Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Chính sách thu hút vốn nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa (nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hà Tây cũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 103 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ THU HUYỀN






CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN NHẰM THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA CỦA HÀ TÂY CŨ).





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.




QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ




HÀ NỘI – 2011





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN.






NGUYỄN THỊ THU HUYỀN






CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN NHẰM THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA CỦA HÀ TÂY CŨ).






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC




Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số : 60.34.72.




Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Ca.






HÀ NỘI 2011.








MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do nghiên cứu 4
2. Lịch sử nghiên cứu 4
3. Mục tiêu nghiên cứu 5
4. Phạm vi nghiên cứu 5
5. Mẫu khảo sát 6
6. Vấn đề nghiên cứu 6
7. Giả thuyết nghiên cứu 6
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết 7
9. Kết cấu của luận văn 7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 8
1.1. Khái niệm công nghệ 8
1.2. Đổi mới công nghệ 11
1.2.1. Khái niệm đổi mới công nghệ 11
1.2.2. Vai trò của đổi mới công nghệ 13
1.3. Doanh nghiệp nhỏ và vừa 16
1.3.1. Doanh nghiệp 16
1.3.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa 18
1.4. Vốn đầu tư 24
1.4.1. Vốn từ ngân sách nhà nước 24
1.4.2. Vốn huy động từ các nguồn vốn xã hội 27
1.5. Chính sách thu hút vốn đổi mới công nghệ 29
1.5.1. Khái niệm chính sách 29
1.5.2. Chính sách thu hút vốn đổi mới công nghệ 32
Kết luận chương 1 32
Chương 2. HIỆN TRẠNG CÔNG NGHỆ VÀ NHU CẦU VỀ VỐN ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở HÀ TÂY CŨ . 33



2.1. Tình hình phát triển và hoạt động của Doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Hà Tây (cũ)
353
2.1.1. Tình hình phát triển các DNNVV ở Hà Tây (cũ) 33
2.1.2. Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ 34
2.2. Hiện trạng công nghệ, hoạt động đổi mới công nghệ và nhu cầu về đổi
mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Tây (cũ) 37
2.2.1. Hiện trạng công nghệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa 37
2.2.2. Hoạt động đổi mới công nghệ 41
2.2.3. Nhu cầu về vốn đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Hà Tây (cũ) 45
2.3. Nguồn tài chính cho hoạt động đổi mới công nghệ trong các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Tây (cũ) 48
2.3.1. Nguồn tài chính từ chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu
tư vào hoạt động khoa học và công nghệ theo Nghị định 119/1999/NĐ-CP 48
2.3.2. Nguồn vốn từ chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước.49
2.3.2. Nguồn vốn từ dự án, đề tài của các bộ, ngành, thành phố 50
2.3.3. Nguồn vốn hỗ trợ từ vốn ODA 51
2.3.4. Nguồn vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm 53
2.3.5. Nguồn tài chính từ lợi nhuận 53
2.4. Phân tích chính sách liên quan đến nguồn tài chính, thu hút vốn cho đổi
mới công nghệ 54
2.4.1. Một số biện pháp chủ yếu trong chính sách tài chính, thu hút vốn
đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay 56
2.4.2. Đánh giá tác động của các chính sách tài chính, thu hút vốn đổi mới
công nghệ 59
Kết luận chương 2 64
Chương 3. CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN NHẰM THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA

BÀN TỈNH HÀ TÂY (CŨ) 66
3.1. Định hướng chính sách thu hút vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Hà Tây (cũ) 66
3.1.1. Xây dựng các hướng ưu tiên đầu tư đổi mới công nghệ cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ 66


3.1.2. Đa dạng hóa các nguồn tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong đó có những nguồn tài chính trọng tâm, trọng điểm 66
3.1.3. Tạo cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu
tư đổi mới công nghệ 67
3.2. Đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút vốn để các doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Hà Tây (cũ) thực hiện đổi mới công nghệ 67
3.2.1. Đổi mới cơ chế chính sách nhằm tạo cơ hội cho danh nghiệp vừa và
nhỏ tiếp cận nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ 67
3.2.2. Đổi mới chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích
doanh nghiệp đổi mới công nghệ 70
3.2.3. Giải pháp về chính sách thuế 77
3.2.4. Giải pháp về phát triển thị trường tạo môi trường thuận lợi cho
DNNVV phát triển 79
3.2.5. Các giải pháp khác 80
3.2.6. Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư đổi mới công nghệ từ các quỹ
đầu tư mạo hiểm 82
3.2.7. Phát huy vai trò của hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thực
hiện các chính sách tài chính đổi mới công nghệ 86
3.2.8. Xây dựng lộ trình ĐMCN của các DNNVV 87
Kết luận chương 3 87
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC









PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Khi Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội sẽ có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà
ảnh hưởng trực tiếp là các DNNVV. Để Hà Tây sánh ngang tầm Hà Nội, phải
thúc đẩy ĐMCN của các DNNVV vì CN và ĐMCN đang ngày càng trở thành
yếu tố quan trọng tác động đến năng suất, sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các DN. Hoạt động ĐMCN được coi là nhiệm vụ thường xuyên,
là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của DN.
Trong thực tế, các DNNVV của Hà Tây (cũ) gặp rất nhiều khó khăn: quy
mô nhỏ, năng lực yếu kém, hoạt động của các DN còn nhiều khó khăn bất cập,
thiết bị phần lớn lạc hậu thậm chí có những DN còn sản xuất bằng thủ công do
vậy chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém. Các DN
khi thực hiện ĐMCN gặp rất nhiều khó khăn nhất là khó khăn về vốn. Để
ĐMCN doanh nghiệp cần được đầu tư một số vốn nhất định, trong khi đầu tư
cho khoa học nói chung và đầu tư cho hoạt động ĐMCN nói riêng là loại hình
đầu tư thường có tính rủi ro cao, vì vậy, DN rất khó huy động được nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước, từ tín dụng ngân hàng, vì thế dù có nhiều giải pháp để
thúc đẩy ĐMCN nhưng tác giả chọn giải pháp sử dụng chính sách huy động vốn
nhằm hỗ trợ DN đầu tư vào hoạt động ĐMCN.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nhà nước đã ban hành Luật chuyển giao công nghệ và một số chính sách
khuyến khích cho hoạt động chuyển giao công nghệ. Các văn bản pháp quy về

