Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Giải pháp thúc đẩy hoạt động Logistics tại Công ty LD TNHH NIPPON EXPRESS VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.39 KB, 66 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vận tải giao nhận là yếu tố không thể tách rời với buôn bán quốc tế. Kinh
doanh ngày càng phong phú với nhiều thành phần, nhiều dịch vụ được cung cấp,
đáp ứng nhu cầu đặt ra trong vận chuyển của xã hội , đặc biệt là hàng hóa xuất
nhập khẩu. Song thực tế cho thấy hoạt động giao nhận vận tải ở Việt Nam còn
nhiều bất cập mà nổi trội hơn cả chính là chất lượng của hoạt động. Phát triển đa
dạng, phong phú dịch vụ cung cấp nhưng hiệu quả không cao do nguyên nhân
chủ yếu chính là phương thức kinh doanh chưa thích hợp dẫn đến chưa đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, thực tiễn đòi hỏi cần có phương thức kinh
doanh mới tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, tiết kiệm chi phí.Dịch vụ
vận tải giao nhận rất đa dạng và Logistics chính là phương thức kinh doanh tiên
tiến cần được nghiên cứu để áp dụng và phát triển trong các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vận tải giao nhận ở Việt Nam.
Công ty LD TNHH NIPPON EXPRESS V ỊÊT NAM là một trong những
công ty đi đầu trong ngành vận dịch vụ vận tải giao nhận ở Việt Nam những năm
qua. Có thể nói đây là một trong những công ty có chất lượng dịch vụ tốt nhất
tuy nhiên vẫn còn những hạn chế cần khắc phục.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của thị trường , từ chất lượng dịch vụ
logistics những năm qua,cũng như hoạt động của công ty NIPPON EXPRESS
em xin chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy hoạt động Logistics tại Công ty LD
TNHH NIPPON EXPRESS VIỆT NAM” làm đề tài chuyên đề thực tập của
mình. Em hi vọng rằng những nghiên cứu của mình về dịch vụ logistics hiện có
và những giải pháp phát triển dịch vụ này tại NIPPON EXPRESS sẽ giúp cho
Công ty có được cái nhìn khái quát và trở thành công ty đứng đầu về chất lượng
trong ngành dịch vụ vận tải giao nhận.
Quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của em chắc chắn còn nhiều thiếu
sót và khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô
để tôi hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn đã trực tiếp hướng
dẫn, tận tình giúp em hoàn thành bài chuyên đề thực tập này. Em cũng xin cảm
ơn ban lãnh đạo trong công ty NIPPON EXPRESS cùng toàn thể cán bộ công


nhân viên phòng xuất nhập khẩu và Ban Hành chính – Nhân sự đã tạo điều kiện
cho việc thực tập của em tại công ty và cung cấp các số liệu cần thiết cho chuyên
đề của em.
ChƯƠng I :TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG LOGISTICS Ở DOANH
NGHIỆP
1. 1 Khái niệm
Logistics được hiểu là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát sự lưu thông
và tích trữ một cách hiệu qủa tối ưu các loại hàng hoá, nguyên vật liệu, thành
phẩm và bán thành phẩm, dịch vụ và thông tin đi kèm từ điểm khởi đầu tới điểm
kết thúc nhằm mụch đích tuân theo các yêu cầu của khách hàng.
2
Những kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới xâm nhập vào
Việt Nam trong thời gian gần đây, trước hết và chủ yếu thông qua hoạt động của
các công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một số người được đào tạo tại nước
ngoài. Thực tế thì logistics được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như
kinh tế, xã hội, quân sự và trong trong từng lĩnh vực có mục tiêu, phạm vi hoạt
động cũng như tiêu chí đánh giá là hết sức khác nhau. Nhìn từ góc độ vĩ mô, có
thể hiểu logistics theo 2 cấp độ cơ bản: cấp độ vi mô như trong lĩnh vực quản trị
sản xuất của doanh nghiệp và cấp độ vĩ mô như một ngành kinh tế. Trên tầm vĩ
mô thì điều quan tâm là xây dựng một mạng lưới logistics đa dạng, linh hoạt cho
phép chuyển tối ưu bộ phận sang tối ưu toàn bộ, nhằm mục đích tối ưu hiệu quả
của vòng quay tăng trưởng, vòng quay thu mua hàng hóa, sản xuất, phân phối
bán hàng, vận tải, tái chế và sử dụng lại các nguồn nguyên vật liệu từ các công ty
đơn lẻ đến toàn bộ ngành công nghiệp thông qua sự hợp tác.
Diễn ra vào những năm cuối của thế kỷ 20. Khái niệm đã phát triển mang
tính chiến lược về quản trị chuỗi nối tiếp các hoạt động từ người cung cấp đến
người sản xuất. Nó bao gồm cả các họat động đảm bảo cho hàng hóa lưu thông
đến người tiêu dùng: cung cấp hệ thống theo dõi, cung cấp chứng từ, thông quan,
làm gia tăng giá trị sản phẩm. Khái niệm này coi trọng việc phát triển các quan
hệ với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa người sản xuất với người cung cấp, người

tiêu dùng và các bên liên quan như doanh nghiệp kinh doanh vận tải, kho bãi,
giao nhận, nhà cung cấp công nghệ thông tin.
Hiện nay mỗi nghành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có một khái
niệm về logistics cho riêng mình. Như trong lĩnh vực sản xuất logistics được
định nghĩa: là chuỗi hoạt động nhằm đảm bảo nguyên nhiên vật liệu, máy móc,
thiết bị, các dịch vụ cho hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành liên tục,
nhịp nhàng và có hiệu quả.
Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài
nguyên,yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản
3
xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng
loạt các hoạt động kinh tế.
Quản trị Logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách
có hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá
trình sản xuất sản phẩm dòng thông tin tương ứng từ điểm xuất phát đầu tiên đến
điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng”.
Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức
thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng
gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến
hàng hóa theo thỏa thuận của khách hàng để hưởng thù lao
Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, và hiệu quả của
quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công
nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và
Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì
tỷ lệ này có thể hơn 30%, và ở Việt Nam thì dịch vụ logistics chiếm khoảng từ
15-20% GDP. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận
hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất
lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao
chất lượng sản phẩm dịch vụ.

