Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Giải quyết việc làm cho nông dân huyện Phù Ninh, Tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 109 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TẠ THỊ PHƢƠNG THÚY






GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
Ở HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC









HÀ NỘI - 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TẠ THỊ PHƢƠNG THÚY





GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
Ở HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN


Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 85



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN LONG






HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được công bô trong bất cứ công trình nghiên cứu nào./.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Tạ Thị Phương Thúy

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN

ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 9
1. 1. Các khái niệm cơ bản 9
1.1.1. Việc làm cho nông dân 9
1.1.2. Giải quyết việc làm cho nông dân 17
1.1.3. Việc làm bền vững và giải quyết việc làm bền vững 23
1.2. Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay 30
1.2.1. Khái niệm và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn 30
1.2.2. Việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay 34
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN Ở
HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 43
2.1. Vài nét về huyện phù ninh, tỉnh phú thọ trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 43
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 43
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội 45
2.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân huyện Phù Ninh và những
vấn đề đặt ra 49
2.2.1. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú
Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 49

2.2.2 Thành tựu, hạn chế trong việc giải quyết việc làm ở huyện Phù
Ninh, tỉnh Phú Thọ 64
2.2.3. Những vấn đề đặt ra trong giải quyết việc làm cho nông dân huyện
Phù Ninh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn . 69
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM BỀN VỮNG CHO NÔNG DÂN Ở HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ

THỌ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN 75
3.1. Quan điểm giải quyết việc làm cho nông dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ 75
3.1.1. Quan niệm việc làm trong quan hệ phát triển bền vững 75
3.1.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của chính quyền địa
phương trong việc giải quyết việc làm bền vững cho nông dân 78
3.1.3. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra nhiều việc làm cho nông dân . 80
3.2. Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm bền vững cho nông dân
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn hiện nay 83
3.2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển giáo dục, tăng
cường công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn 83
3.2.2. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp nhằm khuyến khích
nông dân tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm 88
3.2.3. Tăng cường vai trò của doanh nghiệp lấy đất trong việc tạo việc
làm bền vững cho nông dân 91
3.2.4. Tiếp tục xúc tiến hoạt động hợp tác xuất khẩu lao động - Quản lý
lao động xuất khẩu 92
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt
Nguyên văn
- CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- CMKT

Chuyên môn kỹ thuật
- HĐND
Hội đồng nhân dân
- ILO
Tổ chức lao động quốc tế
- KT
Kinh tế
- LĐ
Lao động
- NQ
Nghị quyết
- THCN
Trung học chuyên nghiệp
- UBND
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1. Cơ cấu lao động của Việt Nam 35
Bảng 1.2. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã
qua đào tạo phân theo giới tính, thành thị và nông thôn Việt Nam hiện nay . 36
Bảng 2.1. Quy mô dân số và lực lượng lao động của huyện Phù Ninh 49
Bảng 2.2. Cơ cấu lực lượng lao động ở nông thôn huyện Phù Ninh 50
Bảng 2.3. Tỷ lệ dân số đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên chia
theo trình độ chuyên môn kỹ thuật ở huyện Phù Ninh 52
Bảng 2.4. Tỷ trọng lao động nông thôn có việc làm phân theo nhóm ngành
kinh tế ở huyện Phù Ninh 54
Bảng 2.5. Tỷ lệ lao động nông thôn huyện Phù Ninh làm việc trong các thành
phần kinh tế 55

Bảng 2.6. Tình hình thiếu việc làm và thất nghiệp ở huyện Phù Ninh. 56
Bảng 2.7. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo giá trị sản xuất của huyện Phù
Ninh 59
















1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của mọi quốc gia,
nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt
lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với
kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với cá nhân, có việc làm giúp họ có thu nhập ổn định cuộc sống,
làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Đối với xã hội thì mỗi cá nhân hình
thành nên xã hội, nếu cá nhân có việc làm ổn định, tăng thu nhập thì sẽ làm

