Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

16 những điểm mới trong luật doanh nghiệp 2005 về các loại hình công ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.95 KB, 23 trang )

MỤC LỤC Trang
Lời mở đầu 2
CHƯƠNG I: MÔ HÌNH CÔNG TY THEO LUẬT DOANH
NGHIỆP 2005
4
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn 4
1.1. Về bản chất pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn 4
1.2. Về quyền thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên là cá nhân
5
1.3. Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty 5
1.4. Về Hội đồng thành viên 7
2. Công ty cổ phần 8
2.1. Về bản chất pháp lý của công ty cổ phần 8
2.2. Về các loại cổ phần 8
2.3. Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần 9
2.4. Về Đại hội đồng cổ đông 9
2.5. Về Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần 10
3. Công ty hợp danh 12
3.1. Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh 12
3.2. Về bản chất pháp lý của công ty hợp danh 12
3.3. Về Hội đồng thành viên của công ty hợp danh 13
CHƯƠNG II: NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT DOANH
NGHIỆP VỀ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
14
1. Công ty TNHH 14
1.1 Công ty TNHH một thành viên 14
1.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên 15
2. Công ty cổ phần 15
3. Công ty hợp danh 18
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BẤT CẬP CÒN TỒN TẠI 19


1. Về Công ty TNHH 19
2. Về Công ty cổ phần 19
3. Về Công ty Hợp danh 21
Kết luận 22
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời đánh dấu một sự thay đổi lớn trong
pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời phản ánh được tư tưởng và
mục tiêu nổi bật của luật Doanh nghiệp năm 2005 là hình thành một khung
pháp lý chung, bình đẳng áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp.
Đây là lần đầu tiên nước ta ban hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh
thống nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp. Với việc ban hành Luật Doanh
nghiệp năm 2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã có điều kiện để hoạt động
bình đẳng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Sự ra
đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đáp ứng được yêu cầu đối xử bình
đẳng giữa các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật doanh nghiệp năm 2005 có những thay đổi tích cực so với Luật
1999, những quy định về các loại hình công ty cũng rõ ràng và nhiều đổi mới
so với trước, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số bất cập trong quy định của
Luật về các loại hình doanh nghiệp.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Những điểm mới trong luật doanh
nghiệp 2005 về các loại hình công ty” sẽ giúp cho chúng ta thấy được tính
tiến bộ của Luật doanh nghiệp nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm đưa ra những quy định trong Luật
doanh nghiệp năm 2005 về mô hình công ty, những điểm mới tiến bộ của
Luật và những tồn tại trong Luật doanh nghiệp về những điều liên quan đến
các hình thức công ty.
2

3. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời nói đầu và Kết luận, phần nội dung chính của đề tài gồm
03 phần
Chương I: Mô hình công ty theo Luật doanh nghiệp năm 2005
Chương II: Những nội dung mới của Luật doanh nghiệp về các loại hình
công ty
Chương III: Một số bất cập còn tồn tại
3
CHƯƠNG I: MÔ HÌNH CÔNG TY THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty trách nhiệm hữu hạn được chia làm hai loại, bao gồm: Công ty
trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên. Loại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được
chia làm hai loại, bao gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ
chức và loại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân.
1.1. Về bản chất pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn
- Bản chất pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên
trở lên: Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên là doanh
nghiệp, trong đó:
+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt
quá năm mươi;
+ Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp;
+ Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định
tại các điều 43, 44 và 45 của Luật này.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần.
- Bản chất pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ

chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn
điều lệ của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát
hành cổ phần.
4
1.2. Về quyền thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá
nhân:
Luật đã đa dạng hoá các hình thức doanh nghiệp bằng việc cho phép
thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà chủ thể là cá nhân.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì chỉ tổ chức mới có quyền
thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nay theo Luật doanh
nghiệp thống nhất thì một cá nhân cũng có quyền thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn.
1.3. Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty
+ Về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: Theo quy định
tại Điều 46 của Luật doanh nghiệp thì công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên phải có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc. Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ mười một thành
viên trở lên phải thành lập Ban kiểm soát; trường hợp có ít hơn mười một
thành viên, có thể thành lập Ban kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công
ty. Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm
soát, Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định.
Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là
người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.
Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam;
trường hợp vắng mặt ở Việt Nam trên ba mươi ngày thì phải uỷ quyền bằng
văn bản cho người khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các

quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty.
+ Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên
Theo quy định tại Điều 67 của Luật thì cơ cấu tổ chức của công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức được quy định như sau:
- Chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một hoặc một số người đại diện
theo uỷ quyền với nhiệm kỳ không quá năm năm để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
5
Người đại diện theo uỷ quyền phải có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện quy định
tại khoản 2 Điều 48 của Luật này.
- Chủ sở hữu công ty có quyền thay thế người đại diện theo uỷ
quyền bất cứ khi nào.
- Trường hợp có ít nhất hai người được bổ nhiệm làm đại diện
theo uỷ quyền thì cơ cấu tổ chức quản lý của công ty bao gồm Hội đồng thành
viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; trong trường hợp này,
Hội đồng thành viên gồm tất cả người đại diện theo uỷ quyền.
- Trường hợp một người được bổ nhiệm làm người đại diện theo
uỷ quyền thì người đó làm Chủ tịch công ty; trong trường hợp này cơ cấu tổ
chức quản lý của công ty bao gồm Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và Kiểm soát viên.
- Điều lệ công ty quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc
Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo
pháp luật của công ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường
trú tại Việt Nam; nếu vắng mặt quá ba mươi ngày ở Việt Nam thì phải uỷ
quyền bằng văn bản cho người khác làm người đại diện theo pháp luật của
công ty theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty.
Theo quy định tại Điều 74 thì cơ cấu tổ chức của công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên là cá nhân được quy định như sau:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân có Chủ

tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Chủ sở hữu công ty đồng thời là
Chủ tịch công ty. Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là
người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.
- Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
- Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ cụ thể của Giám đốc được quy định
tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký
với Chủ tịch công ty.
6
1.4. Về Hội đồng thành viên
Hội đồng thành viên gồm các thành viên, là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty trách nhiệm hữu hạn. Thành viên là tổ chức chỉ định người đại
diện theo uỷ quyền tham gia Hội đồng thành viên. Điều lệ công ty quy định
cụ thể định kỳ họp Hội đồng thành viên, nhưng ít nhất mỗi năm phải họp một
lần. Hội đồng thành viên có các quyền và nhiệm vụ sau:
- Quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hằng
năm của công ty;
- Quyết định tăng hoặc giảm vốn điều lệ, quyết định thời điểm và
phương thức huy động thêm vốn;
- Quyết định phương thức đầu tư và dự án đầu tư có giá trị trên
50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố
gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công
ty;
- Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và chuyển
giao công nghệ; thông qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng
hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời
điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại
Điều lệ công ty;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên;
quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký và chấm dứt hợp đồng đối

với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và người quản lý khác
quy định tại Điều lệ công ty;
- Quyết định mức lương, thưởng và lợi ích khác đối với Chủ tịch
Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và
người quản lý khác quy định tại Điều lệ công ty;
- Thông qua báo cáo tài chính hằng năm, phương án sử dụng và
phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty;
- Quyết định cơ cấu tổ chức quản lý công ty;
7
- Quyết định thành lập công ty con, chi nhánh, văn phòng đại
diện;
- Sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;
- Quyết định tổ chức lại công ty;
- Quyết định giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty;
- Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật doanh
nghiệp và Điều lệ công ty
2. Công ty cổ phần
2.1. Về bản chất pháp lý của công ty cổ phần
Theo quy định tại Điều 77 của Luật doanh nghiệp thì công ty cổ phần có
bản chất pháp lý như sau:
+ Là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần;
+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa;
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
+ Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của
Luật này.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động
vốn.
2.2. Về các loại cổ phần
Theo quy định tại Điều 78 thì cổ phần bao gồm các loại sau:
+ Cổ phần phổ thông, là cổ phần mà người sở hữu cổ phần đó được gọi
là cổ đông phổ thông.
+ Cổ phần ưu đãi, là cổ phần mà người sở hữu cổ phần đó được gọi là cổ
đông ưu đãi.
8
Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết;
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức;
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại;
+ Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được
quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông
sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết
của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại
và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội đồng cổ
đông quyết định.
Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các quyền,
nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần
ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội
đồng cổ đông.
2.3. Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần
Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám

đốc hoặc Tổng giám đốc; đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông
là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của
công ty phải có Ban kiểm soát.
Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người
đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty. Người
đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp
vắng mặt trên ba mươi ngày ở Việt Nam thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho
người khác theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm
vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty.
2.4. Về Đại hội đồng cổ đông
9
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ
quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần.
Đại hội đồng cổ đông có các quyền và nhiệm vụ như sau:
+ Thông qua định hướng phát triển của công ty;
+ Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền
chào bán; quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần, trừ trường
hợp Điều lệ công ty có quy định khác;
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên
Ban kiểm soát;
+ Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn
50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty
nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác;
+ Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh
vốn điều lệ do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần được
quyền chào bán quy định tại Điều lệ công ty;
+ Thông qua báo cáo tài chính hằng năm;
+ Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại;
+ Xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát
gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty;

+ Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty;
+ Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật doanh nghiệp và
Điều lệ công ty.
2.5. Về Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh
công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không
thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.
Hội đồng quản trị có các quyền và nhiệm vụ như sau:
+ Quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh
doanh hằng năm của công ty;
10
+ Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của
từng loại;
+ Quyết định chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được
quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức
khác;
+ Quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty;
+ Quyết định mua lại cổ phần theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của
Luật này;
+ Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới
hạn theo quy định của Luật này hoặc Điều lệ công ty;
+ Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông
qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc
lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của
công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp
đồng và giao dịch quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 120 của Luật này;
+ Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng
đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do
Điều lệ công ty quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những
người quản lý đó; cử người đại diện theo uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu cổ

phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích
khác của những người đó;
+ Giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý
khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty;
+ Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định
thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn,
mua cổ phần của doanh nghiệp khác;
+ Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp Đại hội đồng cổ
đông, triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến để Đại hội đồng cổ
đông thông qua quyết định;
11
+ Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Đại hội đồng cổ
đông;
+ Kiến nghị mức cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ
tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh;
+ Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty;
+ Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ
công ty.
Hội đồng quản trị thông qua quyết định bằng biểu quyết tại cuộc họp, lấy
ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ công ty quy định. Mỗi
thành viên Hội đồng quản trị có một phiếu biểu quyết.
Khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, Hội đồng quản trị tuân
thủ đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và quyết định của Đại hội
đồng cổ đông. Trong trường hợp quyết định do Hội đồng quản trị thông qua
trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty
thì các thành viên chấp thuận thông qua quyết định đó phải cùng liên đới chịu
trách nhiệm cá nhân về quyết định đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty;
thành viên phản đối thông qua quyết định nói trên được miễn trừ trách nhiệm.
Trong trường hợp này, cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời
hạn ít nhất một năm có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện

quyết định nêu trên.
3. Công ty hợp danh
3.1. Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh
Luật doanh nghiệp thống nhất đócông nhận tư cách pháp nhân của công
ty hợp danh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia
các giao dịch (Luật doanh nghiệp năm 1999 chưa công nhận tư cách pháp
nhân của công ty hợp danh).
3.2. Về bản chất pháp lý của công ty hợp danh
Theo quy định tại Điều 130 của Luật doanh nghiệp thì công ty hợp danh
là doanh nghiệp, trong đó:
12
+ Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh);
ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
+ Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
+ Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
+ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3.3. Về Hội đồng thành viên của công ty hợp danh
Tất cả thành viên hợp lại thành Hội đồng thành viên. Hội đồng thành
viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng
thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không
có quy định khác.
Thành viên hợp danh có quyền yêu cầu triệu tập họp Hội đồng thành
viên để thảo luận và quyết định công việc kinh doanh của công ty. Thành viên
yêu cầu triệu tập họp phải chuẩn bị nội dung, chương trình và tài liệu họp.
Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của

công ty.
13
CHƯƠNG II: NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
VỀ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
1. Công ty TNHH
1.1 Công ty TNHH một thành viên
Nếu trước đây công ty TNHH một thành viên chỉ có thể được thành lập
bởi một tổ chức, thì nay không cần như vậy. Một cá nhân cũng có thể đứng ra
thành lập loại hình công ty một chủ này. Nhưng cũng do “mở cửa” cho các
chủ sở hữu cá nhân vào sân chơi này, luật đã thận trọng dựng lên các “dải
phân cách” cùng nhiều chỉ dẫn khác để cho biết “anh” nào được làm gì, được
làm thế nào và tới đâu Chính vì vậy đã có một sự phân định khá rõ trong
luật, và cũng dễ thấy loại công ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ
sở hữu sẽ hơi khác so với loại có chủ sở hữu là cá nhân.
Cụ thể, về “cơ cấu tổ chức quản lý công ty” (điều 67), tùy theo số nhân
sự được bố trí làm đại diện, loại do tổ chức làm chủ sở hữu sẽ áp dụng một
trong hai cách sau: (1) trường hợp có ít nhất hai người được tổ chức bổ nhiệm
làm đại diện theo ủy quyền thì cơ cấu ấy là “Hội đồng thành viên - Tổng giám
đốc - Kiểm soát viên”. Hoặc (2) trường hợp chỉ có một người được tổ chức bổ
nhiệm làm đại diện theo ủy quyền thì cơ cấu sẽ là “Chủ tịch công ty - Tổng
giám đốc - Kiểm soát viên”. Như vậy, chỉ với cách (1) thì công ty mới có chủ
tịch hội đồng thành viên, và chức vụ này sẽ do chủ sở hữu công ty chỉ định
(điều 68). Còn đối với công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở
hữu thì, theo luật, chỉ có mỗi một đường (lại rất ngắn) là “Chủ tịch công ty -
Tổng giám đốc” (điều 74). Cũng theo luật thì “Chủ tịch công ty chính là chủ
sở hữu công ty”.
Có một số điểm khác cũng rất đáng lưu ý. Theo quy định về “quyền của
chủ sở hữu công ty” (điều 64) thì ở phần liệt kê dành cho loại công ty do tổ
chức làm chủ sở hữu, có quyền được “thành lập công ty con, góp vốn vào
công ty khác”. Trong khi đó, phần liệt kê dành cho loại công ty có chủ sở hữu

là cá nhân thì không thấy có các quyền này (nhưng cũng không thấy cấm).
14
Vậy ta có thể nào hiểu ngầm rằng với công ty TNHH một chủ là cá nhân
thì sẽ không “đẻ con” được (?). Về tổ chức công ty, luật mới đã bỏ khái niệm
hội đồng quản trị và chủ tịch hội đồng quản trị, thay vào đó là hội đồng thành
viên và chủ tịch hội đồng thành viên (điều 67 và 68). Điều này là hợp lý và
cần thiết để có sự phân biệt (giữa TNHH và cổ phần). Mặt khác, cũng theo
luật mới thì công ty TNHH một thành viên không được giảm vốn điều lệ
(điều 76).
1.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định cụ thể khác biệt và cụ
thể hơn so với Luật Doanh nghiệp năm 1999 về người đại diện theo pháp luật
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, theo đó Chủ tịch
Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện
theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện
theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam, trường hợp vắng mặt
ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo
quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại
diện theo pháp luật của công ty.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định về người đại diện theo
uỷ quyền. Đây là quy định mới so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Theo
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, việc chỉ định người đại diện theo
uỷ quyền phải bằng văn bản, được thông báo đến công ty và cơ quan đăng ký
kinh doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày chỉ định.
2. Công ty cổ phần
Tinh thần chung của luật, yêu cầu minh bạch, trung thực, công bằng, để
bảo vệ và duy trì niềm tin cho môi trường đầu tư, đã được tập trung khá rõ
trong chương IV chế định về công ty cổ phần. Nhưng cũng do đây là loại tổ
chức doanh nghiệp có “độ phức tạp cao”, làm sao để có được một môi trường
đủ tốt, có khả năng tạo ra một “rừng cây lâu năm” cho nền kinh tế, là điều

