Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.92 KB, 73 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan :
Những nội dung trong báo cáo này là do em thực hiện dưới sự hướng dẫn
của cô giáo :Dương Thị Tuệ.
Những số liệu, tài liệu thu thập và phân tích trong đề tài là hoàn toàn trung
thực, chính xác và chưa hề có trong bất cứ đề tài nào.
Mọi tham khảo dung trong đề tài này đều được trích dẫn rõ rang tên tác giả,
tên công trình, thời gian, địa điểm công bố.
Mọi soa chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá, em xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT
CP : CỔ PHẦN
KHCN : KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN
RRTD : RỦI RO TÍN DỤNG
NHNN : NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
NHNNVN : NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
NHTM : NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHTMCP : NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
NHTMNN : NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
TMCP : THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN


DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ khi mới thành lập, Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt


Nam (VIB) đã xác định mục tiêu của mình là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu
tại Việt Nam. Năm 2009, VIB tái định vị thương hiệu và một lần nữa khẳng định
mục tiêu đó. Với chiến lược phát triển của mình VIB xác định đối tượng khách
hàng nòng cốt của mình là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và đặc biệt là khách hàng
cá nhân, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ và giải pháp tài chính trọn gói cho khách
hàng cá nhân là trọng tâm trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Với định hướng
đó, trong những năm qua VIB đã không ngừng mở rộng và phát triển hoạt động tín
dụng khách hàng cá nhân. VIB đã không ngừng nghiên cứu để cho ra đời danh mục
sản phẩm tín dụng khách hàng cá nhân đa dạng, nhiều tiện ích và cạnh tranh đồng
thời công tác quảng bá cũng được chú trọng để mang sản phẩm đến với khách hàng.
Không chỉ riêng VIB mà nhiều ngân hàng TMCP Việt Nam đã thấy được
tầm quan trọng của tín dụng khách hàng cá nhân và đã có những chiến lược để phát triển
hoạt động này. Đây chính là xu thế phát triển tất yếu của các NHTM, thực tế các NHTM
tại các nước phát triển tỷ trọng tín dụng khách hàng cá nhân chiếm đến 70% dư nợ.
Nói đến tín dụng khách hàng cá nhân là nói đến độ sinh lời cao gắn với rủi ro
lớn. Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn tại Mỹ, sự biến động của thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản tại Việt Nam là những ví dụ điển hình cho thấy
những nguy cơ rủi ro đối với tín dụng khách hàng cá nhân.
Mở rộng, phát triển tín dụng khách hàng cá nhân là xu hướng đúng đắn và
đảm bảo mang lại thu nhập cao cho Ngân hàng nhưng đây cũng là hoạt động tiềm
ẩn rủi ro lớn có khả năng tác động xấu đến ngân hàng nếu không được kiểm soát
chặt chẽ. Với những đặc thù của tín dụng khách hàng cá nhân, đặt ra yêu cầu phải
kết hợp một cách chặt chẽ giữa việc mở rộng với việc quản trị rủi ro. Việc mở rộng
tín dụng chỉ thực sự mang lại hiệu quả nếu đi liền với nó là việc quản trị rủi ro.
1
Thời gian qua VIB đã mở rộng hoạt động tín dụng khách hàng cá nhân và đã
phần nào đạt được hiệu quả, tuy nhiên cũng như nhiêu Ngân hàng TMCP khác công
tác quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân còn chưa được quan tâm đúng mức.
Quản trị rủi ro là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh mở rộng tín dụng khách hàng cá
nhân và khi công tác quản trị rủi ro được thực hiện tốt nó sẽ là cơ sở, là tiền đề để

hoạt động tín dụng cá nhân ngày càng mở rông, hiệu quả.
Từ xu hướng chung và sau một thời gian công tác tại phòng Tín dụng khách
hàng cá nhân ngân hàng VIB cá nhân tôi nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng
của việc quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân vì vậy tôi chọn đề tài: “Quản
trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề cho thấy thực tế hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại VIB giai
đoạn từ 2007 đến nay, công tác quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân từ đó tìm ra
những thành tựu và những hạn chế trong công tác quản trị rủi ro, phân tích để tìm ra
các nguyên nhân của hạn chế cũng như những việc chưa làm được để từ đó đề ra các
giải pháp cho công tác quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhận tại VIB.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Công tác quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại VIB
4. Phạm vị nghiên cứu:
Quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân của Ngân hàng TMCP Quốc tế
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic, phân
tích tổng hợp và phương pháp so sánh, thống kê, toán học, phân tích kinh tế….để
nghiên cứu đề tài này.
2
6. Kết cấu chuyên đề :
Chương 1
Chương 1
: Lý luận về quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân của
: Lý luận về quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân của


ngân hàng thương mại

ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại


Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
Chương 3
Chương 3
: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với
: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với


khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam
3
CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 1


LÝ LUẬ
LÝ LUẬ
N VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG KHÁCH HÀNG
N VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG KHÁCH HÀNG


CÁ NHÂN TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CÁ NHÂN TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI



1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1 Khái niệm hoạt động tín dụng
Tín dụng có nguồn gốc từ tiếng La tinh tức là sự tin tưởng, tín nhiệm hoặc
nói khác đi là sử dụng sự tin tưởng hoặc tín nhiệm để thực hiện các quan hệ vay
mượn một lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian nhất định.
Từ đó quan hệ tín dụng được hiểu là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để
sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban
đầu. Tín dụng biểu hiện ra bên ngoài như là sự vận động đơn phương của giá trị
thuộc hai quá trình ngược chiều nhau trong một thời gian cụ thể.
Tóm lại: Tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trong nền
kinh tế, trong đó chủ thể này chuyển nhượng cho chủ thể khác quyền sử dụng một
lượng giá trị (có thể dưới hình thức hàng hoá hoặc tiền tệ) với những điều kiện và trong
một thời gian nhất định mà hai bên đã thoả thuận dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Khi Ngân hàng thực hiện vai trò trung gian tín dụng thì tín dụng Ngân hàng
được hiểu dưới hai giác độ sau:
+ Ngân hàng đóng vai trò huy động vốn (người đi vay): Các Ngân hàng
thương mại có khả năng thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với những thời hạn
khác nhau của các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nền kinh tế như tiền gửi tiết
kiệm, tiền gửi thanh toán với mức lãi suất khác nhau.
+ Ngân hàng đóng vai trò người cho vay: Dựa trên cơ sở vốn huy động được
Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân có nhu cầu sử
dụng vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nền kinh tế.
4
Tín dụng Ngân hàng vì vậy được hiểu là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau
giữa Ngân hàng và Khách hàng trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất
định dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn.
Khách hàng khi vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc:
Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

Ngân hàng chỉ xem xét và quyết định cấp tín dụng khi Khách hàng có đủ
các điều kiện sau:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật.
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả.
Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của pháp luật.
Để phát triển và hạn chế rủi ro tín dụng, các Ngân hàng luôn không ngừng đa
dạng hoá các hình thức tín dụng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Như vậy hoạt động tín dụng của Ngân hàng là việc ngân hàng đưa tiền cho
khách hàng vay với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời
gian xác định. Phân tích khách hàng trong quan hệ cho vay này chính là phân tích cho
vay. Bởi vì cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM
nên để có một khoản tín dụng đạt chất lượng thì các NHTM thường đưa ra một qui
trình phân tích khách hàng chặt chẽ. Rủi ro từ cho vay có rất nhiều nguyên nhân đều
có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tín dụng mà
tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy các
ngân hàng thường cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết
định cho vay. Đó chính là quá trình phân tích trước và trong khi cho vay.
Mục tiêu của phân tích cho vay là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế
rủi ro. Nội dung của phân tích cho vay là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác
định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người
vay,… trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả của dự án,…
5
1.1.2 Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu tôi xin
đưa ra hai cách phân loại hoạt động tín dụng của Ngân hàng là phân loại theo đối
tượng khách hàng.
Theo đối tượng khách hàng: Theo cách phân loại này thì tín dụng bao gồm

tín dụng khách hàng doanh nghiệp, tín dụng tổ chức tài chính và tín dụng khách
hàng cá nhân.
Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, Hợp tác xã,
Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, Công ty hợp danh. Hình thức cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp rất
đa dạng như cho vay ngắn hạn theo món, vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho
vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn,…
Khách hàng tổ chức tài chính ở đây bao gồm các ngân hàng khác, hợp tác xã
tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính,… Hình thức cho vay đối với
các tổ chức tài chính cũng hết sức đa dạng. Thường cho vay NHTM nhằm đáp ứng
các nhu cầu ngắn hạn của các ngân hàng này và các giao dịch thường diễn ra trên
thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Khách hàng cá nhân ở đây là tất cả các cá nhân có năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật. Đối
tượng vay vốn đa dạng bao gồm những khách hàng có nhu cầu vốn để mua nhà, sửa
chữa nhà, xây dựng nhà, mua ô tô, mua các thiết bị gia dụng, thực hiện các phương
án sản xuất kinh doanh và đáp ứng một số yêu cầu khác. Các phương thức vay vốn
đa dạng như: cho vay từng lần, cho vay trả góp, cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, cho
vay theo hạn mức,…Thời hạn cho vay linh hoạt tuỳ vào mục đích vay của khách hàng
và kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng. Lãi suất cho vay được xác định dựa trên biểu
lãi suất cho vay của ngân hàng, hoặc cũng có thể phụ thuộc vào sự thoả thuận của
khách hàng và ngân hàng. Về tài sản đảm bảo cho khoản vay bao gồm bất động sản
(nhà, đất,…), động sản (hàng hoá, máy móc thiết bị,…), số dư tài khoản tiền gửi, các
chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác, tài sản có giá trị khác
6
Nhìn chung tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế, nó thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn lực đầu tư
của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Tín dụng của một
hệ thống Ngân hàng lành mạnh phản ánh năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế quốc
gia; mức rủi ro thấp của nền kinh tế chính là điều kiện để kêu gọi các dòng vốn từ

