Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.16 KB, 9 trang )

Bài tập học kỳ môn: Xây dựng pháp luật
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………... 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ………………………………………………………... 1
1. Tính khả thi trong văn bản pháp luật ……………………………………... 1
2. Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật:………... 1
2.1. Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với đường lối chính sách của
Đảng, với lợi ích của các bên liên quan ……………………………………….
1
2.2. Nội dung văn bản phù hợp với thực trạng quy luật vận động của đời
sống xã hội ………………………………………………………………………
2
2.2.1. Phù hợp với thực trạng các yếu tố thuộc cơ sở vật chất trong xã hội ….. 3
2.2.2 Phù hợp với thực trạng nguồn nhân lực, đối tượng tác động của văn bản 3
2.2.3. Phù hợp với thực trạng ý thức xã hội, đặc biệt các quy phạm đạo đức,
tôn giáo, phong tục, tập quán trong xã hội …………………………………….
4
2.2.4. Phù hợp với quy luật vận động của đời sống xã hội, tác động vào những
quan hệ xã hội theo đúng những khuynh hướng vận động nội tại, mang tính
tất yếu của chúng ……………………………………………………
4
2.3. Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với pháp luật của các nước trong
khu vực và trên thế giới ………………………………………………………..
5
2.4. Văn bản pháp luật phải được đảm bảo về kỹ thuật pháp lý …………… 6
2.5. Đảm bảo quá trình tổ chức thực hiện văn bản pháp luật có hiệu quả … 7
KẾT THÚC VẤN ĐỀ ………………………………………………………….. 7
LÊ VÂN ANH – MSSV: 341810 1
Bài tập học kỳ môn: Xây dựng pháp luật
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn bản pháp luật với tư cách là phương tiện quan trọng để cơ quan nhà


nước, cá nhân có thẩm quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mà pháp
luật trao cho, chỉ phát huy giá trị tích cực khi được ban hành có chất lượng cao.
Một văn bản pháp luật không bảo đảm yêu cầu về chất lượng sẽ tác động lớn tới
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể hay Nhà nước là đối tượng điều chỉnh
của văn bản đó. Để hoàn thiện hơn nữa việc xây dựng văn bản pháp luật thì tìm
hiểu về các tiêu chí để đảm bảo tính khả thi của văn bản là điều cần thiết.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tính khả thi trong văn bản pháp luật:
“Khả thi” theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là khả năng thực hiện. Như vậy,
một dự án luật có tính khả thi là một dự án luật có khả năng thực hiện trên thực tế
hay nói một cách khác là những quy định của dự án luật có khả năng đi vào cuộc
sống mà không chỉ dừng lại trên giấy. Việc bảo đảm tính khả thi của các văn bản
quy phạm pháp luật là một yêu cầu rất quan trọng được đặt ra trong suốt quá trình
xây dựng văn bản. Theo quy định của Luật ban hành VBQPPL thì trong giai đoạn
soạn thảo dự án luật, cơ quan soạn thảo phải thực hiện rất nhiều hoạt động để bảo
đảm chất lượng của dự án, đồng thời cơ quan thẩm định văn bản phải tiến hành
thẩm định về tính khả thi của văn bản; trong giai đoạn dự án luật được chuyển sang
các Ủy ban của Quốc hội để thẩm tra thì Ủy ban chủ trì thẩm tra phải tiến hành
thẩm tra về tính khả thi của văn bản. Tất cả những quy định đó của Luật ban hành
VBQPPL là nhằm đảm bảo cho dự án luật sau khi được Quốc hội thông qua sẽ có
tính khả thi, có khả năng phát huy hiệu quả trong cuộc sống.
Tuy nhiên, khả thi chỉ là điều kiện “cần” của một văn bản pháp luật. Để văn
bản đó được thực sự đi vào cuộc sống thì phải có cả điều kiện “đủ” đó là khâu tổ
chức thực hiện. Nói một cách khác, để Luật thật sự đi vào cuộc sống thì ngoài yêu
cầu về chất lượng của nội dung văn bản luật (là phải bảo đảm tính khả thi, phải phù
hợp với thực tiễn khách quan), cũng cần phải tiến hành tốt việc tổ chức thi hành
luật. Vậy, nếu khi nói đến tính “khả thi” của luật tức là chỉ nhằm tới “khả năng”
thực hiện, thì hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp một dự án luật có tính khả thi
nhưng không đi vào được cuộc sống do khâu tổ chức thực hiện (không tổ chức
thực hiện hoặc tổ chức thực hiện không tốt).

