Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

luận văn thạc sĩ kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Tổng Công ty Cổ phần May 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.92 KB, 121 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu
và kết luận nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực và chưa được ai
sử dụng trong bất kỳ luận văn nào trước đây.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình
Học viên
LÊ THỊ THU HẰNG
1
1
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo, đặc biệt là
người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Nguyễn Thị Đông đã hướng dẫn, chỉ
bảo, giúp đỡ nhiệt tình tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Do tính phức tạp của đề tài nghiên cứu, cộng với khả năng cũng như
kinh nghiệm của tác giả còn nhiều hạn chế nên luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định.
Tác giả rất mong nhận được những sự đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo và những nhà nghiên cứu khác để nội dung được nghiên cứu trong luận
văn hoàn thiện hơn.
2
2
MỤC LỤC
3
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CPSX Chi phí sản xuất
CPNVLTT Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
CPNCTT Chi phí nhân công trực tiếp
CPSXC Chi phí sản xuất chung
CPSXDDDK Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
CPSXDDCK Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ


KHTSCĐ Khấu hao tài sản cố định
KKTX Kê khai thường xuyên
KKĐK Kiểm kê định kỳ
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
KPCĐ Kinh phí công đoàn
NVLC Nguyên vật liệu chính
VLP Vật liệu phụ
PTTT Phụ tùng thay thế
CCDC Công cụ dụng cụ
DN Doanh nghiệp
SX Sản xuất
NL Nhiên liệu
KH Khấu hao
NVL Nguyên vật liệu
4
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Danh mục bảng biểu
Biểu 2.1: Định mức sử dụng NVL cho một áo sơ mi LL
Biểu 2.2: Đơn giá tiền lương cho từng việc sản phẩm gia công
Danh mục sơ đồ
5
5
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
• Về mặt lý luận
Sự ra đời của Luật kế toán đã đánh dấu những bước tiến trong quá trình

phát triển hệ thống các quy định của kế toán nước ta, góp phần vào giúp các
doanh nghiệp hạch toán thống nhất các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Tuy
nhiên, việc đưa các chính sách, chế độ kế toán vào thực tế công tác kế toán
tại các doanh nghiệp vẫn còn một số bất cập cần thiết phải tổng kết, đánh giá
và đưa ra phương hướng hoàn thiện.
Hiện nay, công tác kế toán của các doanh nghiệp được thực hiện theo
một trong hai chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số
15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 đối với các loại hình, quy mô doanh
nghiệp hoặc quyết định 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/9/2006 đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Bộ trưởng Bộ tài chính. Việc sử dụng chế độ kế toán
của doanh nghiệp quy định việc sử dụng hệ thống chứng từ, tài khoản, hạch
toán, hệ thống sổ sách, và hệ thống báo cáo của doanh nghiệp.
Đề tài nhằm tổng kết lại hệ thống lý thuyết, những quy định về hạch
toán kế toán về chi phí sản xuất và các phương pháp tính giá thành trong loại
hình doanh nghiệp sản xuất.
• Về mặt thực tiễn
Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất gay gắt, sự sống
còn của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sức mạnh của sự cạnh tranh.
Đối với mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh, muốn tồn tại được cần phải chiếm
lĩnh được thị trường, được người tiêu dùng chấp nhận sản phẩm của doanh
nghiệp cả về chất lượng và giá cả. Các doanh nghiệp đều mong muốn có một
sự kết hợp tối ưu giữa các yếu tố sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm có
chất lượng cao và giá cả hợp lý mà người tiêu dùng có thể chấp nhận được.
7
Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần phải thường xuyên theo dõi thông tin về giá
cả thị trường để có thể tính toán chi phí sản xuất như thế nào để thu lại được
một lợi nhuận tối đa.
Ngày nay, khi sự cạnh tranh không chỉ đơn thuần là sự cạnh tranh về
chất lượng của sản phẩm mà còn là sự cạnh tranh về giá cả, thì vấn đề giảm
chi phí, hạ giá thành sản phẩm luôn luôn được đặt lên mục tiêu hàng đầu đối

