pháp điều hành gián tiếp và trực tiếp trong một số thời
điểm là cần thiết và phù hợp với điều kiện thực tiễn, vừa kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông, vừa điều tiết lãi suất và tỷ giá trên thị
trường, đồng thời phát tín hiệu rõ ràng để các cá nhân, tổ chức điều chỉnh hoạt động tiêu dùng và đầu tư phù hợp với mục tiêu chính sách.
Thứ tư, điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn nói trên đã tỏ ra linh hoạt hơn nhiều so với giai đoạn trước, phù hợp với bối
cảnh tự do hóa các giao dịch vốn; tuy nhiên, thời gian qua, tồn tại một thực tế là yếu tố tâm lý có tác động khá lớn đến tỷ giá, nhất là khi
hiện tượng đô la hóa trong nền kinh tế vẫn còn, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, cá nhân phải cùng thực hiện
nghiêm các quy định về quản lý ngoại hối mới có thể hỗ trợ việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN được hiệu quả.
Thứ năm, vấn đề thuyết "bộ ba bất khả thi" đã và đang đặt ra thách thức đối với việc điều hành chính sách tiền tệ bởi mặc dù vẫn
còn những hạn chế chính sách về chu chuyển vốn nhưng sự thay thế tài sản nội tệ và ngoại tệ vẫn diễn ra nhanh chóng do nền kinh tế còn
tình trạng đô la hóa, đòi hỏi sự đồng bộ hơn nữa trong phối hợp các chính sách tiền tệ, tỷ giá, chính sách thu hút đầu tư và chính sách quản

lý ngoại hối.
b/ Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thị trường tài chính là nơi tụ tập các giao dịch mua bán, trao đổi các tài sản tài chính hay nguồn lực tài chính. Thông qua thị trường này, lãi suất và giá cả các loại tài sản tài chính - các chứng khoán được hình thành.

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính được coi là cơ chế tạo thuận lợi trong việc chuyển tiền từ những người tiết kiệm cho những người vay tiền. thị trường tài chính được vận hành theo quan hệ cung cầu và thông qua hệ thống các định chế tài chính trung gian của thị trường. Hệ thống các định chế này bao gôm các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư,
Giám sát thị trường tài chính là việc theo dõi, kiểm tra hoạt động của cả 3 bộ phận là thị trường tín dụng - ngân hàng; thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm xác định thực trạng của nó, từ đó phát hiện sớm các vấn đề và có hướng xử lý kịp thời.
Hoạt động của thị trường tài chính chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố chủ quan lẫn khách quan, bên trong và bên ngoài; tích cực lẫn tiêu cực gây biến động, làm mất an ninh của thị trường náy. Từ đó có thể tác động xấu đến cả hệ thống và nền kinh tế quốc dân. Để phát triển thị trường tài chính có hiệu quả cần phải có cơ chế và biện pháp giám sát các hoạt động của thị trường nhằm phòng ngừa hạn chế rủi ro.
Thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam
19
Cúng với cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Sau hơn mười năm cải thiện hệ thống tài chính, các bộ phận cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành tương đối đầy đủ, mặc dù mức độ phát triển của từng thị trường cấu thành là không giống nhau. Hệ thống các định chế về tài chính được phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường tài chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Về quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính được thể chế hóa tường bước. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động của thị trường tài chính ngày càng được phối hợp một cách tốt hơn.
Sau hơn 2 năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO không chỉ khiến số lượng các định chế tài chính tăng lên, mà các loại hình dịch vụ tài chính cũng phát triển mạnh cả về lượng và chất. Tính đến 31/7/2008, Việt Nam có 4 NHTMNN, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng phát triển Việt Nam, 6 ngân hàng liên doanh, 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 14 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính và 998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Việc mở rộng các chức năng hoạt động ngân hàng cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các quỹ tín dụng, các hội, các đoàn thể và một số Bộ, ngành và một số tổ chức thực hiện dự án có nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài hay các tổ chức phi Chính phủ Điều này đã tạo cho thị trường tài chính Việt Nam hoạt
động mở rộng về quy mô và đa dạng hóa các loại hình.
Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua còn kém phát triển, chủ yếu vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối. Đọ sâu tài chính được đo bằng tỉ lệ của tổng phương tiện thanh toán (M2)/GPD và tổng tín dụng trong nước/GDP. Nếu so với các nước trong khu vực, những chỉ số này chỉ tương đương vào những năm đầu của thập niên 1990.
Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ, theo Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là thị trường vốn ngắn hạn, là nới mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn dưới một năm. Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào hoạt động năm 1993); thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức đi vào hoạt động từ 10/1994; thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc bắt đầu vận hành năm 1995 và nghiệp vụ thị trường mở chính thức vận hành vào tháng 7/2002. Chức năng của thị trường tiền tệ là tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, đảm bảo vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và là nơi để NHNN Việt Nam thực thi các công cụ chính sách tiền tệ.
Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Tham gia thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay là hệ thống các tổ chức tín dụng, gồm có: các NHTM, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân.
Nhìn lại hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Việt Nam trong những năm qua, vẫn là khu vực cung cấp phần lớn các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam. Điều này thể hiện về quy mô vốn luân chuyển qua các lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng không ngừng tăng và mở rộng.
Bên cạnh những kết quả đã dặt được trong lĩnh vực thị trường dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam như đã nêu trên, còn một số tồn tại, cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là:
- Nhiều loại hình dịch vụ cung cấp của các tổ chức tín dụng còn hạn chế, hầu hết các dịch vụ ngân hàng cung cấp chỉ mới ở mức tiếp cận với các dịch vụ truyền thống như của các nước. Chất lượng dịch vụ còn thấp, chưa có tác dụng trong việc hỗ trợ cho việc phát triển lành mạnh của thị trường tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh, trong cơ cấu doanh thu từ cho vay chiếm tới hơn 70%, còn thu từ các dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm dưới 30%. - Hiện nay các NHTM Nhà nước Việt Nam hiện chiếm trên 70% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Còn đối tượng khách hàng chủ yếu của NHTM cổ phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khách hàng của các NH liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- về mặt rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng cho thấy tỷ lệ nợ xấu vẫn còn tồn tại. Theo công bố của hệ thống NHTM về tủ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ tuy đã giảm chỉ còn trên 3% năm 2007 so với 14.6% năm 1997.
- Trên thực tế tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng trên dưới 3/4, do vậy sự sai lệch về cơ cấu thời hạn bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương đói lớn Mặc dầu trong vài năm gần đây sự sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm, nhưng vẫn còn ở mức độ rất lớn trong điều kiện lạm phát tương đối cao trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2008 và trong môi trường đô la hóa cao như ở Việt Nam hiện nay.
- Hoạt động của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay, điều đó sẽ làm cho hoạt động của các NHTM có rủi ro lớn, tuy răng trong vài năm gần đây các NHTM đã có thêm nhiều dịch vụ mới. Hiện nay phần lớn các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản, trong khi thị trường bất động sản đang nguội lạnh và có những biến động không bình thường. Còn các khoản vay được thế chấp chứng khoán tuy tỷ trọng còn nhỏ, song cũng đáng cảnh báo và lo ngại về năng lực của các nhà đầu tư các nhân còn thấp và thị trường trứng khoán Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều yếu tố biến động về giá.
Nhìn lại sau hơn hai năm gia nhập WTO dòng vốn chu chuyển qua ngân hàng tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của các doanh nghiệp. Chức năng cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thể hiện rõ. Vốn dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tiền tệ. Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính.
Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 8 năm hoạt động, còn nhiều tồn tại đó là:
- Về quy mô so với các nước trong khu vực còn nhỏ, tuy vốn hóa thị trường tăng nhanh đạt 45%GDP. Giá chứng khoán (chỉ số giá cổ phiếu VN-index) tăng giảm thấp thường, thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành mạnh.
- Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều bất cập về tài chính. Mặc dầu các công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với các công ty trứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại), nhưng nhìn chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, điều đó đã làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ đóng vai trò đầu tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp.
- Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế. Đội ngũ về nhân sự hành nghề có chuyên môn có giấy phép hành nghề, đặc biệt về chất lượng vè nhân sự lãnh đạo công ty còn thiếu và yếu chủ yếu về nghiệp vụ chuyên môn kinh doanh chứng khoán cũng như tư vấn pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp.
Trên thực tế hiện nay số lượng công ty chứng khoán ở nước ta vượt quá quy mô thị trường, nếu so sánh với các nước trong khu vực (Trung Quốc 107 công ty, Malaysia 37 công ty, Thái Lan 41 công ty, Singgapor 27 công ty và Hàn Quốc trên 50 công ty).