Do đó, tính khả thi của văn bản pháp luật được hiểu là khả năng thực hiện trên
thực tế của văn bản đó. Tính khả thi là một trong những yêu cầu về nội dung, mang lại
chất lượng cao cho văn bản pháp luật nói chung, vì vậy, để một văn bản có khả năng
thực hiện trên thực tế và dễ đi vào cuộc sống thì cần những điều kiện cụ thể, nhất định.
2. Các điều kiện để đảm bảo tính khả thi trong văn bản pháp luật:
2.1. Nội dung văn bản pháp luật phù hợp với đường lối chính sách của
Đảng, với lợi ích của các bên liên quan.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Muốn dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, bảo đảm định hướng xã hội
LÊ VÂN ANH – MSSV: 341810 2
Bài tập học kỳ môn: Xây dựng pháp luật
chủ nghĩa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, tạo điều kiện thực
hiện, bảo vệ quyền con người; muốn đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng
trở thành hiện thực trong cuộc sống xã hội thì sự lãnh đạo của Đảng phải được thể
chế hóa thành pháp luật. Với tư cách là phương tiện cơ bản của Nhà nước trong
quản lý, các văn bản pháp luật phải có nội dung phù hợp với đường lối chính sách
của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình thể chế hóa thành pháp luật hoặc
trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế các đường lối chính sách đó, có như vậy
mới đảm bảo thực hiện có hiệu quả và mới bảo vệ hữu hiệu lợi ích cơ bản của giai
cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp thì vấn đề lợi ích luôn luôn rất phức tạp,
ở một chừng mực nào đó vẫn tồn tại những mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các
giai tầng khác nhau và khi đó nếu nội dung của văn bản phù hợp với lợi ích của
giai tầng này thì sẽ có thể bất lợi cho giai tầng khác. Vì vậy, với bản chất xã hội
của mình, Nhà nước là chủ thể duy nhất đại diện hợp pháp cho toàn xã hội và Nhà
nước phải có nhiệm vụ xem xét để tạo ra sự hợp lý về lợi ích của tất cả các giai
tầng trong xã hội thì mới có thể tạo ra sự ổn định, tạo ra tiền đề cho sự phát triển
của xã hội. Trong quá trình đó, cần xác định rõ những lợi ích nào là lợi ích chung,
cơ bản phải bảo vệ, không thể dung hòa; những lợi ích nào là riêng hoặc thứ yếu,

có thể dung hòa. Đối với những vấn đề cơ bản như: Vai trò lãnh đạo của Đảng định
hướng phát triển, nền tảng tư tưởng của xã hội, quyền sở hữu của Nhà nước, quyền
tự do dân chủ của công dân thì Nhà nước phải thiết lập, bảo vệ, còn đối với lợi ích
riêng của một giai tầng nào đó đối lập với lợi ích của giai tầng khác thì Nhà nước
cần có biện pháp dung hòa lợi ích của những giai tầng đó. Văn bản pháp luật sẽ
được tự giác thực hiện và nhờ đó sẽ có khả năng tác động cao nhất khi có nội dung
phù hợp với lợi ích của những bên hữu quan; trong trường hợp ngược lại thì khó có
thể tránh khỏi sự lẩn tránh thực hiện, thậm chí chống đối lại sự tác động của Nhà
nước, văn bản có hiệu lực thấp và muốn được thực hiện trong thực tế thì Nhà nước
phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế.
2.2. Nội dung văn bản phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của
đời sống xã hội.
Sự phù hợp đó trước hết thể hiện trong tính kịp thời của văn bản pháp luật.
Do các vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước rất đa dạng: có vấn đề đã phát sinh
từ trước, đang được tác động bằng những văn bản pháp luật nhưng sự tác động
chưa khoa học, kém hiệu quả (Ví dụ: Trong hoạt động Kiểm toán độc lập, Nghị
định của Chính phủ về Kiểm toán độc lập mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung, thay
thế nhiều lần nhưng vẫn chưa toàn diện, trong khi rất nhiều lĩnh vực đã được điều
chỉnh bằng luật như doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh bất động sản, kế toán, chứng
khoán... tạo ra sự thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế, chưa
tương xứng với vai trò, vị trí của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường);
có vấn đề mới phát sinh mà chưa có văn bản nào tác động; có vấn đề tất yếu sẽ
phát sinh và khi phát sinh cần được tác động ngay, nên việc chủ thể có thẩm quyền
nắm bắt chính xác, kịp thời những vấn đề đó và ra văn bản pháp luật để giải quyết
là cần thiết, là một tất yếu khách quan, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của đời sống xã
hội, kịp thời tác động tích cực vào các quan hệ xã hội (khả năng tác động cao);
LÊ VÂN ANH – MSSV: 341810 3
Bài tập học kỳ môn: Xây dựng pháp luật
ngược lại, văn bản pháp luật được ban hành trên suy đoán chủ quan, duy ý chí, xa
rời thực tiễn của chủ thể quản lý nhà nước thì khó có thể biến thành hiện thực (khả

