Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN Rèn kĩ năng nói cho HS lớp 2 qua phân môn Tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.58 KB, 13 trang )

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2
qua phân môn tập làm văn
A- Phần mở đầu :
Tiếng Việt là môn học quan trọng trong chơng trình giảng dạy bậc Tiểu
học. Đây là môn học cung cấ cho học sinh những cơ sở ban đầu làm công cụ để
khám phá các môn học khác. Bên cạnh đó, môn Tiếng Việt còn có nhiệm vụ
rèn cho học sinh kỹ năng thực hành ngôn ngữ, ptt duy văn học cho các em. Có
thể nói Tiếng Việt là môn học chìa khoá giúp học sinh mở kho tàng kiến thức ở
Tiểu học nói riêng và cả quá trình nhận thức nói chung.
Là một phân môn của Tiếng Việt, Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng.
Đó là phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp các kiến thức từ các phân
môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu Bài Tập làm văn là kết tinh nhiều
mặt của năng lực sử dụng Tiếng Việt.
Từ năm học 2003- 2004, Bộ GD-ĐT đã chính thức triển khai đại trà chơng
trình sách giáo khoa mới lớp 2 trên toàn quốc. Chơng trình dạy học Tập làm văn
ở lớp 2 cũng đã có những thay đổi đáng kể nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nớc
trong thời kỳ đổi mới.
Một trong những điểm đổi mới cơ bản nhất của chơng trình tập làm văn lớp
2 là việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh không chỉ đơn thuần là hình thức
yêu cầu các em trả lời miệng các câu hỏi về bài Tập đọc nh trớc đây.
Trái lại, Tập làm văn 2 dạy các em thực hiện nghi thức lời nói gắn với tình
guống giao tiếp hàng ngày. Bên cạnh đó, học Tập làm van là học sinh lớp 2 bắt
đầu học kỹ năng tạo lập văn bản nói và viết, kỹ năng kể tả đơn giản về những sự
vật gần gũi, gắn bó với đời sống các em. Chính điểm đổi mới này đã tạo điều
kiện phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong việc rèn kỹ
năng kể tả đơn giản về những sự vật gần gũi, gắn bó với đời sống các em. Chính
điểm đỏi mới này đã tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh trong việc rèn kỹ năng nói và viết.
Nh vậy là chơng trình dạy Tập làm văn lớp2 hienẹ nay so với trớc đây có
nhiều đổi mới đòi hỏi mỗi giáo viên Tiểu học phải t duy sáng tạo, vận dụng linh
hoạt các phơng pháp dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu về đổi mới nội dung dạy


học, phơng pháp dạy học để học sinh đợc tích cực lĩnh hội và phát triển.
Dạy Tập làm văn vốn đã khó, việc luyện kỹ năng nói trong phân môn tập
làm văn cho học sinh lớp 2 giờ đây lại càng khó hơn. Đây là một vấn đề bức
xúc, nan giải với số đông giáo viên Tiểu học hiện nay khi đợc phân công giảng
dạy lớp 2. Nhiều ngời đã quan tâm tìm hớng đi, song lựa chọn giải pháp nào cho
có hiệu quả nhất cũng khiến họ có nhiều băn khoăn trăn trở. Nhận thức đợc vấn
1
đề này, bản thân tôi khi đợc phân công dạy lớp 2 ( từ năm học 2003- 2004) tôi
đã bắt tay nghiên cứu, quyết tâm đi tìm lời giải cho bài toán : Làm thế nào để
luyện nói cho học sinh lớp 2 qua giờ Tập làm văn có hiệu quả.
Qua 2 năm học miệt mài nghiên cứu, giờ đây với bài toán trên, tôi đã đa ra
đợc một số lời giải của riêng mình. Tôi xin đa ra để các nhà quản lý, các bạn
đồng nghiệp cùng tham khảo.
B- Nội dung :
I-Cơ sở lý luận
1- Yêu cầu và nhiệm vụ của Tập làm văn trong chuyện tranh lớp 2 :
Dạy tập làm văn cho học sinh lớp 2 nhằm :
1- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc phcụ vụ cho việc
học tập và giao tiếp. Cụ thể là :
- Học sinh năm đợc các nghi thức nói tối thiểu nh chào hỏi, tự giới thiệu,
cảm ơn, xin lỗi, nhờ cậy yêu cầu, khẳng định. phủ định , tán thành, từ chối, chia
vui, chia buồn,,, . biết sử dụng chúng một số tình huống giao tiếo ở gia đìnhm,
trong trờng và nơi công cộng .
- Nắm đợc một số kỹ năng phcụ vụ học tập và đời sống hàng ngày nh: Khai
bản tự thuật ngắn, viết những bức th ngắn để nhắn tin, chia vui, chúc mừng, chia
buồn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách, tra mục lục sách, đọc thời
khoá biểu
- Kể một sự việc đơn giản, tả sơ lợc về ngời và vật xung quanh theo gợi ý
bằng tranh hoặc câu hỏi .
- Nghe hiểu đợc ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến của bạn, có thể nêu ý

