Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Vai trò của văn học dân gian trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại dấu ấn của truyện cổ dân gian trong một số tác giả, tác phẩm tự sự Việt Nam sau 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 180 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
PHẠM THỊ TRÂM



VAI TRÒ CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN

HIỆN ĐẠI

(Dấu ấn của truyện cổ dân gian
trong một số tác giả, tác phẩm tự sự Việt Nam sau 1945)

Chuyên ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN
Mã số: 5.04.07


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS. TS Lê Chí Quế
2. PGS. TS La Khắc Hoà


HÀ NỘI - NĂM 2002










3
mục lục

Trang
a. phần mở đầu
4
I. Lý do chọn đề tài
4
II. Lịch sử vấn đề
8
III. Phạm vi đề tài và phương pháp nghiên cứu
18
B. phần Nội dung

Chương I: vai trò của truyện cổ dân gian
trong đời sống văn hóa, xã hội và văn học
21
1.Vai trò của văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân
gian nói riêng trong đời sống xã hội hiện đại
21
1.1 Văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói
riêng trong tâm thức con người hiện đại
23
1.2 Văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói riêng trong quá
trình phát triển xã hội
29
2 . Vai trò của truyện cổ dân gian trong quá trình hình thành và phát triển của

văn học
36
2.1. Vai trò của truyện cổ dân gian trong sự hình thành và
phát triển các thể loại tự sự văn học Việt Nam
37
2.2. Truyện cổ dân gian và những dấu ấn sáng tạo mới trong
văn xuôi tự sự từ 1945 đến nay
41
Chương II: truyện cổ dân gian và một số hình thức
mô phỏng, phát triển cốt truyện
trong văn học việt nam giai đoạn trước 1975
56
1. Nhà văn viết truyện cổ tích
56
1.1. Cổ tích dân gian và cổ tích văn học - hai hệ thống nghệ
thuật thẩm mĩ tương đồng
56
1.2. Truyện cổ dân gian và sự chế tác của nhà văn
66
1.3. Vai trò của truyện cổ dân gian trong việc hình thành
nội dung và hình thức truyện cổ tích văn học
75


4
2. Truyện cổ dân gian và xu hướng tiểu thuyết hóa
91
2.1. Cơ sở và hình thức hư cấu nghệ thuật
91
2.2. Những thủ pháp nghệ thuật phát triển cốt truyện

97






























5

A. Phần mở đầu

I. Lý do chọn đề tài
1. Mục đích, ý nghĩa
Văn học dân gian và văn học viết là hai hệ thống nghệ thuật riêng
biệt. Chúng tồn tại độc lập và có những đặc trưng riêng, dẫn đến khả năng
nghệ thuật của việc nhận thức và tái tạo hiện thực trong văn học dân gian
và văn học viết không giống nhau. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và
phát triển, hai hệ thống nghệ thuật này luôn luôn có sự ảnh hưởng và tác
động qua lại lẫn nhau một cách sâu sắc, thúc đẩy nền văn học dân tộc ngày
càng phát triển.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết ở
nước ta từ trước đến nay là một vấn đề thu hút được nhiều nhà khoa học
quan tâm. Mối quan hệ đó cũng được các nhà nghiên cứu xem xét dưới
nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, nhiều bình diện, nhưng cuối cùng, dù
nghiên cứu ở mức độ nào, mục đích đi vào nghiên cứu sự ảnh hưởng giữa
văn học dân gian và văn học viết cũng là để xem xét số phận lịch sử của
một hiện tượng nghệ thuật nói riêng, một hiện tượng văn hóa nói chung.
Chẳng hạn nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã so sánh câu lục bát trong ca dao
và câu lục bát trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác giả đã chứng minh,
từ lục bát trong ca dao đến lục bát trong Truyện Kiều có một quá trình vận
động rất lớn, nó đã biến câu lục bát thô mộc thành câu thơ (hiểu theo
nghĩa đã được gia công, sáng tạo). Đặt trong sự phân tích đối sánh giữa
hai loại chúng ta sẽ thấy được quá trình phát triển của câu thơ lục bát
trong tiến trình phát triển. Cũng như vậy, nếu như Phan Ngọc đi vào
nghiên cứu câu lục bát để chỉ ra số phận lịch sử của nó, thì nhà nghiên cứu
Kiều Thu Hoạch trong bài “Vai trò của truyện kể dân gian đối với sự hình
thành các thể loại tự sự trong văn học Việt Nam”[102, tr.74] lại quan tâm

đến sự ảnh hưởng, tác động trực tiếp của truyện kể dân gian trong việc
hình thành các thể loại tự sự trong văn học Việt Nam, qua đó chỉ ra vai
trò, sức sống của nó trong sự vận động và phát triển của nền văn học viết.


6
Chính vì vậy, đề tài mà chúng tôi lựa chọn, nếu giải quyết tốt sẽ có
một ý nghĩa quan trọng về phương diện lịch sử văn học. Bởi, trong thực tế
mối quan hệ qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết diễn ra vô cùng
phong phú, sinh động và thường xuyên nảy sinh cùng với sự phát triển của
lịch sử văn học, cần được tiếp tục nghiên cứu, cần được tiếp tục cập nhật
cả về thực tiễn và lí luận.
Dựa trên kết quả thực hiện đề tài, luận án chúng tôi sẽ đưa ra được
những khái quát về lí thuyết, chỉ ra được những quy luật trong kế thừa và
tiếp nhận của văn học, nhằm đóng góp bổ sung vào hệ thống lí luận chung.
Trên cơ sở đó, áp dụng cho việc tiếp tục nghiên cứu những diễn biến của
những hiện tượng văn học ở những giai đoạn tiếp theo.
Đề tài mà chúng tôi thực hiện còn có ý nghĩa thời sự cấp thiết.
Như chúng ta đã biết, thời đại ngày nay đang diễn ra xu hướng toàn
cầu hóa nhanh chóng. Thế giới, do sự phát triển của các phương tiện thông
tin, đã dần thu nhỏ lại. Các vấn đề chung của thế giới như kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội đều được đặt trong mối quan hệ liên đới và trách
nhiệm cao. Chứng kiến thời kì lịch sử toàn cầu hóa, các dân tộc buộc phải
mở cửa tiếp thu và hội nhập trong sự tác động nhiều chiều ấy. Bên cạnh
những mặt tích cực thì việc mở cửa và giao lưu với bên ngoài cũng không
tránh khỏi những mặt trái, mặt tiêu cực, chủ yếu là thuộc lĩnh vực văn hóa.
Nhiều luồng tư tưởng và lối sống của văn hóa phương Tây đã ít nhiều ảnh
hưởng đến đời sống con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Có không ít những
biểu hiện lai căng, mất gốc, coi thường những giá trị truyền thống. Nhiều
nhà khoa học xã hội thế giới cũng đã đưa ra những dự báo về xã hội tương

lai mà nhiều người gọi là xã hội “hậu công nghiệp”. Tuy nhiên cũng
không phủ nhận những hậu họa có thể xảy ra nếu chỉ chú ý đến sự phát
triển kinh tế mà không quan tâm đến văn hóa, đến con người có văn hóa.
Nhiều tác giả, nhất là Alvin Toffler trong tác phẩm nổi tiếng “Làn sóng
thứ ba” (The third wave) đã phê phán nền kĩ trị, một cơ chế xã hội mới với
những mâu thuẫn gay gắt và nan giải. Ngay trong bản thân con người,
trong sự phát triển cao cũng nhiều khi sa vào xu hướng lệch lạc, phiến
diện, cứng nhắc, đơn điệu, thậm chí vô cảm hơn do tính chất chương trình