với mỗi doanh nghiệp.Vấn đề này tuy không còn mới mẻ, nhưng nó luôn là
vấn đề mà mọi doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Vậy các doanh nghiệp cần
có biện pháp gì để có thể đạt được mục tiêu: Giảm chi phí, hạ giá thành
nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh trên thị
trường.
Chính vì vậy, việc hạch toán chi phí và tính đúng giá thành sản phẩm tại
các doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, tính giá
thành, mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có biện pháp phấn đấu hạ
thấp giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đó là một trong những điều
kiện quan trọng để sản phẩm của doanh nghiệp có thể đứng vững được trên
thị trường và có sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường của
các doanh nghiệp khác. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là một trong những phần hành quan trọng cuả kế toán, nó có vai trò đặc
biệt quan trọng trong công tác quản lý của doanh nghiệp nói riêng cũng như
quản lý vĩ mô của nhà nước nói chung.
Ngành may mặc ngành truyền thống của Việt Nam phục vụ cho tiêu
dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Trong năm 2012, hàng dệt may xuất
khẩu đạt 15,09 tỷ USD, tăng 7,5% so với năm 2011 với các thị trường chính
gồm Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Yêu cầu của các thị trường tiêu thụ
sản phẩm ngày càng cao về chất lượng cũng như giá cả cần có tính cạnh tranh
với sản phẩm các quốc gia khác như Trung Quốc Ngoài ra, các doanh nghiệp
8
trong ngành dệt may cũng phải đối mặt với những khó khăn trong huy động
vốn, tổ chức sản xuất. Bản thân Tổng Công ty CP May 10 có nhiều nhà máy,
xí nghiệp, thực hiện nhiều dây chuyển sản xuất phức tạp, việc tính chính xác
và quản lý chi phí sản xuất luôn là vấn đề cấp thiết và cần hoàn thiện ngày
một tốt hơn.
Đề tài nhằm nghiên cứu quy định kế toán chi phí sản xuất và phương
pháp tính giá thành sản phẩm may mặc gia công xuất khẩu tại Tổng công ty
CP may 10 nhằm đánh giá công tác kế toán và giải pháp nhằm phục vụ công

tác kiểm soát chi phí, xác định giá thành tại công ty.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Bài viết của tác giả Ngô Thành Nam, 2009, Hoàn thiện hệ thống kế
toán tại các doanh nghiệp ngành may mặc trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Báo
kinh tế và dự báo, đã có những giải pháp hoàn thiện cho các doanh nghiệp
ngành may trên địa bàn tỉnh này. Trên cơ sở khảo sát số liệu thực tế, giải pháp
mà tác giả đưa ra gồm:
Hoàn thiện việc phân loại chi phí: tác giả đã đề xuất hướng phân loại
theo mức độ ứng xử trong doanh nghiệp may mặc. Với chi phí sản xuất chung
phát sinh như khảo sát hầu hết là chi phí hỗn hợp thì các doanh nghiệp có thể
sử dụng phương pháp cực đại – cực tiểu hoặc bình phương bé nhất để tách
thành biến phí và định phí
Tác giả đề xuất hoàn thiện hạch toán thiệt hại trong doanh nghiệp may
mặc thông qua việc quy định rõ tỷ lệ sản phẩm hỏng trong và ngoài định mức
tại doanh nghiệp để loại trừ chi phí ngoài định mức khỏi giá thành.
Với đặc điểm các doanh nghiệp gia công theo các đơn đặt hàng, tác giả
đề xuất lựa chọn kỳ tính giá thành theo thời gian gia công đơn đặt hàng sẽ
giúp tiết kiệm thời gian và công sức va tính toán chính xác.
Để quản lý chi phí sản xuất, các doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống
định mức chi phí sản xuất
9
Xây dựng và vận hành hệ thống kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm.
Bài viết đã có những hướng hoàn thiện cho kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm doanh nghiệp may mặc trên địa bàn tỉnh Hải Dương
theo cả hướng kế toán tài chính và kế toán quản trị. Tuy nhiên, giải pháp đưa
ra chưa có số liệu tính toán, các bước thực hiện giải pháp và kết quả cụ thể
của các giải pháp hoàn thiện.
Nghiên cứu của Nguyễn Bích Hương Thảo (2013) đăng trên Tạp chí Tài
chính số 8 “Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm cho các doanh nghiệp chế

biến thủy sản” đã đi vào khảo sát ngành chế biến thủy sản. Tác giả đã tìm hiểu công
tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp. Với kết quả thu
được, tác giả đưa ra những đề xuất:
Về phương pháp tính giá thành sản phẩm: Tác giả đã đưa ra đặc điểm
quy trình công nghệ sản xuất, đối với ngành chế biến thủy sản có cùng quy
trình nhưng tạo ra một nhóm sản phẩm cùng loại có quy cách khác nhau, kế
toán phải xác định tỷ lệ giá thành giữa tổng giá thành thực tế và giá thành
theo định mức.
Ngoài ra, tác giả còn có đề xuất ứng dung kế toán quản trị nâng cao
quản lý và kiểm soát chi phí gồm xây dựng định mức chi phí cho CPNVLTT,
CPNCTT, CPSXC.
Đề tài đã đi sâu vào ảnh hưởng của đặc điểm quy trình công nghệ, đặc
điểm sản phẩm để đánh giá công tác kế toán và đưa ra những hoàn thiện cho
công tác kế toán chi phí cũng như tính giá thành sản phẩm nằm trong lĩnh
vực chế biến thủy sản.
Qua việc tổng hợp lại những nghiên cứu trước, tác giả thấy rằng việc
nghiên cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã có hệ thống
cơ sở lý luận hướng dẫn một các tổng quát. Tuy nhiên, chưa có lý thuyết
nghiên cứu cụ thể cho hoạt động may gia công xuất khẩu trong các doanh nghiệp
10
dệt may. Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm may mặc gia công xuất khẩu tại Tổng công ty May 10”.
3. Xác lập mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, khái quát hóa để xây dựng một mô hình lý
thuyết về kế toán chi phí, tính giá thành trong các DNSX nói chung và đi sâu
vào loại hình may gia công xuất khẩu, nhằm hệ thống một cách khoa học nhất
về mô hình này giúp người làm kế toán có được cái nhìn lý luận một cách có
hệ thống và tổng thể, toàn diện hơn.
Bên cạnh đó luận văn tiến hành khảo sát thực tế tại Tổng Công ty CP May
10 về kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm may mặc gia công xuất khẩu.

