Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Sử dụng phiếu giao việc trong dạy học môn Toán lớp 2_Khóa luận tốt nghiệp khoa GDTH.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.21 KB, 55 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Con ngời là vốn quý nhất của một quốc gia, bởi vậy đào tạo nguồn nhân lực,
bồi dỡng nhân tài là nhiệm vụ mang tính chiến lợc hàng đầu của Đảng và Nhà nớc ta
hiện nay. Để thực hiện mục tiêu đó, trách nhiệm của Giáo dục - đào tạo là hết sức
lớn lao. Trong thời gian qua Giáo dục - đào tạo nớc ta đã có những thay đổi đáng kể
từ nội dung đến phơng pháp dạy và học cho phù hợp với sự phát triển mau lẹ của
khoa học và công nghệ thông tin trên thế giới, phù hợp với yêu cầu mới về phát triển
nguồn nhân lực cho quốc gia trong giai đoạn mới.
Trong hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia thì hệ thống giáo dục Tiểu học giữ
một vị trí quan trọng. Trong quyết định số 2957/GD của Bộ trởng Bộ giáo dục
đào tạo đã chỉ rõ: Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình
thành, phát triển nhân cách toàn diện của con ngời, đặt nền tảng vững chắc cho Giáo
dục đào tạo và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân:.
Trong các môn học ở trờng tiểu học thì môn Toán có một ý nghĩa và vị trí
đặc biệt quan trọng. Với t cách là một môn khoa học trong nhà trờng thì môn Toán
giúp trang bị cho học sinh một hệ thống tri thức và phơng pháp riêng để nhận thức
thế giới và làm công cụ cần thiết để học tập các môn khác tốt hơn. môn Toán cũng
giúp hình thành ở học sinh các kỹ năng Toán học, góp phần hình thành ở học sinh
phơng pháp học tập và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, sáng tạo.
Để nâng cao hiệu quả của việc dạy và học Toán ở Tiểu học hiện nay vấn đề
đổi mới phơng pháp dạy học Toán đã đợc đa ra và trở thành vấn đề đợc quan tâm
nhiều nhất của các cấp, ngành có liên quan. Phải làm sao có đợc những giờ học toán
thực sự chất lợng, gây hứng thú ở học sinh, phát huy đợc hết tính tích cực và năng
lực vôn có ở các em. Có nhiều phơng án đã đợc đa ra và phơng pháp dạy học Toán
bằng phiếu giáo việc (PGV) là một phơng pháp dạy học mới có nhiều u điểm, phát
huy năng lực và tích cực hoá hoạt động của học sinh trong mỗi giờ học.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
1
Khoá luận tốt nghiệp


Với mục đích tìm hiểu và bớc đầu tập xây dựng các phiếu giao việc trong
dạy học Toán ở Tiểu học và cụ thể là đề xuất một số nội dung có sử dụng phiếu giao
việc trong việc hình thành kiến thức mới môn Toán lớp 2, tôi chọn đề tài: S dng
phiu giao vic trong dy hc mụn Toỏn lp 2
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về phiếu giao việc trong dạy học môn Toán ở Tiểu
học.
- Tìm hiểu mục tiêu và nội dung dạy học môn Toán lớp 2
- Xây dựng phiếu giao việc trong tiết học bài mới môn Toán lớp 2
3. Phơng pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu tài liệu lý luận có liên quan đến đề tài: Chơng trình, sách giáo
khoa, sách giáo viên, các tài liệu tham khảo về các nội dung có liên quan.
Tổng kết kinh nghiệm.
4. Cấu trúc khoá luận.
Không kể phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận gồm có 2
chơng:
Chơng 1: Cơ sở lý luận.
1. Nhu cầu và định hớng đổi mới phơng pháp dạy học.
2 . Khái niệm về phiếu giao việc.
3. Những u điểm và nhợc điểm khi dạy học bằng phiếu giao việc.
4. Các dạng phiếu giao việc đợc sử dụng trong tiết học bài mới.Cấu tạo của
từng loại.
5. Căn cứ để xây dựng phiếu giao việc.
6. Những điều cần lu ý khi soạn phiếu giao việc.
Chơng 2: Xây dựng phiếu giao việc trong tiết học bài mới môn Toán lớp
2.
1. Nội dung chơng trình môn Toán lớp 2.
2. Mục tiêu dạy học Toán 2.
3. Hệ thống bài soạn sử dụng phiếu giao việc ở một số nội dung môn Toán
lớp 2.

Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
2
Khoá luận tốt nghiệp
Nội dung
Chơng 1: Cơ sở lý luận
1. Nhu cầu và định hớng đổi mới phơng pháp dạy học.
1.1. Vì sao phải đổi mới phơng pháp dạy học (PPDH).
Phát huy tính tích cực học tập của học sinh không phải là vấn đề mới mà đã
đợc đặt ra trong ngành Giáo dục nớc ta từ những năm 60 của thế kỉ trớc. Trong cuộc
cải cách giáo dục lần thứ hai từ năm 1980, vấn đề này đã trở thành một trong những
phơng hớng chính nhằm tạo ra những ngời lao động sáng tạo, làm chủ đất nớc.
Những năm vừa qua, trong phong trào đổi mới PPDH, một số không ít giáo
viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề khá và nhạy
cảm trớc yêu cầu của xã hội đã thể hiện nhiều giờ dạy tốt, phản ánh đợc tinh thần
của xu thế mới. Tuy nhiên phổ biến hiện nay vẫn là cách dạy thông báo kiến thức có
sẵn, dạy học theo phơng pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại là chủ yếu mà
thực chất vẫn là thầy truyền đạt, trò tiếp nhận và ghi nhớ.
Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh cha biết cách tự học, cha học
tập một cách tích cực, tự giác. Nếu cứ tiếp tục cách dạy học thụ động nh thế sẽ
không đáp ứng đợc nhu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nớc và sự thách thức trớc nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi
hỏi phải đổi mới Giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về PPDH. đây không
phải chỉ là vấn đề của nớc ta mà là vấn đề đợc quan tâm của mọi quốc gia trong
chiến lợc phát triển nguồn nhân lực phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội.
1.2. Định hớng đổi mới phơng pháp dạy học đã đợc xác định trong các
Nghị quyết TW4 khoá VII và Nghị quyết TW2 khoá VIII, đợc thể chế hoá trong
luật giáo dục và đợc cụ thể hoá trong chỉ thị 15 của Bộ giáo dục và đào tạo.
Trong Luật Giáo dục khoản 2 điều 24 đã ghi: Phơng pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng môn học, bồi dỡng tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức

Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
3
Khoá luận tốt nghiệp
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh.
Nh vậy, có thể nói con đờng và cũng là mục đích của quá trình đổi mới ph-
ơng pháp dạy học là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Tính tích cực hoá
trong hoạt động học tập của học sinh thực chất là tính tích cực nhận thức đợc đặc tr-
ng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh
tri thức.
1.3. Định hớng đổi mới phơng pháp dạy học Toán ở Tiểu học.
PPDH Toán là sự tổ hợp những cách thức làm việc của thầy và trò trong quá
trình hoạt động. Từ đó ta có thể hiểu: PPDH môn Toán ở Tiểu học là sự vận dụng
một cách hợp lý các PPDH theo đặc trng của môn Toán ở Tiểu học.
Đổi mới PPDH môn Toán thực chất là việc sử dụng các PPDH mới nhằm tích
cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Qua các hoạt động mà giáo viên tổ chức,
học sinh phát huy đợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh
tri thức mới. Với môn Toán ở Tiểu học, mỗi nội dung đều tiềm ẩn, chứa trong nó
những hoạt động nhất định. Hoạt động này liên quan tới quá trình hình thành và vận
dụng nội dung đó. Các hoạt động nh vậy ta gọi là các hoạt động ăn khớp với nội
dung. Việc phát hiện, lựa chọn, hớng dẫn và tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt
động ăn khớp với các nội dung để học sinh nắm đợc kiến thức, kỹ năng tơng ứng là
con đờng ngắn nhất, hợp lý nhất, hiệu quả nhất để dạy học các nội dung đó. Nói một
cách ngắn gọn, PPDH Toán theo tinh thần đổi mới là PPDH mà giáo viên tổ chức h-
ớng dẫn học sinh hoạt động nhiều hơn, tích cực hơn, chủ động hơn để tự chiếm lĩnh
tri thức mới.
Có nhiều lý do khác nhau để chúng ta tiến hành đổi mới: hầu hết các nớc trên
thế giới đều đã đang tiến hành đổi mới PPDH từ rất lâu; từ thực trạng việc sử dụng
PPDH Toán hiện nay: đó là cách truyền thụ một chiều, cách học trực tuyến, dẫn tới
tình trạng học sinh kém linh hoạt trong t duy, trí tuệ (Cách dạy này không đáp ứng

đợc yêu cầu giáo dục hiện nay); từ nội dung chơng trình đã thay đổi Những lý do
này yêu cầu trong quá trình dạy học môn Toán phải có sự đổi mới PPDH để đảm
bảo quá trình dạy học vận động và phát triển đúng quy luật.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
4
Khoá luận tốt nghiệp
Để việc đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học đạt kết quả cao cần phải đề ra
những định hớng cụ thể, và thực hiện theo những định hớng có tính nguyên tắc ấy.
Có ba định hớng nh sau:
- Trong quá trình dạy học môn Toán, giáo viên là ngời tổ chức, hớng dẫn các
hoạt động của học sinh. Tất cả mọi học sinh đều phải hoạt động học tập để phát
triển năng lực cá nhân.
- Khi tổ chức và hớng dẫn các hoạt động của học sinh, giáo viên phải vận
dụng một cách hợp lý mặt tích cực của các PPDH cũ để giúp học sinh huy động các
kiến thức của mình, tham gia vào các hoạt động nh quan sát, điều tra, thảo luận. Từ
đó mà phát hiện ra và tham gia vào việc giải quyết các tình huống có thể có trong
đời sống.
- Đổi mới PPDH Toán là một quá trình lâu dài. Nó gắn bó chặt chẽ với đổi
mới mục tiêu giáo dục, nội dung, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và bồi dỡng
trình độ chuyên môn cho giáo viên dạy Toán.
Nh vậy để đổi mới PPDH Toán thành công nh mong muốn cần phải tiến hành
theo ba định hớng trên. Ngoài ra chúng ta nên thực hiện 5 giải pháp có tính khả thi
sau đây:
+ Đổi mới nhận thức, trong đó cần tôn trọng khả năng chủ động, sáng tạo của
ngời giáo viên và học sinh Tiểu học.
+ Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học: khuyến khích dạy học theo nhóm,
dạy học ở hiện trờng, tăng cờng trò chơi học tập.
+ Đổi mới cách trang trí, sắp xếp phòng học để tạo ra môi trờng học tập hợp
lý.
+ Đổi mới phơng tiện dạy học, khuyến khích dùng các loại phiếu học tập, đồ

dùng học tập, phơng tiện kỹ thuật hiện đại
+ Đổi mới cách đánh giá của giáo viên và học sinh.
2. Khái niệm phiếu giao việc.
- Phiếu giao việc là một hệ thống những công việc mà học sinh phải làm để
có thể chiếm lĩnh đợc kiến thức mới, tự mình hình thành những kỹ năng mới. Những
công việc này đã đợc viết sẵn trên giấy và chừa chỗ trống để học sinh làm.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
5
Khoá luận tốt nghiệp
Phiếu giao việc đợc giáo viên chuẩn bị trớc rồi nhân thành nhiều bản để phát
cho từng học sinh trong mỗi tiết học.
3. Những u điểm và nhợc điểm khi dạy học bằng phiếu giao việc.
3.1. Ưu điểm:
- Tiết kiệm thời gian: vì trên mỗi phiếu giao việc ngời ta đã làm sẵn cho học
sinh nhiều việc, học sinh chỉ còn phải tự làm những việc quan trọng nhất, những
việc chính mà thôi. Việc này giúp học sinh tiết kiệm đợc thời gian chép yêu cầu đề
bài, chỉ cần tập trung vào giải quyết nhiệm vụ đề ra trong mỗi phiếu giao việc một
cách nhanh nhất.
Ví dụ 1: Muốn học sinh lớp 2 tính:
12 2 5 =
Thì có 2 cách:
Cách 1: Giáo viên viết dãy tính trên lên bảng lớp, cho học sinh chép lại vào
vở sau đó học sinh mới tính nhẩm:
12 2 = 10; 10 5 = 5 và viết 5 để có 12 2 5 = 5
Với cách làm này học sinh phải thực hiện 8 động tác:
1. Chờ giáo viên viết đề bài lên bảng
2. Viết số 12
3. Viết dấu
4. Viết số 2
5. Viết dấu