- Tuy số lượng tài khoản đầu tư tăng nhanh, nhưng chủ yếu là tài khoản các nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị tác động chi phối bởi các nhà đầu tư lớn trên thị trường. Những nhà đầu tư này lại thiếu kỹ năng phân tích đầu tư, phân tích thị trường, do vậy ảnh hưởng tới sự ổn định của thị trường. Những nhà đầu tư chuyên nghiệp chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn, một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở tài khoản nhưng chưa tham gia đầu tư. Các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản ủy thác cá nhân và đầu tư trung lập vào cổ phiếu các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư trên Sàn giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh và trung tâm
- Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003 của Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán, song hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán còn bất cập và chưa được hoàn thiện. So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài chính và các định chế tài chính trong nề kinh tế thị trường với năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế.
Cơ quan quản lý Nhà nước, SGDK và TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty niêm yết trong công tác quản lý, điều hành hoạt động của thị trường chứng khoán còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn và nhiều bất cập.
Thị trường bảo hiểm
Trước đây, thị trường bảo hiểm duy nhất chỉ có 1 doanh nghiệp. Kể từ năm 1933, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP, đặc biệt là khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đạt được những kết quả quan trọng sau:
- Quy mô và phạm vi hoạt động của thị trường bảo hiểm đã phát triển mạnh mẽ, với tốc độ cao, bên cạnh việc đảm bảo ổn định, chống lại các nguy cơ rủi ro, thị trường bảo hiểm còn đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực tài chính đầu tư dài hạn của nên kinh tế.
Các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập nguồn vốn lớn và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bảo hiểm đã góp phần tích cực đến ổn định và phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.
- Các loại sản phẩm bảo hiểm được phát triển đa dạng, phong phú với gần 70 sản phẩm bảo hiểm nhận thọ và phi nhân thọ thuộc cả lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Cơ cấu bảo hiểm đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn.
- Xét trên phương diện pháp lý, thị trường bảo hiểm Việt Nam được vận hành trong khuôn khổ pháp lý tương đối đồng bộ, chặt chẽ và áp dụng nguyên tắc phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thị trường bảo hiểm còn một số tồn tại:
- Quy mô thị trường còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và thấp hơn so với các nước trong khu vực.
- Thị trường bảo hiểm phát triển chưa cân đối, các loại hình sản phẩm chưa đa dạng; năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế và biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn tồn tại; hoạt động môi giới bảo hiểm còn chậm phát triển; một số cơ chế chính sách hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường bảo hiểm; công tác quản lý giám sát còn nhiều bất cập,
Nhìn lại thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt lá từ sau những năm đổi mới kinh tế và sau hơn 2 năm gia nhập WTO của Việt Nam, đã có những thành công. Bên cạnh những kết quả dật được, cũng còn nhiều hạn chế và tồn tại, đó là:
- Hạn chế trong việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển, thể hiện: thị trường tài chính có quy mô nhỏ, các thể chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh, nhiều định chế tài chính trung gian cần tiếp tục hoàn thiện;
- Vấn đề quản lý, điều hành của Nhà nước còn những mặt hạn chế, chưa có sự phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; còn có tình trạng cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp vào các hoạt động của chủ thể, trong khi đó lại buông lỏng giám sát thị trường, sự phối hợp quản lý và điều hành giữa các kênh huy động, giữa các loại thị trường (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường bất động sản ) còn thiếu đồng bộ; năng lực cán bộ quản lý Nhà nước chưa được nâng cao phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; công tác quản lý giám sát để giảm thiểu rủi ro còn nhiều bất cập.
Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Để phát triển thị trường tài chính Việt Nam hoạt động an toàn và hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; có cơ chế kiểm tra giám sát các luồng vốn; mở cửa khu vực tài chính theo các cam kết quốc tế, cần có những giải pháp cơ bản cơ chế và giám sát thị trường tài chính nhằm phòng ngừa hạn chế và rủi ro:
Một là, hoàn thiện và bổ sung các quy định về luật pháp, tạo môi trường pháp lý động bộ thông thoáng về hoạt động tài chính tiền tệ cho hoạt động của thị trường tài chính
Với quan điểm Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào thị trường, nhưng sẽ giám sát chặt chẽ thị trường tài chính thông qua khuôn khổ luật pháp và tạo môi trường pháp lý đồng bộ thông thoáng về hoạt động tài chính, tiền tệ. Đồng thời cải thiện tính minh bạch và phát triển tính đa dạng của thị trường.