kiến bổ sung, nhận xét .
b- Trau dồi thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công
việc, bồi dỡng những tình cảm lành mạnh tốt đẹp qua nội dung bài dạy .
2- Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh :
Trẻ em những lớp đầu cấp Tiểu học khi quan sát đối tợng thờng bị thu hút
bởi các chi tiết ngẫu nhieen, khả năng tổng hợp quan sát kém. Tri giác của các
em còn đợm màu sắc cãmúc. Việc tri giác đối tợng chủ yếu căn cứ vào những
dấu hiệu bề ngoài không bản chất, cha chú ý đến những dấu hiệu chung để khái
quát hoá. Bên cạnh đó khả năng tập trung chú ý của trẻ không bền vững, chóng
chán. Sở dĩ còn hiện tợng trên là do vốn sống của các em còn ít ỏi, vốn ngôn ngữ
còn hạn chế, khả năng t duy trừu tợng cha cao.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lứa tuổi học sinh, đòi hỏi sự t duy sáng tạo,
nhạy bén của giáo viên trong việc lựa chọn phơng pháp, hình thức tổ chức dạy
học .
2
II- Cơ sở thực tiễn :
1- Những thuận lợi - khó khăn cơ bản :
a- Thuận lợi:
- Bộ sách Tiếng Việt chơng trình Tiểu học 2000 đã biên soạn các bài Tập
làm văn theo quan điểm giao tiếp. các bài tập chủ yếu ở dạng tình huống mà học
sinh cần giải quyết. Các tình huống này là những vấn đề gần gũi với học sinh và
đều là tình huống mở, tạo điều kiện cho giáo viên khơi gợi đợc sự sáng tạo của
học sinh .
- Mỗi dạng bài tập đều có những câu mẫu giúp học sinh định hớng khi làm
bài tập.
b- Khó khăn:
Học sinh lớp 2H do tôi làm chủ nhiệm năm học 2004- 2005 đều là con em
nông dân. Bố mẹ các em rất bận rộn , ít có thời gian quan tâm đến việc rèn cho
con kỹ năng nói . Qua tiếp xúc, tôi thấy các em phần đa là niói rụt rè hoặc đáp
lại lời ngời khác một cách trống không .

- Giáo viên còn lúng túng trong quá trình tiếp cận chơng trình và Sách giáo
khoa mới. Hơn nữa thời gian giành cho một tiết học chỉ có từ 35- 40'.
- Đồ dùng dạy học phục vụ cho môn Tiếng Việt, nhất là phân môn Tập làm
văn còn quá ít, thậm chí là cha có nên ảnh hởng không nhỏ đến quá trình dạy -
học .
2- Thực trạng của dạy - học tập làm văn về các bài tập kỹ năng nói
hiện nay :
Dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy các em biết thực hành vận dụng một
cách sáng tạo các kiến thức từ nhiều phân môn học khác nhau của môn Tiếng
Việt . Bài tập Làm văn chính là sản phẩm tổng hợp có sáng tạo của học sinh và
việc dạy Tập làm văn cho học sinh vì thế phải đạt đợc mục tiêu giúp học sinh có
năng lực vận dụng sáng tạo mới là dạy có chất lợng.
Tuy nhiên để dạy tập làm văn có chất lợng lại là một vấn đề khó với đa số
giáo viên Tiểu học .
Trong các giờ Tập làm van, học sinh khó diễn đạt miệng một cách troio
chảy kể cả học sinh lớ 4,5 . Trớc đây, giáo viên thờng hay cho học sinh cầm giấy
đọc bài viết đa chuẩn bị sẵn, học sinh ít chủ động trong việc nói, nghe - nhận xét
. Lâu ngày phơng pháp đó thành đờng mòn khó cải tiến.
ở lớp 2,3 hiện nay, do chơng trình mới đa vào nên ít nhiều khiến giáo viên
còn lúng túng cha xác định đúng trọng tâm, cha coi trọng nên nói, thời gian của
tiết học chủ yếu dành cho bài viết . Chính những điều này khiến kĩ năng nói của
học sinh đã yếu lại càng yếu hơn .
3
Bên cạnh đó, khi dạy các bài tập luyện nói, một số giáo viên thờng có tâm
lý ngại học sinh không nói đợc nên hay gợi ý bằng các câu hỏi vụnvặt khiến học
sinh trả lời thụ động, không sáng tạo.
C- các biẹn pháp chủ yếu:
1- Xác định yêu cầu bài tập:
a- Đối với giáo viên:
Ngay từ bớc soạn bài, ngời giáo viên cần xác định rõ mục tiêu của tiếthọc.