ưu đãi thuế, về tài chính, tín dụng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp… cũng đã
được ban hành để khuyến khích doanh nghiệp ĐMCN, nhưng trong thực tế, hoạt
động chuyển giao công nghệ của các DNNVV của Hà Tây (cũ) còn hạn chế.
Trên bình diện quốc gia, vài năm gần đây có thể kể một số công trình sau:
- Lựa chọn CN thích hợp cho các DN công nghiệp Việt Nam, 1998;
- Các biện pháp, chính sách khuyến khích DN ĐMCN, Viện nghiên cứu
chiến lược và chính sách KH&CN, tháng 10/1999;


- Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng một số chính sách và biện
pháp thúc đẩy hoạt động ĐMCN và nghiên cứu triển khai trong các cơ sở sản
xuất ở Việt Nam, tháng 6/2000;
- Nâng cao hiệu quả một số chính sách thuế và tín dụng khuyến khích các
doanh nghiệp ĐMCN, Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách KH&CN,
tháng 3/2001;
- Cơ chế chính sách và giải pháp đồng bộ thúc đẩy ĐMCN và ứng dụng
công nghệ cao, Đề án Bộ KHĐT, tháng 8/2003;
- Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, Viện nghiên
cứu chiến lược và chính sách KH&CN, Nhà xuất bản KH&KT Hà Nội, 2003.
Các công trình đó đã giải quyết nhiều vấn đề phức tạp của huy động vốn
cho đầu tư phát triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp nói riêng. Tuy
nhiên, chính sách thu hút vốn nhằm thúc đẩy ĐMCN trong các DNNVV, góp
phần thúc đẩy phát triển công nghiệp của một địa phương lại chưa được nghiên
cứu toàn diện, đầy đủ và chưa phù hợp để vận dụng trong điều kiện ngành công
nghiệp của Hà Tây (cũ). Luận văn kế thừa có chọn lọc những tư tưởng, quan
điểm và kết quả nghiên cứu đã được công bố, từ đó vận dụng phân tích thực
trạng, đề xuất những chính sách cụ thể, điển hình nhằm tạo môi trường và điều
kiện để có những chính sách thu vốn nhằm thúc đẩy ĐMCN, phát triển công
nghiệp trên địa bàn Hà Tây (cũ) trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục tiêu nghiên cứu

- Đánh giá hiện trạng công nghệ và nhu cầu về vốn để ĐMCN ở các
DNNVV của Hà Tây (cũ);
- Đề xuất giải pháp chính sách thu hút vốn đầu tư nhằm thúc đẩy ĐMCN ở
các DNNVV của Hà Tây (cũ).
4. Phạm vi nghiên cứu.
+ Về nội dung: Khó khăn cản trở lớn nhất hiện nay đối với hoạt động
ĐMCN của các DNNVV là thiếu vốn. Nguồn vốn tự có của các DN còn hạn
hẹp, các công cụ và hình thức huy động vốn từ bên ngoài DN cho ĐMCN còn ít
và kém hiệu quả. "Vốn" được hiểu là các của cải vật chất do con người tạo ra và


tích luỹ lại. Nó có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc vốn tài chính. Nguồn vốn
đầu tư cho ĐMCN trong Luận văn này chỉ đề cập đến vốn tài chính.
- Điều tra, khảo sát đánh giá khái quát hiện trạng công nghệ sản xuất, trang
bị máy móc thiết bị của các DNNVV trên địa bàn tỉnh Hà Tây (cũ).
- Phân tích những nguyên nhân cơ bản, những khó khăn (đặc biệt là về
vốn) cản trở quá trình ĐMCN của các DNNVV.
- Đề xuất một số giải pháp mang tính chính sách về vốn ưu đãi để kích
thích ĐMCN của các DNNVV.
+ Về không gian: Địa bàn tỉnh Hà Tây (cũ).
+ Về thời gian: Quá trình phát triển từ năm 2004 - 2008.
5. Mẫu khảo sát
Khảo sát được tiến hành ở 40 DNNVV đại diện cho các DN ở 14 huyện,
thành phố của tỉnh Hà Tây (cũ).
6. Vấn đề nghiên cứu
- Hiện trạng công nghệ, hiện trạng ĐMCN và nhu cầu về vốn để ĐMCN ở
các DNNVV của Hà Tây (cũ) như thế nào?
- Phân tích môi trường chính sách ảnh hưởng đến thu hút vốn cho ĐMCN
qua điều tra khảo sát ở các DNNVV ở Hà Tây (cũ). Cần có những giải pháp
chính sách nào để thu hút vốn đầu tư nhằm thúc đẩy ĐMCN ở các DNNVV của

Hà Tây (cũ)?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Hiện trạng CN ở các DNNVV của Hà Tây (cũ) lạc hậu, không theo kịp
mặt bằng chung về CN của các DNNVV Hà Nội.
- Nhu cầu về vốn để ĐMCN ở các DNNVV của Hà Tây (cũ) là cần thiết,
nhưng thiếu nguồn vốn đầu tư.
- Để thu hút vốn đầu tư nhằm thúc đẩy ĐMCN ở các DNNVV của Hà Tây
(cũ) cần có những giải pháp chính sách:
+ Chính sách huy động vốn từ ngân sách nhà nước: Nhóm chính sách huy
động vốn từ ngân sách nhà nước cho ĐMCN của DN bao gồm 3 kênh chính: 1)
Các chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước; 2) Các đề tài/dự án