1.2. Đặc điểm
1.2.1 Logistics là tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trên các khía cạnh
chính, đó là logistics sinh tồn, logistics hoạt động và logistics hệ thống.
Logistics sinh tồn có liên quan tới các nhu cầu cơ bản của cuộc sống như cần gì,
cần bao nhiêu, khi nào cần. Đặc trưng của logistics sinh tồn là có thể dự đoán,
tương đối ổn định. Logistics sinh tồn là hoạt động cơ bản của xã hội sơ khai và là
thành phần thiết yếu trong một xã hội công nghiệp hóa, nó cung cấp nền tảng cho
4
logistics hoạt động.
Logistics hoạt động mở rộng các nhu cầu cơ bản bằng cách liên kết nhiều hệ
thống sản xuất sản phẩm. Logistics liên kết các nguyên liệu thô doanh nghiệp cần
trong sản xuất và phân phối sản phẩm có được từ sản xuất. Xét theo khía cạnh
này thì logistics hoạt động tương đối ổn định và có thể dự đoán được. Tuy nhiên
Logistics hoạt động chỉ liên quan đến sự vận động và lưu kho của nguyên liệu
vào trong, qua và đi ra khỏi doanh nghiệp, là nền tảng của logistics hệ
thống.
1.2.2.Mô hình phát triển hệ thống logistics.
Các hãng sản xuất kinh doanh ứng dụng Logistics vào ngay từ phần lập kế hoạch
mua sắm nguyên vật liệu để đưa vào sản xuất, trong quá trình sản xuất và trong
khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm.
Họ có thể ứng dụng Logistics để phân công dây chuyền sản xuất, chuyên môn
hoá sản xuất bố trí, bố trí các cơ sở, các công ty con, các chi nhánh ở trong nước
hoặc nước ngoài để nhằm mục đích mua nguồn nguyên vật liệu thuận lợi, thuê
nhân công với giá rẻ, đưa hàng đi tiêu thụ nhanh chóng đến các thị trường có nhu
cầu, do đó mà đạt được mục tiêu giá rẻ, thuận tiện và bán được nhiều sản phẩm,
thu được nhiều lợi nhuận.
Các hãng sản xuất kinh doanh ngày càng nghiên cứu ứng dụng Logistics ở mức
độ cao hơn. Đã có một số hãng đạt được mô hình sản xuất tối ưu.
Toàn bộ quá trình sản xuất – lưu thông – tiêu dùng của nền sản xuất hàng hoá
được mô hình hoá như sau:

Mô hình gồm có: Nguồn hàng, Xuất nhập khẩu , Cung ứng , Sản xuất ,xuất nhập
khẩu bán buôn, Bán lẻ ,Ngưới tiêu dùng.
Trên thực tế, các hoạt động của quá trình này còn phức tạp hơn nhiều. Ngày nay,
nền sản xuất hiện đại, với sự phát triển của kinh tế quốc tế và thương mại toàn
cầu, đã mở rộng nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ Logistics
Các dịch vụ Logistics chủ yếu như sau: nhận đơn đặt hàng vận tải, gom hàng, xử
lý nguyên vật liệu, gia công mã mác, lưu kho, kiểm soát hàng tồn kho, tái chế
5
hàng trả lại, quản lý việc phân phối, xúc tiến thị trường và các dịch vụ thông
tin…
Tất cả các dịch vụ Logistics nhằm mục đích thoả mãn cao nhất cho nhu cầu của
khách hàng là người sản xuất và người tiêu dùng.
Trong dây chuyền cung ứng và tiêu thụ bao gồm rất nhiều khâu, giữa mắt xích
của các khâu có các dịch vụ: giao nhận, xếp dỡ, lưu kho,… Nếu để hàng hoá phải
tồn kho nhiều hoặc lưu kho quá lâu sẽ gây thiệt hại cho hãng sản xuất, do đó họ
đã chú ý khâu này bằng những giải pháp khác nhau:
- Xác lập kênh phân phối, chọn thị trường tiêu thụ;
- Chọn vị trí kho hàng;
- Thiết lập trung tâm phân phối;
- Quản lý quá trình vận chuyển…
Có một số hãng đã đạt được quy trình sản xuất không lưu kho đối với một số mặt
hàng nhất định, và đã đạt được lợi nhuận cao.
Các bên tham gia vào hệ thống Logistics có các hãng sản xuất, các nhà giao
nhận, các hãng chuyên kinh doanh dịch vụ Logistics.
Đối với toàn bộ quá trình lưu thông, phân phối, ứng dụng hệ thống Logistics là
một bước phát triển cao hơn của công nghệ vận tải. Vận tải đa phương thức đã
liên kết được tất cả các phương thức vận tải với nhau để phục vụ cho nhu cầu
cung ứng và tiêu thụ của hãng sản xuất.
Hệ thống Logistics còn liên kết và tối ưu toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông
trên phạm vi rất rộng: trong một quốc gia, một khu vực, đến toàn cầu.

Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng hệ thống Logistics vào sản xuất,
kinh doanh thương mại và lưu thông phân phối. Trong đó giao thông vận tải sẽ là
một mắt xích quan trọng để mở rộng phát triển tiện ích này, tạo thuận lợi cho sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá -
hiện đại hoá.
1.2.3.Logistics hệ thống
- Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ giao nhận vận tải.
6
- Logistics là sự phát triển toàn diện và khéo léo của vận tải đa phương thức.
- Logistics có chức năng hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp
- Logistics là một nghành dịch vụ
1.3.Phân loại hệ thống logistics
Trước kia hệ thống Logistics đã được ứng dụng vào hoạt động sản xuất và đời
sống, đặc biệt là trong các lĩnh vực phức tạp bao gồm nhiều quá trình, nhiều công
đoạn khác nhau mà cần phải thực hiện bởi nhiều tổ chức, nhiều chủ thể có liên
quan.
Bây giờ, hệ thống Logistics càng có vị trí và vai trò quan trọng đối với hoạt động
sản xuất và đời sống, được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau và
phát triển thành 3 nhóm riêng biệt:
- Hệ thống Logistics trong quân sự.
- Hệ thống Logistics trong sản xuất, kinh doanh, thương mại.
- Hệ thống Logistics trong quản lý xã hội.
1.4.Vị trí,vai trò của hoạt động logistics trong sản xuất,kinh doanh thương
mại đối với nền kinh tế quốc dân
1.4.1.Hệ thống Logistics hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế:
Lưu thông phân phối hàng hoá, trao đổi giao lưu thương mại giữa các vùng trong
nước với nhau và với nước ngoài là hoạt động thiết yếu của nền kinh tế quốc dân.
Nếu những hoạt động này thông suốt, có hiệu quả, thì sẽ góp phần to lớn làm cho
các ngành sản xuất phát triển; còn nếu những hoạt động này bị ngưng trệ thì sẽ
tác động xấu đến toàn bộ sản xuất và đời sống.

Hệ thống Logistics góp phần vào việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ sự
phân công lao động quốc tế, do quá trình toàn cầu hoá tạo ra.
7
Các công ty xuyên quốc gia có các chi nhánh, các cơ sở sản xuất, cung ứng và
dịch vụ đặt ở nhiều nơi, ở nhiều quốc gia khác nhau, do đó các công ty này đã áp
dụng hệ thống Logistics toàn cầu để đảm bảo hoạt động SXKD đạt hiệu quả cao,
khắc phục ảnh hưởng của các yếu tố cự ly, thời gian và chi phí sản xuất.
Hệ thống Logistics góp phần vào việc phân bố các ngành sản xuất một cách hợp
lý để đảm bảo sự cân đối và tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mỗi một vùng địa lý có những đặc điểm về địa hình khác nhau, nguồn tài nguyên
khoáng sản khác nhau và có phương thức lao động, tập quán khác nhau, do đó
cần phải có sự phân bố, sắp xếp các ngành sản xuất, các khu công nghiệp, các
trung tâm kinh tế sao cho phù hợp với những điều kiện riêng và tổng thể nhằm
phát huy được các nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
1.4.2.Lợi ích của việc sử dụng logistics trong các doanh nghiệp.
Hoạt động Logistics không những làm cho quá trình lưu thông, phân phối được
thông suốt, chuẩn xác và an toàn, mà còn giảm được chi phí vận tải. Nhờ đó
hàng hoá được đưa đến thị trường một cách nhanh chóng kịp thời. Người tiêu
dùng sẽ mua được hàng hoá một cách thuận tiện, linh hoạt, thỏa mãn nhu cầu của
mình. Người mua có thể chỉ cần ở tại nhà, đặt mua hàng bằng cách gọi điện
thoại, gửi fax, gửi e-mail hoặc giao dịch qua Internet…. cho người bán hàng,
thậm chí cho hãng sản xuất hàng hoá là có thể nhanh chóng nhận được thứ hàng
cần mua, được vận chuyển đến tận nhà.
Có hiệu quả đó chính là nhờ ứng dụng hệ thống Logistics vào sản xuất và lưu
thông.
1.4.3.Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của
quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công
nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và
Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì
tỷ lệ này có thể hơn 30%. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho

việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian
và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí,
8
nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Thực tế logistics ở Việt Nam
Quy mô doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh doanh manh mún.
Nguồn lợi hàng tỷ đô này lại đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Các
doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có một phần rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ
và đang ngày càng phình to của thị trường dịch vụ logistics. Theo tính toán mới
nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong logistics là vận
tải biển thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các DN nước
ngoài.
Hiện tại, trên cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực logistics. Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với
vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp logistics tại Việt Nam hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường
logistics, và mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của
chuỗi dịch vụ khổng lồ này. Ngành công nghiệp logistics của Việt Nam hiện vẫn
ở thời kỳ đang phát triển, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở
một cách thức thống nhất.
Hiện nay hạ tầng cơ sở logistics tại Việt nam nói chung còn nghèo nàn, qui mô
nhỏ, bố trí chưa hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam bao
gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường
thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là
không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có
khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng
đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và
chưa dược trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm
trong điều hành xếp dỡ container.