không dễ
15
Có thể bắt đầu từ điều 79 về “quyền của cổ đông phổ thông”, đặc biệt là
phần “cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ
thông” (khoản 2, 3, 4). Phần này hầu như đã được viết lại rất chi tiết và là
những nội dung cần ghi nhận, làm cơ sở nghiên cứu, cân nhắc trong việc soạn
điều lệ công ty. Tuy nhiên, tại khoản 1, điều 80, quy định “nghĩa vụ cổ đông
phổ thông phải thanh toán đủ số cổ phần mua trong thời hạn 90 ngày” có vẻ
đã nhầm với quy định về cam kết của cổ đông sáng lập. Cũng vậy, ở khoản
5.c, “cổ đông phải chịu trách nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty thanh
toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với
công ty” đã nhầm với quy định về nghĩa vụ của người quản lý công ty (vì tư
cách cổ đông không làm được việc này).
Về “cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập” (điều 84), luật mới đã bổ
sung một số điểm có tính điều chỉnh cụ thể, có ý nghĩa thực thi rất đáng chú ý.
Chẳng hạn, “trường hợp cổ đông sáng lập không đăng ký mua hết số cổ phần
được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại phải được chào bán hết trong thời
hạn ba năm” (khoản 4). Quy định này là mới và hợp lý. Thế nhưng, quy định
“cổ đông sở hữu 5% tổng số cổ phần phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh
doanh” (khoản 4, điều 86) nếu có cần thiết với công ty đại chúng thì e rằng sẽ
ít ý nghĩa (lại có hơi phiền) với các công ty cổ phần nội bộ, là loại nhỏ chiếm
đa số hiện nay ở ta. Vả lại, nếu sở hữu 5% đã được xem là cổ đông lớn, thì tại
sao tại khoản nói về “hợp đồng, giao dịch phải được đại hội đồng cổ đông
(ĐHĐCĐ) hoặc hội đồng quản trị chấp thuận” (điều 120) cổ đông lớn lại
được nới đến 35%? (Luật cũ là 10%). Mặt khác, quy định về “số chiết khấu
hoặc tỷ lệ chiết khấu” trên giá bán cổ phần cho người môi giới hoặc người
bảo lãnh mà “phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất
75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết” (điều 87.1.c) thì e sẽ khó bán được
nhanh.
Trong luật cũng có một số thay đổi tuy nhỏ mà không nhỏ, như việc mua