KH&CN cấp bộ/ngành/địa phương thuộc lĩnh vực CN và ĐMCN; 3) Hỗ trợ theo
Nghị định 119/1999/NĐ-CP ngày 18/9/1999 của Chính phủ.
+ Chính sách khuyến khích gián tiếp: Nhóm chính sách khuyến khích gián
tiếp là các ưu đãi về thuế, tín dụng và đầu tư cơ sở hạ tầng. Các ưu đãi về thuế.
Chính sách tín dụng ưu đãi được triển khai thông qua việc thành lập các quỹ như
Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia, Quỹ Phát triển KH&CN của các địa phương,
các tổ chức, cá nhân và DN, Quỹ ĐMCN, Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV
Các chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng hỗ trợ hoạt động ĐMCN của DN bao gồm:
Xây dựng phòng thí nghiệm, khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ
+ Chính sách huy động các nguồn vốn xã hội: Tiếp cận nguồn vốn từ quỹ
đầu tư mạo hiểm; từ nguồn ODA.
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết
- Phương pháp Nghiên cứu và phân tích tài liệu;
- Phương pháp phỏng vấn;
- Phương pháp quan sát.
9. Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1 - Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2 - Hiện trạng công nghệ và nhu cầu về vốn đổi mới công nghệ của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Hà Tây (cũ).
Chương 3 - Chính sách thu hút vốn nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ trong
các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hà Tây (cũ).
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm công nghệ.
Thuật ngữ "công nghệ" được hình thành từ khá lâu và được sử dụng để chỉ
các hoạt động ứng dụng những kiến thức là kết quả của nghiên cứu khoa học ở
mọi lĩnh vực nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong hoạt động của con người.
Khái niệm CN này dần được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng
việc đưa ra định nghĩa CN lại chưa có sự thống nhất, nguyên nhân là do tính đa
dạng của CN, sự đa dạng trong quan điểm của các nhà nghiên cứu và sự phát
triển của KH&CN Đã có nhiều tổ chức quốc tế về KH&CN cố gắng đưa ra
một định nghĩa CN có thể dung hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho
việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia, trong từng khu vực và phạm vi
toàn cầu.
Theo quan niệm cổ điển nhất, CN là một trật tự nghiêm ngặt các thao tác
của quá trình chế biến vật chất và/hoặc thông tin.
Theo tác giả F.R.Root, "công nghệ là dạng kiến thức có thể áp dụng được
vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới". Trong định
nghĩa này, bản chất của CN là dạng kiến thức và mục tiêu sử dụng CN là áp
dụng vào sản xuất và tạo ra các sản phẩm mới.
Theo tác giả R.Jones, năm 1970 cho rằng "công nghệ là cách thức mà qua
đó các nguồn lực được chuyển thành hàng hóa".

Theo tác giả J.Baranson, năm 1976 đưa ra: "Công nghệ là tập hợp các kiến
thức về một quy trình hoặc/và các kỹ thuật chế biến cần thiết để sản xuất ra các
vật liệu, cấu kiện và sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh", theo đó, bản chất của
CN là tập hợp các kiến thức với mục tiêu là sản xuất ra các vật liệu, cấu kiện và
sản phẩm.
Theo J.R.Dunning, năm 1982: "Công nghệ là nguồn lực bao gồm kiến thức
được áp dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất và việc nghiên cứu tiếp cận thị
trường (marketing) cho những sản phẩm và dịch vụ đang có và tạo ra những sản
phẩm và dịch vụ mới".


Tác giả P.Strunk, năm 1986 cho rằng "Công nghệ là sự áp dụng khoa học
vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và cách xử lý một cách
có hệ thống và có phương pháp". CN là kiến thức (có sẵn trong óc con người,
không phải hàng hóa)".
Theo E.M.Graham, năm 1988 đưa ra định nghĩa: "Công nghệ là kiến thức
không sờ mó được và không phân chia được, có lợi về mặt kinh tế khi sử dụng
để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ".
Tác giả Sharif, năm 1986 cho rằng "công nghệ bao gồm khả năng sáng tạo,
đổi mới và lựa chọn từ những kỹ thuật khác nhau và sử dụng chúng một cách tối
ưu vào tập hợp các yếu tố bao gồm môi trường vật chất, xã hội và văn hóa.
CN là một tập hợp của phần cứng và phần mềm, bao gồm 4 dạng cơ bản:
- Thể hiện ở dạng vật thể (vật liệu, công cụ sản xuất, thiết bị và máy móc,
sản phẩm hoàn chỉnh, ).
- Thể hiện ở dạng con người (kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm).
- Thể hiện ở dạng ghi chép (bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ kiện thích
hợp được mô tả trong các ấn phẩm, tài liệu v.v ).
- Thể hiện ở dạng thiết chế tổ chức (dịch vụ, phương tiện truyền bá, công ty
tư vấn, cơ cấu quản lý, cơ sở luật pháp ).
Đây cũng là 4 yếu tố CN theo quan điểm của Trung tâm chuyển giao công

nghệ Châu Á - Thái Bình Dương (APCTT).
Một số tổ chức quốc tế đã đưa ra các định nghĩa về CN khác nhau:
- Tổ chức PRODEC, năm 1982, theo đó "công nghệ là một loại kỹ năng,
kiến thức, thiết bị và phương pháp được sử dụng trong sản xuất công nghiệp,
chế biến và dịch vụ".
- "Công nghệ là một đầu vào cần thiết cho sản xuất, và như vậy, nó được
mua và bán trên thị trường như một hàng hóa được thể hiện ở một trong những
dạng sau:
i. Tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian, được mua và bán
trên thị trường, đặc biệt là gắn với các quyết định đầu tư;


j. Nhân lực, thông thường là có trình độ và đôi khi là nhân lực có trình độ
cao và chuyên sâu, với khả năng sử dụng đúng các thiết bị và kỹ thuật và làm
chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông tin;
k. Thông tin, dù đó là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được
đưa ra trên thị trường hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc
quyền".
Định nghĩa này của UNCTAD (1972) cho thấy, về bản chất CN là tư liệu
sản xuất, nhân lực có trình độ và thông tin; và có mục tiêu là làm đầu vào cần
thiết cho sản xuất.
- Ngân hàng thế giới, năm 1985 đưa ra định nghĩa như sau: "công nghệ là
phương pháp chuyển hóa các nguồn thành sản phẩm, gồm 3 yếu tố:
+ Thông tin về phương pháp,
+ Phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển
hóa,
+ Sự hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao".
- Tổ chức OECD, bao gồm các nước phát triển châu Âu, Nhật bản, Mỹ, và
Canada có một định nghĩa chung nhất đã tập trung vào các hành động và quy tắc
như sau: “công nghệ được hiểu là một tập hợp các kỹ thuật, mà bản thân chúng