Đây là một việc rất quan trọng, góp phần đáng kể cho thành công của bài giảng.
Để giúp học sinh rèn kỹ năng nói, việc xác định mục tiêu đợc cụ thẻ hoá qua
việc xác định yêucầu của bài tập tình huống. Việc àm này chẳng những giúp
giáo viên định hớng các khả năng, các phơng án giải quyết mà còn giú giáo viên
chuẩn bị tranh ảnh, đồ dùng dạy học cần thiết phcụ vụ cho các bài tập tình
huống đó. Từ việc dự kiến trớc, giáo viên có thể định hớng cho học sinh thực
hành tốt các bài tập nhận thấy đợc những sai sót cần khắc phục, bổ sung các ph-
ơng án khác nhau. Việc làm này khiến cho cách giải quyết tình huống trở nên
phong phú.
Ví dụ: Khi dạy bài: " Đáp lời chào, lời tự giới thiệu"
( Tập làm văn 2 - tuần 19) .
Với bài tập 1: Theo am các bạn trong 2 tranh dới đây đáp lại thế nào?
Chị phụ trách sao:
1- Chào các em
2- Chị tên là Hơng, chị đợc cử phụ trách sao của các em.
Để giúp học sinh làm tốt bài tập này, tôi đã đọc và xác định rõ yêu caùa;
Học sinh cần thể hiện đợc lời các nhân vật trong tranh với thái độ, cử chỉ phù
hợp.
Chị hụ trách sao: Giọng nhẹ nhàng, lịch sự, nét mặt tơi cời.
Các em nhỏ: Đáp lại với thái độ lịch sự, lễ độ, vui vẻ.
Sau khi xác định rõ yêu cầu của bài, tôi đã chuẩn bị 2 bức tranh phóng to
treo lêbn bảng. Tôi hớng dẫn học sinh nắm vững nội dung tình huống qua các
câu hỏi:
- Trong tranh có những ai? Họ đang làm gì?
- Đọc thầm lời của chị phụ trách sao, suy nghĩ xem chị phụ trách sao nói
với thái độ thế nào? Các em nhỏ sẽ đáp lại ra sao?
Tiếp đó các em sẽ thoả luận nhóm 5 và sắm vai theo tình huống. Do xác
định đúng yêu cầu, giáo viên đã chuẩn bị và có sự định hớng đúng nên đại đa số
các nhóm học sinh lên thực hành đều có thái độ, cử chỉ phù hợp, lời đáp của các
em cũng rất sáng tạo, giáo viên không mất thời gian sửa chữa uốn nắn nhiều.

4
b/ Đối với học sinh:
Nắm vững yêu cầu bài tập là điều cần thiết đối với học sinh . Đây là
việclàm giúp học sinh đi đúng hớng để tìm lời giải cho bất kỳ một bài tập nào.
Để giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập, khi thực hiện bất kỳ một
bài tập nào, tôi thờng nhắc các em đọc kỹ yêu cầu bài tập đó, gợi ý để học sinh
nắm chắc đợc bài tập yêu cầu những gì? yêu cầu nào là cơ bản, yêu cầu nào trớc,
yêu cầu nào sau.
VD: Khi dạy nội dung : Khen ngợi ( tuần 16)
Với yêu cầu của bài tập 1: Từ mỗi câu cho trớc đạt 1 câu mới để tỏ ý khen.
(a) Chú Cờng rất khoẻ. (b) Lớp mình hôm nay rất sạch. (c) Bạn Nam học rất giỏi.
Trớc tiên tôi gọi 2-3 em đọc yêu cầu và câu mẫu.
Tiếp đó, tôi đa câu mẫu cho cả lớp đọc thầm cả 2 câu " Đàn gà rất đẹp.
Mẫu: Đàn gà mới đẹp làm sao!
Rồi hỏi: - Con có những gì về 2 câu trên ? (HS: cả 2 câu đều tỏ ý khen đàn
gà đẹp).
- Trong 2 câu này con thích câu nào hơn ? VS? Nhiều em giơ tay và nêu ý
kiến: Con thích câu thứ 2 " Đàn gà mới đẹp làm sao! " Vì câu này hay hơn.
- Theo con có thể còn câu nào khác cũng tỏ ý khen đàn ta rất đẹp ?
Nhờ xác định đúng yêu cầu của bài tập và sự dẫn dắt, gợi ý của giáo viên,
học sinh lớp tôi đã nói đợc rát nhiều câu tỏ ý khen đàn gà :
Đàn gà thật là đẹp !
Đàn gà mới đáng yêu làm sao!
Đàn gà đẹp tuyệt !
Đồng thời từ những câu đã cho sẵn a, b, c các em cũng đã vận dụng nói đợc
những câu mới rất sáng tạo với ngữ điệu phù hợp.
Tóm lại :
Để góp phần rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2, qua phân môn tập làm
văn đợc tốt hơn thì thao tác cơ bản đầu tiên của ngời giáo viên Tiểu học là phải
giúp học sinh có kỹ năng xác định yêu cầu của bài tập . Mỗi bài tập luyện nói