6. Viết số 5
7. Viết dấu =
8. Học sinh nghĩ: 12 - 2 = 10; 10 - 5 = 5 rồi viết tiếp 5 vào sau dấu =
Cách 2: Dùng phiếu giao việc:
Trong phiếu giao việc đã in sẵn: 12 - 2 - 5 =
Khi đó, học sinh đợc phát mỗi em một phiếu giao việc và học sinh chỉ cần
tính nhẩm trong đầu 12 - 2 = 10; 10 - 5 = 5 rồi viết 5 sau dấu = để có
12 - 2 - 5 = 5. Tức là học sinh chỉ phải thực hiện 1 động tác: viết 5.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
6
Khoá luận tốt nghiệp
So sánh hai cách làm nói trên ta thấy rõ ràng từ việc phải thực hiện 8 động
tác, khi sử dụng phiếu giao việc học sinh chỉ phải làm 1 động tác, học sinh tiết kiệm
đợc 7 động tác. Quan trọng hơn, cách 2 nói trên u thế hơn cách 1 là tiết kiệm đợc
thời gian. (Phần thời gian tiết kiệm đợc ấy sẽ giúp bù lại số thời gian bị kéo dài ra do
giáo viên tổ chức cho học sinh thao tác).
Ví dụ 2: Khi cho học sinh lớp 2 giải bài tập 2. SGK Toán 2 trang 21.
Viết số thích hợp vào ô trống:
Số hạng 8 28 38 8 18 90
Số hạng 7 16 41 53 34 8
Tổng
Thông thờng, giáo viên bắt buộc phải sử dụng lối đàm thoại cũ, tức là giáo
viên kẻ bảng nói trên lên bảng lớp rồi lần lợt chỉ vào ô trống rồi hỏi học sinh:
- Em điền vào đây số nào?
- Vì sao?
- .
Cứ giáo viên chỉ bảng hỏi, học sinh trả lời lần lợt cho đến hết. ở đây nếu chỉ
dùng SGK thì rất khó tổ chức cho tất cả học sinh đợc làm việc,vì muốn vậy chỉ có
các phơng án sau:
Phơng án 1: Giáo viên cho học sinh điền ngay số tìm đợc vào SGK

Điều này rất khó vì nh thế SGK chỉ dùng đợc 1 lần, không giữ lại đợc đến
năm sau.
Phơng án 2: Cho học sinh kẻ 1 bảng giống SGK vào vở sau đó tính toán để
điền các số còn thiếu vào các ô trống. Cách làm này tốn nhiều thời gian vì học sinh
phải kẻ bảng rất lâu, có khi hết cả tiết học mà vẫn cha xong, không còn thời gian
cho các bài luyện tập.
Phơng án 3: Cho học sinh dùng bảng con: giáo viên chỉ vào ô trống nào thì
học sinh ghi vào bảng con số tơng ứng. Nhng cách làm này không giúp đợc trẻ thấy
rõ sự tơng quan giữa các số trong cột.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
7
Khoá luận tốt nghiệp
Tuy nhiên, nếu dùng phiếu giao việc thì vấn đề trở nên đơn giản hơn. Trên
phiếu giao việc đã kẻ sẵn bảng nêu trên. Học sinh chỉ cần nhìn vào đó, tính nhẩm
các số còn thiếu rồi điền vào đó là xong.
Nh vậy 100% học sinh đều đợc làm việc mà ta cũng chỉ tốn rấ ít thời gian.
Nếu so sánh thời gian để học sinh giải bài tập này trên phiếu giao việc với thời gian
để học sinh kẻ bảng nói trên vào vở rồi giải thì ta thấy cách làm trên phiếu giao việc
cho phép tiết kiệm tới 90% thời gian.
- Dạy học bằng phiếu giao việc tức là giáo viên đã tạo điều kiện để 100% học
sinh đều phải làm việc bằng tay, không có học sinh ỷ lại, lời suy nghi, còn giáo viên
có thể kiểm soát đợc hoạt động của học sinh.
- Từ kết quả hoàn thành các phiếu giao việc của học sinh, giáo viên thu đợc
thông tin phản hồi trung thực nhất từ phía học sinh, qua đó mà tự điều chỉnh phơng
pháp dạy cho phù hợp với đối tợng học sinh.
- Khi tự mình hoạt động bằng tay kết hợp suy nghĩ, học sinh sẽ nhớ bài lâu
hơn, chắc hơn. Học sinh tích cực hoạt động, tự mình chiếm lĩnh kiến thức mới.
- Vì phiếu giao việc đợc soạn ra một cách khoa học, cho nên khi thu lại phiếu
giao việc giáo viên dễ dàng kiểm tra kết quả hoàn thành của học sinh một cách
nhanh chóng, chính xác.

- Sử dụng phiếu giao việc trong đó có nhiều bài tập trắc nghiệm sẽ giúp học
sinh dần tiếp cận và làm việc thành thạo với các phiếu trắc nghiệm, phù hợp với ph-
ơng hớng đổi mới kiểm tra đánh giá và thi cử theo quy định hiện hành của Bộ giáo
dục - đào tạo.
- Khi sử dụng phiếu giao việc, giáo viên làm việc có kế hoạch và mang tính
khoa học. giáo viên không cần phải giải thích, làm nhiều, còn học sinh đợc làm việc
nhiều cho nên rất phù hợp với quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
3.2. Nhợc điểm.
- Học sinh làm việc bằng tay nhiều nên khả năng diễn đạt bằng lời bị hạn chế.
- Dùng phiếu giao việc khá tốn kém trong khi nhiều địa phơng cha có điều
kiện về kinh phí để đầu t sử dụng.
- Các thao tác của giáo viên khi phát và thu phiếu giao việc cho học sinh nếu
không tốt sẽ dễ gây lộn xộn, ồn ào lớp học.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
8
Khoá luận tốt nghiệp
3.3. Cách khắc phục những nhợc điểm nói trên.
- Giáo viên không nên quá lạm dụng phiếu giao việc mà phải cân đối giữa
việc dùng phiếu giao việc với việc sử dụng SGK và cho học sinh ghi vở với các bài
tập trên lớp thì có thể yêu cầu học sinh sử dụng phiếu giao việc còn với các bài
luyện tập ở nhà thì yêu cầu học sinh làm vào vở.
- Yêu cầu học sinh khi đọc kết quả bài làm trong phiếu giao việc thì phải đọc
hoàn chỉnh, không đợc nói tắt theo kiểu không đầu, không cuối, đồng thời yêu cầu
học sinh giải thích cách làm của mình. Khuyến khích học sinh nêu thắc mắc và tự
giải đáp thắc mắc lẫn nhau. Trong dạy học, không nên tuyệt đối hoá nguyên tắc
học bằng tay mà vẫn phải kết hợp khéo léo các phơng pháp khác nhau.
4. Các dạng phiếu giao việc đợc sử dụng trong tiết học bài mới.
Cấu tạo của từng dạng:
Tiến trình dạy bài mới của giáo viên có thể gồm có 3 bớc:
Bớc 1: Kiểm tra bài cũ