được định nghĩa là một tập hợp các hành động và quy tắc lựa chọn chỉ dẫn việc
ứng dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo hiểu biết của con người thì sẽ đạt
được một kết quả định trước (và đôi khi được kỳ vọng) trong hoàn cảnh cụ thể
nhất định.”
- Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO), cho rằng
“công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các
kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và phương pháp”.
- Theo Uỷ ban kinh tế và xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP),
“công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật liệu và xử
lý thông tin”.
- Tác giả Trần Ngọc Ca, năm 1987, đã đưa ra một khái niệm hợp lý về CN
như sau: Công nghệ có thể được hiểu như mọi loại hình kiến thức, thông tin, bí


quyết, phương pháp (gọi là phần mềm) được lưu giữ dưới các dạng khác nhau
(con người, ghi chép …) và mọi loại hình thiết bị, công cụ, tư liệu sản xuất (gọi
là phần cứng) và một số tiềm năng khác (tổ chức, pháp chế, dịch vụ …) được áp
dụng vào môi trường thực tế để tạo ra các loại sản phẩm và dịch vụ.
- Theo Luật KH&CN của Việt Nam, năm 2000 đã đưa ra định nghĩa:
“Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”.
- Theo Luật chuyển giao công nghệ, năm 2006: “Công nghệ là giải pháp,
quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng
để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”.
Trên cơ sở tập hợp và khái quát các định nghĩa về CN nêu trên, tác giả tuân
theo khái niệm: Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí
quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.
1.2. Đổi mới công nghệ.
1.2.1. Khái niệm đổi mới công nghệ.
Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, do nhu cầu càng cao của

con người do tiến bộ của tri thức và khoa học, do cạnh tranh … nên nhu cầu về
sản phẩm ngày càng cao và đa dạng cùng với yêu cầu cao trong việc tiết kiệm
chi phí. Do vậy CN luôn được thay đổi, cải tiến không ngừng để thoả mãn nhu
cầu đó nên việc thay đổi CN là một xu thế tất yếu của hệ thống công nghệ toàn
cầu và đã mang lại những hiệu quả to lớn đối với sự phát triển của từng DN, mỗi
quốc gia và toàn thế giới, nhờ liên tục ĐMCN.
Peter Drucker cho rằng xét ở góc độ quản trị kinh doanh, hai nhiệm vụ
hàng đầu mà một DN luôn phải thực hiện đó là tiếp thị (marketing) và ĐMCN
(innovation). Chức năng tiếp thị là nhằm thoả mãn các nhu cầu tương lai của
khách hàng. Nếu thiếu khả năng và sự kiên trì, bền bỉ trong việc ĐMCN thì DN
sẽ sớm bị đào thải khỏi thương trường khi nhu cầu khách hàng, CN thay đổi và
cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Do đó đối với một DN, ĐMCN luôn được
sử dụng như một nhân tố trong chiến lược cạnh tranh.


ĐMCN là vấn đề được nghiên cứu nhiều và có nhiều khái niệm khác nhau.
Theo Freeman, đổi mới là các hoạt động thiết kế kỹ thuật, sản xuất chế tác, quản
lý và thương mại liên quan đến việc đưa ra thị trường một sản phẩm của quy
trình hoặc thiết bị mới (hoặc được cải tiến) [5, tr.3]. Theo F.Betz, đổi mới là đưa
ra thị trường sản phẩm, quá trình đổi mới. ĐMCN là tập hợp con của đổi mới,
đưa ra sản phẩm, quá trình mới dựa trên CN mới [16, tr.82]. ĐMCN là việc chủ
động thay thế phần quan trọng hay toàn bộ CN đang sử dụng bằng một CN khác
tiên tiến, hiệu quả hơn [7, tr.148]. Theo J. Schumpeter, có 5 loại ĐMCN: 1) tạo
ra một sản phẩm mới hoặc một thay đổi về tính chất trong sản phẩm hiện có; 2)
Đổi mới quy trình sản xuất mang tính mới đối với một ngành sản xuất; 3) Mở ra
thị trường mới; 4) Phát triển nguồn cung ứng mới về nguyên liệu thô hoặc các
đầu vào; 5) Thay đổi trong tổ chức công nghiệp [17, tr.22].
Theo OECD, “hoạt động đổi mới công nghệ gồm các khâu liên quan đến
khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại, kể cả đầu tư vào tri thức
mới, đã hoặc nhằm đem lại các sản phẩm và quy trình mới/hoàn thiện hơn về

mặt công nghệ. R&D chỉ là một trong các hoạt động này và có thể được thực
hiện ở các giai đoạn khác nhau của quá trình đổi mới” [18, tr.8].
Các khái niệm này được OECD làm rõ hơn trong tài liệu OSLO: “Đổi mới
sản phẩm và quy trình công nghệ bao gồm các sản phẩm và các quy trình mới về
công nghệ được thực hiện và các cải tiến công nghệ đáng kể trong các sản phẩm
và quy trình. Một đổi mới sản phẩm và quy trình công nghệ được thực hiện nếu
nó đưa ra thị trường (đổi mới sản phẩm) hoặc được sử dụng trong quy trình sản
xuất (đổi mới quy trình). Đổi mới sản phẩm và quy trình công nghệ bao gồm
một loạt các hoạt động khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại
[17, tr.48].
ĐMCN như vậy có thể khẳng định là cấp cao nhất của thay đổi CN và là
quá trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống CN. Để có
thể quản lý được hoạt động đổi mới thì cần tập trung vào những vấn đề cơ bản
tất cả các thay đổi nhỏ về CN ta chỉ coi là cải tiến CN. Do đó ta đưa ra khái
niệm ĐMCN như sau:


Là sự chủ động thay thế một phần đáng kể (cốt lõi, cơ bản) hay toàn bộ CN
đang sử dụng bằng CN khác.
Là một tiến bộ về CN, tiến bộ này dưới dạng một phương pháp mới về sản
xuất, một kỹ thuật mới về tổ chức, quản lý, marketing, mà nhờ chúng sản phẩm
sản xuất ra sẽ có năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, chi phí sản xuất thấp
hơn và do đó sẽ tạo được vị thế cạnh tranh trong DN về mặt giá thành hay về sự
khác biệt của sản phẩm. ĐMCN có thể là đưa ra hoặc ứng dụng những CN hoàn
toàn mới hoặc mới sử dụng lần đầu trong hoàn cảnh mới.
1.2.2. Vai trò của đổi mới công nghệ.
CN là một sản phẩm đặc biệt của con người và trước hết nó là một sản
phẩm cho nên nó cũng tuân theo quy luật chu trình sống của sản phẩm. Tức là
nó cũng được sinh ra, phát triển và cuối cùng là bị đào thải. Chính vì lẽ đó việc
quan tâm đặc biệt đến ĐMCN sẽ gắn chặt đến lợi ích sống còn của DN, đến sự

phát triển của nền kinh tế. Nếu một quốc gia nào, hay một DN nào không có
những hoạt động nhằm không ngừng ĐMCN thì chắc chắn ở quốc gia đó ở DN
đó không thể có sự phát triển. Một điều quan trọng đó là ĐMCN sẽ mang lợi ích
cho DN đổi mới cũng như cho nền kinh tế. CN là một sản phẩm của con người
và nó cũng tuân theo quy luật chu trình sống của sản phẩm. Tức là nó được sinh
ra, phát triển và cuối cùng là suy vong. Bất kỳ một DN nào nếu không có những
hoạt động nhằm ĐMCN thì chắc chắn hệ thống CN, dây chuyền sản xuất, máy
móc, trang thiết bị… sẽ trở nên lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, dẫn đến bị đào
thải, làm cho sự tồn tại và phát triển của DN bị đe doạ. Do đó, ĐMCN là tất yếu
và phù hợp với quy luật phát triển. Tính tất yếu của ĐMCN còn xuất phát từ các
lợi ích khác nhau mà ĐMCN đem lại cho DN cũng như cho toàn xã hội nói
chung.
Hiện nay, gần như có sự đồng thuận của nhiều nước, công nghệ sản xuất
được hiểu gồm 4 thành phần: Thiết bị (T), Lao động, nhân lực (H), Thông tin
(I), Tổ chức (O). 4 phần này liên kết chặt chẽ với nhau và tùy theo trình độ sản
xuất và sản phẩm cụ thể mà vị trí mỗi phần có khác nhau thể hiện ở hệ số tỷ
trọng của nó (%T + %H + %I + %O = 1). Thông thường, ở trình độ CN thấp thì


thành phần T, H chiếm tỷ trọng cao hơn so với I và O. Cùng với quá trình
ĐMCN, trình độ CN được nâng cao dần, tỷ phần của I, O sẽ tăng lên.
Mục tiêu cuối cùng của mỗi quốc gia là nâng cao mức sống và cải thiện
chất lượng cuộc sống. Để đạt được mục tiêu đó thì phải tăng tổng giá trị sản
phẩm trong nước (GDP) hay tăng giá trị gia tăng AV (Added value) với các
ngành kinh tế - kỹ thuật hay với các DN. Muốn tăng GDP hay AV thì phải vừa
tăng năng suất vừa phải đảm bảo việc làm (không để tăng thất nghiệp) - đây là
nguyên lý cơ bản của năng suất theo cách tiếp cận hiện đại. Tới lượt mình, tăng
năng suất lại phụ thuộc vào tăng cường độ vốn CI (Capital Intensity) và tăng
năng suất các yếu tố tổng hợp TFP (Total factor productivity).
CI là vốn đầu tư tính trên 1 lao động trực tiếp sản xuất (thường chỉ tính

theo giá trị tài sản cố định là thiết bị CN và phương tiện vận chuyển). Xét về
hình thức thì CI tượng trưng cho phần cứng của CN. Nhưng để CI phát huy tác
dụng (thúc đẩy tăng năng suất - chất lượng) lại phụ thuộc vào chất lượng của
thiết bị CN và phương tiện vận chuyển đó (biểu thị ở tính đồng bộ và các tính
năng CN cơ bản trong gia công, chế biến).
TFP là năng suất tạo nên bởi các yếu tố vô hình, bao gồm yếu tố phần mềm
của CN. Theo Tổ chức Năng suất châu Á (APO) thì TFP tạo bởi các yếu tố
chính: Thúc ép của thị trường (nhu cầu); chất lượng của thiết bị (tính đồng bộ,
tính năng gia công - chế biến, tính an toàn…); chất lượng lao động (chủ yếu là
kỹ năng, tức là tính thạo việc); vai trò của kỹ thuật tiến bộ (ứng dụng kết quả của
R&D mà chủ yếu là các sản phẩm mới, phương pháp mới); hiệu lực của quản lý
(khả năng kiểm soát cao của cách quản lý theo quá trình…).
Quy luật của đầu tư phát triển là: Khi CI chưa đạt tới mức tối ưu (bão hòa)
thì tăng CI là điều kiện trực tiếp quyết định và chiếm phần lớn tỷ trọng trong
tổng mức tăng năng suất chung (hay tăng GDP, AV). Nhưng tăng CI và tăng tỷ
phần CI không theo quan hệ lũy tiến. Khi CI tăng dần cũng chính là quá trình
chuyển hóa từ lượng sang chất của CI và đồng thời với các yếu tố vô hình khác
được kích thích, tạo điều kiện cho TFP phát huy tác dụng. Nói cách khác, quá