lại cổ phần theo quyết định của công ty (điều 91) quy định “hội đồng quản trị
16
có quyền quyết định mua lại không quá 10% tổng số cổ phần trong mỗi 12
tháng”. Hoặc, việc chi trả cổ tức sẽ không còn tình trạng “ăn đong” với quy
định khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của công ty
(điều 93). Đồng thời, hàng loạt tỷ lệ liên quan đến điều kiện họp ĐHĐCĐ, tỷ
lệ tối thiểu trong biểu quyết thông qua (điều 102, điều 104) đã được nâng lên.
Thông thường, các mức 51% của luật cũ nay là 65%, các mức 65% nay là
75%, ngoại trừ hình thức lấy ý kiến bằng văn bản đã được nâng từ 51% lên
75%.
Liên quan đến ĐHĐCĐ, việc họp và lấy ý kiến bằng văn bản, LDN 2005
có hai điều mới quy định về trình tự, thủ tục, các yêu cầu cần tôn trọng hoặc
phải thực hiện. Cụ thể, điều 103 nói về thể thức tiến hành họp và biểu quyết
tại ĐHĐCĐ, trong số những nội dung cơ bản có cả nội dung về tình huống
hoãn hoặc dừng họp ĐHĐCĐ (luật cũ không có). Không biết nếu luật mới có
hiệu lực sớm hơn thì “bi kịch” Đay Sài Gòn có dễ phân xử hơn? Tương tự,
điều 105 quy định về thẩm quyền và thể thức thông qua quyết định của
ĐHĐCĐ theo hình thức lấy ý kiến bằng văn bản cũng hoàn toàn mới. Cuộc
họp ĐHĐCĐ thường niên nay cũng đã được nới đến tháng 4, thay vì chỉ trong
quí 1 như luật cũ.
Về hội đồng quản trị (từ điều 108-115) có một số nội dung cần ghi nhận.
“Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị là năm năm - Nhiệm kỳ của thành viên hội
đồng quản trị là không quá năm năm”. Cách quy định này có cái lý riêng. Vậy
có lẽ các công ty niêm yết sẽ phải thay đổi cách bầu luân phiên như theo điều
lệ mẫu. Thành viên hội đồng quản trị cũng đã được khẳng định “không nhất
thiết phải là cổ đông của công ty”. Điều này nghe hơi lạ, nhưng là một cách
làm từ lâu của thế giới, vấn đề là cần biết rõ và nắm vững đó là gì. Đối với
tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên hội đồng quản trị, tuy luật có ghi “là
cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông” nhưng đó chỉ
là một chuẩn. Luật mới còn quy định “cuộc họp của hội đồng quản trị được

tiến hành khi có từ ba phần tư tổng số thành viên trở lên”, là cao hơn luật cũ
17
(chỉ cần hai phần ba). Đồng thời, một số yêu cầu liên quan đến họp hội đồng
quản trị nay đã được nâng lên thành luật, gồm các đề nghị của ban kiểm soát,
tổng giám đốc, của năm người quản lý, và của hai thành viên hội đồng quản
trị. Vậy, dù hội đồng quản trị có 11 người thì cũng chỉ cần hai người yêu cầu
là phải họp!
Luật mới cũng quy định việc bầu hội đồng quản trị theo thể thức bầu
dồn phiếu (điều 104). Thể thức này đáp ứng tính đại diện tốt hơn, có lợi cho
cổ đông nhỏ hay các nhóm cổ đông, hoàn toàn khác với cách ở ta thường làm
trước đây. Những nội dung vừa kể kết hợp với rất nhiều chi tiết khác trong
luật cho thấy hội đồng quản trị quả là đầy trọng trách, lắm áp lực. Bởi thế, nếu
thành viên hội đồng quản trị mà thấy cứ “khỏe re” thì đó có thể là điều lạ
LDN 2005 cũng đã chính thức đưa chi phí, thù lao, tiền lương của hội
đồng quản trị và ban kiểm soát vào chi phí kinh doanh của công ty (điều 117).
Việc công khai các lợi ích liên quan đến các “VIP” trong công ty cổ phần
cũng được nêu rất chặt chẽ (điều 118) với yêu cầu phải “kê khai”, “niêm yết”,
đáp ứng quyền được xem xét nội dung kê khai bất cứ lúc nào thấy cần Luật
vậy là khá sâu. Hy vọng hiệu lực triển khai cũng đạt được độ sâu mong đợi.
3. Công ty hợp danh
Điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về công ty hợp
danh là Luật đã thừa nhận tư cách pháp nhân của loại hình công ty này. Đây
là một quy định mới so với quy định của Luật Doanh nghiệp năm 1999. Luật
Doanh nghiệp năm 2005 cũng đã quy định cụ thể hơn về Hội đồng thành viên
và điều hành kinh doanh của công ty hợp danh.
18
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BẤT CẬP CÒN TỒN TẠI
1. Về Công ty TNHH
Đối với công ty TNHH có hai thành viên hiện nay nảy sinh những vấn
đề thực tế rất phức tạp, mà luật của chúng ta lại chưa nói tới. Ví dụ như