trong chơng trình Tập làm văn lớp 2 có những yêu cầu cụ thể khác nhau song
tựu chung lại chúng đều nhằm mục đích rèn kỹ năng nghe cho học sinh. Làm tốt
khâu hớng dẫn học sinh xác địng yêu cầu bài tập chính là ngời giáo viên đã góp
phần rèn luyện và phát triển thao tác t duy cho trẻ, giúp cho quá trình luyện nói
đúng hớng và có trọng tâm hơn.
2- Phát huy vốn sống của học sinh qua thực tế giao tiếp:
5
Nh trên đã trình bày, việc rèn kỹ năng nói đợc gắn liền với thực tế cuộc
sống. Từ khi cha đi học, các em đã đợc tiếp xúc với những ngời trong gia đình
bằng những câu chào hỏi đáp lại lời ngời khác Do vậy khi dạy các bài tập
dạng tình huống giaotiếp, giáo viên cần khơi gợi ở trẻ cái " vốn" sẵn có trong các
em để tránh gây sự nhàm chán.
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn coi trọng việc phát huy vốn sống trong
học sinh . Với bất kỳ bài tập nào, tôi luô chú ý để học sinh nêu trớc ý kiến của
mình, những ý kiến đúng sẽ đợc cả lớp công nhận và tuyên dơng. Ngợc lại,
những ý kiến sai, cha đúng sẽ đợc cô và các bạn góp ý, sửa chữa. Làm nh vậy
không những phát huy đợc khả năng sáng tạo của học sinh mà còn giúp các em
bạo dạn, tự tin hơn, giờ học sôi nổi phát huy đợc tính tích cực chủ động của học
sinh.
Ví dụ: Khi dạy nội dung: Đáp lời phủ định ( tuần 24) với BT2 : Nói lời đáp
của em trong các trờng hợ sau:
a- Cô làm ơn chỉ giúp cháu nhà bác Hạnh ở đâu ạ!
- rất tiếc, cô không biết, vì cô không phải là ngời ở đây .
-
b- Bố ơi, bố có mua đợc sách cho con không?
- Bố cha mua đợc đâu
-
c- Mẹ có đỡ mệt không ạ?
- Mẹ cha đỡ mấy .
-

Đây là các tình huống vốn quen thuộc với các em. Có lẽ em nào cũng đã
từng có lần gặp các tình huống nh vậy. Tôi đã cho các em tự đọc thầm các tình
huống và trao đổi với bạn vận dụng vốn sống của mình, tìm lời đáp và thực hành
từng tình huống. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng, lời đáp của các em thật phong phú,
cử chỉ cũng rất phù hợp với từng tình huống .
Lời đáp của các em trong từng tình huống nh sau:
ở tình huống a: - Dạ, cháu xin lỗi đã làm phiền cô .
- Thế ạ, cháu xin lỗi cô.
- Không sao ạ, cháu chào cô .
-Dạ, cháu sẽ hỏi thăm ngời khác vậy.
Còn ở tình huống b: - Thế ạ, hôm nào rỗi bố mua cho con nhé.
- Để hôm khác bố mua cho con cũng đợc ạ .
- Dạ, không sao, con đợi đợc bố ạ.
6

Với một số em có lời đáp, cử chỉ cha phù hợp, sau khi đợc cô giáo và các
bạn góp ý, các em cũng đã tiếp thu và sửa chữa đợc .
Tóm lại: Tuy cha nhiều, cha phong phú song ở học sinh lớp 2 cũng đã có
một vốn sống, vốn ngôn ngữ nhất định .Theo năm tháng, qua quá trình học tập
và giao tiếp, qua đời sống sinh hoạt vốn ngôn ngữ đó ngày càng đợc trau dồi và
rèn luyện . Một trong những con đờng thuận lợi nhất cho qua strình phát huy vố
sống - vốn ngôn ngữ của học sinh chính là việc tạo cho các em tham gia vào các
tình huống giao tiếp cũng nh taọ cơ hội cho học sinh giao lu học hỏi, nói cho
nhau nghe. Khuyến khích học sinh, tạo điều kiện cho các em bộc lộ và phát huy
vốn sống của mình chính là ngời giáo viên đã góp phần phát triển và từng bớc
nâng cao kỹ năng nghe, nói cho các em để đạt đợc mục tiêu rèn kỹ năng nói của
tập làm văn .
3- Tích cực hoá hoạt động nhóm trong học sinh :
Nhóm, tập thể có vai trò rất lớn trong việc hình thành nhân cách học sinh.
Nhân dân ta có câu: "Không thầy đố màu làm nên" nhng cũng có câu :" Học