cho xã hội ngày càng phát triển, còn ngược lại nếu không có việc làm là
nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, nó còn tạo ra các hố ngăn cách giàu
nghèo từ đó nảy sinh các mâu thuẫn trong xã hội.
Ở nước ta hiện nay dân số trung bình cả nước năm 2012 ước tính 88,78
triệu, dân số khu vực nông thôn là 59,97 triệu người, chiếm 67,55% dân số cả
nước. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,79 triệu người, nguồn nhân
lực dồi dào này là một thế mạnh của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh
tế- xã hội. Tuy nhiên, nguồn lực lao động đông lại tạo ra sức ép về việc làm
cho toàn xã hội, nhất là vẫn còn tới 69,5% lực lượng lao động tập trung ở
nông thôn [64, tr.1].
Ở nông thôn, quan tâm giải quyết việc làm, ổn định việc làm cho người
lao động luôn là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm. Đại hội XI khẳng định: “ Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, phải
hết sức quan tâm tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm
cho người lao động, tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc làm, đặc
biệt là cho nông dân” [23, tr. 227].

2
Trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, lao động nước ta có nhiều
cơ hội tìm kiếm việc làm. Người lao động có thể vươn lên làm giàu bằng
chính sức lực của mình. Tuy nhiên, cũng rất nhiều thách thức đặt ra cho người
lao động Việt Nam nói chung và lao động trong nông thôn nói riêng, đặc biệt
chất lượng nguồn lực lao động. Người lao động không biết nghề, không được
đào tạo nghề, đào tạo không đến nơi đến chốn thì rất khó có cơ hội tìm được
việc làm hoặc việc làm không ổn định, lâu dài, thu nhập không đáp ứng nhu
cầu cuộc sống của họ. Đặc biệt khi Việt Nam ra nhập WTO thì ngành dễ bị
tổn thương nhất là nông nghiệp, dân cư dễ bị tổn thương nhất là nông dân.
Chính vì vậy, quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn luôn là vấn đề mang tính cấp bách đối với nước ta hiện nay.

Phù Ninh vốn là một huyện thuần nông, nhưng có một phần giáp với
thành phố Việt Trì, một phần giáp thị xã Phú Thọ, đây là hai khu vực có tốc
độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nhanh nhất ở tỉnh Phú Thọ.
Dân số của huyện Phù Ninh năm 2012 là 95790 người, trong đó tỷ lệ dân số
sống ở nông thôn chiếm 84,6%. Hiện nay Phù Ninh đang có sự chuyển hóa
mạnh mẽ sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, vấn đề việc làm
cho nông dân là vấn đề bức xúc được chính quyền địa phương đặc biệt quan
tâm. Mặc dù địa phương có nhiều chương trình, mục tiêu, kế hoạch giải quyết
việc làm cho nông dân, tuy nhiên trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó
khăn, nảy sinh một số vấn đề cần giải quyết như trình độ tay nghề của người
nông dân chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội, số lượng lao động chưa có việc
làm và thiếu việc làm ngày càng tăng tạo ra sức ép lớn đối với xã hội. Từ đó
mà nảy sinh các vấn đề xã hội gây khó khăn cho sự phát triển bền vững.
Xuất phát từ tình hình trên, tác giả chọn đề tài : “Giải quyết việc làm
cho nông dân ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ” làm luận văn thạc sĩ triết
học của mình.

3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một chủ
trương lớn của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Đảng ta xác định chủ
trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn
phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản cho khu vực nông thôn. Tuy nhiên
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có một
vấn đề đặt ra đó là vấn đề giải quyết việc làm bền vững cho nông dân.
Ngoài chủ trương, quan điểm của Đảng từ đại hội đại biểu lần thứ VI
đến nay thì Đảng còn có nghị quyết riêng về vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong đó có đề cập đến giải quyết việc làm cho nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban

chấp hành trung ương khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn nhiệm kỳ 2001-2010; nghị quyết số 26-NQ/TU ngày
5/8/2008 về về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ngoài ra còn nhiều đề tài
nghiên cứu tập trung vào vấn đề này và các vấn đề có liên quan ở nhiều góc
độ và khía cạnh khác nhau:
-Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nxb CTQG, H.1997 của Trung tâm tư vấn đầu tư hỗ trợ phát triển nông
nghiệp, nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã tập trung
đánh giá thành tựu và những vấn đề đặt ra khi nông thôn chuyển sang giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá như về cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, cơ cấu
dân số nông thôn- thành thị chưa có sự thay đổi đáng kể, lao động nông thôn
co xu hướng dư thừa quá lớn. Từ đó, các tác giả đề xuất chiến lược phát triển
nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại.
- Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nxb.CTQG, H.2004, PGS.TS. Chu Hữu Quý và PGS.TS. Nguyễn Kế Tuấn
(đồng chủ biên). Trong đó, các tác giả đề cập quan điểm công nghiệp hoá,