Thông qua đó phát hiện những mặt hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm may mặc GCXK.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, trong quá trình nghiên
cứu tác giả luôn chú trọng vào việc tìm lời giải cho các câu hỏi sau:
- Kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm tại các DNSX dựa trên lý luận nào?
- Thực trạng về kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm may mặc gia công xuất
khẩu tại Tổng Công ty CP May 10 như thế nào?
- Cần có những giải pháp nào để hoàn thiện kế toán chi phí, tính giá thành sản
phẩm may mặc giao công xuất khẩu tại Tổng Công ty CP may 10?
4. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm mục đích khái quát hóa lại hệ thống lý luận về kế
toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh
nghiệp sản xuất.
Tìm hiểu những đặc điểm và thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm của hoạt động may gia công xuất khẩu trong các công ty
may. Từ đó, đánh giá thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong hoạt động may gia công xuất khẩu.
Đưa ra giải pháp hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm may mặc gia công xuất khẩu trong các doanh nghiệp dệt may.
5. Đối tượng nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu:
11
Đề tài tập trung vào nghiên cứu công tác kế toán chi phí, tính giá thành sản
phẩm may mặc gia công xuất khẩu tại Tổng công ty CP May 10.
 Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ thực hiện khảo sát tại Tổng công ty CP May 10
- Đề tài chỉ đặt ra vấn đề nghiên cứu trong phạm vi số liệu năm 2012-2013
- Nội dung nghiên cứu:
Việc nghiên cứu chỉ thực hiện trên phương diện kế toán tài chính trong công ty.
Về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tập trung vào hoạt động may

gia công phục vụ xuất khẩu
6. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp thu thập dữ liệu
Thu thập dữ liệu sơ cấp: dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn
nhân viên kế toán từ công ty nghiên cứu.
Thông qua việc chọn ra đối tượng phỏng vấn là nhân viên kế toán tại công ty,
phỏng vấn các vấn đề liên quan đến các loại chi phí phát sinh trong hoạt động may gia
công và kế toán tập hợp chi phí sản xuất, phương pháp đánh giá sản phẩm làm dở,
phương pháp tính giá thành tại công ty nhằm tìm ra tình trạng chung cũng như thực
trạng riêng về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong công ty.
Cụ thể:
- Thời gian phỏng vấn:Tháng 3/2013.
- Số người được phỏng vấn: 10 người, gồm: kế toán vật tư, kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành, kế toán tổng hợp và các nhân viên kế toán phần hành liên quan.
Thu thập dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu thứ cấp được tiến hành tập hợp, phân loại
và chọn lọc các thông tin liên quan đến vấn đề kế toán chi phí sản xuất và phương
pháp tính giá thành sản phẩm hoạt động may gia công xuất khẩu từ các văn bản,
quy định pháp luật, các báo cáo, những công trình nghiên cứu tương tự về kế
hoạch phát triển ngành dệt may xuất khẩu nhằm nắm được môi trường pháp lý
chung cho các DN hoạt động may mặc nói chung và hoạt động may gia công xuất
khẩu nói riêng. Đồng thời, dựa vào các chính sách kế toán, quy trình kế toán chi phí
12
sản xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm, BCTC đã được công bố của
công ty để biết được tình hình thực tế công ty cũng những những vấn đề còn tồn
đọng, những khúc mắc chung và riêng cần giải quyết tại công ty.
 Phương pháp phân tích thông tin
Đối với dữ liệu thứ cấp
Sau khi thu thập và tổng hợp câu trả lời của các chuyên gia, tác giả sử dụng
các phương pháp gồm: tổng hợp thông tin, so sánh, đối chiếu, phân tích, phán đoán,
… đánh giá thông tin.

Đối với dữ liệu sơ cấp
Sau khi tìm hiểu được những quyết định, thông tư, văn bản pháp lý ảnh hưởng
đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại công ty nhằm so sánh và tìm hiểu
thực trạng tại doanh nghiệp và phân tích sự tác động của những văn bản pháp lý đến
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các công ty nghiên cứu.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, danh mục chữ viết tắt, danh
mục sơ đồ và bảng biểu, lời mở đầu, tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội dung
chính của luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp sản xuất
Chương 2: Thực trạng kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm may
mặc gia công xuất khẩu tại Tổng công ty CP May 10.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí, tính giá thành sản
phẩm may mặc gia công xuất khẩu tại Tổng Công ty CP May 10.
13
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ, TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm trong các DNSX và vai trò
của kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm.
1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Thuật ngữ chi phí có từ thời trung cổ (từ thế kỷ thứ V sau công nguyên) từ đó
cho đến nay người ta vẫn quan niệm chi phí như là những hao phí phải bỏ ra để đổi lấy
sự thu về. Xét về bản chất, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí về lao động sống cần thiết và lao động vật hoá thực tế mà doanh nghiệp đã chi
ra trong quá trình sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình doanh nghiệp khai thác, sử dụng
lao động, vật tư, tiền vốn … để sản xuất kinh doanh sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Đó