Bớc 2: Dạy bài mới
Bớc 3: Luyện tập, củng cố
Tơng ứng với 3 bớc dạy nói trên có thể có 3 loại phiếu giao việc nh sau:
1. Phiếu kiểm tra
2. Phiếu học
3. Phiếu luyện tập
Với 3 loại phiếu này chúng ta có thể in riêng hoặc in chung đều đợc. Nơi nào
có điều kiện thì in riêng ba phiếu này vào 3 tờ giấy khác nhau rồi phát cho học sinh
trong mỗi bớc lên lớp. Nơi nào không có điều kiện thì in chung cả 3 phiếu đó trong
một tờ giấy (khổ A4) rồi phát cho học sinh theo từng tiết. Với điều kiện tài chính có
hạn ở nhiều trờng Tiểu học nớc ta hiện nay thì việc in chung cả 3 loại phiếu trong
một tờ giấy là phơng án khả thi hơn cả. Khi in chung nh vậy, giáo viên có thể ghi rõ
các phần Kiểm tra Bài mới Luyện tập .hoặc chỉ đánh số thứ tự các công việc
1,2,3,4, còn khi sử dụng thì ta tự phân biệt.
Sau đây là cấu tạo của từng loại phiếu cụ thể:
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
9
Khoá luận tốt nghiệp
4.1. Phiếu kiểm tra.
- Phiếu kiểm tra là một đề kiểm tra viết ngắn đã đợc in trớc trên giấy có chừa
sẵn chỗ trống để học sinh làm ngay vào đó.
- Ta dùng phiếu kiểm tra để tránh tình trạng giáo viên chỉ kiểm tra đợc có
một vài học sinh, còn các học sinh khác chỉ việc ngồi trật tự theo dõi bạn mình trả
lời. Khi dùng phiếu kiểm tra, mọi học sinh đều phải làm việc, nh thế sẽ buộc học
sinh có ý thức hơn trong việc học bài ở nhà trớc khi đến lớp.
- Nội dung của phiếu kiểm tra: giáo viên muốn kiểm tra học sinh cái gì thì
viết vào giấy cái đó. Các bài tập trong phiếu kiểm tra có thể đợc đa ra theo các cách
sau:
+ Giáo viên ra lại các bài tập lấy từ các bài đã ra cho học sinh làm ở nhà.
Ví dụ: Sau khi dạy bài Tính chất kết hợp của phép cộng SGK Toán 4

trang 46 mà giáo viên muốn kiểm tra khả năng hiểu bài và học bài ở nhà của học
sinh ở bài đó, mà trong SGK có bài tập:
Tính bằng cách thuận tiện nhất:
a) 3254 + 146 + 1698 b) 921 + 898 + 2079
Thì giáo viên có thể ghi vào phiếu kiểm tra các bài tập giống hệt nh thế, chỉ
khác là có chừa sẵn chỗ trống để học sinh làm:
Tính bằng cách bằng thuận tiện nhất:
a) 3254 + 146 + 1698 b) 921 + 898 + 2079
= = .
= . = .
= = .
+ Giáo viên ra các bài tập mới cùng loại với các bài tập đã ra về nhà nhng
thay số.
Ví dụ:
Tính bằng cách thuận tiện nhất:
a) 1589 + 261 + 1730 b) 657 + 899 + 2103
= = .
= . = .
= = .
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
10
Khoá luận tốt nghiệp
+ Giáo viên muốn kiểm tra phần lý thuyết thì yêu cầu học sinh viết đoạn còn
lại của quy tắc vào chỗ chấm.
Ví dụ: nếu giáo viên muốn kiểm tra thêm về lý thuyết xem học sinh có nhớ đ-
ợc quy tắc Tính chất kết hợp của phép cộng không thì có thể ghi thêm vào phiếu
kiểm tra đoạn sau:
Điền các từ còn thiếu vào chỗ chấm:
Khi cộng một tổng hai số với số thứ ba, ta có thể cộng với .
của số thứ hai vào số thứ ba.

Hoặc: điền chữ thích hợp vào chỗ chấm:
Ta có thể tính giá trị của biểu thức dạng a + b + c nh sau:
a + b + c = ( + ) + c = a + ( + c)
+ Giáo viên đa ra các khung phép tính và kết quả, yêu cầu học sinh nối đầu
bài với đáp số.
Ví dụ: Sau khi dạy bài Tìm một thừa số cha biết của phép nhân SGK
Toán 2 trang 116 mà giáo viên muốn kiểm tra khả năng hiểu bài và học bài ở nhà
của học sinh ở bài đó, trong SGK có bài tập:
Tìm x:
b)
x
x 3 = 12 c) 3 x
x
= 21
thì giáo viên có thể ghi vào phiếu yêu cầu:
Nối đầu bài với đáp số tơng ứng:
+ Giáo viên đa ra phép tính và kết quả của phép tính, học sinh chỉ phải xác
định kết quả đó là đúng hay sai.
Ví dụ: Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống
x
x 4 = 24 6 x
x
= 36

x
= 6
x
= 9
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
11

x
x 2 = 16
3 x
x
= 21
x
x 4 = 24
x
= 7
x
= 5
x
= 6
x
= 8
x
= 4
x
x 4 = 24
Khoá luận tốt nghiệp

+ Giáo viên đa ra các phát biểu về một quy tắc toán học, học sinh xác định
quy tắc đúng.
Ví dụ: gạch chéo vào ô trống trớc câu đúng trong các câu sau:
Thừa số cha biết của phép nhân bằng tích nhân với thừa số đã biết
Thừa số cha biết của phép nhân bằng tích chia cho thừa số đã biết
Thừa số cha biết của phép nhân bằng thừa số đã biết chia cho tích
Nếu dùng phiếu kiểm tra thì đầu giờ giáo viên phát phiếu cho học sinh và nêu
thời gian làm bài sau đó để các em tự làm. Việc nhận xét bài làm, chấm và chữa bài
nh thế nào thì tuỳ từng trờng hợp mà giáo viên có thể tiến hành theo các cách khác