thầy không tày học bạn". Thông qua nhóm học sinh đợc trao đổi, bày tỏ ý kiến
của riêng mình. Nếu ý kiến đúng sẽ đợc sự đồng tình của các bạn trong nhóm.
Ngợc lại, nếu ý kiến cha đúng, cha đủ sẽ đợc các bạn góp ý và bổ sung để sản
xuất. Có thể nói tổ chức học theo nhóm là một phơng pháp hay đợc giáo viên đa
vào nhiều tiết học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phơng pháp dạy học hiện nay.
Nhất là trong chơng trình Tiểu học 2000, phơng pháp hoạt động nhóm cũng
khẳng định rõ vai trò của nó trong việc tích cực hoá hoạt động nhận thực của học
sinh .
Nhận thức đợc vấn đề này, tôi đã cố gắng lựa chọn cách tổ chức sao cho
hoạt động nhóm đạt hiệu quả cao nhất, khắc phục đợc tình trạng học sinh lời suy
nghĩ, ỷ lại . Phơng châm chia nhóm của tôi là : Làm sao cho tất cả các học sinh
trong nhóm đều đợc tham gia hoạt động để khám phá kiến thức theo yêu câù
của giáo viên. Tuỳ theo nội dung từng bài tập, tôi lại có các cách chia nhóm
khác nhau .
Ví dụ: Khi dạy nội dung xin lỗi ( tuần 4) .
Với BT1: Nói lời đáp của em trong mỗi trờng hợp sau:
a- Em lỡ bớc, giẫm vào chân bạn .
b- Em mải chơi, quên làm việc mẹ dặn ,
c- Em đùa nghịch, va phải 1cụ già .
Để giúp học sinh thực hành tốt các tình huống, tôi đã phân nhóm 2 .
7
Trong đó:HS1: Nói lời xin lỗi
HS2: Nói lời đáp
Còn với BT1 bài: Đáp lời chào - lời tự giới thiệu ( tuần 19) tôi lại chia học
sinh theo nhóm 5 (1 em vai chị phụ trách sao, 4 em khác vai các em nhỏ trong
sao nhi đồng ) .
Với cách phân nhóm nh vậy, các em đã tham gia thjc hành tốt. Em nào
cũng cố gắng thể hiện tình huống một cách tự nhiên. Giờ học nhờ đó sôi nổi, các
em rất thích thú khi tham gia đóng vai .
Để hoạt động nhóm có hiệu quả, phát huy tính ttự giác tích cực của học

sinh thì vai trò ngời định hớng, bao quát lớp của giáo viên rất quan trọng. bên
cạnh đó, giáo viên cần quan tâm đến việc tuyên dơng, khen ngợi kịp thời những
nhóm hoặc cá nhân thực hành tốt. Đồng thời nhắc nhở khéo với những học sinh
cha tập trung hoạt động nhóm.
Việc rèn cho học sinh kỹ năng nói còn đợc thể hiện trong quá trình nghe và
nhận xét ý kiến của các bạn nhóm khác. Khi đã lắng nghe và nhận xét đợc các ý
kiến của bạn tức là các em đã tập trung cao vào hoạt động nhận thức. Lời nhận
xét đúng, đầy đủ là điều kiện đánh giá học sinh đó có tập trung vào bài hay
không .
Nhận thức đợc vấn đề này, trong quá trình giảng dạy toio luôn lắng nghe và
tôn trọng ý kiến nhận xét của học sinh , giúp các em tự tin hơn trong quá trình
học tập .
Từ những việc làm trên, tôi đã thu đợc một kết quả đáng khích lệ, cho đến
nay đại đa số các em học sinh lớp 2H của tôi đều tích cực tham gia hoạt động
nhóm. Dù vẫn còn những ý kiến cha đúng, cha đầy đủ song em nào cũng rất hào
hứng tham gia các hoạt động của nhóm. Có những em nhút nhát nh em Tiến,
Phong Thái nay cũng đã mạnh dạn đa ra ý kiến của mình về nội dung tình huống
thảo luận nhóm. Em nào cũng thích mình đợc thực hành trớc lớp và nói năng rõ
ràng, có cử chỉ, thái độ phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể.
4- Tổ chức thực hiện " sắm vai theo tình huống giaotiếp "
Để thực hiện MT " hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trờng hoạt
động của lứa tuổi, môn Tiếng Việt bậc Tiểu học lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm
định hớng cơ bản. Nhằm góp phần đa môi trờng ấy thành hiện thực thì bản thân
giáo viên cần phải tìm tòi nghiên cứu và sử dụng một cách linh hoạt các phơng
pháp dạy học. Đối vứi phân môn Tập làm văn lớp 2 các tình huống đa ra trong
các bài tập là các tình huống mở.
8
Vì vậy tổ chức sẵm sai theo tình huống giao tiếp chính là một hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 1, 2,3.Đây là hình thức đa học