là quá trình doanh nghiệp bỏ ra các chi phí về lao động sống như: chi phí tiền
lương, tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội … gắn với việc sử dụng lao động, chi
phí về lao động vật hoá như chi phí về nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, tài
sản cố định … để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ có những chi phí
liên quan đến hoạt động sản xuất mới được tính vào chi phí sản xuất. Chi phí sản
xuất phát sinh thường xuyên trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp để phục vụ
cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất được tập hợp theo thời kỳ
hàng tháng, hàng quý, hàng năm.
Vì vậy, khái niệm đầy đủ: chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của tổng số
hao phí lao động sống cần thiết, hao phí lao động vật hoá và các chi phí khác ( như
lãi vay, các khoản bảo hiểm xã hội …) liên quan đến quá trình sản xuất mà doanh
nghiệp phải chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định.
Trong đó : + Hao phí lao động sống: biểu hiện như tiền lương, các khoản
trích theo lương của người lao động phát sinh ghi vào chi phí sản xuất.
14
+ Hao phí lao động vật hoá: biểu hiện của nó là giá trị nguyên vật liệu sử
dụng, công cụ dụng cụ xuất dùng, khấu hao tài sản cố định phục vụ cho sản xuất.
Đây là các tư liệu lao động và đối tượng lao động được người lao động tác động và
chuyển hóa thành sản phẩm.
Theo chuẩn mực VAS 01 – “Chuẩn mực chung” thì “Chi phí là tổng giá trị
khoản làm giảm lợi ích trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các
khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở
hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”.
Xét theo tính chất cá biệt thì chi phí sản xuất bao gồm tất cả các chi phí mà
doanh nghiệp phải chi ra để tồn tại và tiến hành các hoạt động sản xuất, bất kể đó là
chi phí cần thiết hay không cần thiết, khách quan hay chủ quan.
Tuy nhiên, trong cùng một thời kỳ, ở cùng một doanh nghiệp chi phí và chi
tiêu không hoàn toàn giống nhau cả về định lượng và định tính, có trường hợp chi
phí nhưng không phải là chi tiêu và ngược lại có khoản chi tiêu nhưng chưa hoặc
không phải là chi phí.

Chi tiêu của doanh nghiệp là sự chi ra, sự giảm đi thuần tuý của tài sản doanh
nghiệp không kể các khoản đã dùng vào việc gì và dùng như thế nào. Mặc dù chi
tiêu là cơ sở của chi phí song chi phí của doanh nghiệp sẽ không bao gồm các khoản
chi tiêu có đặc điểm sau:
- Các khoản chi tiêu làm giảm 1 tài sản này nhưng làm tăng 1 tài sản khác
hoặc làm giảm 1 khoản nợ phải trả trong doanh nghiệp.
- Các khoản chi tiêu làm tăng 1 khoản nợ phải trả nhưng đồng thời làm tăng 1
tài sản hoặc giảm 1 khoản nợ phải trả khác của doanh nghiệp.
Như vậy, chi phí chỉ bao gồm các trường hợp làm giảm tài sản hoặc tăng
khoản nợ phải trả nhưng không kèm theo các biến động khác. Do có sự không phù
hợp giữa thời gian phát sinh các khoản chi tiêu và thời gian phát huy tác dụng của
nó đối với thu nhập của doanh nghiệp nên chi phí và chi tiêu có sự khác biệt về thời
gian: Khoản chi tiêu ở kỳ này nhưng còn được chờ phân bổ ở kỳ sau (chi phí trả
trước). Khoản được tính vào chi phí của kỳ này ( chi phí phải trả ) nhưng chưa được
15
chi tiêu (sẽ chi ở các kỳ sau).
Còn theo Giáo trình kế toán quản trị (2004), trường Đại học Kinh tế quốc
dân: Chi phí là một khoản hao phí bỏ ra để thu được một số sản phẩm hoặc dịch vụ
nào đó. Bản chất của chi phí phải mất đi để đổi lấy một khoản thu về.
Các khái niệm trên tuy khác nhau về cách diễn đạt, về mức độ khái quát
nhưng đều thể hiện bản chất của chi phí là những hao phí phải bỏ ra để đổi lấy sự
thu về, có thể thu về dưới dạng vật chất định lượng được như số lượng sản phẩm
hoặc thu về dưới dạng tinh thần hay dịch vụ được phục vụ.
1.1.1.2. Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của các khoản hao phí lao động
sống và lao động vật hóa mà DN bỏ ra có liên quan đến khối lượng sản phẩm, công
việc, lao vụ và dịch vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là thước đo giá trị và cũng là một đòn bẩy kinh tế, nó là
một chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong hệ thống các chỉ tiêu quản lý của DN, là chỉ
tiêu tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản trong quá trình hoạt động