trình ĐMCN là quá trình chuyển hóa từ vai trò chủ đạo của CI dần sang vai trò
chủ đạo của TFP.
ĐMCN rõ ràng là điều kiện quan trọng nhất cho đầu tư phát triển nói chung
và theo đó là cho tăng năng suất - chất lượng sản phẩm. Do trình độ CN còn
thấp (và các nguyên nhân khác), do AV tuyệt đối và hàm lượng AV trong giá trị
sản phẩm (AV/TO) thấp nên năng suất lao động, năng suất vốn, năng suất TFP
tính theo AV của Việt Nam đều thấp so với các nước trong khu vực. Chất lượng
sản phẩm cũng vậy, phần lớn sản phẩm chưa đạt vững chắc và ổn định theo tiêu
chuẩn quốc gia (TCVN). Đó là chưa nói tới tiêu chuẩn quốc tế (ISO, IEC…) mà
về nguyên tắc khi đã hội nhập vào thị trường quốc tế thì sản phẩm phải đạt tiêu

chuẩn quốc tế mới tạo được vị thế bình đẳng và vượt qua được những thiệt thòi
về giá bán và rào cản về kỹ thuật (TBT).
Đối với cộng đồng DN, ĐMCN sẽ tạo ra sự phát triển bền vững, khai thác
hiệu quả các nguồn lực đặt biệt là nguồn nhân lực. Bởi lẽ nguồn nhân lực có
chất lượng chỉ có thể phát huy được hiệu quả khi họ được vận hành các trang
thiết bị có trình độ CN tương ứng.
- ĐMCN sẽ giúp DN, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất lượng sản
phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị phần của sản phẩm; đa dạng hoá mẫu mã
sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng
cao mức độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi
trường. Đặc biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ ĐMCN, chất lượng sản phẩm
được nâng lên rõ rệt.
- ĐMCN cải thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm, đây là một lợi ích thiết
thực, trực tiếp và được các DN đặt lên hàng đầu.
- Từ việc nâng cao được chất lượng sản phẩm sẽ làm cho DN duy trì, củng
cố và mở rộng thị phần của sản phẩm.
- Một lợi ích rất quan trọng khác đó là ĐMCN sẽ mở rộng phẩm cấp của
sản phẩm, tạo thêm chủng loại sản phẩm mới.
- Đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn, luật lệ và các quy định ngày càng
khắt khe được thế giới và các quốc gia xây dựng lên.


- Giảm tiêu hao nguyên liệu, năng lượng, đây là một lợi ích hết sức quan
trọng, nhất là trong bối cảnh thế giới đang lâm vào cảnh thiếu năng lượng, giá
xăng dầu tăng rất cao.
- Cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao độ an toàn sản xuất cho con người
và thiết bị.
- Giảm tác động xấu đến môi trường tự nhiên nói chung và môi trường
sống nói riêng.
Với tất cả các lý do kể trên có thể khẳng định ĐMCN là một tất yếu phù

hợp với quy luật phát triển.
CN và ĐMCN có ý nghĩa quyết định nâng cao khả năng cạnh tranh của DN
bằng việc nâng cao năng xuất, chất lượng hạ giá thành sản phẩm. Trong điều
kiện còn gặp nhiều khó khăn về vốn để đầu tư ĐMCN các DNNVV ở Hà Tây
(cũ) rất cần sự đầu tư vốn từ các nguồn vốn khác.
1.3. Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.1. Doanh nghiệp.
Theo Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005,
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, một số khái niệm cơ bản về DN được
thống nhất như sau:
- DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
DN thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Trên thực tế khái niệm DN được hiểu nôm na, dùng chung
đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, các loại
hình tổ chức, các ngành nghề khác nhau, có tư cách pháp nhân.


- DN nhà nước là DN trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Hiện
tại ở Việt Nam có loại hình DN 100% vốn nhà nước, DN có trên 50% vốn nhà
nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn nhà nước.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là DN trong đó thành
viên có thể là tổ chức, cá nhân. Số lượng thành viên không vượt quá 50. Thành
viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài khác của DN trong phạm
vi số vốn cam kết góp vào DN. Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển
nhượng theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là DN do một tổ chức hoặc
một cá nhân làm chủ sở hữu. Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn điều lệ của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu.
- Công ty cổ phần là DN trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân có cổ phần. Số
lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm
vi số vốn đã góp vào DN. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác. Công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu
chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và điều lệ
công ty.
- Công ty hợp danh là DN trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. Ngoài các
thành viên hợp danh còn có các thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải
là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không được phát
hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
- DN tư nhân là một DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. DN tư nhân không


được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được quyền
thành lập một DN tư nhân.
- DN có vốn đầu tư nước ngoài là DN do nhà đầu tư nước ngoài thành lập
để thực hiện đầu tư tại Việt Nam hoặc DN Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài
góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
1.3.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.2.1. Khái niệm.

Khi sự tập trung tư bản đã làm hình thành và phát triển những tổ chức kinh
doanh có quy mô khổng lồ thì thuật ngữ DNNVV đã xuất hiện để chỉ các đơn vị
kinh doanh có quy mô đối lập. Lúc đầu, tên gọi DNNVV chỉ là quy ước trong
giới kinh doanh. Cùng với thời gian, khi quá trình tiến hóa đã thực hiện tốt vai
trò phân chia đẳng cấp của nó, thì thuật ngữ “doanh nghiệp nhỏ và vừa” được
sử dụng một cách phổ biến và ngay cả trong các văn bản chính thức với tư cách
một khu vực của nền kinh tế. Đồng thời, các chính phủ cũng dành cho loại hình
này sự quan tâm nhiều hơn, và do đó đã ra đời các quy định chính thức ở nhiều
quốc gia.
Tiêu chí xếp loại DN ở mỗi nước mặc dù khác nhau về chi tiết, đều hướng
vào các chỉ tiêu: mức sử dụng lao động, quy mô vốn và doanh thu. Trong đó,
hầu hết các nước đều lấy tiêu chí về số lượng lao động làm căn cứ đầu tiên cho
việc phân loại, một số nước sử dụng thêm tiêu chí thứ hai hay thứ ba.
Nhật Bản là một trong những nước đi tiên phong trong việc đưa ra quy định
về tiêu chí để coi một DN thuộc loại nhỏ và vừa. Từ năm 1963, Luật cơ bản về
kinh doanh nhỏ đã quy định: cơ sở kinh doanh nhỏ là cơ sở có vốn không quá 50
triệu yên và sử dụng không quá 300 người, trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ
thì không quá 10 triệu yên và không quá 50 người. Trong đó, DN siêu nhỏ là
DN sử dụng không quá 10 công nhân, DN nhỏ sử dụng từ 10 đến 100 công
nhân.
Ngày nay, nhiều nước áp dụng tiêu chi phân loại của Ngân hàng Thế giới:
DN siêu nhỏ có mức sử dụng nhân công từ 1 đến 9 người; DN nhỏ - từ 10 đến