sinh vào hoàn cảnh cóp vận động đòi hỏi học sinh phải có những phán đoán để
đa ra cách xử lý phù hợp nhất đối với mỗi tình huống . Nhận thấy đợc vấn đề đó,
trong thực tế giảng dạy các giờ Tập làm văn để giúp học sinh luyện kỹ năng nói,
tôi thờng tổ chức cho các em " sắm vai"xử lý tình huống . Với hình thức này toio
muốn các em đợc rèn luyện giác quan, tạo cơ hội để giao lu với mọi ngời. Phát
triển t duy sáng tạo và năng lực phán đoán .
Chẳng hạn khi dạy tiết Tập làm văn tuần 26. Dáp lời ý ( Sách Tiếng Việt 2
tập 2 trang 76) .
Bài tập 1: Nói lời đáp của em trong các trờng hợp sau .
a- Em quên chiếc áo ma trong lớp, quay lại trờng để lấy bác bảo vệ sắp đi
nghỉ, thấy em xin vào, bác mở cửa nói: Cháu vào đi!
b- Mời cô ý tá ở gần nhà tới tiêm thuốc cho mẹ. Cô y tá nhận lời :" Cô sẽ
sang ngay"
c- Em mời bạn đến chơi nhà. Bạn nhận lời: "ừ đợi tớ xin phép mẹ đã " .
Với nội dung bài tập trên, nếu chọn hình thức hỏi đáp theo cặp hoặc gc hỏi-
học sinh đáp thì tiết học sẽ diễn ra nhàm chán, đơn điệu không phát huy đợc khả
năng sáng tạo của học sinh. Để giúp học sinh có một không khí vui , nhẹ nhàng
mà lại rèn cho các em khả năng diễn đạt, sau khi giúp học sinh nắm vững yêu
cầu, đọc thầm các tình huống tôi tiến hành cho các em thảo luận và sắm vai theo
tình huống . Kết quả là nhiều cặp học sinh lên sắm vai rất tự nhiên mà các em lại
đa ra đợc nhiều cách ứng xử khác nhau với thái độ, cử chỉ tự nhiên, giờ học diễn
ra sôi nổi .
ở tình huống a :
Em Minh Trang đáp; Cháu cảm ơn bác ạ !
Em Lan Hơng lại đáp: Cháu xin lỗi đã làm phiền bác ạ !
Nh vậy ở cùng một tình huống, với hình thức tổ chức " Sắmvai theo tình
huống giáo tiếp" giáo viên đã thu đợc các phơng án xử lý tình huống khác nhau
từ phía học sinh .
Tổ chức thực hành " sắm vai theo tình huống giao tiếp là phơng pháp dạy
học Tập làm văn nói có nhiều u điể. Nó chẳng những góp phần rèn cho học sinh