9
Song hành cùng sự phát triển kinh tế là tăng trưởng trong hoạt động xuất nhập
khẩu, do đó, ngành logistics lại thêm nhiều cơ hội phát triển. Theo dự báo của Bộ
Thương Mại, trong 10 năm tới kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt tới
300 tỷ USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam
còn khá lớn.
Trong những năm gần đây, ngành vận tải Việt nam đang có những bước phát
triển vượt đáng kể. Hiện 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng
đường biển. Đặc biệt, lĩnh vực vận chuyển container luôn đạt tốc độ tăng trưởng
cao trong những năm gần đây. Tuy vậy, điều này lại dẫn đến kết quả là Việt Nam
đang rất cần các cảng nước sâu để có thể thoả mãn được nhu cầu xuất nhập khẩu
ngày càng tăng. Tổng khối lượng hàng qua các cảng biển Việt Nam, hiện nay
vào khoảng 140 triệu tấn/năm (năm 2006: 153 triệu tấn), tốc độ tăng trưởng hàng
năm trong vòng 10 năm tới theo dự đoán là 20 - 25%. Hiện chính phủ Việt Nam
và các nhà đầu tư quốc tế đang triển khai một loạt dự án xây dựng các cụm cảng
ở Miền Nam và một số cảng ở phía Bắc :cảng Hải Phòng,Móng cái và một số
cửa khẩu quan trọng khác./
Việc dịch chuyển cơ sở sản xuất của nhiều doanh nghiệp nước ngoài từ nơi khác
đến Viêt Nam đã tạo ra cơ hội rất lớn trong việc xây dựng một mạng lưới giao
nhận kho vận hoạt động hiệu quả.
1.5.Nội dung của hoạt động logistics
Nội dung chủ yếu của hoạt động logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và
kiểm soát một cách có hiệu quả luồng lưu thông và khối lượng vận chuyển của
hàng hóa cùng với những thông tin có liên quan, từ điểm xuất phát hình thành
nên hàng hóa đến điểm tiêu thụ cuối cùng, cắt giảm chi phí toàn bộ và nâng cao
chất lượng dịch vụ cung cấp. Đây cũng là đặc điểm chính mà trong lĩnh vực
logistics hiện nay, hầu hết các hãng vận tải lớn trên thế giới như
10
NYK,NIPPON,DRAGON,YUSEN,SPEC,NISSIN,… đều thực hiện chiến lược
kinh doanh từ cung cấp dịch vụ vận chuyển đường biển,đường hàng

không,đường bộ. Vấn đề đặt ra là trước tình hình này, các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ logistics của Việt Nam cần phải làm gì để
tận dụng những lợi thế cạnh tranh sẵn có.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành
vận tải. Cùng với việc ra đời của Luật Doanh nghiệp, , cũng như việc ban hành
Nghị định 57/2001/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh vận tải, ngành Vận tải nước
ta đã có những chuyển biến tích cực với đội tàu không ngừng phát triển về số
lượng và chất lượng theo hướng trẻ hóa, chuyên môn hóa. Theo thống kê, Việt
Nam hiện có khoảng 600 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics – một
con số không nhỏ so với các quốc gia trong khu vực.
Các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ vận tải hàng hóa bằng đường biển
,đường hàng không trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 1/4 nhu cầu nội
địa. Mặc dù giá dịch vụ tại Việt Nam tương đối thấp, nhưng dịch vụ cung cấp
không chắc chắn và thiếu độ tin cậy. Thêm vào đó, sự chênh lệch về trình độ
giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước khá lớn, khiến cho các doanh
nghiệp Việt Nam khó có khả năng chiếm lĩnh được chính thị trường vận tải của
mình. Hầu hết doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics có quy mô nhỏ, giữa các
doanh nghiệp lại không có sự hợp tác liên kết dẫn đến tình trạng kinh doanh
manh mún, thậm chí cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá để lôi kéo khách hàng,
tạo ra một tiền lệ xấu trong hoạt động logistics.
1.6. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động logistics ở doanh nghiệp
1.6.1 Nhân tố bên trong
+ Logistics là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với các công ty
của Việt Nam nói chung và các công ty kinh doanh dịch vụ giao
nhận vận tải nói riêng. Vì vậy, nguồn nhân lực để phát triển
logistics hiện nay còn thiếu
11
Đội ngũ cán bộ quản lý hầu hết đã đạt trình độ đại học và đang
được đào tạo hoặc tái đào tạo để đáp ứng nhu cầu quản lý. Tuy
nhiên họ vẫn còn tồn tại phong cách quản lý cũ, lạc hậu, chưa

thích ứng kịp điều kiện kinh doanh mới, chưa được trang bị toàn
diện kiến thức về logistics cũng như quản trị logistics. Đội ngũ
nhân viên nghiệp vụ phần lớn đã có bằng cấp, nhưng lại chưa
được đào tạo chuyên sâu về logistics, tất cả đều phải tự nâng
cao trình độ. Đội ngũ lao động trực tiếp trình độ học vấn còn
thấp nên họ rất mơ hồ với hoạt động logistics. Công việc của họ
đơn thuần chỉ là bốc xếp, kiểm đếm, lái xe, giao nhận hàng
hóa… và sử dụng sức người nhiều hơn máy móc
Chính sự yếu kém về nguồn nhân lực như vậy là hạn chế rất lớn
tới việc ứng dụng và phát triển công nghệ logistics tại các Công
ty giao nhận vận tải Việt Nam.
+ Logistics là một loại hình dịch vụ tổng hợp, quá trình hoạt động có liên quan
đến sự quản lý của nhiều bộ, ngành, nhưng một số quy định của các bộ, ngành
còn bất cập dẫn tới những trở ngại không nhỏ, ảnh hưởng đến hoạt động và phát
triển ngành dịch vụ tại Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ logistics hoạt động trong lĩnh vực hàng hải nói riêng.
+ Một trong những trở ngại lớn đối với sự phát triển của dịch vụ logistics tại
Việt Nam là hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém và chưa đồng bộ, quy mô nhỏ, rời
rạc, chất lượng kém và không phát huy đầy đủ chức năng; việc xây dựng, quản lý
và khai thác thiếu khoa học, không đồng bộ và manh mún. Trên thực tế, tại một
số khu công nghiệp, khu chế xuất trọng điểm của Việt Nam, các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ logistics chưa có hoặc mới có hệ thống kho tàng còn thô sơ, các
thiết bị bốc xếp còn thiếu, không chuyên dụng. Các trục đường bộ không được
thiết kế đúng tiêu chuẩn để có thể kết hợp tốt giữa các phương thức vận tải.
12
Ngoài ra, ở nước ta, việc kết nối, lưu chuyển hàng hóa một cách có hiệu quả giữa
các phương thức vận tải gần như không thực hiện được.
1.7.2.Nhân tố bên ngoài
+ Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ logistics
trong lĩnh vực vận tải mới chỉ đóng vai trò như những nhà cung cấp dịch vụ vệ