SXKD cũng như tính đúng đắn của các giải pháp mà DN đã thực hiện nhằm mục
đích hạ thấp chi phí, tăng lợi nhuận.
Tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của mỗi ngành SX, kết cấu giá
thành bao gồm các khoản mục chi phí khác nhau, ví dụ trong ngành sản xuất công
nghiệp, giá thành bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp, chi phí SX chung.
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất
 Phân loại chi phí theo yếu tố
Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được
chia thành:
+ Chi phí nguyên vật liệu: Là toàn bộ giá trị các loại nguyên vật liệu chính,
nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu xây dựng cơ bản… mà doanh nghiệp đã sử
dụng cho hoạt động SX.
16
+ Chi phí nhân công: Là toàn bộ tiền lương, tiền công phải trả, tiền trích
BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ của công nhân và nhân viên hoạt động SX trong
doanh nghiệp.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: Là toàn bộ tiền trích khấu hao TSCĐ sử dụng cho
SX của doanh nghiệp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ số tiền doanh nghiệp chi trả về các
dịch vụ mua ngoài như tiền điện, tiền nước….phục vụ cho hoạt động SX của doanh
nghiệp.
+ Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ các chi phí khác dung cho hoạt động SX
ngoài 4 yếu tố trên.
 Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí trong giá thành sản xuất

Theo quy định, giá thành sản xuất, trừ ngành xây dựng cơ bản, bao gồm 3
khoản mục chi phí là:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về các loại nguyên vật liệu

chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp vào việc chế tạo sản xuất sản phẩm.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm các chi phí về tiền lương, phụ cấp
phải trả và các khoản trích BHXH, BHYT, BHTN, KPCĐ trên tiền lương của công
nhân trực tiếp sản xuất .
+ Chi phí sản xuất chung: Là chi phí dùng cho việc quản lý và phục vụ sản
xuất cho bộ phận sản xuất, phân xưởng sản xuất .
 Phân loại chi phí sản xuất theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành

Theo cách này, toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành biến phí, định phí,
chi phí hỗn hợp.
+ Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số khi có sự thay đổi về khối
lượng sản phẩm, công việc hoàn thành, chẳng hạn như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp….Biến phí thay đổi theo tỷ lệ thuận với khối lượng sản
phẩm, công việc hoàn thành, nhưng lại là hằng số nếu tính trên một đơn vị sản phẩm.
+ Định phí: Là những chi phí không đổi so với khối lượng sản phẩm, công
việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí về thuê mặt bằng
17
SX….Định phí tính cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành sẽ thay đổi nếu số lượng
sản phẩm thay đổi.
+ Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả yếu tố của
định phí và biến phí.
 Phân loại chi phí theo khả năng quy nạp vào các đối tượng kế toán chi phí
+ Chi phí trực tiếp: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng
kế toán tập hợp chi phí mà kế toán có thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu
chi phí. Trong quản trị doanh nghiệp nói chung và kế toán quản trị nói riêng, nếu
loại chi phí này chiếm đa số trong tổng chi phí thì sẽ thuận lợi cho việc kiểm soát
chi phí và dễ dàng trong việc xác định nguyên nhân gây ra chi phí.
+ Chi phí gián tiếp: Là các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán
tập hợp chi phí khác nhau nên không thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng tập
hợp chi phí được mà phải tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí khi chúng phát

sinh, sau đó quy nạp cho từng đối tượng theo phương pháp phân bổ gián tiếp.
 Phân loại chi phí theo thẩm quyền ra quyết định
+ Chi phí kiểm soát được: Là chi phí mà các nhà quản trị ở một cấp quản lý
nào đó xác định được lượng phát sinh của nó, có thẩm quyền quyết định về sự phát
sinh chi phí đó, cấp quản lý đó kiểm soát được những chi phí này.
+ Chi phí không kiểm soát được: Là những chi phí mà các nhà quản trị ở một
cấp quản lý nào đó không thể dự đoán chính xác sự phát sinh của nó và không có
thẩm quyền quyết định đối với khoản chi phí đó.
 Căn cứ vào việc sử dụng chi phí trong quá trình lựa chọn các phương án có