4
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và con đường của nó. Bên cạnh đó, các
tác giả đã đánh giá khái quát thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta khi
bước vào con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Không chỉ dừng lại ở đây, các tác giả còn đề xuất một số định hướng, mục
tiêu, giải pháp, chính sách cụ thể, trong đó nhấn mạnh đến giải pháp kinh tế.
- “Việc làm ở nông thôn- Thực trạng và giải pháp”, Nxb, Nông nghiệp,
H.2001, tác giả Chu Tiến Quang (chủ biên) đã làm rõ thực trạng, lao động và
việc làm ở nông thôn nước ta và đề xuất những giải pháp tạo cơ hội cho lao
động nông thôn có thể tiếp cận đến việc làm. Tác giả phân tích mặt mạnh, yếu
của lao động ở nông thôn về trình độ học vấn, tay nghề, kỹ năng lao động,
văn hóa lao động… và chỉ ra nguyên nhân của tình trạng trên là do nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu, tâm lý sản xuất nhỏ, điều kiện giáo dục về học vấn,

nghề nghiệp, ý thức lao động… ở nông thôn rất hạn chế. Những hạn chế này
chính là cản trở người lao động tiếp cận với việc làm đòi hỏi phải có tay nghề,
có ý thức trách nhiệm cao hiện nay. Để người lao động ở nông thôn có việc
làm đảm bảo thu nhập, tác giả nhấn mạnh đến công tác giáo dục học vấn, dạy
nghề và mở rộng sản xuất, kinh doanh …, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu ở
nông thôn hiện nay.
- “ Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc
làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(2001) do
PGS.TS Trần Văn Chử làm chủ nhiệm đề tài. Trong đề tài tác giả và cộng sự
đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải
quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
khẳng định rằng: việc nâng cao chất lượng nguồn lao động không chỉ nhằm
đáp ứng nhu cầu của phát triển mà còn góp phần giải quyết việc làm, giảm
thất nghiệp. Từ đó, các nhà nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ lao động và giải quyết việc làm ở nước ta;

5
- “Việc làm của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Lý luận chính trị, H.2007, do TS Bùi
Thị Ngọc Lan chủ biên. Đề tài đã làm rõ quan niệm về việc làm và những
nhân tố tác động đến việc làm của nông dân vùng đồng bằng song Hồng; phân
tích thực trạng việc làm và những triển vọng giải quyết việc làm cho nông dân
đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho nông dân vùng
đồng bằng sông Hồng đến năm 2015.
- “ Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2020”, H.2009, đề tài cấp Bộ của
Viện khoa học xã hội Việt Nam do TS. Trần Minh Ngọc làm chủ biên. Đề tài
đã phân tích, làm rõ thực trạng việc làm ở Đồng bằng Sông Hồng từ năm
2000 đến năm 2007; đánh giá tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến

thay đổi cơ cấu việc làm của nông dân Đồng bằng Sông Hồng. Làm rõ tác
động của thị trường đến việc làm của nông dân, vai trò của nhà nước, của các
chủ thể tạo việc làm và người lao động trong giải quyết việc làm của Đồng
bằng Sông Hồng. Từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho nông dân vùng Đồng bằng Sông Hồng trong tiến
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020.
Một số luận văn đã đi sâu vấn đề việc làm của nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các địa phương như: “Việc làm
cho người lao động ở nông thôn tỉnh Thanh Hóa”, Lê Văn Dũng, H.
2008; “Việc làm trong quá trình công nghiệp hóa ở Bắc Ninh”, Vũ Bá
Hải, Luận văn thạc sỹ triết học, H.2008; “Nông dân Hà Nội trong phát
triển nông nghiệp bền vững hiện nay”, Nguyễn Kim Tôn, luận văn thạc
sĩ triết học, H. 2010.