trong trường hợp một thành vên muốn họp hội đồng thành viên còn thành
viên kia cương quyết không họp thì cuộc họp có được tiến hành với một
người không? Rồi cách thức thông qua biên bản cuộc họp như thế nào,
chẳng lẽ một người tự biểu quyết với mình?
Do mang tính chất luật tư cho nên luật Doanh Nghiệp của chúng ta rất
tôn trọng thỏa thuận của các bên (tất nhiên là thỏa thuận không trái luật). Do
vậy mà trong nhiều điều luật có “tùy vào thỏa thuận của các bên”. Vậy trong
trường hợp công ty TNHH 2 thành viên này, luật thiếu quy phạm điều chỉnh
thì ta phải quan tâm đến thỏa thuận giữa hai người trong việc thành lập công
ty hay nó chính là điều lệ công ty.
2. Về Công ty cổ phần
Sự chồng chéo, không rõ ràng về thẩm quyền giữa Hội đồng quản trị
(HĐQT) và Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của Công ty cổ phần (CTCP)
Điều 120, Luật Doanh nghiệp quy định như sau:
“1. Hợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây phải
được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận:(a) ; (b) , (c) ;
“2. HĐQT chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50%
tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc
một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty
3. ĐHĐCĐ chấp thuận các hợp đồng và giao dịch khác trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này ”
Quy định trên đã gây ra cách hiểu không rõ ràng về thẩm quyền của
ĐHĐCĐ và HĐQT CTCP, dẫn tới hai vấn đề sau:
• Một là, nếu nội dung của khoản 1, khoản 2 và khoản 3 không độc lập
mà có liên quan với nhau: Trong trường hợp này, khoản 2 và khoản 3 được sử
dụng để phân định các trường hợp quy định tại khoản 1. Tuy nhiên, theo cách
19
quy định của Điều 120 thì chưa đưa ra được nội dung này. Như vậy, yêu cầu
đặt ra là phải quy định lại Điều 120 theo hướng cụ thể, dẫn chiếu từ Khoản 2,
Khoản 3 lên Khoản 1 để việc áp dụng được dễ dàng.

•Hai là, nếu nội dung của khoản 1 độc lập với khoản 2 và khoản 3:
Trong trường hợp này, khoản 1, Điều 120 không xác định rõ ràng chủ thể có
thẩm quyền quyết định các hợp đồng, giao dịch của công ty (ĐHĐCĐ hay
HĐQT). Mặt khác, điều khoản này chồng chéo thậm chí mâu thuẫn với Điều
108.2.g của Luật Doanh nghiệp.
Điều 108.2.g, Luật Doanh nghiệp quy định HĐQT có quyền: “Quyết
định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp
đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn
50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty
hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp đồng và
giao dịch quy định tại khoản 1 và khoản 3, Điều 120 của Luật này”;
Như vậy, Điều 108.2.g đã quy định "hợp đồng và giao dịch quy định tại
khoản 1" của Điều 120 không thuộc thẩm quyền của HĐQT. Đây là một quy
định mang tính loại trừ.
Nhưng Khoản 1, Điều 120 lại quy định các hợp đồng, giao dịch đó phải
được HĐQT hoặc ĐHĐCĐ chấp thuận. Đây chính là sự mâu thuẫn và trong
trường hợp này các doanh nghiệp không biết phải áp dụng theo quy định nào
để phù hợp với pháp luật
1.2 Quy định không rõ ràng về thủ tục gửi tài liệu cho các cổ đông trước
khi tiến hành họp ĐHĐCĐ Khoản 2, Điều 100 Luật Doanh nghiệp quy định:
“Kèm theo thông báo mời họp phải có mẫu chỉ định đại diện theo uỷ quyền
dự họp, chương trình họp, phiếu biểu quyết, các tài liệu thảo luận làm cơ sở
thông qua quyết định và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương
trình họp. Nếu công ty có trang thông tin điện tử thì thông báo mời họp và các
tài liệu gửi kèm theo phải được công bố trên trang thông tin điện tử đó đồng
thời với việc gửi thông báo cho các cổ đông".
20
Quy định trên được hiểu là trong trường hợp công ty có trang thông tin
điện tử thì phải có trách nhiệm công bố thông báo mời họp và các tài liệu gửi
kèm theo trên trang thông tin điện tử đó.