nhau.
Ví dụ: + Yêu cầu 1 học sinh đọc kết quả bài làm của mình, các em khác nhận
xét và nêu ý kiến nếu kết quả không trùng với kết quả bài làm của bạn. Cứ nh vậy
học sinh tự soát bài của mình cho đến hết.
+ Giáo viên thu các phiếu kiểm tra lại, xem nhanh một số bài làm, nếu
thấy các em làm đúng hết thì thôi, nếu có trờng hợp nào sai thì giáo viên đa
ra trớc lớp sau đó gọi học sinh nhận xét, chữa bài. Tuy nhiên cũng tránh dùng
tràn lan lối kiểm tra viết bằng phiếu, tốt nhất nên kết hợp cân đối giữa các
hình thức kiểm tra truyền thống với lối mới để vừa tổ chức 100% học sinh
làm việc trong lúc kiểm tra đầu giờ, vừa rèn luyện đợc cho học sinh năng lực
trình bày và diễn đạt bằng lời.
4.2. Phiếu học:
- Phiếu học là một hệ thống công việc đợc sắp xếp một cách khéo léo để học
sinh tự làm, qua đó các em có thể tự mình tìm ra kiến thức mới, giáo viên chỉ cần
nói, hỏi hoặc hớng dẫn rất ít.
- Ví dụ về phiếu học:
Ví dụ 1: Dạy bài Giới thiệu hình bình hành.SGK Toán 4 trang 102.
Mục tiêu của phiếu học: tổ chức cho học sinh làm việc để tự học sinh hình
thành đợc biểu tợng về hình bình hành và nhận biết đợc một số đặc điểm của hình
bình hình, từ đó phân biệt đợc hình bình hành với một số hình đã học.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
12
Khoá luận tốt nghiệp
Với mục tiêu ấy ta có thể soạn phiếu học tập nh sau:
Điền chữ thích hợp vào chỗ chấm:
1. Tứ giác ABCD có:
+ Cạnh AB đối diện với cạnh
Cạnh AD đối diện với cạnh .
+ Cạnh .song song với cạnh DC
Cạnh . Song song với cạnh BC

+ Các cặp cạnh bằng nhau là:
AB =
AD =
2. Hình bình hành có hai cặp cạnh đối diện . .và
Trong phiếu số 1 này đã vẽ sẵn tứ giác ABCD trên nền các ô vuông. Bằng
trực quan, học sinh có thể nhận ra ngay các đặc điểm của tứ giác ABCD trên hình
vẽ. Tức là học sinh có thể làm việc một cách dễ dàng.
Sau khi học sinh đã hoàn thành việc 1 thì các đặc điểm đặc trng của một hình
bình hành đã đợc nêu ra. Lúc đó giáo viên giới thiệu: Ta gọi tứ giác ABCD là hình
bình hành rồi ghi (2) vào ô lệnh, học sinh hoàn thành bài tập 2 trong phiếu học
chính là đã tự khái quát thành khái niệm hình bình hành.
Ví dụ 2: Dạy bài So sánh hai phân số khác mẫu số.SGK Toán 4 trang 121.
Mục tiêu của phiếu học: tổ chức cho học sinh làm việc để tự các em xây dựng
đợc quy tắc so sánh hai phân số khác mẫu số. Giáo viên chỉ hớng dẫn ở mức độ thấp
nhất, còn học sinh làm việc là chủ yếu.
Ta có thể soạn phiếu học cho bài này nh sau:
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
13
D
A
C
B
Khoá luận tốt nghiệp
1. Cho hai băng giấy bằng nhau. Quan sát hai băng giấy:


a. Điền số thích hợp vào chỗ chấm:
Đã tô màu băng giấy (I).
Đã tô màu băng giấy (II).
b. Điền dấu >; <; = vào ô trống:

2
3
băng giấy .
3
4
băng giấy
3
4
băng giấy
2
3
băng giấy
2.a. Viết số còn thiếu vào chỗ chấm:
Quy đồng mẫu số hai phân số
2
3

3
4
ta có:
2
3
=
2

3
ì
=
ì
3

4
=
3

4
ì
=
ì
b. Điền dấu >; <; = vào ô trống:
8
12

9
12
3. Viết tiếp vào chố chấm:
Muốn so sánh hai phân số khác mẫu số, ta có thể mẫu số hai
phân số đó rồi so sánh các .của hai phân số mới.
Phiếu 2: ở phiếu số 2 này ta thấy:
- Việc 1 học sinh hoàn toàn làm ngay đợc dựa trên phơng tiện trực quan là
các băng giấy: học sinh chỉ việc quan sát độ dài của phần băng giấy đã đợc tô màu ở
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
14


2
3
3
4
(II)
(I)

Khoá luận tốt nghiệp
hai băng giấy sẽ rút ra đợc kết luận là băng giấy nào đợc tô màu nhiều hơn. Từ việc
so sánh hai băng giấy đã đợc tô màu ở mỗi băng giấy đã đợc tô màu mà suy ra đợc
hai phân số tơng ứng với phần đợc tô màu ở mỗi băng giấy, phân số nào lớn hơn,
phân số nào nhỏ hơn. Do đó học sinh làm bài 1 mà không cần sự trợ giúp của giáo
viên.
- Giáo viên chuyển sang bài tập 2. Giáo viên gợi ý: để so sánh hai phân số
2
3

3
4
, ngoài cách so sánh trực tiếp dựa vào phần tô màu của hai băng giấy bằng
nhau chúng ta vừa làm, ta có cách so sánh gián tiếp, tức là không dùng băng giấy
nữa mà đa hai phân số
2
3

3
4
về hai phân số có cùng mẫu số rồi so sánh.
Sau khi giáo viên gợi ý nh vậy học sinh có thể làm ngay đợc bài tập 2 mà
không gặp khó khăn gì.
- Bài tập 3: Giúp học sinh tự khái quát thao tác mình vừa làm để so sánh hai
phân số
2
3

3
4

thành quy tắc khi so sánh hai phân số khác mẫu số bất kỳ.
4.3. Phiếu luyện tập:
-Phiếu luyện tập là một hệ thống bài tập đã đợc viết sẵn trên giấy có chứa
nhiều chỗ trống để học sinh rèn kỹ năng vận dụng các kiến thức mới vừa học đợc.
- Phiếu luyện tập tơng ứng với bớc luyện tập củng cố trong cách dạy học
truyền thống.
ở mỗi phiếu luyện tập nên đa vào các bài toán đố và các bài tập về một số
trong các vấn đề: số học, hình học và đo đại lợng có liên quan đến kiến thức mới,
trong đó u tiên hai mạch bài tập về toán đố và số học, sau đó mới đến hai mạch nội
dung còn lại.
Ví dụ: Dạy bài Tính giá trị của biểu thức .SGK Toán 3 trang 79.
Ta có thể thiết kế phiếu giao việc với các dạng bài tập về các mạch nội dung
nh sau:
- Các bài tập về số học, chẳng hạn:
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
15
Khoá luận tốt nghiệp
a. 203 + 40 + 6 = .
268 - 68 + 15 =
116 - 40 + 13 = .
456 - 7 - 60 = .
b. 25 x 3 x 2 =
84 : 4 : 3 = .
15 x 2 : 3 = .
81: 9 x 4 =
- Bài toán đố:
Giải bài toán theo tóm tắt sau:
1 bộ quần áo: 20.000 đồng
1 chiếc mũ: 12.000 đồng
3 bộ quần áo và 2 chiếc mũ: đồng ?