bên ngoài đầu tư vào để phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên do các Ngân hàng
cho khách hàng vay đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực như xây dựng,
sản xuất công nghiệp, thương nghiệp, tiêu dùng, dịch vụ lữ hành nên sau khi cho
vay thì quyền sở hữu vốn tạm thời tách khỏi quyền sử dụng vốn, do vậy tính chủ
động của Ngân hàng kém đi, dễ lâm vào thế bị động đối với người vay vốn và có
thể gặp rủi ro mất một phần vốn hay toàn bộ vốn.
1.2. Rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm Rủi ro tín dụng của NHTM
Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD) có thể dẫn ra sau đây:
Theo khái niệm cơ bản nhất, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng được cấp
tín dụng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân hàng,
gây tổn thất cho Ngân hàng; đó là khả năng khách hàng không trả hoặc không trả
đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi và phí cho Ngân hàng.
Khoản 1, điều 2 quyết định 493/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNNVN, đề cập
khái niệm “rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra
tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”
Rủi ro tín dụng theo định nghĩa của Uỷ ban Basle thuộc Ngân hàng Thanh
toán Quốc tế: “Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh tổn thất kinh tế do khách hàng
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết”.
Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về rủi ro tín dụng, song các
quan niệm về rủi ro tín dụng đều hội tụ với nhau về bản chất đó là: Rủi ro tín dụng
là khả năng (xác xuất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu
do khách hàng được cấp tín dụng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với
7
NH. Rủi ro tín dụng có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM đó là làm giảm thu
nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn
tới thua lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản Ngân hàng.
Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ được đề cập trong các khái niệm
về rủi ro tín dụng đó là rủi ro và tổn thất. Khi ta hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác

xuất là khả năng khách hàng không thực hiện đúng cam kết, khả năng này có thể
xảy ra, có thể không xảy ra; khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách hàng thực sự không
thực hiện được cam kết, số tiền mà Ngân hàng không thu hồi được thì được hiểu là
tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu. Trong nội dung về quản trị rủi ro, Basel II cũng
đề cập đến khái niệm tổn thất dự kiến (expected loss – EL) và tổn thất ngoài dự kiến
(unexpected loss – UL). Theo đó, tổn thất dự kiến được coi là chi phí hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng, nó thường được tính vào giá của khoản tín dụng và
được bù đắp bằng nguồn dự phòng. Tổn thất ngoài dự kiến mới thực sự là rủi ro tín
dụng, cần tính toán cụ thể để dự phòng về vốn tự có.
Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất giữa giá trị tổn thất với
khái niệm rủi ro tín dụng. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến hoạt động quản
trị rủi ro tín dụng, trong đó ảnh hưởng lớn nhất đến tính chủ động trong các biện
pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát từ quan niệm chỉ khi khoản vay phát sinh quá
hạn mới có rủi ro và việc trích lập quĩ dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở những khoản
nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở mức
độ xác xuất xảy ra nợ quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng: Thứ nhất, những khoản cho
vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ không được trích lập; Thứ hai, làm mất
tính chủ động trong quản trị rủi ro tín dụng, mức độ đáp ứng của nguồn bù đắp rủi
ro sẽ rất hạn chế, trong những trường hợp có cú sốc thì Ngân hàng sẽ rất khó khăn
trong việc chống đỡ rủi ro; Thứ ba, nó làm cho Ngân hàng không thể hiểu và đánh
giá đúng mức độ rủi ro của mình, mặc dù trên thực tế có những Ngân hàng có nợ
quá hạn rất thấp, nhưng danh mục tín dụng lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều
dư nợ vào nhóm khách hàng hay ngành rủi ro phá sản cao. Đây chính là luận cứ xây
8
dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập qũi dự phòng và sử dụng quĩ này
trong quá trình quản trị RRTD.
1.2.2 Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTD, chúng ta có thể phân chia ở
các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
1.2.2.1 Nguyên nhân bất khả kháng

Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng được cấp tín
dụng làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng, như:
Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách xuất
nhập khẩu, thuế quan ) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng và Ngân hàng.
Khi những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến khách hàng
cũng như Ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho khách hàng.
Nhiều khách hàng có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn.
Có những trường hợp khách hàng bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho Ngân
hàng đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng bị tổn thất bởi những
nguyên nhân bất khả kháng thì đều làm khả năng trả nợ suy giảm thậm chí không
còn khả năng trả nợ.
1.2.2.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu
kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ỳ là nguyên nhân
gây ra rủi ro tín dụng. Nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi
nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó
với Ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật, mua chuộc Nhiều khách hàng
vay vốn không tính toán kỹ lưỡng, mở rộng đầu tư quá mức, hoặc không có khả
năng tính toán kỹ những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và
khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trường hợp còn lại là khách hàng vay
vốn kinh doanh có lãi nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có
thể được xoá nợ, sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
9
1.2.2.3 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của Ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân thuộc về chủ quan của phía đối tác (khách hàng),
những nguyên nhân chủ quan thuộc về Ngân hàng được Uỷ ban Basel (2000) đã
thống kê cho thấy, nguồn gốc chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng là mức độ tập trung rủi
ro và quy trình cấp tín dụng không lành mạnh.
Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn đề
rủi ro tín dụng. Rủi ro tập trung tín dụng tồn tại khi mức độ rủi ro tín dụng của một