năng tác động thấp) vì thực tiễn không có nhu cầu được tác động bởi văn bản đó.
2.2.1. Phù hợp với thực trạng các yếu tố thuộc cơ sở vật chất trong xã hội.
Cơ sở vật chất của đời sống xã hội rất đa dạng, gồm: tài chính, nguyên liệu,
vật liệu, tài nguyên, môi trường, đất đai, giao thông… là những điều kiện vật chất
cần thiết cho việc thực hiện văn bản, nên nội dung văn bản phải phản ánh (trực tiếp
hoặc gián tiếp) về thực trạng, phải phù hợp (không cao hoặc thấp hơn) thì mới đảm
bảo tính khả thi; ngược lại, chính những yếu tố đó sẽ bị biến đổi trong những
chừng mực nhất định khi có sự tác động của văn bản. Vì vậy, khi hình thành nội
dung văn bản, chủ thể ban hành phải dựa trên cơ sở các điều kiện vật chất vốn có
trong thực tiễn mà không thể chủ quan duy ý chí; phải chú ý tới khả năng, mang lại
hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả kinh tế của chúng trong quá trình tác động, nếu
không văn bản có thể rơi vào tình trạng không khả thi hoặc không có hiệu quả,
thậm chí phản tác dụng và có thể gây ra những thiệt hại khó lường.
Ví dụ trong lĩnh vực đất đai, tranh chấp quyền sử dụng đất, khiếu nại hành vi
hành chính, quyết định hành chính là một trong những nhóm quan hệ diễn ra thường
xuyên, phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình an ninh, kinh tế, xã
hội của mỗi địa phương. Hiện nay, Luật Đất đai năm 2003 quy định hòa giải tranh
chấp đất đai là trình tự, thủ tục bắt buộc, quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ
việc tranh chấp về quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về đất đai
chưa chặt chẽ nên phần nào làm giảm đi tính hiệu quả của công tác này (Luật Đất
đai năm 2003 không quy định biên bản hòa giải tranh chấp đất đai đó được các bên
tranh chấp thống nhất có hiệu lực pháp luật hay không). Tranh chấp quyền sử dụng
đất là một dạng tranh chấp đặc thù, liên quan đến các chính sách, pháp luật theo từng
giai đoạn khác nhau và tính chất, đặc điểm của từng vụ việc, quan hệ tranh chấp đất
đai tại các vùng miền khác nhau. Do đó, việc giải quyết phải phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội và luôn đảm bảo tính khả thi trong thực tế. Qua nghiên cứu các vụ
việc tranh chấp quyền sử dụng đất cho thấy, hầu như các căn cứ 3, 4, 5 của Điều 161
Nghị định 181/2004/NĐ-CP không được áp dụng trong quá trình giải quyết, vì nó
không chứa đựng tính chất pháp lý rõ ràng và không đủ tính định lượng, để phục vụ
cho việc xem xét, đánh giá khách quan, chính xác khi giải quyết các tranh chấp về