Bài giải

. .

- Bài toán về các yếu tố đại số:
+ Điền dấu >; <; = vào chỗ chấm:
56 : 7 x 3 21
35 .80 : 5 x 2
40 + 2 4 x 9 +6
+ Tìm
x
: khoanh tròn vào phơng án cho kết quả đúng của :
x
+ 9 + 18 = 29
A.
x
= 3 B.
x
= 2 C.
x
= 4 D.
x
= 1
12 :
x
x 4 = 16
A.
x
= 2 B.
x

= 3 D.
x
= 4 D.
x
= 5
+ Bài toán về đo lờng:
12cm + 9cm = .dm .cm
54cm - 5cm + 3cm 5 dm 2cm
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
16
Khoá luận tốt nghiệp
5. Căn cứ để xây dựng phiếu giao việc trong dạy học Toán.
5.1. Phải căn cứ vào mục đích của phiếu giao việc.
Giáo viên phải căn cứ vào mục đích của từng loại phiếu giao việc mà định ra
nội dung phù hợp cho từng loại phiếu, đó là:
+ PGV với mục tiêu để kiểm tra bài cũ xem mức độ học bài ở nhà của học
sinh.
+ PGV với mục tiêu hình thành kiến thức mới ở mỗi học sinh.
+ PGV với mục tiêu để học sinh củng cố luyện tập kiến thức, rèn luyện kĩ
năng, vận dụng kiến thức vừa học.
Việc xác định mục tiêu muốn kiểm tra, mục tiêu kiến thức và kĩ năng cần
hình thành ở học sinh là điều không dễ nhng cần thiết.
5.2. Phải căn cứ vào nội dung kiến thức cần hình thành ở học sinh và hệ
thống bài tập trong SGK để xây dựng các bài tập trong phiếu giao việc cho học
sinh.
5.3. Căn cứ vào trình độ học sinh ở từng lớp, trờng, địa phơng mà mức độ
khó của các nhiệm vụ trong PGV đề ra là khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy bài: Bảng chia 6, ở lớp 3 có bài tập để học sinh tự xây dựng
bảng chia 6 từ bảng nhân 6 thì chia hai mức độ nh sau:
+ Với đối tợng học sinh trung bình, bài tập trong PGV là:

Viết số thích hợp vào bảng nhân 6, từ đó suy ra bảng chia 6:
(a) (b)
6 x 1 =

6 : 6 =
6 x 2 =

12 : 6 =
6 x 3 =

18: 6 =
6 x 4 =

24 : 6 =
6 x 5 =

30 : 6 =
6 x 6 =

36 : 6 =
6 x 7 =

42 : 6 =
6 x 8 =

48 : 6 =
6 x 9 =

54 : 6 =
6 x10 = .


60 : 6 =
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
17
Khoá luận tốt nghiệp
+ Với đối tợng học sinh khá, bài tập trong PGV là:
Viết số thích hợp vào bảng nhân 6, từ đó suy ra bảng chia 6:
(a) (b)
6 x 1 =

6 : 6 =
6 x 2 =

12 : 6 =
6 x 3 =

. : 6 =
6 x 4 =

.: 6 =
6 x 5 =

.: 6 =
6 x 6 =

. : 6 =
6 x 7 =

.: 6 =
6 x 8 =


.: 6 =
6 x 9 =

.: 6 =
6x10=

.: 6 =
6. Những điều cần lu ý khi soạn PGV.
- Một PGV tốt nhất nên có đủ các thể loại: tính toán, hoàn thành quy tắc, giải
toán có lời văn.
- Phải xác định mục tiêu của PGV: những kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt
đợc.
-Các mục tiêu phải đợc phát biểu dới dạng những điều có thể quan sát đợc,
đo đợc.
Ví dụ: Với phiếu học tập bài Bảng nhân 2 -Lớp 2 thì mục tiêu là: học sinh
tự lập đợc các phép nhân còn lại trong bảng nhân 2 sau khi giáo viên đã làm mẫu,
học sinh viết lại đợc thành thạo toàn bộ các phép nhân trong bảng nhân 2.
- Phiếu giao việc phải vừa sức với trình độ hiện có của học sinh.
- Các nhiệm vụ, các lệnh trong phiếu giao việc phải đợc diễn đạt rõ ràng: các
yêu cầu đa ra phải ngắn gọn, chính xác và dễ hiểu đối với học sinh, tránh cách diễn
đạt rờm rà, thừa từ ngữ.
- Giáo viên nên cố gắng để chuyển đổi các thông tin từ dạng tiếng sang dạng
hình để có thể tổ chức cho trẻ tiến hành đợc các hoạt động bằng tay.
Dạng tiếng: các thông tin biểu thị bằng lời nói, chữ viết.
Dạng hình: các thông tin đợc biểu thị bằng các sơ đồ, biểu đồ, bảng kẻ ô,
hình vẽ
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
18
Khoá luận tốt nghiệp

Việc chuyển đổi từ dạng tiếng sang dạng hình giúp chúng ta có thể biến hành
động bằng lời của học sinh thành các hành động bằng tay nh: làm việc trên vật thật,
dùng các kí hiệu để điền, vẽ, nối, tô, đánh dấu với sự hỗ trợ của kênh hình. Đây
cũng là một cách làm tăng hứng thú học tập ở học sinh, mặt khác tăng cờng chuyển
các thông tin từ kênh tiếng sang kênh hình để làm cho kênh hình mạnh lên cũng là
một trong những hớng đổi mới phơng pháp dạy học ở Tiểu học hiện nay.
Ví dụ: Dạy bài Số bị chia - số chia - thơng có nhiều giáo viên thờng nêu các
phép chia, chẳng hạn:
8 : 2 = 4
10 : 2 = 5
14 : 2 = 7
18 : 2 = 9
rồi lần lợt chỉ vào từng phép chia và hỏi học sinh:
- Trong phép chia 8 : 2 = 4 thì 8 là gì? 2 là gì? 4 là gì?
- Trong phép chia 10 : 2 = 5 thì 10 là gì? 2 là gì? 5 là gì?
vv
sau đó lần lợt học sinh trả lời bằng cách gọi tên các thành phần của phép
chia, cứ nh vậy cho đến hết.
Cách làm này rõ ràng kênh tiếng đợc xem trọng vì ở đây chủ yếu là thầy, trò
đàm thoại với nhau còn kênh hình thì rất mờ nhạt, chỉ thể hiện chút ít qua việc giáo
viên chỉ bảng hoặc học sinh quan sát các phép tính trên bảng.
Trong trờng hợp này giáo viên có thể chuyển từ dạng tiếng sang dạng hình
bằng nhiều cách.
Cách 1: Viết các phép chia trên quanh 3 hình: hình chữ nhật, hình tròn và
hình tam giác tơng ứng với 3 thành phần của phép chia: số bị chia, số chia, thơng.
Đề bài yêu cầu học sinh Nối theo mẫu.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
19
8 : 2 = 4
Số bị