nội dung trong danh mục tín dụng trở nên tương đối lớn so với mức vốn hoặc tài
sản của Ngân hàng. Rủi ro tập trung tín dụng không chỉ phụ thuộc vào giá trị tín
dụng đã cam kết, mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ mất vốn cao khi xảy ra rủi ro.
Rủi ro tập trung tín dụng gồm hai nhóm chính: Rủi ro tập trung tín dụng
thông thường và rủi ro tập trung tín dụng dựa trên các yếu tố rủi ro chung hay tương
quan. Rủi ro tập trung tín dụng thông thường xảy ra khi tín dụng được tập trung
quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng, hoặc ngành/lĩnh vực như
kinh doanh bất động sản, dầu mỏ, khí đốt. Trong khi đó, rủi ro tập trung tín dụng
do sự liên hệ qua lại của các yếu tố rủi ro lại liên quan nhiều đến các yếu tố đặc thù,
mà chỉ có thể phát hiện thông qua phân tích như giữa các thị trường mới nổi, rủi ro
tín dụng và rủi ro thị trường, các rủi ro này với rủi ro thanh khoản. Điển hình cho
loại rủi ro này là cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á năm 1997 và cuộc khủng
hoảng tài chính, kinh tế Mỹ từ cuối năm 2007 đến nay. Trong cuộc khủng hoảng
này, sự liên hệ rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng, cũng như giữa rủi ro này với rủi
ro thanh khoản, đã tạo ra các khoản lỗ/mất vốn rộng khắp.
Các vấn đề trong quy trình cấp tín dụng cũng là một nguyên nhân gây ra rủi
ro tín dụng, trong đó chủ yếu liên quan đến quá trình thẩm định và theo dõi tín
dụng. Rất nhiều Ngân hàng thấy rằng rất khó thực hiện một quá trình đánh giá tín
dụng kỹ càng bởi áp lực cạnh tranh trong Ngân hàng ngày càng tăng. Do áp lực này
mà nhiều Ngân hàng có xu hướng dựa vào một số chỉ tiêu đơn giản để cấp tín dụng.
Bên cạnh đó, việc không có hệ thống kiểm định và đánh giá các kỹ thuật tín dụng
mới cũng đã gây ra nhiều rủi ro, cụ thể:
10
- Không theo dõi, giám sát thường xuyên khách hàng hoặc tài sản bảo đảm.
Điều này làm cho Ngân hàng không có cơ sở đưa ra các biện pháp hành động sớm
nhằm ngăn chặn rủi ro.
- Kỹ thuật định giá theo rủi ro kém, tập trung quá nhiều vào điều kiện phi giá
(điều kiện tín dụng như hồ sơ, tài chính, tài sản bảo đảm…). Vấn đề này chủ yếu
ảnh hưởng đến khả năng bù đắp của Ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
- Không thận trọng với các thỏa thuận tín dụng có đòn cân nợ cao. Do đó,

khi khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh thì khả năng chống đỡ bằng vốn tự có
thấp, rủi ro chuyển về phía Ngân hàng.
- Không dự kiến phương án trong trường hợp xấu nhất, làm cho Ngân hàng
không có sự chuẩn bị kỹ càng. Trong nhiều trường hợp, việc có một cơ chế hành
động rõ ràng, được phổ biến và tập huấn thường xuyên có thể giúp Ngân hàng phản
ứng nhanh chóng, kịp thời và do đó có thể vượt qua được những cú sốc bất lợi
1.3 Quản trị rủi ro tín dụng
1.3.1 Khái niệm và sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng
1.3.1.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Theo quan điểm hiện đại, quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và
thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm tối đa hoá
lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận. Kiểm soát rủi ro tín dụng ở
mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn
chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, nhằm tăng doanh
thu tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt được hiệu quả trong kinh
doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn. “Hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng là
một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai
trò cốt tử cho sự thành công của Ngân hàng trong dài hạn” (Basel Committee on
Banking Supervision, 2000).
Tóm lại, có thể đề cập khái niệm quản trị rủi ro tín dụng ở các góc độ khác
nhau, nhưng bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản trị học, chúng ta
có thể diễn giải khái niệm quản trị rủi ro tín dụng là quá trình các Ngân hàng tiến
11
hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt
động cấp tín dụng, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của Ngân hàng với mức rủi ro có thể
chấp nhận.
1.3.1.2 Sự cần thiết phải thực hiện công tác quản trị rủi ro tín dụng
RRTD là căn nguyên chủ yếu tạo ra các vấn đề của Ngân hàng. Sự đổ vỡ
hàng loạt quỹ tín dụng tại Việt Nam trong những năm 1989-1990 do chất lượng các
khoản cho vay yếu kém, không thu hồi được. Những năm 1999 - 2000, cũng từ