đất đai. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, luôn gắn liền với chủ thể quản lý, sử
dụng nhất định và cần phải tôn trọng quá trình quản lý, sử dụng.
2.2.2 Phù hợp với thực trạng nguồn nhân lực, đối tượng tác động của văn bản.
Vì con người vừa là chủ thể hình thành nên văn bản pháp luật và tổ thực
hiện văn bản đó trong thực tiễn lại vừa là đối tượng quản lý chịu sự chi phối tác
động của văn bản, có nghĩa vụ thi hành văn bản, nên dù với tư cách nào thì con
người cũng phải thực hiện các văn bản pháp luật theo yêu cầu của Nhà nước và
muốn thực hiện tốt những hoạt động đó phải có đủ về số lượng và chất lượng nhân
lực; nếu thiếu điều kiện về nhân lực thì sẽ không thể kịp thời ban hành văn bản và
cũng không thể hiện thực hóa các quy định trong văn bản nhưng nếu sử dụng
không hết nhân lực thì sẽ gây lãng phí, làm giảm sút hiệu lực của quản lý nhà
LÊ VÂN ANH – MSSV: 341810 4
Bài tập học kỳ môn: Xây dựng pháp luật
nước. Nếu chỉ tiếp cận từ góc độ hẹp, xem xét vai trò của con người trong giai
đoạn thực hiện văn bản pháp luật thì cũng có thể thấy rõ: số lượng và đặc biệt là
trình độ nhận thức của những đối tượng quản lý có liên quan ảnh hưởng rất lớn đến
việc thực hiện văn bản pháp luật. Vì vậy, nếu nội dung của văn bản pháp luật phù
hợp với trình độ nhận thức chung, với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công
chức và của nhân dân thì sẽ góp phần tích cực trong việc tạo ra nhận thức, tâm lý
tích cực đối với văn bản, mong muốn văn bản được thực hiện, tự giác, tối đa thực
hiện và có đủ khả năng, trình độ cần thiết để thực hiện văn bản, ngược lại nếu
không phù hợp thì có thể dẫn tới tình trạng những bên có liên quan cố ý lẩn tránh
thực hiện nghĩa vụ, hoặc không đủ năng lực cần thiết để thực hiện văn bản.
2.2.3. Phù hợp với thực trạng ý thức xã hội, đặc biệt là các quy phạm đạo
đức, tôn giáo, phong tục, tập quán trong xã hội.
Vì muốn tác động vào các đối tượng quản lý, trước hết chủ thể có thẩm
quyền phải sử dụng văn bản đề tác động tới nhận thức của các đối tượng có liên
quan, qua đó mới điều chỉnh hành vi của họ, trong khi đó nhận thức của các đối
tượng này bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau thuộc đời sống ý thức xã hội nên
giữa ý thức xã hội với nội dung của các văn bản pháp luật có mối liên hệ mật thiết,

có sự tác động qua lại rất sâu sắc. Nhà nước xây dựng văn bản để tác động và có
thể tạo ra sự thay đổi từng bộ phận của ý thức xã hội, nhưng về nguyên tắc vẫn
phải bảo vệ, phát triển và cao hơn nữa là phải tạo ra sự phù hợp với các quy phạm
đạo đức, tôn giáo, những phong tục, tập quán trong xã hội, không trái với bản chất,
mục tiêu của Nhà nước. Nếu tác động trái với các yếu tố khách quan của đời sống
ý thức xã hội thì sẽ đẩy các bên có liên quan vào tình trạng phải cân nhắc, lựa chọn
giữa pháp luật với các quy phạm khác khi thực hiện hành vi trong thực tiễn và khi
các quy phạm khác được lựa chọn, pháp luật bị xâm hại hoặc khi Nhà nước tổ chức
thực hiện triệt để các quy định không phù hợp thì tất yếu sẽ làm thay đổi, thậm chí
loại bỏ một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có thể tạo ra những xáo trộn trong
nhận thức, tình cảm của đối tượng quản lý theo khuynh hướng mà Nhà nước không
dự kiến và cũng không mong muốn. Do đó, khi xác lập nội dụng văn bản pháp luật
cần đặc biệt chú ý tới các yếu tố thuộc phạm trú ý thức xã hội để tạo ra sự phù hợp
của nội dung văn bản pháp luật với những yếu tố đó thì mới bảo đảm được hiệu
lực, hiệu quả tác động của văn bản.
2.2.4. Phù hợp với quy luật vận động của đời sống xã hội, tác động vào
những quan hệ xã hội theo đúng những khuynh hướng vận động nội tại, mang
tính tất yếu của chúng.
Nếu nội dung văn bản pháp luật phù hợp với những quy luật đó thì khả năng
tác động của nó rất cao, chủ thể quản lý sẽ đạt được mục đích đã đặt ra. Ngược lại,
khi nội dung văn bản không phù hợp quy luật thì văn bản có rất ít, thậm chí hoàn
toàn không có khả năng tác động vào các quan hệ xã hội, văn bản trở nên vô nghĩa,
không có tác dụng trên thực tế và nếu Nhà nước dùng sức mạnh cưỡng chế để tổ
chức thực hiện những văn bản này thì có thể gây ra những hậu quả khó lường, vì
vậy cần phát hiện để vận dụng các quy luật này vào việc hình thành nội dung văn
bản, trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác – Lênin.
LÊ VÂN ANH – MSSV: 341810 5

×