49 người và DN vừa - từ 50 đến 299 người; những DN sử dụng từ 300 công
nhân trở lên dược coi là DN lớn.
Việc đưa ra khái niệm và tiêu chí phân loại DN có một ý nghĩa rất lớn về
phía nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, Nhà nước ta đã từng bước có quy định
cụ thể cho phù hợp trình độ phát triển của nền kinh tế và các thước đo giá trị tại
từng thời kỳ. Năm 1998, Chính phủ ban hành công văn số 681/CP-KTN ngày

20/6/1998 về “Định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNNVV”. Theo
đó, DN có vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng và/ hoặc có số lao động thường xuyên
dưới 200 người được coi là DNNVV. Việc áp dụng một hay cả hai tiêu chí này
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực hay địa phương.
Đến năm 2001, tiêu chí “mức sử dụng lao động” đã được thay đổi lại cho phù
hợp với các quy định quốc tế, tiêu chí giới hạn tối đa về vốn cũng thay đổi cho
phù hợp mức thay đổi sức mua của đồng tiền quốc gia. Theo điều 03 Nghị định
số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ định nghĩa về
DNNVV: “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Trong thực tế hiện nay, một số cơ quan Nhà nước, một số tổ chức chính trị
– xã hội để hỗ trợ DN đã chủ động đưa ra các tiêu chí quy định DNNVV để
phục vụ cho công tác của mình như:
- Ngân hàng công thương Việt Nam quy định DNNVV là: DN có dưới 500
lao động, vốn cố định nhỏ hơn 10 tỷ VNĐ, vốn lưu động dưới 08 tỷ VNĐ,
doanh thu tháng không quá 20 tỷ VNĐ;
- Liên Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính quy định
DNNVV là: DN có số lao động thường xuyên dưới 100 người, doanh thu một
năm nhỏ hơn 10 tỷ VNĐ, vốn pháp định không quá 01 tỷ VNĐ.
- Dự án VIE/US/95/2004 hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam lại có quy định
DNNVV là: DN có số lao động dưới 200 người, vốn đăng ký 0,4 triệu USD
(khoảng …. tỷ VNĐ).


Vì vậy, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương,
trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp cho các DNNVV,
có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một
trong hai chỉ tiêu nói trên.
Với chuẩn mới trong tiêu chí xếp loại quy mô DN, không ít DN “bị xuống

hạng”, điều này cũng đồng nghĩa với họ “được ưu đãi” hơn, và cũng do đó tỷ
trọng DNNVV trong tổng số DN của nền kinh tế cũng tăng lên, chiếm tới trên
chín mươi phần trăm trong tổng số DN cả nước.
Tuy nhiên, trong Nghị định 90/2001/NĐ-CP chưa đưa ra quy định về DN
siêu nhỏ, điều này gây khó khăn cho việc hoạch định và triển khai các chính
sách một cách hiệu quả. Lý do là loại DN siêu nhỏ có những đặc điểm và khó
khăn riêng, cần sự hỗ trợ khác các DN có quy mô nhỏ hay vừa. Trong khi đó,
nếu theo tiêu chí phân loại của Ngân hàng Thế giới thì loại siêu nhỏ ở ta chiếm
tỷ lệ quá nửa tổng số DNNVV.
Nói tóm lại, DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.3.2.2. Đặc trưng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
DNNVV được tổ chức theo những mô hình rất khác nhau ở mỗi ngành, lĩnh
vực khác nhau, trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Nhưng, khu vực
kinh doanh nhỏ ở các nền kinh tế đều có chung những đặc điểm sau:
Thứ nhất, có tính linh hoạt cao.
Với suất đầu tư khiêm tốn, DNNVV rất dễ khởi sự, dễ hoạt động, dễ tiêu
thụ một khối lượng sản phẩm cũng nhỏ tương ứng với khối lượng vốn của nó, dễ
chuyển hướng kinh doanh khi chủ sở hữu muốn, và dễ trong nhiều mặt khác nữa
nếu chúng ta muốn kể tiếp. Nhưng, lịch sử kinh doanh từng chứng kiến nhiều
doanh nhân nổi tiếng đã bắt đầu từ số vốn liếng không đáng kể lại không cho
chúng ta bài học về sự dễ dàng. Tính linh hoạt cao của kinh doanh nhỏ không
đơn thuần là sự dễ dàng trong mọi công việc kinh doanh. Nó chỉ cho thấy xác
suất cao để đạt được những mục tiêu ở tầm thấp mà thôi.


Chính đặc tính linh hoạt đã cho phép DNNVV có mặt hầu như ở tất cả mọi
nơi, mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế quốc dân. Nó là giải pháp lấp đầy những
thiếu hụt về chủng loại hàng hóa mà DN lớn với phương pháp sản xuất hàng loạt