+ Chi phí chênh lệch: Là những chi phí có ở phương án này nhưng chỉ có ở
một phần hoặc không có ở phương án khác.
+ Chi phí cơ hội: Là chi phí bị mất đi vì lựa chọn phương án và hành động
này thay vì lựa chọn phương án hay hành động khác. Như vậy, ngoài những chi phí
kinh doanh đã được tập hợp trong sổ sách kế toán, trước khi ra quyết định, nhà quản
trị còn phải xem xét chi phí cơ hội phát sinh do những yếu tố kinh doanh có thể sử
dụng theo cách khác mà những cách này cũng mang lại lợi nhuận.
18
+ Chi phí chìm: Là những chi phí đã phát sinh, nó có trong tất cả các phương
án SXKD được đưa ra xem xét lựa chọn. Đây là những chi phí mà nhà quản trị phải
chấp nhận không có sự lựa chọn. Bởi vậy, chi phí chìm luôn là là thông tin không
thích hợp cho việc xem xét, lựa chọn phương án tối ưu.
1.1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để giúp cho việc nghiên cứu và quản lý tốt giá thành sản phẩm, kế toán cũng
cần phải phân biệt các loại giá thành khác nhau.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, công tác quản lý, kế hoạch hóa giá
thành từ khâu chỉ đạo, thực hiện, tổng kết, rút kinh nghiệm ở các doanh nghiệp công
nghiệp thường có nhiều loại giá thành khác nhau. Việc phân loại giá thành sẽ giúp
phân tích được những biến động của chi tiêu giá thành và chiều hướng của chúng để
có biện pháp thích hợp nhằm hạ giá thành sản phẩm. Căn cứ các tiêu thức khác

nhau, giá thành được phân thành các loại khác nhau.
 Theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành được tính trên cở sở chi phí sản xuất kế
hoạch và số lượng sản phẩm sản xuất kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch do bộ
phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá
trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của
doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch
hạ giá thành của doanh nghiệp.
- Giá thành định mức: Là giá thành được tính trên cơ sở các định mức chi phí
hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Giá thành định mức là công cụ quản lý định
mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật
tư, lao động trong sản xuất, giúp đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật đã
thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Giá thành thực tế: Là giá thành được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất
thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng sản phẩm thực tế
đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán, được sau khi kết thúc
quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu tổng giá
19
thành và giá thành đơn vị. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh
kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh
tế, kỹ thuật, tổ chức và công nghệ….để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ
sở để xác định kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp và nghĩa vụ của doanh
nghiệp đối với Nhà nước cũng như đối với các đối tác liên doanh liên kết.
 Theo phạm vi tính toán vào chi phí vào giá thành
- Giá thành sản xuất: Là giá thành bao gồm toàn bộ toàn bộ các chi phí cố
định và chi phí biến đổi thuộc chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Chỉ tiêu giá thành sản xuất toàn bộ có ý nghĩa
quan trọng trong quản trị doanh nghiệp. Dựa vào giá thành sản xuất toàn bộ, doanh
nghiệp có thể xác định được kết quả sản xuất sản phẩm là lãi hay lỗ. Nó đóng vai
trò chủ yếu trong các quyết định mang tính chiến lược dài hạn. Quyết định ngừng

sản xuất hay tiếp tục sản xuất một loại sản phẩm nào đó.
- Giá thành sản phẩm theo biến phí chỉ bao gồm các biến phí sản xuất, kể cả
biến phí trực tiếp và biến phí gián tiếp. Như vậy trong các phương pháp xác định
giá thành sản xuất theo biến phí, các chi phí cố định được tính ngay vào báo cáo kết
quả kinh doanh như các chi phí thời kỳ trong niên độ mà không tính vào giá thành
sản xuất. Do giá thành sản xuất chỉ bao gồm biến phí sản xuất nên gọi là giá thành
sản xuất bộ phận. Trên cơ sở giá thành sản xuất bộ phận, doanh nghiệp sẽ xác định
được lãi gộp trên biến phí (số dư đảm phí) và cho phép mô hình hóa một cách đơn
giản mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận.
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ là giá thành sản xuất toàn bộ cộng
các chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp hay giá thành sản xuất theo
biến phí cộng định phí sản xuất và các chi phí bán hang, chi phí quản lý doanh
nghiệp. Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ chỉ được xác định khi sản phẩm đã tiêu
thụ và được sử dụng để xác định kết quả tiêu thụ của doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm
Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chính xác, hợp lý và tính đúng, tính đủ giá
thành có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành , trong việc kiểm
20
tra tính hợp pháp hợp lệ của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung và ở các
doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Với chức năng là ghi chép, tính toán, phản ánh và
giám đốc thường xuyên liên tục sự biến động của vật tư, tài sản, tiền vốn, kế toán sử
dụng thước đo hiện vật và thước đo giá trị để quản lý chi phí. Thông qua số liệu do
kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành, người quản lý doanh nghiệp biết được chi
phí và giá thành thực tế của từng sản phẩm. Qua đó, nhà quản trị có thể phân tích
tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là
tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định
phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hạ giá thành sản
phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp kinh
doanh trên thị trường.
Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể

dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần giá thành thì giá thành lại chịu ảnh
hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất sản xuất. Do vậy, tổ chức tốt công tác
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm để xác định nội dung, phạm vi
chi phí cấu thành trong giá thành cũng như lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch
chuyển vào sản phẩm hoàn thành là yêu cầu rất cần thiết đối với các doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng.
Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là tiền đề để xác định kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng lãi giả, lỗ thật như một số năm
trước đây. Khi nền kinh tế đang trong thời kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp
hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh, vật tư, tiền vốn do cấp trên cấp, giá thành là giá
thành kế hoạch định sẵn. Vì vậy, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm chỉ mang tính hình thức. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp được chủ động hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương hướng riêng và
phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Để có thể cạnh tranh
được trên thị trường, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
còn phải thực hiện đúng theo những quy luật khách quan.Như vậy, kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm sản xuất là phần không thể thiếu được đối với
21
các doanh nghiệp sản xuất khi thực hiện chế độ kế toán, hơn nữa là nó có ý nghĩa to
lớn và chi phối chất lượng công tác kế toán trong toàn doanh nghiệp.
Vậy tóm lại giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp có các vai trò cơ bản
sau đây:
- Chức năng thước đo bù đắp chi phí : Giá thành sản phẩm biểu hiện hao phí
về vật chất mà các doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Những
hao phí vật chất này cần phải được bù đắp đầy đủ kịp thời để đảm bảo yêu cầu tái
sản xuất. Bù đắp hao phí sản xuất là vấn đề quan tâm đầu tiên của các doanh nghiệp
bởi hiệu quả kinh tế được thể hiện ra trước hết là ở chỗ doanh nghiệp có khả năng
bù lại những gì mà mình đã bỏ ra hay không. Đủ bù đắp là khởi đầu của hiệu quả và
là yếu tố đầu tiên để xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chức năng thước đo hiệu quả, chất lượng của hoạt động sản xuất kinh

doanh: Thông qua chỉ tiêu giá thành có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó chứng minh được khả năng phát triển và
hiệu quả việc sử dụng các yếu tố vật chất của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm
còn thể hiện hiệu quả của toàn bộ các biện pháp kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp
đã thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh, bởi vì sự hoạt động của doanh
nghiệp đều tác động đến việc sử dụng yếu tố vật chất để thực hiện quá trình sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Chức năng lập giá: Sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra là sản phẩm
hàng hoá được thể hiện giá trị thị trường thông qua giá cả. Khi được sử dụng làm
căn cứ lập giá thì giá thành sản phẩm phải bao gồm những hao phí được xã hội chấp
nhận và phải loại bỏ khỏi giá thành những hao phí bất hợp lý.
- Chức năng đòn bẩy kinh tế: lợi nhuận của doanh nghiệp cao hay thấp phụ
thuộc vào giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là biện pháp cơ bản để tăng
cường lợi nhuận, tạo nên tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Cùng với các phạm trù
kinh tế khác như: giá cả, chất lượng … giá thành sản phẩm thực tế đã trở thành đòn
bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường hiệu quả kinh doanh phù
hợp với nguyên tắc hạch toán kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
22
1.2. Kế toán chi phí, tính giá thành sản phẩm trong hệ thống các chuẩn
mực kế toán Việt Nam
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chịu sự chi phối
và được nằm rải rác trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01, số 02, số 03, số
04, cụ thể:
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (VAS 01) ban hành kèm theo quyết
định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002, kế toán chi phí sản xuất
cần tuân thủ 7 nguyên tắc kế toán sau:
- Nguyên tắc cơ sở dồn tích: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi
phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời
điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính

lập trên cơ sở dồn tích phản ảnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá
khứ, hiện tại và tương lai.
Như vậy, mọi chi phí phát sinh của doanh nghiệp phải được ghi nhận tại
thời điểm phát sinh, không căn cứ vào dòng tiền ra và vào doanh nghiệp. Chỉ khi
tuân thủ đúng nguyên tắc này, báo cáo tài chính mới phản ánh được tình hình tài
chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
- Nguyên tắc giá gốc: Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của
tài sản được tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính
theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài
sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể.
Mọi tài sản của doanh nghiệp khi xuất dùng (nguyên vật liệu và công cụ dụng
cụ) phải được ghi nhận theo giá gốc, khi phản ánh chúng theo giá thị trường tại thời
điểm đưa tài sản đó vào quá trình sản xuất sản phẩm. Thực hiện nguyên tắc này để
đảm bảo tính khách quan của số liệu kế toán, xác định được kết quả kinh doanh và
đơn giản hơn trong việc ghi chép, thuận lợi cho công tác quản lý.
- Nguyên tắc phù hợp: Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với
nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương
23
ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu
gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải
trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
Do đó, tất cả các khoản chi phí cấu thành nên sản phẩm sẽ được tập hợp tạo
ra giá vốn của sản phẩm đó và phải phù hợp với doanh thu của sản phẩm được cung
cấp trong một khoảng thời gian xác định.
- Nguyên tắc nhất quán: Các chính sách và phương pháp kế toán doanh nghiệp
đã chọn phải được áp dụng thống nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm. Trường hợp
có thay đổi chính sách và phương pháp kế toán đã chọn thì phải giải trình lý do và ảnh
hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Tuân thủ nguyên tắc nhất quán, đảm bảo cho việc ghi nhận các yếu tố chi phí
một cách hợp lý, không tạo nên các thay đổi bất thường trong giá thành sản phẩm