chia
Số chia
Thơng
2 = 9
2 = 5
Khoá luận tốt nghiệp
Khi đọc lệnh này học sinh hiểu rằng cần phải nối các thành phần của phép
chia: số bị chia nối với hình chữ nhật, số chia nối với hình tròn, thơng nối với hình
tam giác. Trờng hợp học sinh không tự làm ngay đợc thì giáo viên nên hớng dẫn
mẫu cho học sinh một, hai trờng hợp để các em hiểu cách làm, sau đó làm tơng tự.
Với cách này, tất cả các học sinh đều đợc làm việc, mỗi em đều có sản phẩm riêng
của mình, giáo viên chỉ cần đi lại, đôn đốc kiểm tra học sinh làm việc. Bằng hành
động nối này ta đã thao tác hoá đợc hành động của học sinh, chuyển đợc cách
dạy học từ kênh tiếng sang kênh hình là chủ yếu.
Tuy nhiên cách nối này cũng có hạn chế là nhìn rối mắt, giáo viên rất khó
quan sát là học sinh điền đúng hay sai trong một thời gian ngắn.
Cách 2: Dùng bảng kẻ ô:
Phép tính Số bị chia Số chia Thơng
8: 2 = 4 8 2 4
10: 2 = 5
14: 2 = 7
18: 2 = 9
Với học sinh trung bình thì giáo viên nên viết sẵn một dòng mẫu nh trên, còn
với học sinh khá thì giáo viên không cần viết mẫu.
Khác với cách làm thứ nhất, ở cách này học sinh không phải nối mà lệnh
làm việc là điền vào ô trống. Học sinh sẽ phải suy nghĩ xem đâu là số bị chia, đâu
là số chia, đâu là thơng trong phép chia rồi điền vào ô trong bảng cho chính xác.
Cách làm thao tác hoá quá tình đàm thoại nên trên sẽ giúp giáo viên quan
sát nhanh đợc xem học sinh làm đúng hay sai.
Tuỳ từng đối tợng học sinh mà giáo viên lựa chọn cách thể hiện các nhiệm vụ

học tập cho học sinh trong PGV cho phù hợp để đạt hiệu quả cao nhất. Đây là một
công việc không đơn giản, nó đòi hỏi sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của giáo viên.
- Chỉ nên chừa chỗ trống các chữ quan trọng và nên để học sinh điền vào các
từ có ý nghĩa quan trọng. Nên đặt chỗ trống vào cuối câu hỏi hơn là đầu câu.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
20
14 : 2 = 7
18 :
10 :
Khoá luận tốt nghiệp
Ví dụ: Dạy bài Hình thang - Lớp 5
Có thể đa vào phiếu học nhiệm vụ: Điền từ còn thiếu vào chỗ chấm.
(1) Hình thang có hai cạnh đối diện với nhau.
(2) có hai cạnh đối diện song song với nhau.
Thì ta nên chọn cách 1 vì nó rõ ràng hơn không gây nhầm lẫn cho học sinh.
- Không nên chừa chỗ trống quá nhiều chữ trọng yếu để tránh bắt học sinh
phải đoán xem ý giáo viên muốn hỏi gì.
Vídụ: Muốn tính hình chữ nhật ta lấy chiều
rộng.
Nên sửa lại là:
Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta lấy nhân với chiều rộng.
- Các khoảng trống phải đủ chỗ cho các câu trả lời để học sinh trình bày rõ
ràng.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
21
Khoá luận tốt nghiệp
Chơng 2: Xây dựng phiếu giao việc
trong tiết học bài mới môn Toán lớp 2
1. Mục tiêu dạy học môn Toán lớp 2:
Dạy học Toán 2 nhằm giúp học sinh:

1.1. Bớc đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về: phép cộng,
phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, phép nhân, phép chia và bảng nhân 2,3,4,5; bảng
chia 2,3,4,5; tên gọi và mối quan hệ giữa thành phần và kết quả của từng phép tính;
về mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ, phép cộng và phép nhân , các số đến
100, phép cộng và phép trừ các số có 3 chữ số (không nhớ), các phần bằng nhau của
đơn vị dạng
1
2
,
1
3
,
1
4
,
1
5
; các đơn vị đo độ dài đề-ci-met (dm), mét (m), giờ và phút,
ngày và tháng, kilôgam (kg), lit (l), nhận biết một số hình hình học (hình chữ nhật,
hình tứ giác, đờng thẳng, đờng gấp khúc, độ dài đờng gấp khúc ); các dạng bài
toán có lời văn chủ yếu giải bằng một phép tính cộng, trừ, nhân, chia.
1.2. Hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành về: cộng và trừ có nhớ trong
phạm vi 100; nhân và chia trong phạm vi các bảng tính, giải các phơng trình đơn
giản dới dạng bài Tìm
x
, tính giá trị biểu thức số (dạng đơn giản); đo và ớc lợng
độ dài, khối lợng, dung tích, nhận biết hình và bớc đầu tập vẽ hình tứ giác, hình chữ
nhật, hình vuông, đờng thẳng, đờng gấp khúc, tính độ dài đờng gấp khúc, giải các
bài toàn đơn về cộng, trừ, nhân, chia, bớc đầu biết diễn đạt bằng lời, bằng kí hiệu
một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành; tập dợt so sánh, lựa chọn,

phân tích, tổng hợp, trừu tợng hoá, khái quát hoá, phát triển trí tởng tợng trong quá
trình áp dụng các kiến thức, kĩ năng Toán 2 trong học tập và đời sống.
1.3. Tập phát hiện, tìm tòi và tự chiếm lĩnh kiến thức mới theo mức độ của
lớp 2, chăm chỉ, hứng thú trong học tập và thực hành toán.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
22
Khoá luận tốt nghiệp
2. Nội dung chơng trình môn Toán lớp 2:
2.1. Số học.
2.1.1. Phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100.
- Giới thiệu tên gọi thành phần và kết quả của phép cộng (số hạng, tổng),
phép trừ (số bị trừ, số trừ, hiệu).
- Bảng cộng và phép trừ không nhớ hoặc có nhớ một lần trong phạm vi 100.
Tính nhẩm và tính viết.
- Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng, trừ.
- Giải bài tập dạng: Tìm
x
, biết a +
x
= b;
x
- a = b; a -
x
= b (với a,b là các
số có đến 2 chữ số) bằng việc sử dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết quả của
phép tính.
2.1.2. Các số đến 1000, phép cộng và phép trừ không nhớ trong phạm vi
1000.
- Đọc, viết, so sánh các số có 3 chữ số. Giới thiệu hàng đơn vị, hàng chục,
hàng trăm.