- Cần rà soát lại nội dung của Luật các tổ chức tín dụng; phân định rõ ranh giới, phạm vi hoạt động của thị trường vốn, thị trường tiền tệ; đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa các thị trường, đảm bảo huy động tối đa nguồn lực tài chính và giảm thiểu rủi ro của thị trường. Tách bạch hoạt động tín dụng chính sách với tín dụng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội để chuyên thực hiện tín dụng chính sách theo quy định ưu tiên của Chính phủ.
Đối với hoạt động của ngân hàng cần nâng cao tính độc lập của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Cũng như các định chế tài chính, thị trường tiền tệ là định chế quan trọng trong cơ chế chuyền dẫn của chính sách tiền tệ. Một thị trường tiền tệ kém phát triển khó có thể chuyền dẫn chính xác các quyết định của NHTW và ngược lại NHTW khó có thể nhận được các tín hiệu của thị trường để đưa ra các quyết định chính xác nhằm đạt được mục tiêu. Tạo điều kiện thực hiện các công cụ mới của chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng nội tệ và ngoại tệ.
Các tổ chức tín dụng hoàn toàn tự xác định lãi suất trên cơ sở lãi suất cơ bản. khi lãi suất được tự do hoàn toàn thì đó là tín hiệu phản ánh đúng đắn quan hệ cung cầu. Xây dựng một số NHTW khu vực mới chức năng thực hiện cơ bản toàn bộ nghiệp vụ NHTW, đồng thời đảm bảo cung ứng đầy đủ các dịch vụ tài chính cần có trên địa bàn. NHNN cần tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế để ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của các thị trường tài chính trong nước và đảm bảo an toàn cho hệ thống NH Việt Nam, hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả tọa điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao cho thị trường tài chính. Đối với các dịch vụ ngân hàng truyền thống, hiện cần có cải tiến cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn; tăng cường trang thiết bị chương trình phần mềm để mở rộng phạm vi hệ thống thanh toán; mở rộng mạng lưới
Tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. Đối với NHTM Nhà nước cần giải quyết căn bản vấn đề vốn bằng 2 giải pháp cơ bản sau: Một là, cổ phần hóa các NHTM Nhà nước, Nhà nước chỉ nắm giữ cổ phần chi phối. Hai là, hình thành và phát triển tập đoàn tài chính ngân hàng trên cơ sở sắp xếp và cơ cấu lại hoạt động của các NHTM Nhà nước hiện hành. Đối với NHTM cổ phần cần có cơ chế khuyến khích tăng vốn điều lệ. Mặc dù trong thực tế vừa qua, các NHTM cổ phần đã chủ động trong việc tăng vốn điều lệ với tốc độ khá cao.
- Luật chứng khoán đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua. Luật chứng khoán ra đời đã tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Chính phủ cần có lộ trình cho việc phát hành chứng khoán lần đầu (IPO) thuật hợp lý đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa và các doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu.
Về địa vị của UBCKNN, hiện nay vẫn còn là cơ quan trong Bộ Tài chính có chức năng và thẩm quyền, đảm bảo tính độc lập cần thiết và thực hiện trong việc xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng khoán. Về lâu dài, theo chúng tôi khi thị trường chứng khoán đã phát triển ổn định sẽ sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.
Qua 8 năm hoạt động của thị trường chứng khoán và 2 năm thực hiện Luật chứng khoán cũng cần xem xét loại bỏ các thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng cũng đảm bảo yêu cầu của quản lý Nhà nước để thị trường này phát triển an toàn, ổn định. Hoạt động kinh doanh chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, còn mới đối với Việt Nam, có nhiều rủi ro. Vì vậy trong quá trình thực hiện Luật chứng khoán phải luôn xem xét và đánh giá tính khả thi và những nội dung của Luật đã đi vào cuộc sống và còn những điều gì bất cập cần phải hoàn thiện và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện cũng như đặc thù thể chế của Việt Nam, nhưng cũng đồng thời phải phù hợp với cam kết và thông lệ quốc tế.