tinh cho các công ty logistics nước ngoài ,chỉ đảm nhận một phần trong chuỗi
hoạt động logistics. Chúng ta cần biết việc quản lý logistics là việc điều chỉnh
một tập hợp các hoạt động của nhiều ngành, nhiều cung đoạn trong một quy trình
hoàn chỉnh, doanh nghiệp nào được ủy thác thực hiện toàn bộ các công việc liên
quan đến cung ứng, vận chuyển, theo dõi sản xuất, kho bãi, làm thủ tục phân
phối… mới được công nhận là một nhà cung cấp dịch vụ logistics. Xét theo tiêu
chí này, hiện ở Việt Nam chưa có một doanh nghiệp nào đủ khả năng để tổ chức,
điều hành toàn bộ quy trình hoạt động logistics.
Một trong những nguyên nhân làm cho dịch vụ logistics trong lĩnh vực vận tải
biển của nhiều doanh nghiệp Việt Nam thiếu độ tin cậy là do trình độ ứng dụng
công nghệ thông tin kém, làm hạn chế việc kết nối, trao đổi thông tin giữa các
doanh nghiệp với nhau cũng như với mạng lưới thông tin toàn cầu, giảm khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam chỉ hoạt
động như một nhà cung cấp dịch vụ logistics cấp 2 thậm chí cấp 3 cấp 4 đối với
các dịch vụ toàn cầu.
Một nguyên nhân nữa cũng phải được kể đến là do chúng ta thiếu nguồn nhân
lực được đào tạo chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và am hiểu luật pháp quốc tế.
Đơn cử, thói quen thương mại của doanh nghiệp Việt Nam như mua C.I.F, bán
F.O.B cũng làm hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến phát triển dịch vụ logistics
.Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ logistics trong lĩnh vực
vận tải còn gặp nhiều khó khăn thì các hãng vận tải lớn thế giới đã và đang từng
bước thâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước và ngày càng khẳng
định vị trí lớn mạnh của mình như APL,Nippon Express,Yusen,là những tập
đoàn hùng mạnh, tính cạnh tranh rất lớn với bề dày kinh nghiệm, năng lực tài
13
chính khổng lồ, có mạng lưới đại lý, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ
khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin kết nối rộng khắp, trình độ tổ
chức quản lý cao và đảm bảo khép kín quy trình hoạt động vận chuyển hàng hóa
toàn cầu.
Trước thực trạng về kết cấu hạ tầng logistics còn yếu kém, phương thức tổ chức

quản lý kém hiệu quả, quy mô hoạt động nhỏ, chịu sức ép cạnh tranh lớn của các
công ty nước ngoài khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ
logistics nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ logistics
trong lĩnh vực hàng hải nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Thực trạng này đặt ra
cho các doanh nghiệp Việt Nam yêu cầu cấp thiết phải có chiến lược đầu tư dài
hạn, cải tiến nhằm nâng khả năng cạnh tranh và đạt được hiệu quả cao trong việc
cung cấp các dịch vụ logistics
1.8.Tác dụng của dịch vụ logistics:
1.8.1. Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí
trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp
Theo điều tra của một số tổ chức nghiên cứu về logistics cũng như Viện nghiên
cứu logistics của Mỹ cho biết, chi phí cho hoạt động logistics chiếm tới khoảng
10-13% GDP ở các nước phát triển, con số này ở các nước đang phát triển thì
cao hơn khoảng 15-20%. Theo thống kê của một tổ chức, hoạt động logistics trên
thị trường Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ bình quân là 33%/1 năm và ở
Brazil là 20%/1 năm. Điều này cho thấy chi phí cho logistics là rất lớn. Vì vậy
với việc hình thành và phát triển dịch vụ logistics là rất lớn. Vì vậy, với việc hình
thành và phát triển dịch vụ logistics sẽ giúp các doanh nghiệp cũng như toàn bộ
nền kinh tế quốc dân giảm được chi phí trong chuỗi logistics, làm cho quá trình
sản xuất kinh doanh tinh giản hơn và đạt hiệu quả hơn. Giảm chi phí trong sản
14
xuất, quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản, hiệu quả sản xuất kinh doanh được
nâng cao góp phần tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thực tế
những năm qua tại các nước Châu Âu, chi phí logistics đã giảm xuống rất nhiều
và còn có xu hướng giảm nữa trong các năm tới.
1.8.2. Dịch vụ logistics có tác dụng tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu
thông phân phối
- Giá cả hàng hóa trên thị trường chính bằng giá cả ở nơi sản xuất cộng với chi
phí lưu thông. Chi phí lưu thông hàng hóa, chủ yếu là phí vận tải chiếm một tỷ lệ
không nhỏ và là bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là