nguyên nhân này NHNN đã đặt một số NHTMCP vào tình trạng giám sát đặc biệt,
những vụ án lớn và việc xử lý một khối lượng hàng ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng của
các NHTMNN từ năm 2000 về trước đều bắt nguồn từ những khoản cho vay khó
đòi. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á đã làm cho
nhiều Ngân hàng ở Châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc buộc phải sáp
nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của các Ngân hàng
tăng cao. Thời điểm trước cuộc khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn của các Ngân hàng
Thái Lan là 13%, Indonesia 13%, Phillippines 14%, Malaysia 10%. Gần đây nhất là
cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ bắt nguồn từ làn sóng cho vay thế chấp nhà
đất rủi ro cao đã minh chứng rất rõ căn nguyên cơ bản tạo ra ở vấn đề của Ngân
hàng là RRTD. Vì vậy, vấn đề quản trị rủi ro tín dụng luôn luôn là vấn đề sống còn
của NHTM.
Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho rủi ro trong hoạt động kinh doanh
Ngân hàng ngày càng gia tăng:
Thứ nhất, do quá trình tự do hoá, nới lỏng qui định trong hoạt động Ngân
hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn cầu
hoá, tự do hoá kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ biến. Khi gia tăng cạnh
tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng. Trong lĩnh vực Ngân hàng,
cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày càng giảm xuống. Tác động này
làm cho các Ngân hàng ngày càng có xu hướng mở rộng qui mô kinh doanh để bù
đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó mở rộng qui mô tín dụng đồng nghĩa với việc
RRTD cũng có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, qui luật đào thải của cạnh tranh sẽ
12
làm tăng mức độ phá sản của các khách hàng của Ngân hàng kéo theo sự thiệt hại
cho Ngân hàng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa
năng phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập
cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới. Trong lĩnh
vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản
phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở của sự phát triển

công nghệ như thẻ tín dụng, cho vay cá thể…luôn chứa dựng rủi ro mới. Nhưng
dưới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và đa dạng hoá sản phẩm cũng như
phạm vi của hoạt động tín dụng trở nên cấp thiết hơn, mang ý nghĩa sống còn với
các Ngân hàng. Với sự đa dạng phức tạp của sản phẩm tín dụng cũng như RRTD
càng đòi hỏi quản trị RRTD phải được chú trọng nâng cấp tương xứng.
Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá
trình chuyển đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế chưa ổn định, hệ thống pháp
luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động Ngân hàng
càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực hiện tốt công tác quản
trị RRTD là một công việc tối quan trọng.
1.3.2 Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
Quá trình quản trị rủi ro bao gồm 4 nội dung: nhận biết; đo lường; quản lý và
kiểm soát, xử lý tổn thất. Mặc dù có sự phân đoạn trong qui trình quản lý rủi ro tín
dụng song một nguyên tắc có tính xuyên suốt là các khâu được phân ra trong qui trình
phải luôn có sự liên hệ gắn bó với nhau, tạo thành một chu trình liên tục có vậy mới
bảo đảm kiểm soát được rủi ro theo mục tiêu đã định. RRTD một khi đã xác định thì
cần phải được phân tích, đo lường và đưa ra các biện pháp quản lý theo dõi. Cũng
trong quá trình quản lý theo dõi, hệ thống quản trị rủi ro tín dụng phải có khả năng xác
định tìm ra các nguy cơ rủi ro mới và công việc của quản trị rủi ro lại được lặp lại.
Quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả không có nghĩa là rủi ro không xảy ra mà là
rủi ro có thể xảy ra nhưng xảy ra trong mức độ dự đoán trước và Ngân hàng đã
chuẩn bị đủ nguồn lực để bù đắp các rủi ro có thể xảy ra đó.
13
1.3.2.1. Nhận biết rủi ro tín dụng
Nhận biết rủi ro tín dụng là việc phát hiện, xác định được các nguy cơ rủi ro
tồn tại trong hoạt động tín dụng. Sự phát triển của công nghệ, thị trường và xu hướng
toàn cầu hoá làm cho số lượng rủi ro ngày càng gia tăng và khả năng xảy ra rủi ro sẽ
thường xuyên hơn. Vì vậy, một hệ thống quản trị rủi ro có hiệu quả phải là hệ thống
có khả năng nhận biết hầu hết các rủi ro hiện hữu trong tín dụng. Ngân hàng nắm
được tình hình rủi ro của danh mục tín dụng và trả lời được các câu hỏi sau:

- Lý do RRTD là do đánh giá tín dụng chưa tốt hay do thoái trào kinh doanh
hay do gian lận hay chất lượng tài sản thế chấp kém?
- Ngân hàng có thể thấy RRTD tăng dần trong thời điểm này do cho vay tập
trung không đúng thị trường?
- Ngân hàng có thể đạt được mục tiêu dài hạn về RRTD có thể chấp nhận?
Để đánh giá RRTD tiềm tàng của mỗi khách hàng ngay từ khâu phân tích hồ
sơ xin vay, Ngân hàng thường tiến hành nghiên cứu chi tiết sáu khía cạnh (6 “C”,
chữ cái đầu của tiếng Anh) của hồ sơ xin vay: Tính cách, năng lực, dòng tiền mặt,
tài sản thế chấp, các điều kiện và sự kiểm soát. Tất cả phải thoả mãn các yêu cầu đối
với một khoản cho vay tốt theo quan điểm của người cho vay.
Tính cách (Character). Cán bộ tín dụng phải có được những bằng chứng cho
thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế hoạch trả nợ nghiêm
túc. Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc, kế hoạch trả nợ rõ
ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng nên tính cách của khách hàng trong cách nhìn
nhận của cán bộ tín dụng.
Năng lực (Capacity). Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng có đủ
tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn.Ví dụ, người chưa đủ 18 tuổi là
người chưa thành niên không có đủ tư cách pháp lý để lập một hợp đồng tín dụng.
Tương tự, cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty để tiến
hành thoả thuận và ký kết hợp đồng tín dụng phải được phê chuẩn bởi cấp có thẩm
quyền theo quy định tại điều lệ Cty, phù hợp với quy định của pháp luật.
14
Dòng tiền mặt (Cash folow). Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng đối với
một yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: Liệu người vay có khả năng
tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho ngân hàng món
vay không? Nhìn chung khách hàng vay vốn chỉ có ba nguồn có thể được sử dụng
để hoàn trả khoản vay: (a) Dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng hoặc thu nhập, (b)
dòng tiền từ việc bán tài sản, (c) các nguồn vốn huy động bằng cách phát hành nợ
hay chứng khoán vốn. Bất cứ nguồn nào trong ba nguồn nêu trên đều có thể được
sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt trong việc thanh toán nợ cho ngân hàng. Tuy