7
hóa và điều kiện hóa rất nặng nề, tạo nên những cảm xúc và thị hiếu “nhãn
hiệu”, “đóng hộp”. Vậy, làm sao giữ được bản sắc dân tộc, giữ được
những giá trị truyền thống tốt đẹp, giữ được cá tính trong mỗi con người,
làm sao giữ được những trạng thái “hồn nhiên”, “tự nhiên” vốn có của con
người cũng là một vấn đề thời sự. Vấn đề này cũng được Đảng ta thể hiện
rõ trong nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa VII), về việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, quyết tâm đẩy lùi những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài du
nhập; giữ gìn và phát huy được những giá trị truyền thống nhân văn tốt
đẹp của dân tộc; tiếp thu được những tinh hoa, những tư tưởng, trình độ
hiện đại của thế giới. Điều đáng chú ý là, những năm gần đây, các nước
công nghiệp phát triển có xu hướng quay về những giá trị của văn hóa dân
gian như là một phản ứng tự nhiên đối với sự phát triển không lành mạnh
của nền công nghiệp chính nước họ.
Bản sắc văn hóa Việt Nam, ở phần chủ yếu nhất của nó đều nằm vào
phần dân gian - dân tộc, trong đó có các sáng tác dân gian. Chính vì vậy,
nếu giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài chắc chắn sẽ có tác động
tích cực đến tình hình sáng tác hiện nay trong việc vận dụng những tinh
hoa nghệ thuật truyền thống phục vụ cho cuộc sống hiện đại, nó gợi mở ra

nhiều xu hướng sáng tạo, xu hướng nghiên cứu trong các ngành nghệ thuật
góp phần xây dựng một nền văn nghệ mới, đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một giáo viên giảng dạy môn văn đồng thời làm công tác biên tập
xuất bản mảng sách khoa học xã hội, với tôi đề tài trên còn có ý nghĩa
thiết thực về mặt nghiệp vụ. Một mặt nó cung cấp một hệ thống tư liệu
phong phú về tác phẩm cũng như các hình thức kế thừa sáng tạo của nhiều
nhà văn trong một giai đoạn văn học dài. Mặt khác, nó giúp tôi nhận thức
tính chiều sâu của văn hóa, văn học dân tộc, thấy được vai trò và sự tác
động sâu sắc của nó trong đời sống xã hội hiện đại. Đó là những cơ sở về
lí luận và thực tiễn giúp tôi có ý thức giảng dạy và biên tập ngày càng tốt
hơn.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Dựa trên mục đích và ý nghĩa của đề tài, tình hình nghiên cứu ở Việt
Nam, luận án của chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ cụ thể như sau:


8
- Chỉ ra được vai trò và sức sống tiềm tàng của truyện cổ, chỉ ra phạm
vi ảnh hưởng, sự tác động to lớn và sâu sắc của nó trong đời sống văn hóa,
xã hội và trong văn học ở mức độ tổng thể, khái quát.
- Luận án đặt ra nhiệm vụ khảo sát cụ thể các tác giả, tác phẩm mà chủ
yếu tập trung vào những sáng tác của những nhà văn tiêu biểu để chỉ ra hiện
tượng Fakelore (là thuật ngữ được đặt ra để gọi chung những tác phẩm
được phóng tác theo khuôn thức của Folklore hay còn gọi là giả dân gian)
nhằm chỉ ra hiện tượng đồng sáng tạo, hiện tượng mô phỏng phát triển cốt
chuyện một cách thuần tuý tác phẩm dân gian; chỉ ra những cách tân nghệ
thuật của các nhà văn hiện đại khi sử dụng văn học dân gian như cội nguồn
khơi gợi để phản ánh những vấn đề của thời đại mới.
- Tìm hiểu những nét truyền thống và hiện đại trong việc kế thừa và
sáng tạo của nhà văn trong từng tác phẩm, từng xu hướng, từng cấp độ

khảo sát.
- Xác định được mục đích và lí giải được nguyên nhân của những xu
hướng và sáng tạo của các nhà văn khi quay trở về vận dụng những kinh
nghiệm nghệ thuật truyền thống dân gian ở từng thời kì lịch sử khác nhau.
Đặc biệt là trong những giai đoạn lịch sử có những biến cố trọng đại. Trên
cơ sở đó thấy được sức sống tiềm tàng của truyện cổ dân gian nói riêng,
văn học dân gian nói chung, thấy được sứ mạng lịch sử của văn học dân
gian trong quá trình phát triển xã hội, thấy được tài năng sáng tạo của
người nghệ sĩ khi kế thừa tinh hoa nghệ thuật truyền thống, những giá trị
tinh thần của quá khứ được kết tinh trong văn học.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện cổ và tác phẩm truyện trong
sáng tác của một số nhà văn tiêu biểu nhằm đưa ra những khái quát lí
thuyết về mối quan hệ giữa hai hệ thống nghệ thuật văn học dân gian và
văn học viết trong tiến trình lịch sử văn học. Tìm ra những nguyên tắc tiếp
nhận và sáng tạo của văn học đối với văn học dân gian ở những xu hướng
và cấp độ ảnh hưởng khác nhau.
3. Những đóng góp mới của luận án
1. Lần đầu tiên luận án xác định được một cách cụ thể truyện cổ và
truyện trong sáng tác của các nhà văn là hai hệ thống nghệ thuật đặc trưng,


9
chuyên biệt nhưng thường xuyên có tác động ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau
trên một phạm vi rộng lớn, và trong một tiến trình lịch sử lâu dài.
2. Luận án là công trình đầu tiên vận dụng lí luận nhiều chiều để khảo
sát một cách cụ thể hàng loạt hiện tượng đồng sáng tạo qua sáng tác của
một số nhà văn trên những khuôn thức nghệ thuật dân gian để bắt chước,
mô phỏng và phát triển cốt truyện nhằm tạo ra những tác phẩm nghệ thuật
theo kiểu có địa chỉ tiếp nhận (viết cho thiếu nhi).
3. Luận án là công trình đầu tiên khảo sát một vệt hiện tượng mới của

các nhà văn sau năm 1975 dùng truyện cổ dân gian như là một xuất phát
điểm để khơi thông những hình thức sáng tạo mới, hướng tới mục đích
phản ánh những vấn đề thế sự, nhân sinh của xã hội Việt Nam thời kỳ đổi
mới, đánh động nhiều suy ngẫm cho người đọc hiện đại.