- Để thực hiện mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nên kinh tế; nâng cao năng lực tài chính kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm; nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế các giải pháp về cơ chế và giám sát thị trường bảo hiểm:
+ Về cơ chế chính sách: tiếp tục hoàn thiện và bổ sung các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản có liên quan phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế theo hướng đảm bảo sự vận hoành an toàn, lành mạnh, năng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm;khuyến khích mọi đối tượng tham gia bảo hiểm nhân thọ; khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các dịch vụ bảo hiểm trong lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp ở vùng sâu vùng xa. Nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý thị trường bảo hiểm; tách bạch chức năng quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Về tổ chức hoạt động: sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước để nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục mở rộng thị trường, phát triển
Hai là nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Đối với hệ thống các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính, cần tiếp tục củng cố và phát triển các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính hiện có trên cơ sở nâng cao tiềm lực tài chính và khả năng cung cấp đa dạng các loại dịch vụ tài chính cho thị trường. Kiên quyết thực hiện biện pháp giải thể, phá sản đối với các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính không có hiệu quả; thực hiện biện pháp sát nhập hoặc tăng vốn thông qua cổ phần hóa, phát hành thêm cổ phần và niêm yết trên thị trường chứng khoán đối với các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính. Đồng thời chú ý đến việc phát triển các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính mới.
Ba là, tăng cường vai trò quản lý, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước đối với hoạt động của thị trường tài chính.
Nhà nước thực hiện giám sát và chỉ đạo thị trường tài chính thông qua hệ thống pháp luật và sử dụng các công cụ gián tiếp.
Phân định rõ ràng chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính và được tài chính. Gán quyền hạn với trách nhiệm cụ thể trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường, tránh cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động
góp phần tạo nên hệ thống thị trường tài chính tiền tệ phát triển đồng bộ. Tăng cường kiểm soát số lượng chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài tham gia thị trường nội địa một cách chặt chẽ theo sự phát triển của thị trường nội địa. cùng với nó là tiến hành tự do háo giá cả dịch vụ tài chính.
Đẩy mạnh công tác thanh tra kiểm tra và có những biện pháp hạn chế những mặt trái của các đới tượng trên thị trường chứng khoán; tăng cường công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, nâng cao tính minh bạch của thị trường. Đặc biệt là việc công bố các thông tin về các tổ chức niêm yết và công ty chứng khoán. Cần cải thiện sự minh bạch và sức bền của thị trường tài chính, các nhà đầu tư cần được cung cấp thông tin cập nhật về dữ liệu kinh tế vĩ mô cũng như các phân tích.
Bốn là, thành lập cơ quan quản lý, giám sát thị trường tài chính độc lập như ở các nước phát triển trên thế giới và khu vực
20
Từ kinh nghiệm của các nước nhằm ngăn ngừa hạn chế rủi ro, ngày 3/3/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 34/2008/QĐ-TTG về việc thành lập Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia nhằm tư vấn cho Thủ tướng về giám sát thị trường tài chính ở cả 3 lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, cũng như cảnh báo về nguy cơ với ngành này. Ủy ban sẽ là đầu mối điều phối giám sát chuyên ngành, giám sát chung thị trường và việc chấp hành các thông lệ quốc tế về hoạt động của các cơ quan thanh tra trong ngành.
Ngoài ra còn giám sát điều kiện cấp phép hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Đồng thời thực hiện các phân tích, dự báo và cảnh báo về độ an toàn của hệ thống tài chính-ngân hàng và những nguy cơ đối với thị trường này. Mặt khác cơ quan này sẽ cung cấp cơ sở dữ liệu và thông tin về thị trường tài chính quốc gia cho Thủ tướng. Là một cơ quan mới thành lập, cần tạo điều kiện cho Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và có đủ nguồn lực. vị thế cần thiết để thực hiện nhiệm vụ tham mưu và giám sát chung thị trường tài chính (ngân hàng, chứng khoán,bảo hiểm) và là một kênh thông tin độc lập của Chính phủ.
Năm là, để hạn chế những tác động của cuộc khung hoảng tài chính thế giới hiện nay cần có những biện pháp giám sát thị trường tài chính ở nước ta nhằm giảm thiểu rủi ro.
Để chủ động phòng tránh nhắm hạn chế những tác động xấu của khủng hoảng, các Bộ, ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, tổ chức tốt việc theo dõi, đánh giá tình hình thị trường tài chính Mỹ và thế giới, xác định cho được những tác động và mức đọ ảnh hưởng tới từng lĩnh vực trong thị trường tài chính nước ta, đồng thời có những biện pháp giám sát để chủ động đưa ra các giải pháp thực hiện phù hợp hoặc đề xuất với Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý cụ thể, thích hợp thuộc lĩnh vực được giao nhắm giảm thiểu và hạn chế những tác động tiêu cực của nó.
21

×