hàng hóa trong buôn bán quốc tế. Vận tải là yếu tố quan trọng của lưu thông.
Vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hóa đến nơi tiêu dùng và tạo khả năng để thực
hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Trong buôn bán quốc tế, chi phí vận
tải chiếm tỷ trọng khá lớn, theo số liệu thống kê thì chi phí vận tải đường biển
chiếm trung bình 10-15% giá FOB, hay 8-9% giá CIF. Trong đó tải là yếu tố
quan trọng nhất trong hệ thống logistics cho nên dịch vụ logistics ngày càng
hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết kiệm cho phí vận tải và các chi phí khác phát sinh
trong quá trình lưu thông dẫn đến tiết kiệm và giảm chi phí lưu thông. Nếu tính
cả chi phí vận tải, tổng chi phí logistics bao gồm đóng gói, lưu kho, vận tải, quản
lý, … ước tính chiếm tới 20% tổng chi phí sản xuất ở các nước phát triển, trong
khi đó nếu chỉ tính riêng chi phí vận tải có thể chiếm tới 40% giá trị xuất khẩu
của một số nước không có đường bờ biển.
1.8.3. Dịch vụ logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh
15
nghiệp vận tải giao nhận
-Dịch vụ logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn nhiều
so với hoạt động vận tải giao nhận thuần túy. Ngày xưa, người kinh doanh dịch
vụ vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản, thuần
túy và đơn lẻ. Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của
một sản phẩm có thể do nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một loại sản phẩm
của doanh nghiệp có thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác nhau,
vì vậy dịch vụ mà khách hàng yêu cầu từ người kinh doanh vận tải giao nhận
phải đa dạng và phong phú. Người vận tải giao nhận ngày nay đã triển khai cung
cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế của khách hàng. Họ trở thành
người cung cấp dịch vụ logistics Do đó, dịch vụ logistics đã góp phần làm gia
tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận.
-Thông qua việc sử dụng dịch vụ logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có
thể rút ngắn thời gian từ lúc nhận đơn hàng cho đến lúc giao sản phẩm cho khách
hàng từ 5-6 tháng xuống còn 2 tháng. Kinh doanh dịch vụ này có tỷ suất lợi
nhuận cao gấp 3-4 lần sản xuất và gấp từ 1-2 lần các dịch vụ ngoại thương khác.

1.8.4. Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế.
Sản xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh,
vấn đề thị trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và
kinh doanh quan tâm. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng
thị trường cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch
vụ logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên
16
các tuyến đường mới đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa
điểm đặt ra. Dịch vụ logistics phát triển có tác dụng rất lớn trong việc khai thác
và mở rộng thị trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
1.8.5. Dịch vụ logistics phát triển góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu
chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế
Thực tế, một giao dịch trong buôn bán quốc tế thường phải tiêu tốn các loại
giấy tờ, chứng từ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí về giấy tờ để phục
vụ mọi mặt giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm đã vượt quá 420 tỷ
USD. Theo tính toán của các chuyên gia, riêng các loại giấy tờ, chứng từ rườm rà
hàng năm khoản chi phí tiêu tốn cho nó cũng chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu
dịch quốc tế, ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động buôn bán quốc tế. Logistics đã
cung cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói đã có tác dụng giảm rất nhiều các chi phí
cho giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Dịch vụ vận tải đa phương thức do
người kinh doanh dịch vụ logistics cung cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho
giấy tờ thủ tục, nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ cũng như giảm khối lượng công
việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa, từ đó nâng cao hiệu quả buôn bán
quốc tế.
Ngoài ra, cùng với việc phát triển logistics điện tử (electronic logistics) sẽ tạo ra
cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ
trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ
logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian
và thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ
17

xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông.
1.9. Cam kết quốc tế của quốc gia Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ logistics:
1.9.1.Dịch vụ logistics gồm rất nhiều yếu tố và các yếu tố này tạo thành chuỗi
logistics .
- Yếu tố vận tải: Trong các yếu tố cấu thành chuỗi logistics thì vận tải giao nhận
là khâu quan trọng nhất và thường chiếm trên 1/3 tổng chi phí của hoạt động
logistics.
-Yếu tố Marketing:
- Yếu tố phân phối
- Yếu tố quản trị
- Các yếu tố khác: kho bãi, nhà xưởng, phụ tùng thay thế và sửa chữa, tài liệu kỹ
thuật, thiết bị kiểm tra và hỗ trợ, tài liệu kỹ thuật
Phân loại các yếu tố cơ bản của dịch vụ logistics gồm:
Dịch vụ logistics chủ yếu : Dịch vụ thiết yếu trong hoạt động logistics và cần
phải tiến hành tự do hóa để thúc đẩy sự lưu chuyển dịch vụ bao gồm: dịch vụ làm
hàng, dịch vụ lưu kho, dịch vụ đại lý vận tải và các dịch vụ hỗ trợ khác.
Dịch vụ có liên quan tới vận tải: Các dịch vụ có liên quan tới cung cấp có hiệu
quả dịch vụ logistics tích hợp cũng như cung cấp môi trường thuận lợi cho hoạt
động của Logistics bên thứ 3 phát triển gồm có vận tải hàng hóa đường biển,
đường thủy nội địa, hàng không, đường sắt, đường bộ và cho thuê phương tiện
không có người vận hành và các dịch vụ khác có liên quan tới dịch vụ logistics
gồm dịch vụ phân tích và thử nghiệm kỹ thuật, dịch vụ chuyển phát, dịch vụ đại
18
lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn và bán lẻ.
3.Dịch vụ thứ yếu hoặc mang tính bổ trợ. Gồm dịch vụ máy tính và liên quan tới
máy tính, dịch vụ đóng gói và dịch vụ tư vấn quản lý.
Xét về phạm vi,dịch vụ logistics có những phân ngành sau:
+Dịch vụ xếp dỡ hàng hóa trong vận tải biển
+Dịch vụ kho bãi
+Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa

+Các dịch vụ bổ trợ khác
+Dịch vụ chuyển phát
+Dịch vụ đóng gói
+Dịch vụ thông quan
+Dịch vụ vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường biển, loại trừ vận tải ven bờ
+Dịch vụ vận tải hàng không
+Dịch vụ vận tải đường sắt quốc tế
+Dịch vụ vận tải đường bộ quốc tế
1.9.2 cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh dịch vụ logistics như sau:
* Dịch vụ vận tải biển: Việt Nam có cam kết trong 2 phân ngành vận tải hành
khách và vận tải hàng hóa trừ vận tải nội địa
- Dịch vụ vận tải đường biển
Nhiều nước trên thế giới dè dặt khi tiến hành tự do hoá dịch vụ vận tải biển Nếu
cho phép tự do hoá quá nhanh thông qua cho phép xây dựng một thị trường vận
tải biển thực sự cạnh tranh với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp, kể
19
cả các nhà vận tải nước ngoài thì có thể sẽ giúp làm giảm chi phí vận tải nhưng
lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngành vận tải biển quốc gia. Chi phí vận tải
biển có thể giảm trong ngắn hạn nhưng về lâu dài nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào
các nhà vận tải biển nước ngoài. Ngược lại, nếu bảo hộ ngành vận tải biển quá
mức thì chi phí vận tải sẽ rất cao làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá quốc gia
trên thị trường thế giới.
Cho tới bây giờ, Việt Nam đã cho phép thành lập rất nhiều công ty liên doanh
vận tải biển và container với vốn góp của nước ngoài khá linh hoạt. Dù trên thực
tế một số hãng vận tải biển nước ngoài đã bước đầu tham gia vào thị trường vận
tải Việt Nam qua hình thức liên doanh nhưng các cam kết quốc tế của Việt Nam
trong ASEAN, WTO còn tương đối chặt chẽ. Chẳng hạn, đối với phương thức
cung cấp qua biên giới ta chưa cam kết trong khi đây là phương thức cung cấp
phổ biến và thực sự cần thiết cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và chiếm tỷ
trọng lớn. Đối với phương thức cung cấp hiện diện thương mại ,Việt Nam mới

cho phép thành lập công ty liên doanh với vốn góp của nước ngoài dừng ở mức
49%.
- Dịch vụ vận tải đường bộ
Đây là ngành dịch vụ có mức độ mở cửa khá cao và là loại hình vận tải năng
động nhất hiện nay tại Việt Nam. Cho đến nay đã có trên 30 liên doanh vận tải
đường bộ được cấp phép hoạt động, tạo ra một thị trường đầy cạnh tranh. Điều
đáng chú ý vốn góp của phía nước ngoài trong một số liên doanh đã được đẩy lên
trên mức 51% tức là mức trần quy định trong các cam kết quốc tế của ta. Trong
20
cam kết gia nhập WTO, ta cho phép phía nước ngoài được thành lập liên doanh
với nhà vận tải đường bộ Việt Nam với vốn góp của nước ngoài không quá 51%
kể từ năm 2010. Có thể nói chính sách của ta trong lĩnh vực vận tải đường bộ
cùng với chính sách cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong nước được cạnh tranh khá bình đẳng đã góp phần phát triển nhanh vận tải
bộ trong thập kỷ qua.
- Dịch vụ vận tải đường sắt
Trước thời điểm ta gia nhập WTO, ngành dịch vụ này thuộc độc quyền Nhà
nước. Chủ trương phát triển của ngành đường sắt trong một thời gian dài vẫn là
tập trung nâng cao sức cạnh tranh với các loại hình vận tải khác, chưa lo cạnh
tranh với các nhà vận tải nước ngoài. Tuy nhiên trong cam kết gia nhập WTO, ta
đã cho phép nước ngoài tham gia liên doanh với đối tác Việt Nam với vốn góp
tối đa đạt 49%, nhưng không cam kết về dành đối xử quốc gia. Do ngành vận tải
đường sắt đòi hỏi phải có mức độ đầu tư khá lớn về cơ sở hạ tầng cung cấp dịch
vụ nên dự kiến trong ngắn hạn chưa có sự tham gia của các doanh nghiệp nước
ngoài. Về dài hạn, Nhà nước ta vẫn chủ trương kiểm soát loại hình dịch vụ này
cũng như tương tự như các loại hình dịch vụ vận tải nội địa khác.
- Dịch vụ vận tải hàng không
Ngành hàng không Việt nam đang phát triển theo hướng giảm dần độc quyền,
tạo môi trường cạnh tranh để nâng cao chất lượng phục vụ. Hiện nay, Việt nam
có nhiều hàng hàng không trong nước bao gồm Việt nam Airlines, Pacific