II. Lịch sử vấn đề
Như đã trình bày ở trên, mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn
học viết đã có từ lâu và cuốn hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước, ngoài nước được
xuất bản thành sách hoặc đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Tuy
nhiên, do tính chất và giới hạn của đề tài nên trong phần lịch sử vấn đề
chúng tôi chỉ điểm lại các công trình tiêu biểu của Việt Nam bàn về mối
quan hệ văn học dân gian - văn học viết từ góc độ lí luận chung và qua
một số tác gia, tác phẩm văn học.
Về phương diện lí luận chung, trước tiên phải kể đến các công trình
nghiên cứu của các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang
Nhơn về “Văn học dân gian Việt Nam”[46], công trình nghiên cứu của
Cao Huy Đỉnh về “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam”[16],
công trình của Đỗ Bình Trị về “Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học
dân gian Việt Nam” [87].
Nhìn chung, các công trình nói trên không trình bày thành một hệ
thống chuyên sâu, nhưng rải rác trong các chương mục, các nhà nghiên
cứu trên đều đề cập đến mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học
viết thông qua đặc trưng của văn học dân gian, về tính đặc thù của sự phát


10
triển nền văn học viết trong mối tương quan với văn học dân gian ở Việt
Nam.
Gần đây, Đinh Gia Khánh trong công trình nghiên cứu về “Văn hóa

dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam” cũng đánh giá
rất cao sức sống của văn hoá dân gian trong đó có bộ phận văn học dân
gian trong xã hội hiện đại, “vừa chứa đựng những tiềm năng, vừa chứa
đựng những động lực cho việc không ngừng xây dựng nên những giá trị
thẩm mĩ mới” [45, tr.160]. Không những thế, tác giả công trình còn khẳng
định ý nghĩa chính trị và xã hội to lớn của văn hóa dân gian. Tác giả cho
rằng “các nhà hoạt động chính trị, xã hội và tôn giáo, các tổ chức chính trị,
xã hội và tôn giáo cũng lại luôn luôn quan tâm đến các vấn đề văn hóa dân
gian và tìm cách khai thác các giá trị văn hóa dân gian vì mục đích của
mình”[45, tr.18].
Xem xét sự tác động ảnh hưởng của văn học dân gian - văn học viết
trong lịch sử từ khi văn học hình thành, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được
mối quan hệ sâu sắc giữa hai bộ phận đó trong sự tác động qua lại hỗ trợ
lẫn nhau trong quá trình phát triển. Tuy nhiên mức độ, tính chất của sự
ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào từng thời kì lịch sử, thời kì phát triển của
văn học. Chẳng hạn, ở thời kì đầu, văn học viết gần gũi với văn học dân
gian trên nhiều phương diện, trong đó hình thức vay mượn ở dạng mô
phỏng, sao chép. Văn học dân gian lúc này như là chất liệu, là nguồn cảm
hứng trực tiếp đối với sáng tác văn học. Cùng với thời gian, văn học dân
gian không tồn tại trong văn học viết một cách thụ động, bột phát nữa mà
nó trở thành một kho báu về những kinh nghiệm nghệ thuật phong phú
cho sự sáng tạo của văn học.
Nghiên cứu trên bình diện lí luận chung về ảnh hưởng của văn học
dân gian trong quá trình phát triển văn học dân tộc có một số bài báo đáng
chú ý. Tiêu biểu là bài viết của tác giả Lê Kinh Khiên bàn về “Một số vấn
đề lí thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian - văn học viết”[39].
Tác giả bài viết đã nhìn nhận vấn đề dựa trên cơ sở lịch sử văn học dân tộc
để chỉ ra điều kiện, hoàn cảnh ra đời, đặc trưng thi pháp chung của sự tác
động qua lại giữa hai hệ thống nghệ thuật. Tác giả bài viết đã chỉ ra bản



11
chất của mối quan hệ văn học dân gian - văn học viết “là mối quan hệ tác
động qua lại giữa hai hệ thống thẩm mĩ độc lập, ra đời và tồn tại, phát
triển trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể khác nhau theo những quy
luật riêng tuy cả hai đều có một cái nền chung là thực tiễn đời sống dân
tộc, nền văn hóa dân tộc, đều chịu sự chi phối bởi những qui luật chung
của hoạt động sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn từ. Những cái chung này là
cơ sở, đồng thời là điều kiện để cho văn học dân gian và văn học viết có
thể phát sinh quan hệ tác động lẫn nhau” [39, tr.70]. Sau khi khảo sát sự
ảnh hưởng của văn học dân gian và văn học viết, tác giả cho rằng “có thể
nghiên cứu ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết theo
những qui mô và cấp độ khác nhau”.
Mặc dù chỉ dừng lại ở những vấn đề có tính chất lí thuyết nhưng
những vấn đề mà tác giả đặt ra có cơ sở khoa học và tính thuyết phục rất
cao. Có thể nói bài viết của ông đã gợi ra nhiều ý tưởng cho việc đi vào
nghiên cứu mối quan hệ giữa hai loại hình văn học này theo nhiều hướng
khác nhau, trong đó có công trình của chúng tôi.
Nhà nghiên cứu Hà Công Tài trong bài viết “Để nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học dân gian và văn học viết” đã cho rằng: Nghiên cứu mối
quan hệ này phải nghiên cứu qua tác phẩm cụ thể. Tác giả bài viết đã chỉ
ra sự tương đồng giữa thơ ca dân gian và thơ ca của các tác giả. “Đó là sự
kế thừa trên các yếu tố nghệ thuật: Thể thơ, cấu trúc, môtíp, nhân vật”
tất cả các yếu tố đó làm nên phong cách dân gian. Tác giả bài viết khẳng
định: “phong cách thể loại của văn học dân gian chính là vấn đề then chốt
trong việc tìm hiểu quan hệ văn học dân gian và văn học” [78, tr.46 - 49].
Chu Xuân Diên lại mượn lời của M. Goocki “nhà văn không biết đến
văn học dân gian là một nhà văn tồi” để mở đầu cho bài viết của mình “Nhà
văn và sáng tác dân gian”, trong đó tác giả đã chỉ ra hàng loạt các văn nghệ
sĩ có tên tuổi trên văn đàn nước ta đã gắn bó mật thiết với văn học dân gian

như Tô Hoài, Tú Mỡ, Xuân Diệu Cuối cùng tác giả bài báo đi đến khẳng
định “sáng tác dân gian cung cấp nhiều tài liệu quí cho nhà văn xây dựng
những biện pháp nghệ thuật và ngôn ngữ văn học phù hợp với yêu cầu thẩm
mĩ có truyền thống từ lâu đời của quảng đại quần chúng lao động. Nhưng


12
sáng tác dân gian còn là một pho lịch sử vô cùng sinh động về cuộc sống
của nhân dân do chính nhân dân viết nên. Trong đó có biểu hiện đầy đủ
những quan điểm lịch sử xã hội của nhân dân qua nhiều thời kì lịch sử khác
nhau. Do đó sự chú ý của nhà văn tới sáng tác dân gian cũng như việc sưu
tầm ghi chép và nghiên cứu những sáng tác ấy, thường gắn liền với công
việc tìm hiểu và nghiên cứu đời sống nhân dân, tâm hồn nhân dân, chuẩn bị
cho việc xây dựng những bức tranh xã hội trong đó nhân dân lao động đóng
vai trò chủ yếu” [9, tr.19].
Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị trong bài “Mấy ý kiến về vấn đề nghiên
cứu mối quan hệ giữa văn học với văn học dân gian” cho rằng, muốn
nghiên cứu mối quan hệ này phải thông qua nghiên cứu lí luận chung, tức
là phải nghiên cứu “văn học dân gian ảnh hưởng tới văn học cụ thể ra sao?
dưới những hình thức nào? Và, việc văn học ảnh hưởng về nguồn sáng tác
nghệ thuật truyền miệng của nhân dân được quy định và điều tiết bởi
những nhân tố nào?” [88, tr.51 - 52].
Về vấn đề lí luận chung, ý kiến của tác giả Đặng Văn Lung bàn về
“Vai trò của văn học dân gian trong sự phát triển của văn học dân tộc”
cũng đề cập đến việc nhà văn sử dụng văn học dân gian, tức là “đi tìm các
giá trị sử dụng của văn học dân gian dưới góc độ sáng tác văn học”[56,
tr.92]. Tác giả bài viết đã đưa ra hàng loạt hiện tượng từ trong lịch sử văn
học ảnh hưởng văn học dân gian theo kiểu dạng mang tính chất trực quan,
kinh nghiệm như cốt truyện, hình tượng nhân vật, môtíp (Việt điện u
linh, Lĩnh Nam chích quái ).