(khi thay đổi về phương pháp khấu hao TSCĐ, phương pháp xác định trị giá hàng
xuất kho,…trong kỳ kế toán).
- Nguyên tắc thận trọng: Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần
thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc
thận trọng đòi hỏi: Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn, không
đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập, không đánh giá thấp
hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí, doanh thu và thu nhập chỉ được ghi
nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí
phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.
Cần phải tuân thủ nguyên tắc này để hạn chế tối đa những bất lợi trong
tương lai.
- Nguyên tắc trọng yếu: Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu
thiếu thông tin hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể
báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo
tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin hoặc các
sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải
được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.
24
Chi phí sản xuất, kinh doanh phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp như giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp, chi phí lãi tiền vay và các chi phí liên quan đến hoạt dộng cho các bên khác
sử dụng tài sản sinh ra lợi tức, tiền bản quyền Những chi phí này phát sinh dưới
dạng tiền và các khoản tuơng đương tiền, hàng tồn kho, khấu hao máy móc, thiết bị.
Chi phí sản xuất được ghi nhận trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh khi các
khoản chi phí này làm giảm bớt lợi ích kinh tế trong tương lai có liên quan đến việc
giảm bớt tài sản hoặc tăng nợ phải trả và chi phí này phải được xác định một cách
đáng tin cậy. Các chi phí sản xuất được ghi chép trong báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh phải tuân thủ theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Một
khoản CPSX được ghi nhận ngay vào báo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
trong kỳ khi chi phí đó không đem lại lợi ích kinh tế trong các kỳ sau.

Theo quy định của VAS 02 được ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-
BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 và được áp dụng từ ngày 01/01/2002. Chuẩn mực
này đưa ra những quy định và hướng dẫn các nguyên tắc và phương pháp kế toán
hàng tồn kho gồm có:
- Xác định giá trị và kế toán hàng tồn kho được tính vào chi phí
- Ghi giảm giá trị hàng tồn kho cho phù hợp với giá tri thuần có thể thực hiện
được và phương pháp tính giá trị hàng tồn kho làm cơ sở ghi sổ kế toán và lập báo
cáo tài chính.
Đối tượng điều chỉnh của chuẩn mực là hàng tồn kho như tài sản được giữ đề
bán trong kỳ SXKD bình thường(thành phẩm), hay đang trong quá trình sản xuất,
kinh doanh dở dang(bán thành phẩm hay các sản phẩm dở dang) và các nguyên vật
liệu, công cụ, dụng cụ sản xuất. Như vậy đối tượng điều chỉnh của chuẩn mực này
cũng chính là đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Nội dụng chính của chuẩn mực đề cặp đến là là cách xác định trị giá của hàng tồn
kho theo phương pháp giá gốc.
Theo chuẩn mực này “ Giá gốc hàng tồn kho bao gồm: Chi phí mua, chi phí
chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để có được hàng tồn kho
25
ở địa điểm và trạng thái hiện tại”.
Các chi phí được tính vào giá gốc của hàng tồn kho là:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp gồm: giá mua của hàng tồn kho và chi phí
mua hàng(bốc dỡ, vận chuyển,…), các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá
hàng mua do hàng mua không đúng quy cách, phẩm chất được trừ khỏi chi phí mua.
- Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm: chi phí lương, các khoản phụ cấp có
tính chất lương, khoản trích theo lương theo quy định của pháp luật.
- Chi phí sản xuất chung bao gồm: các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến
quá trình sản xuất sản phẩm như CPSX chung cố định và CPSX chung biến đổi.
Chi phí SXC chung cố định là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường
không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí khấu hao, chi phí bảo
dưỡng máy móc thiết bị nhà xưởng, chi phí quản lý hành chính ở các phân xưởng

quản lý sản xuất…chi phí SXC cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị
sản phẩm được dựa trên công suất bình thường của máy móc sản xuất. Nếu mức sản
phẩm thực tế sản xuất ra cao hơn công suất bình thường thì CPSXC cố định được
phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí thực tế phát sinh. Còn mức sản phẩm
thực tế sản xuất ra nhỏ hơn công suất bình thường thì CPSXC cố địnhchỉ được phân
bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường.
Khoản CPSX chung không phân bổ được ghi nhận là CPSX kinh doanh trong kỳ.
+ Chi phí sản xuất chung biến đổi là những CPSX gián tiếp, thường thay đổi
trực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm sản xuất ra như chi phí vật
liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp. CPSXC biến đổi được phân bổ hết vào
chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí thực tế phát sinh.
Tóm lại, quá trình kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm về thực chất cũng là xác định giá trị hàng tồn kho theo nguyên tắc giá gốc.
nên giá thành sản phẩm sản xuất hoàn thành trong kỳ bao gồm 03 yếu tố CPSX kể
trên có liên quan trực tiếp tới quá trình sản xuất. chuẩn mực cũng đưa ra hướng dẫn
giúp loại bỏ những chi phí không tính vào giá gốc của hàng tồn kho hay là các chi
phí cần loại trừ khi tính giá thành sản phẩm như: chi phí vật liệu, nhân công, chi

×