Airlines, VASCO …đang cung cấp dịch vụ. Về dịch vụ vận chuyển hàng hoá và
21
hành khách trên các tuyến nội địa, các hãng hàng không nước ngoài chưa được
phép tham gia mà hoàn toàn do các hãng hàng không trong nước thực hiện.
Tuy nhiên, đối với các tuyến vận chuyển quốc tế, các hãng hàng không nước
ngoài được tham gia khá tự do và cạnh tranh rất mạnh với các hãng hàng không
trong nước. Trong khuôn khổ cam kết quốc tế, dịch vụ vận chuyển hàng hoá và
hành khách chưa được đưa vào phạm vi điều chỉnh ở phạm vi đa phương mà vẫn
thuộc phạm vi của các hiệp định song phương. Những dịch vụ chính được cam
kết là dịch vụ tếp thị và bán sản phẩm hàng không, dịch vụ đặt giữ chỗ máy tính
và dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay. Đối với các dịch vụ này, ta hiện nay
cam kết rất thông thoáng khi cho phép các hãng hàng không nước ngoài có hiệp
định song phương được tự do cung cấp dịch vụ này với điều kiện sử dụng hệ
thống mạng của Việt Nam.
- Nhóm ngành dịch vụ hỗ trợ vận tải
Trong thực tế, ta chưa mở cửa nhiều cho các doanh nghiệp nước ngoài tham gia
cung cấp dịch vụ này. Các dịch vụ hỗ trợ vận tải chủ yếu do các doanh nghiệp
Việt Nam đảm nhận. Dù vậy, đã có một số công ty liên doanh trong lĩnh vực giao
nhận, sửa chữa phương tiện vận tải được thiết lập và đi vào hoạt động có hiệu
quả. Tuy nhiên, theo cam kết của ta khi gia nhập WTO, ta đã mở cửa có lộ trình
một số phân ngành dịch vụ hỗ trợ vận tải với mục đích đa dạng hóa thành phần
doanh nghiệp tham gia thị trường và giúp các doanh nghiệp Việt Nam thêm cơ
hội học hỏi và nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Các nhóm ngành dịch vụ khác
22
Đối với một số phân ngành dịch vụ khác mang tính bổ trợ trong ngành dịch vụ
logistics như dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật, dịch vụ máy tính và dịch
vụ liên quan tới máy tính, dịch vụ tư vấn quản lý, Việt Nam đã cho phép thành
lập liên doanh với vốn nước ngoài ngay từ thời điểm gia nhập. Riêng với dịch vụ
tư vấn quản lý và dịch vụ máy tính, ta còn cho phép doanh nghiệp nước ngoài

mở chi nhánh từ năm 2010 , nhưng chỉ dành đối xử quốc gia với điều kiện giám
đốc chi nhánh phải là người cư trú tại Việt Nam. Đây là những phân ngành dịch
vụ ta khuyến khích sự tham gia của phía nước ngoài để định hướng sự phát triển
của thị trường trong nước cũng như học hỏi được những kinh nghiệm, kỹ năng
quản lý và cung cấp dịch vụ ở trình độ cao của các doanh nghiệp nước ngoài

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS TẠI CÔNG TY
LD TNHH NIPPON EXPRESS VIỆT NAM
2.1.Giới thiệu về công ty
Công ty Liên doanh TNHH NIPPON EXPRESS VIỆT NAM tại HÀ NỘI (Tên
giao dịch NIPPON EXPRESS (VIET NAM)CO.,LTD. –HANOI BRANCH )
được thành lập theo giấy phép số 98/GB-UB do UBND TP HÀ NỘI cấp ngày
23
30/11/2001, có trụ sở tại Tầng 17,Tháp Hòa Bình, 106 Hoàng Quốc Việt,Cầu
Giấy ,Hà Nội.
- Hoạt động chính của Công ty liên doanh là cung cấp các dịch vụ
giao nhận hàng
hoá
bằng đường hàng không, đường biển, vận
chuyển hàng hoá bằng đường bộ, dịch
vụ
kho bãi; làm thủ tục Hải
quan, vận chuyển và lắp đặt máy móc, thiết bị nặng cho
các
công
trình
- Sau 9 năm hoạt động, Công ty liên doanh TNHH Nippon
Express Việt Nam
đã
chiếm thị phần đáng kể ở Việt Nam. Hiện

nay, công ty đang phát triển mạnh các
chi
nhánh của mình ở Hà Nội
và Hải Phòng để mở rộng hoạt động giao nhận hàng
xuất
nhập
khẩu ở phía Bắc và phục vụ chủ yếu các khách hàng Nhật Bản.
Từ
tháng :
-8/2006, công ty liên doanh bắt đầu có giấy phép thực hiện kinh
doanh trực tiếp
giao
nhận hàng hóa bằng đường biển. Năm 2007,
doanh số của công ty tăng 62% so
với
năm
2006.
- Tính đến 30/06/2008, giá trị phần vốn góp của Công ty góp vào
Nippon
Express
Vietnam đạt gần 36 tỷ đồng (tương đương 50% vốn
chủ sở hữu của Nippon
Express),
chiếm gần 50% vốn diều lệ của
Công
ty.
- Đến thời điểm hiên tại, vốn điều lệ của Nippon Express là
1.200.000 USD.
2. 2 .Cơ cấu tổ chức công
ty

- Cơ cấu tổ chức của Công ty bao gồm 1 trụ sở chính và 4 văn phòng
đại
diện theo sơ đồ như
sau:
24
2.2.1. Trụ sở chính của Công
ty
Địa chỉ: Tầng 17, Tháp Đôi Hòa Bình, Số 106 Hoàng Quốc Việt, Quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội
Điện thọai : (84-4) 37556100
Fax : (84-4) 37556110
2.2.2 Văn phòng giao dịch
Văn phòng Thăng long
Địa chỉ: Xã Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội
Điện thoại: 84 - (4) 951-6595
Fax: 84 - (4) 951-6594
Văn phòng Quế Võ
Địa chỉ: Lô C3, Quế Võ,Tỉnh Bắc Ninh
Điện thoại: 84-0241-363-4168
Fax: 84-0241-363-4169
VĂN PHÒNG
THĂNG LONG
VĂN PHÒNG
NỘI BÀI
VĂN PHÒNG
QUẾ VÕ(BN)
CHI NHÁNH HẢI
PHÒNG
TRỤ SỞ CÔNG TY
25

×