6

̣
t số phương tiê
̣
n thông tin đa
̣
i chu
́
ng , mô
̣
t số ba
́
o , tạp chí cũng đề

̣

p đến vấn đề nông dân , nông nghiê
̣
p, nông thôn như: Tạp chí Cộng sản ,
Công ta
́
c thông tin - Lý luận, báo Nông thôn, Tạp chi Lý luận.v.v Tuy nhiên
chưa có công trình nào, đề tài nào phân tích, đánh giá, đề cập vấn đề giải
quyết việc làm cho nông dân huyện Phù Ninh trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nhưng những tài liệu của các nhà nghiên cứu, các báo chí
là nguồn tài liệu vô cùng quan trọng giúp tác giả trong quá trình thực hiện
luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân ở huyện Phù Ninh
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm cho
nông dân ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và tìm nguyên nhân giải quyết việc làm
cho nông dân ở Huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
- Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm
cho nông dân ở Huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.



7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giải quyết việc làm cho nông
dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân
ở Huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm 2009 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng và nhà nước ta về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; thành tựu của các công trình
nghiên cứu của các tác giả đã công bố có nội dung liên quan tới vấn đề mà
luận văn đề cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải và làm rõ vấn đề,
đồng thời kết hợp các phương pháp: lịch sử - logic, phân tích- tổng hợp, thống
kê…v v. nhằm đạt mục đích mà luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết
việc làm và giải quyết việc làm bền vững cho nông dân trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Đánh giá đúng thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông
dân ở huyện Phù Ninh, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp có tính khả
thi nhằm tạo việc làm cho nông dân, lao động nông thôn ở huyện Phù Ninh
hiện nay.


8
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm phong phú lý luận về giải quyết việc làm cho
nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn ở cấp huyện hiện nay.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban
ngành trong huyện tham khảo trong quá trình hoạch định các chính sách nhằm
giải quyết việc làm trên địa bàn huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn bao gồm 3 chương 6 tiết
Chương 1: Một số lý luận về giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
hiện nay.
Chương 2. Thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân ở huyện Phù
Ninh, tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và những vấn đề đặt ra.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết việc làm bền vững
cho nông dân ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.



9
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
1. 1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Việc làm cho nông dân
1.1.1.1. Khái niệm lao động, việc làm và vai trò của việc làm
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người, bằng hoạt
động lao động của mình, con người đã và đang làm biến đổi giới tự nhiên, tạo
ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội và của chính bản thân mình. Trong
quá trình lao động đó hình thành mối quan hệ giữa con người với con người,
hình thành nên xã hội. Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người, chính hoạt động lao động đã sáng tạo ra bản thân con người.
Theo Ăngghen: “ Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta
phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [39, tr641]. Như vậy
lao động chính là điều kiện để xã hội tồn tại và phát triển.
Việc làm là hoạt động lao động cụ thể của mỗi người lao động cụ thể
trong quá trình lao động sản xuất của xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ giữa
người lao động với giới tự nhiên, vì vậy việc làm cũng chịu tác động bởi
những quy luật và điều kiện tự nhiên. Khái niệm việc làm và khái niệm lao
động có quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu lao động là hoạt động của xã hội nói
chung, phản ánh bản chất của con người nói chung thì việc làm là hoạt động
lao động cụ thể của mỗi người lao động tham gia vào quá trình lao động xã
hội chung đó.
Vấn đề việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp do
đó quan niệm về nó không cố định, cần phải xem xét nghiên cứu nó trên một

10
nền tảng của một chế độ chính trị, gắn với một trình độ phát triển kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát
triển về mọi mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của mỗi quốc gia thay đổi,
quan niệm về việc làm cũng thay đổi.
Trong hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra khái niệm: “Người có việc làm là những người làm việc gì đó,

có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc những người tham gia vào các hoạt
động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập gia đình, không
nhận tiền công hay hiện vật” [5, tr47]. Đây là một khái niệm khá mềm dẻo
nền được nhiều nước áp dụng, sau năm 1986 nhiều nhà nghiên cứu ở Việt
Nam cũng sử dụng khái niệm này.
Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch
hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp, chỉ có những người làm việc trong các cơ
quan nhà nước, khu vực kinh tế tập thể mới được coi là có việc làm. Do đó
trong xã hội lúc này không tồn tại khái niệm thất nghiệp hay thiếu việc làm vì
ai cũng có việc làm. Chế độ “biên chế” suốt đời trong các cơ quan nhà nước
đã tạo ra tâm lý ỷ lại của người lao động vào nhà nước khi họ cần việc làm
tuy nhiên đa phần người lao động lúc đó không có việc làm một cách đầy đủ.
Nhưng từ khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì quan niệm của người lao động về việc làm cũng thay đổi một cách
căn bản. Theo bộ luật lao động, Luật số 10/2012/QH13 của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2012. Điều 9, Chương II quy
định rõ: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp
luật cấm” [63]
Theo luật quy định, việc làm gồm hai yếu tố: hoạt động lao động tạo ra
thu nhập và không bị pháp luật cấm. Quy định này khắc phục được hạn chế
của quan niệm cũ cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực nhà nước mới được