không thể thỏa mãn hết nhu cầu thị trường.
Mặt khác, các cơ sở kinh doanh nhỏ dễ dàng di chuyển địa điểm kinh
doanh, chuyển mục đích kinh doanh do tinh đơn giản của CN và mặt bằng cho
sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, có tính địa phương
Khối lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà mỗi DNNVV cung cấp rất nhỏ
bé so với nhu cầu của thị trường, do đó, DN rất dễ tiêu thụ hàng hóa cũng như
tìm nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào. Thực tế, DNNVV có khả năng thích
nghi với những điều kiện khác nhau ở các vùng địa phương. Tổ chức kinh doanh
ở quy mô nhỏ và vừa có khả năng khai thác tốt các nguồn lực tiềm tàng của địa
phương. Trước hết là có thể huy động những khoản vốn nhỏ trong dân vào sản
xuất những mặt hàng phục vụ đời sống, sản xuất ở địa phương. Tiếp đến là huy
động được nguồn nhân lực đông đảo ở các địa phương, nhất là nhân lực nhàn rỗi
theo thời vụ. Ngoài ra, DNNVV được phân bố rải rác ở tất cả các địa phương
còn do tính đa dạng của các nguồn lực mà mỗi địa phương có thể cung ứng cho
sản xuất, kinh doanh của DN.
Tuy nhiên, việc phân bố rải rác như vậy cũng đặt ra yêu cầu đối với các nhà
hoạch định và thực thi chính sách trong việc đảm bảo tính tiêu chuẩn hóa của
sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường.
Thứ ba, thường sử dụng công nghệ đơn giản.
Đặc tính này xuất phát từ quy mô vốn. CN đơn giản có thuận lợi là suất đầu
tư thấp, có thể sử dụng nhiều nhân công và phần lớn là lao động phổ thông, chi
phí tiền lương cho nhân công không cao, hiệu suất sử dụng máy móc cao do tính
chuyên dụng của chúng thấp (các máy công cụ càng đơn giản, càng có thể sử
dụng vào nhiều công đoạn sản xuất các loại sản phẩm khác nhau). Song, điều
này cũng gây không ít khó khăn cho chính DN cũng như các nhà hoạch định
chính sách. Đó là, trình độ CN thấp cộng với trình độ tay nghề của người lao


động thấp kéo theo năng suất lao động thấp và mức phế phẩm cao, do đó chất

lượng hàng hóa thấp và mức sử dụng tài nguyên cao. CN thô sơ còn gây ô nhiễm
môi trường, nhất là trong các ngành chế biến có sử dụng hóa chất và các ngành
có lượng chất thải lớn.
Thứ tư, năng lực cạnh tranh thấp
DNNVV thường có phạm vi hoạt động trong địa phương. Thị trường nhỏ
và mang tính địa phương ít gây áp lực cho DN. Song, ngược lại, DNNVV ở các
vùng xa xôi vì vậy cũng ít năng động hơn. Sức ỳ khá lớn là một trong những yếu
tố làm phân hóa mạnh khu vực DNNVV. Song, sự chi phối của yếu tố địa
phương chỉ là nhỏ, các yếu tố nội lực của DN mới đóng vai trò quyết định. Có
thể thấy rõ là DNNVV có điểm yếu là trình độ CN ít hiện đại, nhân công trình
độ tay nghề có hạn, sản phẩm có số lượng hạn chế, chất lượng không cao, trình
độ quản lý có hạn, chủ sở hữu nhiều khi chưa có trình độ và kinh nghiệm trong
kinh doanh. Như vậy, mức độ chủ động của DN trong kinh doanh là có hạn.
Thứ năm, dễ tổn thương trước các biến động kinh tế
Đặc tính này là hệ quả của quy mô các yếu tố về vốn, CN, trình độ nhân
công, năng lực quản lý của chủ DN. DNNVV có mức rút lui khỏi thị trường khá
cao, nhưng tỷ lệ gia nhập mới gia nhập cũng rất lớn. Làn sóng này phụ thuộc rất
nhiều vào diễn biến của nền kinh tế. Ngay cả ở các nước phát triển, số phận
DNNVV cũng khá bấp bênh. Vấn đề này đặt ra trước các nhà hoạch định nhiệm
vụ luôn theo dõi và có chính sách đối ứng để tạo điều kiện kinh doanh ổn định
cho khu vực DNNVV vốn rất nhạy cảm trước các biến động kinh tế. Một ví dụ
là, đầu năm 2008, khi nền kinh tế thế giới phải chịu áp lực về giá năng lượng
quá cao, khu vực DNNVV của Nhật Bản phải đối mặt với nguy cơ phá sản hàng
loạt. Chính phủ Nhật đã lập tức có chính sách hỗ trợ khu vực này nhằm giúp
DNNVV đứng vững qua biến động này.
Thứ sáu, có mức độ phi chính thức khá cao.
Sự không rõ ràng trong tổ chức kinh doanh dễ dẫn tới sự lẫn lộn giữa loại
hình kinh doanh hộ gia đình với DN nhỏ, đặc biệt loại siêu nhỏ. DN có quy mô
càng nhỏ, càng dễ vi phạm pháp luật, từ không đăng ký, không có địa chỉ rõ



ràng và ổn định, đến việc không đảm bảo điều kiện tối thiểu cho người lao động,
trốn thuế, ngoài ra còn các hành vi phạm pháp khác.
Khu vực này do đó rất cần sự quan tâm hỗ trợ từ phía chính phủ. Đưa ra
những chính sách hợp lý đối với khu vực này sẽ góp phần không nhỏ cho việc
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của quốc gia.
1.3.2.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các DN nói chung, DNNVV nói
riêng có những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò
tương đồng như nhau: “Trong tổng số hơn 300.000 DNNVV ở nước ta hiện nay,
số DN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chiếm 22,5%”.
- Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: “DNNVV tại Việt Nam luôn
chiếm tỉ lệ lớn nhất (95%). Hiện nay, cả nước có gần 350.000 DNNVV, tổng số
vốn đăng ký của các DNNVV là gần 1.400 nghìn tỷ VND, tức bình quân 4 tỷ
VND/DN”. Vì thế, đóng góp của DNNVV vào tổng sản lượng và tạo việc làm là
rất đáng kể.
- Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các DNNVV
là những nhà thầu phụ cho các DN lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các
thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví là
thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
- Làm cho nền kinh tế năng động: Vì DNNVV có quy mô nhỏ, nên dễ điều
chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
- Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: DNNVV
thường chuyên môn hoá vào sản xuất một số chi tiết được dùng để lắp ráp thành
một sản phẩm hoàn chỉnh.
- Là trụ cột của kinh tế địa phương: Nếu như DN lớn thường đặt cơ sở ở
những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DNNVV lại có mặt ở khắp các địa
phương và là thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào nguồn thu cho ngân
sách cả ngoại tệ và nội tệ của địa phương, tạo sản lượng và giải quyết việc làm
cho người lao động ở địa phương.

×