nhiên, các ngân hàng rất quan tâm tới dòng tiền tạo ra từ doanh thu bán hàng và
xem đây là một nguồn chính để thanh toán nợ bởi vì việc bán các tài sản có thể làm
suy yếu năng lực hoạt động của người vay và khiến cho ngân hàng rơi vào tình
trạng một chủ nợ không được đảm bảo. Hơn nữa, sự thu hẹp quy mô dòng tiền mặt
thường ẩn chứa một sự suy giảm trong kinh doanh và do đó ngân hàng phải đối mặt
với rủi ro về một khoản nợ có vấn đề.
Tài sản thế chấp (collaterral). Trong việc đánh giá tài sản thế chấp dành cho
khoản vay, cán bộ tín phải đặt câu hỏi: Người vay có sở hữu một tài sản nào với giá
trị ròng tương xứng với khoản vay không? Cán bộ tín dụng phải rất nhậy cảm với
những đặc điểm như thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn
hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Ở đây, công nghệ có một vị trí quan trọng.
Nếu tài sản của khách hàng quá lỗi thời về công nghệ, giá trị thế chấp của chúng sẽ
bị giảm bởi lý do: ngân hàng có thể gặp nhiều khó khăn trong việc tìm người mua
lại những tài sản này nếu khoản cho vay không được hoàn trả.
Các điều kiện môi trường (Conditions). Cán bộ tín dụng và các chuyên gia
phân tích tín dụng phải nhận biết được những xu hướng tiến triển gần đây của
khách hàng cũng như của ngành mà khách hàng hoạt động, thấy được mức độ tác
động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay. Một khoản cho
vay dường như rất tốt trên giấy tờ nhưng có thể giá trị của nó bị sụt giảm do doanh
thu hay thu nhập của khách hàng giảm trong thời kỳ suy thoái kinh tế hoặc do lãi
suất tăng cao trước sức ép của lạm phát. Để có thể phân tích nội dung này, NHTM rất
15
cần lưu trữ các dữ liệu thông tin từ các báo, tạp chí, báo cáo nghiên cứu – về các ngành
mà ngân hàng phục vụ chủ yếu.
Sự kiểm soát (Control). Nhân tố cuối cùng trong việc đánh giá độ tin cậy của
một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các câu hỏi như: Liệu những thay
đổi khi chính sách đưa ra quy định mới có ảnh hưởng bất lợi đến người vay không
và liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng tín dụng do các cơ quan
quản lý ngân hàng đặt ra?
1.3.2.2 Đo lường rủi ro tín dụng

Đo lường rủi ro tín dụng là bước tiếp theo sau khi đã phát hiện được nguy cơ rủi
ro. Trên thực tế các bước này khá gần gũi với nhau và thường được gộp chung lại trong
quá trình thực hiện tác nghiệp. Mục đích của các bước này là giúp cho toàn bộ bộ máy
quản trị rủi ro hiểu chính xác và nhất quán nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rõ
nguyên nhân và quan trọng nhất là lượng hoá mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với Ngân
hàng để định giá rủi ro có thể chấp nhận được; trích lập dự phòng rủi ro.
Để duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp, theo
thông lệ tốt nhất do ủy ban Balse (2000) đề xuất, Ngân hàng phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Ngân hàng cần có hệ thống quản lý liên tục các danh mục đầu
tư có rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 2: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản
tín dụng, bao gồm xác định mức độ đủ dự phòng và dự trữ
Nguyên tắc 3: Khuyến khích các Ngân hàng phát triển và sử dụng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống xếp hạng cần thống nhất
với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của các hoạt động của Ngân hàng.
Nguyên tắc 4: Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích
để cho phép lãnh đạo đo lường được rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động nội bảng
và ngoại bảng. Hệ thống thông tin quản lý phải cung cấp đầy đủ thông tin về cơ cấu
của danh mục đầu tư tín dụng, bao gồm xác định sự tập trung rủi ro.
16
Nguyên tắc 5: Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng của
toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng.
Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần tính đến những thay đổi tiềm năng trong tương
lai về các điều kiện kinh tế khi đánh giá từng khoản tín dụng và danh mục đầu tư và
phải đánh giá các tài sản có tiềm năng rủi ro tín dụng trong điều kiện căng thẳng.
1.3.2.3 Quản lý, kiểm soát rủi ro tín dụng
Đây là những khâu thể hiện rõ nhất tính chiến lược, cũng như tư tưởng của
Ngân hàng về RRTD. Trước hết, Ngân hàng cần xây dựng được hệ thống các công
cụ hạn chế rủi ro như chính sách thiết lập giới hạn tín dụng, mức uỷ quyền, các tiêu