Trong bài “Để tiến tới xác định rõ ràng hơn nữa vai trò làm nền của
văn học dân gian trong lịch sử văn học dân tộc” Nguyễn Đình Chú cũng
đi tới khẳng định “Chính văn học dân gian là nền tảng của sự phát triển
kết tinh của văn học dân tộc”[6, tr.87]. Đặc biệt là, khi văn học ra đời thì
“văn học dân gian không những không teo lại, trái lại vẫn tồn tại như một
dòng riêng và tiếp tục phát triển, do đó vẫn tiếp tục tăng cường vai trò làm
nền cho sự kết tinh của văn học viết”[6, tr.88].
Về sự hình thành thể loại, tác giả Kiều Thu Hoạch trong bài viết “Vai
trò của truyện kể dân gian với sự hình thành các thể loại tự sự trong văn
học Việt Nam”[102] đã đi vào khảo sát một cách công phu mối quan hệ từ


13
xa xưa của văn học dân gian đối với văn học viết qua các tác phẩm văn
học thời kì trung đại như Ngoại sử kí của Đỗ Thiện, Báo cực truyện (Vô
danh), Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ
Quỳnh - Kiều Phú, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Qua đối chiếu với
nhiều tác phẩm văn học như Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Thì Nhậm,
các truyện thơ Nôm, tác giả đã đi đến kết luận “Qui luật chung của nhiều
nền văn học viết đều khởi đầu bằng ghi chép Folklore, các loại hình văn
học tự sự trong văn học viết Việt Nam và thời trung cận đại cũng không ra
ngoài qui luật đó”[102, tr.93]. Trên cơ sở đó tác giả bài viết cũng đi đến
kết luận “kho tàng truyện cổ dân gian đã có vai trò và ảnh hưởng to lớn
đến sự hình thành và phát triển của thể loại văn học tự sự Việt Nam về
nhiều mặt. Có thể nói, kho tàng truyện cổ dân gian chính là một trong
những nguồn suối trong mát đã nuôi dưỡng cho khu vườn văn học tự sự
Việt Nam mãi mãi xanh tươi”[102, tr.93].
Gần đây, công trình nghiên cứu của Võ Quang Trọng có bàn về “Vai
trò của văn học dân gian Việt Nam trong văn xuôi Việt Nam hiện đại”[91].
Tác giả công trình trình bày một hệ thống lí luận về mối quan hệ giữa văn

học dân gian và văn học viết của các nhà nghiên cứu châu Âu, đặc biệt là
ở Nga, ở Việt Nam để nhằm chỉ ra chức năng thẩm mĩ của văn học dân
gian trong văn xuôi hiện đại Việt Nam trong việc xây dựng môi trường cụ
thể, dựng nhân vật người kể chuyện, xây dựng tính cách nhân vật Tác
giả bài viết cũng đã đề cập đến vai trò của cấu trúc, thể loại và phong cách
dân gian trong văn xuôi hiện đại (mối quan hệ thể loại cổ tích dân gian và
cổ tích văn học, mối quan hệ thể loại có cốt truyện dân gian trong văn
xuôi, chỉ ra phong cách nghệ thuật dân gian trong văn xuôi). Xu hướng
nghiên cứu này cũng gần với đề tài mà chúng tôi đặt ra. Tuy nhiên, hướng
giải quyết không trùng lặp và mức độ giải quyết vấn đề khác nhau. Vì tính
chất và giới hạn đặt ra nên tác giả công trình tập trung nhiều vào lí luận
của nước ngoài, phần khảo sát còn sơ lược, đặc biệt là các tác phẩm sau
1975 chưa được đề cập đến. Tuy nhiên, công trình này cũng đã gợi mở
cho chúng tôi hướng nghiên cứu và khảo sát một cách có hệ thống những
ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học hiện đại trong một giai


14
đoạn lịch sử dài (từ 1945 đến nay), nhất là những hiện tượng văn học sau
thời kì đổi mới.
Trên phương diện lịch sử văn học, có khá nhiều bài viết đi vào khảo
sát sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với sáng tác của một số tác giả
tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Hồ Chí Minh,
Nguyễn Bính, Tố Hữu, Trần Hữu Thung Hầu hết các tác giả này đã vận
dụng nguồn ca dao, tục ngữ và thi pháp của văn học dân gian để tạo nên
những tác phẩm trữ tình đậm đà phong vị dân gian. Có thể kể ra hàng loạt
công trình nghiên cứu Folklore như: “Tìm hiểu quan điểm biên soạn và
phương pháp biên soạn Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên” của tác giả
Nguyễn Đăng Na[61]; “Bàn về yếu tố văn học dân gian trong Truyền kỳ

mạn lục của Nguyễn Dữ” của tác giả Bùi Văn Nguyên[73]; “Mối quan hệ
giữa truyện Nôm bình dân và văn học dân gian” của tác giả Vũ Tố
Hảo[22]; Đặc biệt là bài viết “Vai trò của văn học dân gian trong văn học
Việt Nam nói chung, trong Truyện Kiều nói riêng”[92] của tác giả Nguyễn
Khánh Toàn đã khẳng định văn học dân gian có ảnh hưởng đặc biệt mạnh
mẽ sâu sắc trong thời kì đấu tranh ác liệt chống ngoại xâm, khi xã hội có
mâu thuẫn gay gắt. “Vì sao vậy? (ông giải thích) Là vì nhà thơ nhà văn có
vận dụng kho tàng văn học dân gian mới diễn tả được tất cả những khía
cạnh, những chi tiết của tình trạng và tâm tư của người đương thời, mới
phản ảnh được bức tranh của xã hội và những mâu thuẫn của nó. Đồng
thời nó cũng vạch mặt, tố cáo cái bản chất bất nhân, bất nghĩa, sự mục nát
của giai cấp thống trị và chế độ đương thời” [92, tr.11 - 19]. Trên cơ sở đó
tác giả đã khẳng định: “Truyện Kiều là sự vận dụng thiên tài kho văn học
dân gian” [92, tr.19].
ở phần này, Vũ Ngọc Phan viết bài “ảnh hưởng qua lại giữa Truyện
Kiều và thơ ca dân gian Việt Nam”[75]; Đặng Thanh Lê có bài “Từ một
kiệt tác văn học - Suy nghĩ về mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn học dân
gian và văn học viết”[51], tác giả đã quan niệm “nội dung tư tưởng triết lí
của văn học dân gian là nhân tố ảnh hưởng sâu xa nhất, có giá trị nhất đối
với Truyện Kiều và đối với văn học viết”. Sự ảnh hưởng ở đây, theo tác


15
giả “không chỉ là ảnh hưởng cá biệt của một vài truyện cổ tích cụ thể, một
số câu ca dao cụ thể đối với truyện nôm khác. Điều cần nhấn mạnh ở đây
là ảnh hưởng có tính chất toàn diện, bao quát về cả phương diện đề tài, cốt
truyện, lí tưởng đạo đức và cả những hình thái ngôn ngữ nghệ thuật của
nhiều thể loại văn học dân gian đối với văn học viết”[51, tr.47].
Một số nhà nghiên cứu khác lại tìm hiểu ảnh hưởng của văn học dân
gian trong sáng tác của Hồ Xuân Hương. Nguyễn Đăng Na trong bài viết

“Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian” đã cho rằng “Hồ Xuân
Hương nghĩ cái nghĩ dân gian, cảm cái cảm dân gian” [62, tr.36]. Đặng
Thanh Lê trong bài viết “Hồ Xuân Hương – Bài thơ Mời trầu, cộng đồng
truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ văn học dân gian và
văn học viết”[52] đã đi vào nghiên cứu môtíp truyện Trầu cau, trong ca
dao cho đến bài Mời trầu của Hồ Xuân Hương. Tác giả bài viết đã chứng
minh “hệ thống các sáng tác có môtíp Trầu cau đã đi theo những chặng
đường lịch sử khá lôgíc từ sự khẳng định của cộng đồng giai cấp đến sự tự
khẳng định của cộng đồng thế hệ và cuối cùng, sự tự khẳng định của một
cái tôi cá nhân”[52, tr.70].
Tác giả Đặng Văn Lung nghiên cứu “Nguyễn Đình Chiểu và văn học
dân gian”[57] trên bình diện phong cách nghệ thuật. Tác giả nhận xét “cốt
truyện và nhân vật của Nguyễn Đình Chiểu còn ở dạng mô hình” (môtíp
văn học dân gian). “Đối với văn học dân gian ông sử dụng cốt truyện và
phong cách biểu hiện nhưng đã nâng lên để chúng mang một ý nghĩa
nghiêm túc hơn, thời sự hơn” và “qua Nguyễn Đình Chiểu, một bộ phận
văn học dân gian được hồi sinh, được ghi nhận, hơn thế nữa còn báo hiệu
sức đi xa của chúng”[57, tr.57].
Tiếp đến là công trình nghiên cứu của Trịnh Bá Đĩnh: “Tìm hiểu
phong cách dân gian trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến”[17]; của Nguyễn
Khắc Xương: “Tản Đà và văn học dân gian”[103]; của Nguyễn Quốc
Tuý: “Thi pháp dân gian trong thơ Nguyễn Bính”[93]. Các tác giả đều
khẳng định vai trò của văn học dân gian về nhiều góc độ, cả về đề tài lẫn
thi pháp, cách nói dân gian


16
Đề cập đến mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết trên
góc độ lịch sử văn học, các nhà nghiên cứu cũng đề cập đến những tác giả
lớn như Hồ Chủ tịch, Tố Hữu, Nguyễn Thi , những tác giả đã vận dụng

chất dân gian đậm nét.
Trong bài “Phong vị ca dao, dân ca trong thơ Tố Hữu” Nguyễn Phú
Trọng đi đến kết luận “Tố Hữu đã chịu nhiều ảnh hưởng của sáng tác dân
gian”[89, tr.13]. Theo ông, sự ảnh hưởng đó được biểu hiện ở nhiều khía
cạnh như: cách xây dựng nhân vật trong ca dao, kết cấu truyền thống với
hình thức ví von, lối nói của thành ngữ, tục ngữ, thể thơ, kết cấu, nhịp
điệu, lối kể tên địa phương để miêu tả cuộc sống mới
Bác Hồ thường xuyên sử dụng tục ngữ, ca dao hay những câu nói dân
gian. Phân tích hiện tượng này là bài viết của Hà Châu: “Bác Hồ với
nguồn tục ngữ của dân tộc”[2]. ở bài viết này, tác giả cho rằng: “Bác Hồ
nói tiếng nói của nhân dân, thể hiện những nỗi niềm chân thực và sâu sắc
nhất, những ước mơ, những nguyện vọng tha thiết nhất của mọi người
Việt Nam. Bác hay dùng tục ngữ, ca dao, câu nói vè vần Chỉ riêng tục
ngữ, Bác đã sử dụng hàng trăm câu. Những câu tục ngữ ấy sống lại trong
cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Nó
giàu thêm ý nghĩa và trở nên sinh động hơn, sâu sắc hơn”[2, tr.49].
ở một mức độ khái quát hơn, tác giả Nguyễn Xuân Kính có bài “Về
việc vận dụng thi pháp ca dao trong thơ trữ tình hiện nay”[38, tr.44-47].
Tác giả cho rằng nhiều bài thơ trữ tình hiện nay của các tác giả đã “sử
dụng thành công một hay nhiều yếu tố nghệ thuật của ca dao”. Các nhà
thơ trong khi tiếp nhận văn học dân gian: ca dao, dân ca vẫn giữ và phát
triển cái bản sắc riêng của mình, cái bản sắc này của mỗi tác giả lại khác
nhau khi cùng sử dụng thi pháp ca dao, sử dụng môtíp, hình tượng nghệ
thuật
ở mảng truyện, có bài viết của tác giả Vũ Ngọc Phan bàn về “Phong
cách dân gian của người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi”[75]; tiếp đến là
hai bài viết của Đặng Anh Đào “Biển không có Thủy thần”[14] và “Hai
hình thức mới trong truyện ngắn hiện nay”[15]. Bà chỉ ra điểm gần gũi
của Nguyễn Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập dân gian; chỉ



17
ra vệt hiện tượng trong bức tranh toàn cảnh của văn học sau 1986 trong đó
có hình thức nhại cổ tích
Lê Đình Kỵ cũng đưa ra vắn đề “Đối thoại với văn học dân gian và
bản lĩnh của người viết”[49]. Sau khi so sánh giữa nhân vật Trương Chi
của truyện cổ và Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp, ông khẳng định tài
năng sáng tạo của nhà văn và đi đến kết luận “dù sao Nguyễn Huy Thiệp
có được ý nghĩ cũng là nhờ nương bóng thiên tài dân gian”[49, tr.31].
Gần đây trong cuốn “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”[72] do Phạm Xuân
Nguyên sưu tầm và biên soạn đã tập hợp nhiều bài viết đề cập đến ảnh
hưởng của văn học dân gian trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp về việc sử dụng chất liệu văn học dân gian, ngôn ngữ dân gian,
phong cách dân gian, thi pháp dân gian Trong đó đáng chú ý là bài viết
“Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các
truyền thuyết văn học của tác giả T.N.Philimônôva (nhà nghiên cứu văn
học Nga). Tác giả chỉ rõ “nền tảng của cốt truyện cổ tích này, sử dụng các
môtíp cổ tích điển hình và cũng giống như trong các truyện cổ tích” [72,
tr.70]. Trong đó nhà văn sử dụng nhiều yếu tố kì diệu, kết cấu tác phẩm
vốn là những cấu trúc hình thức của truyện cổ dân gian.
Cũng trong cuốn sách còn có bài viết “Về cái ma lực trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp” của tác giả Đông La [72], “Đọc Nguyễn Huy
Thiệp” của tác giả Văn Tâm [72]; “Nguyễn Huy Thiệp: Những chuyện
huyền kì, núi, sông và nước” của Nguyễn Vi Khanh [72]; “Tư duy tiểu
thuyết và Folklore hiện đại” của tác giả Hoàng Ngọc Hiến [72] đều hoặc
đề cập đến chất triết lí, chất huyền thoại trong tầng bậc của truyện Nguyễn
Huy Thiệp.
Gần đây, trong Hội thảo Tự sự học do khoa Văn trường Đại học sư
phạm Hà Nội tổ chức cũng có một số bài viết đề cập đến mối quan hệ ảnh
hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết. Trong đó đáng chú ý là

bài viết của Trần Đình Sử về “Mô hình tự sự Truyện Kiều”[67]; của
Nguyễn Bích Hà về “Tự sự trong loại hình trữ tình dân gian”[67]; của
Chu Văn Sơn về “Truyện cổ tích và hiện thực trong tự sự Tô Hoài từ điểm
nhìn vợ chồng A Phủ” [67].