sự mạnh dạn , tự tin - những đức tính cần có cho quá trình tích cực tự giác học
tập - mà nó còn góp phần quan trọng trong việc phát huy sự sáng tạo của học
sinh . Tổ chức thực hành " Sắm vai theo tình huống giao tiếp " một cách tích cực
chủ động sẽ có đợc " những giờ dạy nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn mà hiệu quả
9
lại cao" . Đó chính là mong muốn, là nhu cầu và ớc vọng chính đáng của mọi
giáo viên tiểu học hiện nay .
5-Một số hình thức luyện nói khác :
5.1- Uốn nắn kỹ năng trả lời câu hỏi :
Bên cạnh những biện pháp rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn kể trên,
để học sinh của mình có kỹ năng nói tốt hơn, rõ ràng mạch lạc hơn, tôi thờng
quan tâm uốn nắn, rẽn dũa cách TLCH cho các em. Cụ thể:
- Trong mọi giờ học, khi đặt câu hỏi, bao giờ tôi cũng chắt lọc, sử dụng câu
hỏi dễ hiểu nhất với học sinh. Yêu cầu của tôi đặt ra đối với học sinh đợc gọi là
TLCH là : Thông thờng trả lời bao giờ cũng gồm câu đỉ 2 biện pháp chính,.
Muốn vậy học sinh phải nhắc lại một phần câu hỏi trớc khi trả lời .
Chẳng hạn: Vì sao Sơn Tinh ấy đợc Mị Nơng .
Trả lời Sơn Tinh lấy đợc Mị Nơng vì Sơn Tinh mang lễ vật đến trớc.
Để rèn học sinh, nếu lần thứ nhất các em chứa trả lời đủ theo yêu cầu trên,
tôi yêu cầu các em dừng ngay để trả lời lại với yêu cầu. Con trả lời lại cho cô,
con hãy nhắc lại vế sau câu hỏi của cô ròi hãy trả lời.
Cứ nh vậy, lâu dần thành thói quen, kỹ năng TLCH của học sinh lớp tôi phụ
trách đã thuần thục hơn, đảm bảo yêu cầu của cô giáo. Việc này dĩ nhiên góp
phần không nhỏ vào việc rèn kỹ năng nói cho học sinh.
5.2- Quan sát mẫu thực hành theo mẫu :
Một lớp học ngẫu nhiên thờng đủ cả 3 đối tợng: Giỏi, khá, TB, Yếu. Để
việc rèn nói cho học sinh có hiệu quả, tôi thờng chú ý mức độ rèn theo từng đối
tợng. Chẳng hạn:
* Với học sinh yếu : Yêu cầu các em thực hành nói lại theo câu mẫu ( Sau
khi nghe cô hoặc các bạn làm mẫu) nhng phải tập nói dần khi nào đúng ngữ điệu

mới thôi .
Ví dụ: Cháu xin lỗi đã làm phiền bác ạ!
* Với học sinh khá- giỏi;
Khi các em đã nắm đợc câu mẫu. Tôi yêu cầu các em nâng mức độ thực
hành cao hơn bằng cách thể hiện lại hành vi trong câu mẫu bằng chính ngôn ngữ
của mình .
Ví dụ: M: Em chúc mừng chị. Chúc chị sang năm đợc giải nhất .
Cấuáng tạo : - Em chúc mừng chị. Chúc chị học giỏi hơn nữa.
- Em chúc chị sang năm đạt giải cao hơn .
- Chị ơi chị giỏi quá! Mong chị năm tới sẽ đạt thành tích caohơn.
5.3- Quan tâm hình thức sinh hoạt lớp, sinh hoạt sao:
10
Trong các giờ sinh hoạt lớp, tôi luônchú ý duy trì đều đặn và xây dựng cho
học sinh nếp sinh hoạt. Ngay từ đầu năm học sau khi phân chỗ ngồi hợp lý ( em
khá giỏi ngồi cạnh em TB hoặc yếu ). Mỗi tổ có 1 tổ trởng theo dõi nề nếp hàng
ngày của tổ. Thông thờng trong giờ sinh hoạt lớp tôi chia làm 2 phần. Sơ kết
tuần trớc và sinh hoạt sao.
A- Sơ kết tuần đợc tiến hành dựa trên các việc làm sau:
- Tổ trởng theo dõi thi đua của các bạn trong tuần theo mẫu kẻ sẵn của cô
giáo. Nếu em nào vi phạm một lần sẽ bị đánh dấu 1 gạch (-) , Mỗi điểm tốt ( 9-
10) đợc đánh dấu bằng lá cờ xanh hoặc đỏ cắm trên bảng thi đua. Việc theo dõi
này diễn ra hàng ngày có sự theo dõi giám sát của cô giáo và lớp trởng.
- Cuối tuần, vào tiết sinh hoạt lớp, từng tổ trởng lần lợt nhận xét các hoạt
động của tổ mình. Lớp trởng tổng hợp và nêu nhận xét chung .
- Tiếp theo các thành viên trong tổ nêu ý kiến bổ sung .
- Cuối cùng giáo viên tổng hợp và nêu nhận xét cụ thể về những việc làm
tốt của lớp, tuyên dơng học sinh có nhiều tiến bộ và nhắc nhở học sinh cha thực
hiện tốt .
Mục đích của những việc làm trên là giúp cho học sinh rèn tính bạo dạn, tự
tin. Đó là tiền đề quan trọng để rèn kỹ năng nói cho học sinh.