- Phép cộng các số có đến 3 chữ số, tổng không quá 1000, không nhớ. Tính
nhẩm và tính viết.
- Phép trừ các số có đến 3 chữ số, không nhớ.
- Tính giá trị các biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng, trừ, không có
dấu ngoặc.
2.1.3. Phép nhân và phép chia.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép nhân: lập phép nhân từ tổng các số
hạng bằng nhau. Giới thiệu thừa số và tích.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép chia: lập phép chia từ phép nhân có
một thừa số cha biết khi biết tích và thừa số kia. Giới thiệu số bị chia, số chia, thơng.
- Lập bảng nhân 2,3,4,5 có tích không quá 50.
- Lập bảng chia 2,3,4,5 có số bị chia không quá 50.
- Nhân với 1 và chia cho 1.
- Nhân với 0. Số bị chia là 0. Không thể chia cho 0.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
23
Khoá luận tốt nghiệp
- Nhân, chia nhẩm trong phạm vi các bảng tính. Nhân số có hai chữ số với số
có một chữ số không nhớ (chỉ với số tròn chục). Chia số có đến hai chữ số cho số có
một chữ số, các bớc chia trong phạm vi các bảng tính.
- Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng, trừ hoặc nhân, chia.
- Giải bài tập dạng: Tìm
x
, biết: a x
x
= b;
x
: a = b (với a là số có một chữ
số, khác 0, áp dụng phép nhân, chia trong bảng và sử dụng mối quan hệ giữa thành
phần và kết quả của phép tính).

2.2. Đại lợng và đo đại lợng.
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài đềcimét, mét, kilômét, milimét. Đọc, viết các số
đo độ dài theo đơn vị đo mới học. Quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài:
1m = 10dm; 1dm = 10cm; 1m = 100cm; 1km = 1000m, 1m = 1000mm
- Tập chuyển đổi các đơn vị đo độ dài, thực hiện phép tính với số đo độ dài
(các trờng hợp đơn giản). Tập đo và ớc lợng độ dài.
- Giới thiệu về lit, đọc, viết, làm tính với các số đo theo đơn vị lit. Tập đong,
đo, ớc lợng theo lit.
- Giới thiệu đơn vị đo khối lợng kilogam. Đọc, viết, làm tính với các số đo
theo đơn vị kilogam. Tập cân và ớc lợng theo kilogam.
- Giới thiệu đơn vị đo thời gian: giờ, tháng. Thực hành đọc lịch (loại lịch
hàng ngày), đọc giờ đúng trên đồng hồ (khi kim phút chỉ vào số 12) và đọc giờ khi
kim phút chỉ vào số 3, 6. Thực hiện phép tính với các số đo theo đơn vị giờ, tháng.
- Giới thiệu về tiền Việt Nam (trong phạm vi các số đang học). Tập đổi tiền
trong trờng hợp đơn giản. Đọc, viết, làm tính với số đo theo đơn vị đồng.
2.3. Yếu tố hình học.
- Giới thiệu về đờng thẳng. Ba điểm thẳng hàng.
- Giới thiệu đờng gấp khúc. Tính độ dài đờng gấp khúc.
- Giới thiệu hình chữ nhật, hình tứ giác. Vẽ hình trên giấy ô vuông.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về chu vi của một hình đơn giản. Tính chu vi
hình tam giác, hình tứ giác.
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
24
Khoá luận tốt nghiệp
2.4. Giải toán có lời văn.
Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ (trong đó có các bài toán về
nhiều hơn hoặc ít hơn một số đơn vị), về phép nhân và phép chia.
Trên đây là 4 nội dung chủ yếu của chơng trình Toán lớp 2. Cách phân chia
nh vậy là để ta dễ phân biệt, còn thực tế các kiến thức này đợc sắp xếp đan xen, tạo
ra sự kết hợp hữu cơ, quán triệt tính thống nhất của Toán học, đảm bảo sự tiếp nối

giữa Tiểu học và Trung học.
Mặt khác, ta cũng thấy tính cập nhật ở tất cả các tuyến kiến thức trong nội
dung chơng trình môn Toán lớp 2. Ví dụ: ở nội dung Đại lợng và đo đại lợng, nếu
nh trong chơng trình cải cách giáo dục, học sinh học về tiền Việt Nam là hào, đồng,
xu thì trong chơng trình mới, học sinh đợc học về các loại giấy bạc mới: 100 đồng,
200 đồng và khi thực hành giải các bài toán có lời văn học sinh sẽ đ ợc cập nhật
với tình hình hiện nay.
Nội dung, chơng trình môn Toán lớp 2 còn thể hiện rõ tính phù hợp giữa sự
phân bổ nội dung với đặc điểm nhận thức của học sinh. Trớc hết là yêu cầu đơn giản
khi học sinh tiếp thu một số kiến thức. Ví dụ: Trong nội dung Một số yếu tố Hình
học, học sinh chỉ cần biết nhận dạng các hình tổng thể, tên gọi, biết phân biệt các
hình khác nhau, cha yêu cầu học sinh hiểu kĩ các yếu tố trong một hình cụ thể. Nội
dung, chơng trình môn Toán lớp 2 còn là sự nối tiếp các mạch kiến thức ở nội dung
Toán lớp 1 trên cơ sở có sự mở rộng.
Ngoài ra, sự biên soạn, trình bày bố cục các bài trong sách giáo khoa Toán
lớp 2 cũng thu hút sự chú ý, kích thích hứng thú học tập của học sinh: bài học ngắn
(thờng chỉ phân bố trong một trang giấy), kênh hình tăng lên, kích chữ giảm đi, số l-
ợng bài tập chiếm tới 60%, trong đó đã xuất hiện nhiều dạng bài trắc nghiệm: Điền
đúng/sai, đánh dấu, khoanh tròn vào các ý em cho là đúng.
Nh vậy, nội dung môn Toán lớp 2 đợc biên soạn làm 4 tuyến kiến thức cơ
bản. Nội dung từng tuyến có sự thay đổi, mở rộng, phong phú, đa dạng hơn. Chúng
đợc sắp xếp xen kẽ, hợp lý nhằm bổ trợ cho nhau và làm nổi bật rõ hạt nhân Số
học. Việc biên soạn nh vậy đảm bảo tính thống nhất, tính hiện đại của toán học, tính
phù hợp với nhận thức của học sinh Tiểu học. Mỗi một giáo viên khi đợc phân công
Nguyễn Thị Minh K30B GDTH
25

×