18
Sau khi điểm các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, chúng ta
có thể nhận thấy: khi nghiên cứu các vấn đề về mối quan hệ của văn học
dân gian - văn học viết qua các chuyên luận, các nhà nghiên cứu thường
đưa ra những vấn đề có tính chất lí luận chung. Nghiên cứu những khía
cạnh, những phương diện của mối quan hệ này thường còn ở mức độ
những bài báo, những tiểu luận khoa học ngắn.
Một số công trình khảo sát sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với
một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,
Nguyễn Bính, Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Thi Vấn đề ảnh hưởng của
văn học dân gian trong văn học tự sự được đề cập đến chưa nhiều hoặc chỉ
trình bày một cách giản lược, chưa có hệ thống. Đặc biệt là nghiên cứu hiện
tượng văn học tiếp nối sau 1975 chưa được đề cập đến nhiều, chưa được
khái quát ở mức độ sâu rộng mà chỉ dừng ở mức độ gợi mở. Chính vì thế
nó còn để lại những mảnh đất màu mỡ cho những người đi sau tiếp tục
nghiên cứu theo một hệ thống ở mức độ chuyên luận, tiếp tục cập nhật
những khoảng trống thiếu hụt về lí luận và thực tiễn khi mà các hiện tượng
văn học không bao giờ ngừng tiếp diễn và sáng tạo qua thời gian.

III. Phạm vi đề tài và phương pháp nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu và tư liệu khảo sát
- Trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều dạng vẻ của văn học dân gian
và văn học viết, đề tài chúng tôi chỉ đi vào nhận diện và khảo sát những
ảnh hưởng, những dấu ấn của bộ phận truyện cổ đối với bộ phận truyện

trong văn học 1945 đến nay dưới hai góc độ: nghiên cứu sức sống tiềm
tàng của văn học dân gian trong quá trình vận động, phát triển của văn
học; nghiên cứu những xu hướng, cấp độ sử dụng cốt truyện, sử dụng thi
pháp của truyện cổ dân gian. Những mối quan hệ ảnh hưởng ở những tầng
bậc sâu hơn, trừu tượng hơn không nằm trong phạm vi nghiên cứu của
chúng tôi.
- Trên cơ sở phân tích những xu hướng, những cấp độ tác động của
truyện cổ đối với bộ phận truyện, chúng tôi sẽ so sánh mức độ giữa các xu
hướng, các cấp độ sử dụng của nhà văn. Mục đích của việc so sánh này là
để tìm hiểu những dấu ấn của sự phát triển và kế thừa những cách tân
trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.


19
- ở mỗi xu hướng, mỗi cấp độ, chúng tôi chọn phân tích những tác gia
tiêu biểu, mà theo chúng tôi là đặc trưng, có dấu ấn rõ nét, có độ kết tụ tác
phẩm đậm đặc cho xu hướng sáng tác, cấp độ sáng tác đó. Chính vì vậy
mà có những tác giả được chúng tôi sử dụng trong nhiều cấp độ hoặc có
cấp độ chỉ có một tác giả.
- Tư liệu khảo sát cho đề tài là các tác phẩm thuộc bộ phận truyện của
các nhà văn Việt Nam (lấy mốc thời gian từ tháng Tám năm 1945 đến nay)
có sử dụng nguồn truyện cổ tạo nên hai xu hướng sáng tạo nói trên.
- Do tính chất của đề tài gắn nối giữa hai loại hình sáng tác nên trong
quá trình khảo sát phân tích ở khu vực hiện đại, chúng tôi có sử dụng các
tác phẩm truyện cổ dân gian cần thiết nhằm tạo cơ sở so sánh, đối chiếu
trong các thao tác nghiên cứu. Cụ thể ở khu vực truyện cổ, chúng tôi chỉ sử
dụng các tác phẩm thuộc thể loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ
ngôn mà nhà văn đã sử dụng cốt truyện hoặc thi pháp nghệ thuật. Trong
khu vực văn học Việt Nam hiện đại sau 1945, chúng tôi chỉ chọn khảo sát
bộ phận truyện của các nhà văn tiêu biểu như: Tô Hoài, Phạm Hổ, Nguyễn

Huy Tưởng, Vũ Tú Nam, Võ Quảng (đại diện cho xu hướng sáng tác theo
mạch tư duy truyền thống). Trong nhóm đại diện cho xu hướng sáng tác
hướng tới những sáng tạo nghệ thuật mới chúng tôi sẽ chọn các nhà văn
Hoà Vang, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Ngô Tự Lập. Chúng
tôi đặc biệt quan tâm đến các tác giả mới xuất hiện trên các văn đàn, chưa
được giới thiệu và nghiên cứu nhiều như Bão Vũ, Lưu Sơn Minh Các tác
phẩm khác không nằm trong các cấp độ, xu hướng sáng tác nói trên không
thuộc trong phạm vi khảo sát của chúng tôi.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án của chúng tôi sử dụng triệt để quan điểm duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác để có những cách nhìn nhận, đánh
giá một cách khách quan biện chứng trước số phận của một hiện tượng
nghệ thuật nói riêng và một hiện tượng văn hóa nói chung trong quá trình
vận động của lịch sử.
- Luận án cũng sử dụng nguyên tắc phương pháp luận của lí thuyết hệ
thống để thấy được sự khác nhau của hai hệ thống nghệ thuật riêng biệt
nhưng có thể nhìn thấy sự tác động ảnh hưởng qua lại giữa hai hệ thống


20
nghệ thuật đó; chỉ ra những nét truyền thống và hiện đại trong một chỉnh
thể sáng tạo nghệ thuật mới, chỉ ra được sự vận động và phát triển của các
hiện tượng nghệ thuật.
- Ngoài ra, luận án còn phải vận dụng thêm nhiều thao tác khoa học
quen thuộc như so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê trong suốt quá trình
nghiên cứu.
Sử dụng những phương pháp nghiên cứu trên, chúng tôi tin rằng
những vấn đề được đặt ra trong luận án sẽ được thể hiện và lí giải một
cách cụ thể, rõ ràng, tính hiệu quả cao.


IV. Bố cục của luận án
Luận án được thể hiện trong 180 trang. Ngoài phần mở đầu, phần kết
luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm ba chương:
Chương I: Vai trò của truyện cổ dân gian trong đời sống văn hóa, xã
hội và trong văn học
Chương II: Truyện cổ dân gian và một số hình thức mô phỏng, phát
triển cốt truyện trong văn học giai đoạn trước 1975
Chương III: Truyện cổ dân gian và một số hình thức sáng tạo nghệ
thuật mới trong văn học sau 1975.