b- Sinh hoạt sao :
Tiếp sau phần nhận xét nề nếp củalớp, tôi tiến hành tổ chức cho các em sinh
hoạt sao.
Trong hoạt động này, tôi luôn chú ý luân phiên thay đổi các hình thức sao
cho phù hợp với nội dung chủ điểm của từng tuần, từng tháng.
Chẳng hạn trong tháng 3, với chủ điểm Quốc tế Phụ nữ, tôi tổ chức cho các
em sinh hoạt sao với các nội dung :
Tuần 1: Biểu diễn văn nghệ hát các bài hát về bà, mẹ, cô giáo .
Tuần 2: Đọc thơ theo chủ đề 8/3.
Tuần 3: Kể về bà, mẹ, cô .
Tuần 4: Trò chơi Ô chữ.
Khi tổ chức các nội dung trên, tôi đã tạo cho các em học sinh tâm lý phấn
khởi, tự tin và bổ sung thêm những hiểu biết cho các em theo từng chủ điểm.
C- Kết thúc :
I-Kết quả thu đợc:
Sau gần 2 năm vừa nghiên cứu vừa áp dụng các biện pháp trên, đến nay
( giữa học kỳ II năm học 2004- 2005 ) tôi tiến hành kiểm tra chất llluyện nói tập
làm văn của lớp mình. Kết quả nh sau:
Thời gian SS Giỏi Khá TB Yếu
11
Đầu năm 23 2 8 10 3
Giữa kỳ II 23 8 10 5 0
( Cách đánh giá :
- Giỏi: Các em bnói đợc đến mức độ lu loát, có cử chỉ, nét mặt giọng nói
phù hợp với tình huống giao tiếp .
- Khá : Các em nói lu loát biết thể hiện cử chỉ, nét mặt, giọng nói cha diễn
cảm .
- TB: Các em biết nói đợc đúng theo tình huống nhng cha biết thể hiện cử
chỉ, nét mặt .
- Yếu: Những em nói còn ấp úng hoặc cha đủ ý .

Nh vậy, nhờ áp dụng các biện pháp trên mà tỷ lệ học sinh yếu giảm, học
sinh khá giỏi tăng hơn sovới đầu năm. Cho đến nay 100% các em lớp tôi đã bạo
dạn hơn, nhiều em thực hành các tình huống rất sáng tạo . Đặc biệt là các em đã
biết vận dụng các nghi thức lời nói qua các bài tập vào thực tế giao tiếp hàng
ngày.
Kết quả trên cha phải là cao song nó đã thể hiện sự tiến bộ về kỹ nang nói
của học sinh lớp tôi phụ trách trong quá trình thử nghiệm áp dụng đề tài. Điều đó
khiến` tôi yên tâm, tin tởng ở các biện pháp rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh
lớp 2 của mình .
* Giải pháp trong thời gian tới :
- Tiếp tục áp dụng các biện pháp trên để rèn nói cho học sinh lớp mình.
- Tích cực đọc sách, báo, tạp chí để nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của
đồng nghiệp ở trờng bạn, ở các địa phơng khác .
II- Bài học kinh nghiệm :
Để việc" rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập làm văn"
đạt đợc thành công, theo tôi ngời giáo viên dạy lớp 2 cần :
1- Trớc hết cần giúp học sinh có kỹ năng xác định yêu cầu bài tập . Trên cơ
sở nắm vững yêu cầu bài tập, học sinh mới tự thiết lập các mức độ trình bày đoạn
văn, bài văn, câuvăn nói của mình .
2- Cần khơi gợi, phát huy vốn sống của học sinh qua thực tế giao tiếp .
3- Tăng cờng vai trò của nhóm, tích cực hoá hoạt động nhóm trong học sinh
.
4- Uốn nắn cho học sinh kỹ năng trả lời câu hỏi ở mọi lúc, mọi nơi .
5- Coi trọng hoạt động thực hành trong dạy Tập làm văn cũngnh trong các
môn học khác.
III- Khuyến nghị :
12
1- Với cấp chỉ đạo : Trang bị kịp thời bộ tranh môn Tiếng Việt 2 nói chung,
phân môn Tập làm văn nói riêng.
2- Với đồng nghiệp :

Đề tài này đã đợc tôi nghiên cứu và áp dụng trong hơn môt năm qua và đạt
đợc những kết quả tốt. Vì vậy tôi đề nghị các đồng chí giáo viên trong khối và
toàn trờng áp dụng để giảng dạy phânmôn Tậplàm văn ngày càng mang lại kết
quả cao hơn .
Trên đây là những việc làm nghiên túc và sáng tạo của tôi để giúp học sinh
rèn kỹ năng nói trong phân môn Tập làm văn . Dù đã rất cố gắng song vẫn còn
những hạn chế mà tôi không tự nhìn thấy đợc . Rất mong nhận đợc sự đóng góp
ý kiến của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi đợc hoàn
chỉnh và phong phú hơn.
13

×