11
coi là có việc làm, nó mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm,
mở ra một thị trường việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động,
thực hiện mục tiêu giải phóng triệt để sức lao động và khai thác có hiệu quả
mọi nguồn lực của đất nước.
Cho đến hiện nay, việc làm được nhận thức khá thống nhất: “Việc làm
là những hoạt động lao động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu
nhập hoặc lợi ích cho bản thân, gia đình người lao động hoặc cho một cộng

đồng nào đó” [43, tr15].
Nhận thức mới về việc làm hoàn toàn phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Hiện nay người lao
động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu, miễn là không vi phạm pháp luật
để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm trên đã
mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, mở ra thị trường đa
dạng và phong phú thu hút nhiều lao động. Tạo điều kiện cho người lao động
khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm nâng cao thu nhập, không còn
ỷ nại trông chờ vào các cấp chính quyền địa phương. Chế độ hợp đồng lao
động theo luật lao động được thay thế cho chế độ biên chế suốt đời trước kia,
nó tạo ra tính cơ động di chuyển chỗ làm việc và thay đổi việc làm, thay đổi
nghề nghiệp theo nhu cầu của xã hội và hoàn cảnh của bản thân, người lao
động trong xã hội hiện nay, không nhất thiết phải vào làm trong các cơ quan
nhà nước, họ có thể làm ở bất cứ lĩnh vực nào, ngành nghề nào miễn là pháp
luật không cấm.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề tạo việc làm cho người lao động và không
ngừng nâng cao chất lượng của việc làm mà thước đo cơ bản là nâng cao mức
sống và chất lượng cuộc sống dân cư, đây luôn luôn là vấn đề bức xúc đòi hỏi
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nó không chỉ là vấn đề kinh tế mà
còn là vấn đề xã hội, thực chất là nối liền kinh tế với xã hội, chính sách kinh

12
tế với chính sách xã hội, phục vụ sự phát triển con người, đảm bảo chất lượng
nhân văn trong phát triển xã hội.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm việc làm cần tìm hiểu các khái niệm:
Người có việc làm là những người đang làm việc trong thời gian quan
sát và những người trước đó có việc làm nhưng hiện đang nghỉ tạm thời vì lý
do như ốm đau, đình công, nghỉ hè, nghỉ lễ, trong thời gian sắp xếp lại sản
xuất, do thời tiết xấu, máy móc hư hỏng v.v [49,tr32].
Thất nghiệp là những người trong thời gian quan sát tuy không làm

việc nhưng đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc để tạo ra thu nhập
bằng tiền hay hiện vật, gồm cả những người chưa bao giờ làm việc. Thất
nghiệp còn bao gồm cả những người trong thời gian quan sát không có hoạt
động tìm kiếm việc làm vì họ đã được bố trí một việc làm mới sau thời gian
quan sát, những người đã buộc thôi việc không lương có hoặc không có thời
hạn hoặc những người không tích cực tìm kiếm việc làm vì họ quan niệm
rằng không thể tìm được việc làm [8, tr28].
Tuy nhiên, những đối tượng sau đây đang trong độ tuổi lao động không
thuộc vào những người thất nghiệp:
Người không có khả năng lao động như người khuyết tật, người bị ốm
đau, bệnh tật hiểm nghèo.
Người không có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Người đang đi học.
Người làm công việc nội trợ trong gia đình.
Thất nghiệp luôn trở thành sức ép của xã hội đối với nền kinh tế và cả
với đời sống của từng cá nhân. Tỷ lệ người thất nghiệp và thiếu việc làm cao
sẽ dẫn đến những vấn đề xã hội gay gắt, là một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội.