chuẩn cấp tín dụng, xếp hạng tín dụng….
Chính sách thiết lập giới hạn tín dụng
Chính sách này được xây dựng đề cập vào ba giới hạn cơ bản đó là: Giới hạn
tín dụng một khách hàng; Giới hạn tín dụng nhóm khách hàng có liên quan; Giới
hạn tín dụng theo ngành, lĩnh vực hay khu vực địa lý….
Giới hạn tín dụng một khách hàng: Luật pháp các nước đều đưa ra qui định
rõ về giới hạn này nhằm ngăn chặn các NHTM tập trung quá lớn vào một khách
hàng. Giới hạn này được thiết lập trên cơ sở vốn của Ngân hàng, thông thường mức
tín dụng cấp đối với một khách hàng không quá 10 –25% vốn tự có của NHTM.
Thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, NHTM thường thiết lập
mức thấp hơn so qui định của pháp luật. Ở Việt Nam, theo quy định của NHNN,
giới hạn cho vay, bảo lãnh tối đa đối với một khách hàng không vượt quá 25% vốn
tự có của Ngân hàng.
Quá trình thiết lập giới hạn này Ngân hàng phải tính toán tổng hợp tất cả
mức dư nợ dưới các hình thức cấp tín dụng chứa đựng rủi ro như dư nợ cho vay,
bảo lãnh chấp nhận thanh toán, L/C, cho thuê tài chính
Giới hạn tín dụng nhóm khách hàng có liên quan: Cho đến thời điểm này,
khái niệm và cách xác định, cách quản lý nhóm khách hàng có liên quan vẫn còn
đang được các Ngân hàng tranh cãi, chưa đi đến thống nhất. Nhưng hiện tại, giới
hạn tín dụng đối với một nhóm khách hàng đang tỏ ra đặc biệt quan trọng trong việc
17
cấp tín dụng của Ngân hàng. Loại khách hàng này càng trở nên phổ biến đối với
một số Ngân hàng có xu hướng thịnh hành phương pháp cho vay dựa trên uy tín
hơn là căn cứ các thủ tục và điều kiện cho vay mang tính thương mại và truyền
thống. Theo thông lệ chung thì giới hạn cho vay vào nhóm khách hàng có liên quan
không vượt quá 50% vốn tự có của Ngân hàng và 60% nếu tính cả số dư bảo lãnh;
hoặc ở mức khống chế chặt đối với nhóm khách hàng có liên quan đều do hội đồng
quản trị xem xét, quyết định.
Giới hạn tín dụng theo ngành hoặc lĩnh vực: Giới hạn này khống chế tín
dụng vào một ngành kinh doanh hay lĩnh vực, thậm chí theo khu vực địa lý (vùng,

quốc gia). Giới hạn nhằm kiểm soát tổn thất tín dụng do hàng loạt khách hàng gặp
khó khăn với cùng một lý do, ví dụ lĩnh vực kinh doanh bất động sản với rủi ro lớn
khi thị trường đóng băng, có thể dẫn tới loạt khách hàng vay vốn kinh doanh trong
lĩnh vực này phá sản, không trả được nợ Ngân hàng.
Xây dựng và tuân thủ tiêu chuẩn cấp tín dụng:
Là việc ngân hàng đặt ra các điều kiện về năng lực khách hàng, tài chính,
phương án/dự án…, tuân thủ quy định của NHNN và quy định nội bộ của Ngân
hàng. Theo quy định hiện hành của NHNN, Ngân hàng chỉ xem xét và quyết định
cấp tín dụng khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
+ Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật.
+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
+ Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
+ Có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả.
+Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo hoạt động theo quá trình cấp tín dụng lành mạnh, theo thông lệ tốt
nhất do ủy ban Balse (2000) đề xuất, Ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Các Ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp
tín dụng lành mạnh được xác định cụ thể. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường
mục tiêu của Ngân hàng và hiểu biết rõ về bên vay hoặc đối tác, cũng như mục đích
và cơ cấu khoản tín dụng và nguồn hoàn trả.
18
Nguyên tắc 2: Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng tổng thể ở mức
từng bên vay và đối tác và nhóm các đối tác có liên quan đến nhau để tạo ra các loại
hình rủi ro tín dụng khác nhau theo cách có ý nghĩa và có thể so sánh được trong sổ
sách kế toán Ngân hàng và sổ sách kế toán kinh doanh, nội bảng và ngoại bảng.
Nguyên tắc 3: Các Ngân hàng cần có một quá trình được xây dựng rõ ràng để
phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái tài trợ cho các
khoản tín dụng hiện tại.
Nguyên tắc 4: Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở công bằng giữa