21




B. Nội dung

Chương I
Vai trò của truyện cổ dân gian
trong đời sống văn hóa, xã hội và văn học

Trong chương này, chúng tôi trình bày một cách khái quát dấu ấn của
bộ phận truyện cổ trong lĩnh vực đời sống xã hội cũng như trong quá trình
vận động và phát triển của văn học để thấy được sức sống mãnh liệt của
nó trong những cơ tầng văn hóa của nhân loại; thấy được phạm vi ảnh

hưởng sâu rộng, dài lâu của nó trong tiến tình lịch sử nhìn từ góc độ tổng
thể; thấy được hậu thuẫn của truyện cổ đối với mục đích sáng tạo của
người nghệ sĩ. ở những thời điểm lịch sử khác nhau và ở một mức độ cao
hơn, phổ quát hơn, thấy được vai trò sứ mệnh của văn hóa dân gian nói
chung, truyện cổ dân gian nói riêng đối với việc củng cố và phát triển xã
hội, nhất là trong những thời điểm xã hội có những biến đổi mang tính
chất cách mạng.
1. Vai trò của văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói
riêng trong đời sống xã hội hiện đại
Văn hóa là tiến trình loài người tạo ra bản thân mình. Loài người là
chủ thể tạo nên văn hóa và mặt khác lại là sản phẩm của văn hóa. Xét về
một mặt nào đó, văn hóa là sự thích nghi một cách chủ động với môi
trường tự nhiên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc văn hóa sẽ chinh phục,
khai thác môi trường tự nhiên vì cuộc sống con người. Việc thích nghi
một cách chủ động với môi trường tự nhiên kéo theo việc xây dựng những
quan hệ xã hội ngày càng hợp lí hơn. Từ đó đã hình thành một môi trường
văn hóa.


22
Môi trường văn hóa là sản phẩm có tính lịch sử và xã hội của một
cộng đồng người nhất định. Môi trường văn hóa một khi đã hình thành
như vậy lại có tác động đối với việc xây dựng bản lĩnh, xây dựng nhân
cách cho từng cá nhân trong cộng đồng người ấy, trong tộc người ấy. Môi
trường văn hóa có tác động quan trọng trong công việc tạo nên thế ứng xử
cho con người cũng như trong việc hướng con người theo lối ứng xử
thích hợp với thế ứng xử ấy.
ở bất cứ quốc gia nào, văn hóa dân gian cũng là một cơ sở nền
tảng quan trọng của văn hóa dân tộc. ở Việt Nam, do nhiều yếu tố,
điều kiện về lịch sử, địa lí, xã hội mà sự ảnh hưởng ấy càng trở nên

quan trọng. Chính vì thế, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cần phải
chú trọng đến việc tìm ra những phương sách tối ưu để xử lí vấn đề
văn hóa dân gian. Vì vậy, cần phải tìm hiểu một cách thấu đáo bản
chất của văn hóa dân gian.
Văn hóa dân gian được nhận diện trên cả hai phạm trù nghĩa
rộng (tương đương với thuật ngữ quốc tế là folk culture) và nghĩa
hẹp (tương đương với thuật ngữ quốc tế là folklore).
Hiểu theo nghĩa rộng thì văn hóa dân gian “bao gồm toàn bộ văn
hóa vật chất và tinh thần của dân chúng”[45, tr.13]. Nó bao gồm phương
thức sản xuất ra của cải vật chất, sinh hoạt vật chất của dân chúng, những
phong tục tập quán gắn với cộng đồng người, những sinh hoạt tinh
thần, những tri thức về tự nhiên và xã hội của dân chúng cũng như
tư tưởng, tình cảm, những quan niệm về đạo đức, những nhận thức
về thế giới, về nhân sinh, về quan hệ giữa con người và thế giới
Văn hóa dân gian hiểu theo nghĩa hẹp chính là phần mang tính
thẩm mĩ trong folk culture. Nó bao gồm các tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian, các sinh hoạt văn hóa dân gian, đặc biệt là các hội
lễ dân gian. Ngoài ra, folklore còn bao gồm các hiện tượng và các
vật phẩm của đời sống ngày thường
Tuy nhiên, “dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì bao giờ
văn hóa dân gian cũng phản ánh sự thích nghi một cách chủ động
của con người với môi trường. Và những giá trị văn hóa dân gian


23
chính là những giá trị tinh thần đã được đúc kết nên trên cơ sở
những thành tựu của sự thích nghi”[45, tr.16].
1.1. Văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói riêng
trong tâm thức của con người hiện đại
ở nước ta, chất liệu văn hóa dân gian với tính chất là một nghệ thuật

đã góp phần quan trọng vào việc tạo ra môi trường văn hóa, trong đó
chúng ta sống và làm việc. Vì vậy, thế ứng xử và lối ứng xử của nhân dân
ta chịu ảnh hưởng không nhỏ của văn hóa dân gian. ảnh hưởng này không
phải ai cũng nhận thức được, không phải lúc nào cũng dễ thấy, nhưng lại
rất sâu sắc.
Trải qua các thời kì phát triển của lịch sử, văn hóa dân gian với
những cảm xúc thẩm mĩ ở mức độ manh nha hoặc qua các hình tượng
nghệ thuật đã hoàn chỉnh thể hiện trong các tác phẩm, ở các thành tố tạo
hình nghệ thuật dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian, của nghệ thuật
ngữ văn dân gian; với nếp cảm, nếp nghĩ, nếp hành động đã được khuôn
đúc lại trong phong tục, tập quán, trong sinh hoạt văn hóa dân gian và hội
lễ dân gian, đã góp phần rất quan trọng vào việc rèn đúc phẩm chất của
nhân dân lao động. Hơn nữa, văn hóa dân gian ở mức độ nhiều ít khác
nhau, đã ảnh hưởng đến lối sống của toàn thể dân tộc và mỗi con người
Việt Nam. Bất kể thuộc tầng lớp nào đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự
giáo dưỡng của văn hóa dân gian. Có thể nói, văn hóa dân gian đã góp
phần rất lớn vào việc tạo nên phần truyền thống tích cực trong phẩm chất
của mỗi người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, văn hóa dân gian, với tính chất là một nghệ thuật nguyên
hợp đã phản ánh chỉnh thể của hiện thực, của đời sống, qua những hình
tượng phù hợp với nhận thức và cảm xúc của nhân dân về cái chân, cái
thiện, cái mĩ. Việc nghiên cứu văn hóa dân gian là góp phần vào việc nhận
thức sâu sắc sự cần phải góp phần vào việc kế thừa những giá trị tốt đẹp,
những truyền thống thẩm mĩ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa, văn nghệ của xã hội hiện nay.
Xét riêng về lĩnh vực văn học thì, trong tổng thể văn hóa dân gian
(tức Folklore), bộ phận này là một thành tố quan trọng. Đó là những sáng