13
Thất nghiệp là một động thái xấu của nền kinh tế dẫn tới gánh nặng cho
nhà nước do nền sản xuất, nền kinh tế không phát triển, trì trệ, suy thoái hoặc
khủng hoảng kinh tế. Một nền kinh tế lạc hậu, một xã hội chậm phát triển
cũng thường không tạo đủ việc làm đáp ứng nhu cầu của dân cư có sức lao
động và trong độ tuổi lao động vốn tăng thường xuyên, hàng năm. Là một
nước nông nghiệp, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm tới gần 69,5%
trong cơ cấu xã hội nên vấn đề việc làm cho nông dân được Đảng và nhà
nước ta đặc biệt quan tâm.
Thiếu việc làm: Bao gồm những người có việc làm bấp bênh (không
ổn định) hoặc đang có việc làm (40 giờ trong 5 ngày trở lên) trong tuần lễ

tham gia không đầy đủ thời gian làm trong ngày, trong năm và hưởng thu
nhập rất thấp không đủ sống từ việc làm đó nhưng không thể kiếm được
việc làm khác.
Thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng:
Thứ nhất, thiếu việc làm vô hình: là những người có đủ việc làm, làm
đủ thời gian, thậm chí còn quá thời gian quy định nhưng thu nhập thấp không
đáp ứng nhu cầu của bản thân do tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp thấp, điều
kiện lao động khó khăn… dẫn đến năng suất lao động thấp. Do đó người lao
động mong muốn tìm kiếm công việc khác có thu nhập cao hơn.
Thứ hai, thiếu việc làm hữu hình: là hiện tượng người lao động làm
việc với thời gian ít hơn quỹ thời gian quy định, không đủ việc làm và đang
có mong muốn kiếm thêm việc làm và luôn sẵn sàng để làm việc.
1.1.1.2. Việc làm của nông dân
Việc làm của nông dân có đặc điểm khác so với các ngành, nghề khác,
sự khác biệt này là do đặc thù không gian sinh sống và lĩnh vực họ tham gia

14
sản xuất. Nông dân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và họ sinh sống ở
nông thôn.
Trước đây, trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu, bao cấp, người lao động ở nông thôn được “biên
chế suốt đời” vào các hợp tác xã. Tuy nhiên việc làm của họ không đầy đủ,
hết mùa vụ thường thời gian nông nhàn, nông dân không biết làm gì để tạo
ra thu nhập, trong khi đời sống kinh tế rất khó khăn. Nông dân Việt Nam
lúc đó hầu hết là thuần nông, chăn nuôi cũng chưa được coi là một nghề mà
chỉ là tăng gia sản xuất thêm.
Nhìn chung việc sản xuất trong mỗi hộ nông dân phụ thuộc chủ yếu vào
hợp tác xã, phương thức phân phối bình quân khiến cho người nông dân ỷ nại,
trông chờ vào hợp tác xã. Tình trạng “Cha chung không ai khóc” kéo dài làm
cho năng suất lao động ngày càng giảm, đời sống của người nông dân ngày

càng bế tắc.
Tâm lý "trời sinh voi, sinh cỏ", thích đông con nhiều cháu, "trọng nam,
khinh nữ" ăn sâu bám rễ trong tiềm thức người nông dân Việt Nam. Dẫn đến
dân số ở vùng nông thôn tăng ngày càng nhanh. Khi dân số tăng nhanh dẫn
đến diện tích đất/ đầu người ngày càng giảm, ruộng đất manh mún. Công cụ
lao động thì thô sơ, lạc hậu, năng suất lao động thấp lại không có nghề phụ
nên tình trạng thiếu đói diễn ra triền miên.
Sau đổi mới, chính sách khoán đã tác động làm cho người nông dân
như được cởi trói, sức lao động được giải phóng. Nền nông nghiệp của nước
ta chuyển dần từ nông nghiệp thuần nông sang nông nghiệp đa canh và thâm
canh, từ sản xuất để tiêu dùng, sang sản xuất hàng hóa, từ kinh tế hiện vật
sang kinh tế hàng hoá từng bước thích ứng với cơ chế thị trường. Kinh tế hộ
nông dân cá thể được định hình, là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn. Cơ chế
khoán và kinh tế hộ gia đình đã làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi hoàn toàn,