Tuy nhiên, quy định “đồng thời với việc gửi thông báo cho các cổ
đông”gây ra nhiều cách hiểu khác nhau, theo đó, việc đồng thời gửi thông báo
có nghĩa là chỉ gửi thông báo mời họp hay phải gửi cả thông báo mời họp và
các tài liệu kèm theo. Thực tế, chúng tôi nhận thấy hiện nay, các Doanh
nghiệp áp dụng điều khoản này theo nhiều cách khác nhau, có Công ty vừa
công bố thông tin trên trang thông tin điện tử, vừa gửi thông báo và toàn bộ
tài liệu có liên quan đến các cổ đông; có Công ty thì chỉ gửi duy nhất Thông
báo mời họp cho cổ đông cùng với việc công bố thông tin trên trang thông tin
điện tử.
3. Về Công ty Hợp danh
Tư cách pháp nhân của Cty hợp danh được quy định tại Điều 130 Luật DN
quy định:
+ Cty hợp danh là DN, trong đó: a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ
sở hữu chung của Cty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi
là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên
góp vốn; b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Cty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của Cty trong phạm vi số vốn đã góp vào Cty.
+ Cty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
Quy định nêu trên mâu thuẫn với Điều 84 Luật Dân sự năm 2005 quy
định về pháp nhân: "Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các
điều kiện sau đây: 1. Được thành lập hợp pháp; 2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó; 4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập".
Như vậy, khi các thành viên hợp danh góp vốn thành lập Cty và Cty có
tư cách pháp nhân thì họ hoạt động nhân danh pháp nhân đó. Do đó, quy định
"Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của Cty" là vô lý.
21

KẾT LUẬN
Hiện nay, theo Luật doanh nghiệp năm 2005, mô hình công ty Việt Nam
gồm 03 loại hình: Công ty TNHH, Công ty cổ phần và Công ty hợp danh.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 có giá trị thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm
1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003. Luật Doanh nghiệp năm 2005
cũng thay thế các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp
tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000.
Luật doanh nghiệp năm 2005 có những điểm tiến bộ so với trước đây,
tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số bất cập còn tồn tại cần được hoàn thiện,
bài viết này sẽ đưa ra được một số điểm mới cơ bản của Luật doanh nghiệp
liên quan đến các loại hình doanh nghiệp và một số bất cập còn tồn tại mà em
cho là quan trọng nhất của đạo luật này nhằm có được cái nhìn toàn diện hơn
về Luật doanh nghiệp năm 2005.
22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Luật doanh nghiệp năm 1999
2. Luật doanh nghiệp năm 2005
3. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003
4. Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh
II. Các tài liệu chuyên khảo
5. Giáo trình Luật thương mại – Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm
2007
III. Các trang Web
6. vietlaw.org.vn
7. dangkykinhdoanh.net
8. issi.gov.vn
9. kinhdoanh.com.vn
10. dangcongsan.vn

11. bussine.gov.vn
23

×