24

tác văn học do nhân dân sáng tác và lưu truyền, trong đó thành phần nghệ
thuật ngôn từ (tức thành phần văn học) chiếm một vị trí quan trọng trong
tổng thể mối quan hệ hữu cơ với các thành phần nghệ thuật và phi nghệ
thuật khác. Khởi thủy của văn học dân gian hình thành và tồn tại trong
tổng thể văn hóa dân gian nhưng trong quá trình phát triển, bộ phận ngôn
từ được giãn nở và đóng vai trò quan trọng với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh hiện thực đời sống thông qua sự hư cấu nghệ thuật.
Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử - xã hội, văn học dân gian
gắn với sinh hoạt, sản xuất, gắn với lễ nghi Khi loài người chưa có chữ
viết, trước nhu cầu biểu hiện trực tiếp nhận thức thẩm mĩ của nhân dân và
thực tại nhằm lưu truyền và bảo lưu những tri thức dân gian, đời sống tình
cảm dân gian thì chỉ thông qua hình thức truyền miệng. Truyền miệng đã
trở thành đặc trưng sáng tác, lưu truyền, bảo lưu văn học dân gian. Trong
một thời kì dài văn học dân gian đã tồn tại trong cộng đồng, sống trong
môi trường cộng đồng. Chính vì vậy, trong di sản văn hóa của nhân loại,
văn học dân gian đã thực sự cũng là một kho báu về trí tuệ, tâm hồn và
thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân ta. Trong đó chứa đựng những tri thức hiểu
biết cực kì phong phú và đa dạng về cuộc sống nhân dân các thời đại. Đó
là những quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, những kinh nghiệm sản xuất,
những tập quán lao động, những quan hệ về họ hàng, làng nước, những tín
ngưỡng, phong tục, những phẩm chất đạo đức và những tình cảm nhiều
mặt trong đời sống con người.
Văn học dân gian còn là pho sách giáo huấn bề thế và cao đẹp về tâm
hồn, về đạo đức làm người Việt Nam. Tinh hoa đạo đức là tâm hồn dân
tộc, trí tuệ dân tộc trước hết được kết tinh trong văn học dân gian, qua
những tác phẩm có nội dung sâu sắc, giàu ý nghĩa: Lạc Long Quân và âu
Cơ, Sơn Tinh Thủy Tinh, Cóc kiện trời, Thánh Gióng, An Dương Vương,
Quả dưa hấu, Trầu cau, Chử Đồng Tử và Tiên Dung, Rùa chạy thi với
thỏ, Đẽo cày giữa đường…
Văn học dân gian còn có một giá trị thẩm mĩ to lớn, thể hiện trên

nhiều bình diện. Đó là kiểu tư duy nghệ thuật có sức tưởng tượng kì diệu,
hồn nhiên và một quan điểm nghệ thuật lấy sự đề cao cái chân, cái thiện,


25
cái đẹp làm gốc rễ. Đó là sự xây dựng những hình tượng nghệ thuật bình
dị nhưng có sức hấp dẫn sâu xa, ở phong cách ngôn ngữ chắt lọc, kết tinh
từ ngôn ngữ đời thường của nhân dân, ở năng lực kết cấu thoáng nhẹ
nhưng chặt chẽ độc đáo, ở sự hài hòa giữa nội dung và hình thức.
Như chúng ta đã biết, về mặt lịch sử, văn học dân gian ra đời từ rất
xưa, nên có một số đặc điểm khác biệt với văn học viết về cách nhận thức
và phản ánh hiện thực. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu các xã hội nguyên
thủy đã cho biết, người nguyên thủy có nhiều cách nhìn, cách nghĩ, cách
cảm rất khác với người hiện nay. Chẳng hạn họ tin rằng các vật vô tri vô
giác như hòn đất, cái cây, dòng sông cũng biết nghĩ, biết cảm , nghĩa là
cũng có những biểu hiện của sự sống con người. Quan niệm đó, theo thuật
ngữ văn hoá dân gian tức là thuyết vạn vật hữu linh hoặc là thuyết vật linh
(animisme – tiếng Pháp, animism – tiếng Anh). Do quan niệm đó mà
người xưa đã phát sinh tín ngưỡng và tục thờ thần núi, thần sông Đó
cũng chính là khởi thủy hình thành những nhân vật thần thoại như Sơn
Tinh, Thủy Tinh Nhiều cộng đồng người nguyên thủy tin rằng tổ tiên
của họ cũng chính là tổ tiên của một loài thú nào đó (như con bò, con
gà ). Do đó mà trong văn học dân gian cũng hình thành những truyện kể
về các hiện tượng người hóa vật, vật hóa người, về các con vật biết nói,
các con vật linh thiêng có những phép lạ
Do cách cảm, cách nghĩ như trên, văn học dân gian, ngoài phương
pháp phản ánh hiện thực bằng cách mô tả những sự kiện rút ra từ đời sống
thực tế (như trong ca dao, trong truyện cười, vè ) còn có phương pháp
phản ánh hiện thực một cách kì ảo, nghĩa là miêu tả những sự kiện chỉ có
trong trí tưởng tượng của người xưa. Trong nhiều thể loại văn học dân

gian như truyện thần thoại, truyền thuyết, sử thi, cổ tích lối phản ánh
hiện thực một cách kì ảo là rất phổ biến. Những hình tượng kì ảo tạo nên
vẻ đẹp riêng của văn học dân gian, vẻ đẹp gắn liền với thời thơ ấu của
nhân loại.
Văn học dân gian đã bước ra từ cuộc sống nguyên thô và thông qua
con đường lưu truyền, bảo lưu rất đặc trưng của nó, văn học dân gian sống
trong cộng đồng lại tiếp tục tác động trở lại đời sống tư tưởng, tình cảm


26
của con người một cách sâu sắc, toàn diện, lâu dài. Và cứ như thế, qua
thời gian, những giá trị ấy đã ăn sâu trong tâm thức của con người hiện
đại, nó kết tủa thành những lớp trầm tích trong những cơ tầng văn hóa của
nhân loại. Trong những môi trường cụ thể, trong những điều kiện cụ thể
nào đó của hoàn cảnh, văn học dân gian nói chung và truyện cổ dân gian
nói riêng lại có sức tỏa sáng mới, đóng góp những trọng trách mới trước
những yêu cầu khác nhau của lịch sử và thời đại.
Nói tóm lại, văn hóa dân gian có tính chất phổ biến rộng rãi và mãi
mãi có một sức sống bất tử trong nhiều tầng bậc của cuộc sống và nghệ
thuật sáng tạo của con người. Bởi, một khi cuộc sống vẫn còn tồn tại, con
người trong “tổng hòa các mối quan hệ xã hội” thì vẫn còn phải đấu tranh,
vật lộn với cuộc sống, đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, vẫn còn nuôi
dưỡng những hi vọng và ước mơ, những niềm tin về một ngày mai tươi
sáng hơn, vẫn còn ấp ủ những cho mình các phép màu Những giá trị to
lớn trên của văn hoá dân gian trở thành một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn
trong thế giới tinh thần của nhân dân qua nhiều thế hệ. Sự tồn tại của nó
được hiện hữu dưới cả hai dạng hữu thức và vô thức. Chúng ta có thể nhận
thấy rõ điều đó khi đặt nó trong tổng thể của văn hóa dân gian nói chung.
ở dạng hữu thức, văn hóa dân gian được kể miệng từ đời ngày qua
đời kia như các ông bà già kể cho con cháu nghe, như người Tây Nguyên

vào những đêm đông tụ tập nhau ở nhà Rông để nghe kể khan (sử thi Tây
Nguyên). Về sau, khi đã có chữ viết, các câu chuyện này được ghi chép
lại, in thành sách và truyền lại cho đời sau. Phương thức kế thừa di sản cha
ông theo con đường hữu thức này phải qua một quá trình học tập, rèn
luyện để có thể tiếp nhận được những giá trị tinh thần ẩn kín và giữ được
lâu bền trong kí ức cá nhân. Như chúng ta đã biết, Folklore tồn tại như là
một kho kí ức tập thể của một tộc người. Sự tồn tại đó không chỉ ở cõi hữu
thức mà còn ở cả cõi vô thức. ở dạng vô thức, thì con đường truyền bá sâu
rộng hơn và bền vững hơn.
ở cõi vô thức, văn hóa dân gian nói chung và truyện cổ dân gian nói
riêng không tồn tại ở dạng nguyên mà tồn tại ở dưới dạng biểu tượng gốc
(archétype), tức các cổ mẫu, cổ tượng. Các biểu tượng gốc này sống trong

×