15
người nông dân giờ đây không còn phụ thuộc vào hợp tác xã mà họ đã trở
thành người chủ trên mảnh ruộng của mình. Họ chủ động sản xuất, tự tổ chức
lao động và quản lý lao động sản xuất. Giờ đây họ có thể tự tạo việc làm, tận
dụng mọi tư liệu sản xuất, thời gian lao động và sức lao động của mình, nhờ
đó họ phát huy được năng lực sản xuất của bản thân. Trên những mảnh đất
“khoán” người nông dân đã có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, họ là
người quyết định việc “trồng cây gì? Nuôi con gì?” và sản xuất như thế nào ?
để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Tư duy của người nông dân dần chuyển từ tư duy “ỷ lại vào hợp tác xã”
sang tư duy “sản xuất hàng hóa”, việc làm ngày càng gắn liền với thu nhập,
họ tìm cách tạo ra nguồn thu nhập bằng nhiều việc làm khác nhau. Để sản
phẩm được thị trường chấp nhận, người nông dân đã bắt đầu chú ý đến chất
lượng, mẫu mã và giá thành sản phẩm, họ đã chú ý đầu tư sản xuất những mặt
hàng nông phẩm có chất lượng và giá trị kinh tế cao, thích ứng với cơ chế thị

trường.
Tuy nhiên đa phần nông dân Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu sống bằng
nghề thuần nông, thời gian nông nhàn khá dài. Hiện chỉ còn 18% lao động
làm 210 ngày/năm, còn lại dưới 200 ngày/năm, trong đó 21% chỉ làm 90
ngày/năm (mỗi ngày bình quân làm việc 4-5 giờ) [12, tr86-87]. Thời gian
nông nhàn, họ tìm thêm công việc như phụ hồ, buôn bán sắt vụn, làm nghề
truyền thống v.v Do đó người nông dân vừa có việc làm chính thức: đó là
những hoạt động sản xuất nông nghiệp trong mùa vụ và việc làm không chính
thức là những việc làm thêm trong lúc nông nhàn, chính vì vậy mà tỷ lệ lao
động thiếu việc làm ở nông thôn thường cao hơn ở thành thị.
Hiện nay việc làm của nông dân ở Việt Nam về cơ bản có đặc điểm sau:
Thứ nhất, lao động nông nghiệp vẫn mang tính thời vụ cao, sản xuất
nông nghiệp của nông dân vẫn bị chi phối trực tiếp bởi các quy luật của tự

16
nhiên như gió, mưa, nắng, nhiệt độ, thổ nhưỡng… dẫn đến năng suất và hiệu
quả công việc của nông dân rất thấp. Việc sản xuất - kinh doanh của nông dân
hiện nay vẫn phụ thuộc chủ yếu vào tự nhiên, nếu thời tiết thuận lợi mùa
màng bội thu còn nếu năm nào thời tiết xấu, năng suất lao động rất thấp, có
khi mất trắng dẫn đến thu nhập của người nông dân rất bấp bênh.
Thứ hai, lao động nông nghiệp còn mag tính chất thủ công, nặng nhọc,
hiện nay nhiều địa phương hình ảnh “con trâu đi trước cái cày đi sau” vẫn còn
khá phổ biến. Bao đời nay, người nông dân chỉ biết gắn bó với mảnh vườn
nho nhỏ, trồng lúa nước và chăn nuôi trong phạm vi hộ gia đình, trong khuôn
khổ kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp và khép kín trong cộng đồng làng xã.
Người nông dân làm ruộng và chăn nuôi không giống ngành nghề khác, họ
làm bằng thói quen và kinh nghiệm là chủ yếu, nó hình thành một cách tự
nhiên trong đời sống của nông dân, kinh nghiệm của họ được truyền từ đời
này qua đời khác qua các câu ca dao, tục ngữ như: “Tháng hai trồng đậu,
tháng ba trồng cà”, “chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa

thì dâm” v.v Người nông dân làm ruộng để sống như một lẽ tự nhiên, họ
không ý thức được việc cần thiết phải đào tạo thành nghề. Đặc điểm này ở lao
động nông thôn trở thành tập quán, thói quen. Khi bước vào thời kỳ đổi mới,
do yêu cầu phải chuyên môn hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, văn hóa, lối
sống đã làm cho nông dân bỡ ngỡ, lúng túng, thập chí bất lực khi tiếp cận
được nghề mới, việc mới.
Thứ ba, nghề nông là công việc mang tính chất mùa vụ nên lao động ở
nông thôn sẽ thiếu việc làm trong lúc nông nhàn. Đất đai là tư liệu sản xuất
chủ yếu của nông dân nhưng cùng với quá trình đô thị hóa và công nghiệp
hóa dẫn đến đất đai bị thu hẹp. Trong khi đó tay nghề thấp họ gặp khó khăn
trong tìm kiếm việc làm và phải làm những công việc nặng nhọc với mức thu
nhập thấp.