các bên. Đặc biệt, các khoản tín dụng cấp cho các công ty và cá nhân có liên quan cần
được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ, theo dõi cẩn thận và thực hiện các bước cần thiết để
kiểm soát hay loại trừ rủi ro cho vay trong trường hợp cho vay có ngoại lệ.
1.3.2.4 Xử lý tổn thất
Đây là khâu cuối cùng của quá trình quản lý rủi ro tín dụng. Theo đó, tổn thất
dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nó thường được tính
vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp bằng nguồn dự phòng. Tổn thất ngoài dự
kiến nếu quỹ dự phòng không đủ bù đắp thì phải bù đắp bằng nguồn vốn tự có.
Nguồn dự phòng RRTD
“ Dự phòng rủi ro” là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam
kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của
tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: dự phòng cụ thể và Dự phòng chung.
Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các
khoản nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
chưa xác định được trong quá trình phân loại và trích lập dự phòng cụ thể và trong
các trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng khi chất lượng các
khoản nợ suy giảm.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ- NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định
số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 (sửa đổi của quyết định 493) của Ngân
19
hàng Nhà nước quy định tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ của
NHTM: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 5%; Nhóm 3: 20%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%.
Tỷ lệ trích lập dự phòng chung 0,75% tổng số dư tín dụng từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Việc trích lập dự phòng bù đắp rủi ro là nhằm giúp Ngân hàng chủ động đối phó với
các tổn thất dự kiến.
- Đảm bảo vốn an toàn tối thiểu
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động Ngân hàng và dự phòng đầy đủ cho các
rủi ro tín dụng, thị trường, tác nghiệp, hiệp ước Basel II quy định: Vốn tự có của

Ngân hàng tối thiểu phải đạt 8% tổng tài sản có rủi ro (được xác định bằng cách
nhân số vốn cần thiết cho rủi ro thị trường và tác nghiệp với 12.5, sau đó cộng với
tổng tài sản có rủi ro tín dụng). Trong đó, tổng tài sản có rủi ro tín dụng được tính
toán theo phương pháp tiêu chuẩn hóa hoặc phương pháp tiếp cận dựa trên xếp hạng
nội bộ.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản trị rủi ro tín dụng của
NHTM
1.3.3.1 Nhân tố chủ quan
Môi trường quản lý rủi ro tín dụng
Môi trường được hiểu là quan điểm, văn hoá, chiến luợc cũng như nguyên
tắc ứng xử về rủi ro tín dụng mà một ngân hàng xây dựng và áp dụng trong toàn hệ
thống của mình. Các yếu tố này tạo một môi trường để mọi bộ phận, cán bộ ngân
hàng triển khai hoạt động quản trị rủi ro tín dụng một cách cụ thể. Môi trường chính
là kim chỉ nan đối với công tác quản trị rủi ro tín dụng. Một môi trường quản lý rủi
ro tín dụng được coi là hợp lý khi đảm bảo được các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt định kỳ (ít nhất
hàng năm) xem xét chiến lược về rủi ro tín dụng và các chính sách về rủi ro tín dụng
của Ngân hàng. Chiến lược cần phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro của Ngân hàng và
mức sinh lời mà Ngân hàng kỳ vọng đạt được khi gánh chịu các rủi ro này. Chiến
lược rủi ro được xây dựng bởi Hội đồng quản trị, do Ban điều hành thi hành, thực
hiện bởi bộ phận quản lý rủi ro và am hiểu bởi tất cả các cán bộ trong ngân hàng.
20
Nguyên tắc 2: Ban (tổng) giám đốc có trách nhiệm thực hiện chiến lược rủi
ro tín dụng được hội đồng quản trị phê duyệt và phát triển các chính sách và thủ tục
nhằm phát hiện, đo lường và theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng. Các chính sách
và thủ tục này phải nhằm vào rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động của Ngân hàng và
ở mức từng khoản tín dụng cũng như ở mức toàn bộ danh mục đầu tư.
Nguyên tắc 3: Ngân hàng cần phát hiện và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi
sản phẩm và hoạt động. Ngân hàng cần bảo đảm rằng các rủi ro của các sản phẩm
và hoạt động mới nằm trong phạm vi các thủ tục quản lý rủi ro và kiểm soát đầy đủ

trước khi được đưa vào sử dụng hay thực hiện, và được hội đồng quản trị hay uỷ
ban thích hợp chấp thuận trước.
Chính sách tín dụng và quy trình tín dụng của Ngân hàng
- Chính sách tín dụng của ngân hàng là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho
hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, góp phần quyết định đến sự thành công hay
thất bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ có tác dụng hạn
chế rủi ro tín dụng, thu hút thêm khách hàng, phân tán rủi ro, tuân thủ theo pháp
luật, chấp hành tốt chính sách của nhà nước, đảm bảo khả năng sinh lời cho ngân
hàng cũng như tạo động lực cho nền kinh tế và xã hội phát triển. Mỗi ngân hàng
thương mại đều có những đặc điểm riêng, vì vậy muốn quản trị được rủi ro tín dụng
phải xây dựng chính sách, quy trình tín dụng phù hợp với ngân hàng mình trong
từng giai đoạn cụ thể. Một ngân hàng được coi là hoạt động trong quy trình lành
mạnh khi:
+ Thiết lập các tiêu chí cụ thể cho cấp tín dụng, từ việc cấp tín dụng lần đầu
đến việc việc gia hạn nợ, mở rộng nhằm đảm bảo mọi khoản tín dụng đều được
giám sát, quản lý chặt chẽ, đặc biệt là đối với khách hàng có quan hệ với ngân hàng.
+ Xây dựng các giới hạn rủi ro cho từng khách hàng, nhóm khách hàng liên
quan, cả đối với các giao dịch nội bảng cũng như ngoại bảng; giới hạn theo cấp
thẩm quyền.
- Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần thiết thực hiện trong quá
trình khép kín bao gồm: Chuẩn bị cấp tín dụng (tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn, thẩm
21

×