17
1.1.2. Giải quyết việc làm cho nông dân
1.1.2.1. Quan niệm về giải quyết việc làm cho nông dân
* Quan niệm về giải quyết việc làm
Thất nghiệp và thiếu việc làm là hiện trạng thường gặp đối với các
nước nông nghiệp nơi mà lực lượng lao động nông nghiệp và nông dân vẫn
còn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu lao động và cơ cấu xã hội. Vì ở những nước
này, nền kinh tế còn lạc hậu, xã hội chậm phát triển nên không tạo đủ việc
làm, không đáp ứng được nhu cầu việc làm của dân cư có sức lao động và
đang trong độ tuổi lao động. Do đó quan tâm, hỗ trợ giải quyết việc làm cho
người lao động là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội.
Giải quyết việc làm, theo nghĩa rộng, là tổng thể những biện pháp, chính
sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác
động đến mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng
lao động có việc làm và có thu nhập. Theo nghĩa hẹp, giải quyết việc làm là các
biện pháp, chính sách chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, thiếu việc làm
nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp.

Như vậy, “Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi
trường bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội làm việc
với chất lượng việc làm ngày càng cao” [36, tr11].
Người được giải quyết việc làm: Là những người trong độ tuổi lao động
mà trong 12 tháng qua kể từ thời điểm điều tra đã ký được hợp đồng lao động
theo Bộ luật Lao động và những người tự tạo việc làm.
Trong bộ luật lao động 2012, chương II điều 9 ghi rõ: “Nhà nước,
người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc
làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc
làm” [63].

18
Quá trình giải quyết việc làm phụ thuộc vào cả ba nhân tố là nhà nước,
người lao động và người sử dụng lao động, sự kết hợp chặt chẽ, đồng bộ cả ba
nhân tố sẽ giải quyết được việc làm một cách bền vững cho người lao động.
- Về phía nhà nước: Giải quyết việc làm là vấn đề được tất cả các quốc
gia trên thế giới quan tâm, vấn đề này ảnh hưởng đến sự ổn định về mặt chính
trị, tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Ở nước ta,
dân số đông nên giải quyết việc làm là vấn đề vô cùng nan giải, nhà nước phải
có trách nhiệm tạo hành lang pháp lý, ban hành các điều luật cụ thể, các chính
sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo
môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất là một bộ phận
cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.
- Về phía người lao động: Muốn tìm được việc làm phù hợp, thu nhập
cao thì bản thân người lao động phải có kế hoạch thực hiện và có sự đầu tư
nâng cao chất lượng sức lao động của mình. Có nghĩa là họ phải tự mình hoặc
dựa vào sự hỗ trợ của gia đình và xã hội để tham gia, phát triển, nắm vững
một nghề nghiệp nhất định nào đó.
- Về phía người sử dụng lao động: Người sử dụng lao động cần có
thông tin về thị trường để không chỉ tạo ra việc làm mà còn duy trì việc làm

bền vững, lâu dài cho người lao động. Để làm được điều đó, đòi hỏi người sử
dụng lao động phải có vốn để mua tư liệu sản xuất và sức lao động để tiến
hành sản xuất. Để có thể kinh doanh hiệu quả đòi hỏi người sử dụng lao động
phải có kinh nghiệm quản lý, vận dụng linh hoạt chính sách của nhà nước
trong lĩnh vực lao động và việc làm. Đồng thời cần phải đề ra các quy định
phù hợp, quản lý lao động một cách khoa học và nghệ thuật nhằm đạt mục
tiêu của mình đồng thời nâng cao sự thỏa mãn của người lao động, khơi dậy
động lực và sự sáng tạo ở mỗi người.
* Giải quyết việc làm cho nông dân

×