Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Giải pháp thực hiện chính sách kích cầu đầu tư hiệu quả ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.37 KB, 92 trang )

Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU
Vừa qua cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu
gây ra hậu quả hết sức to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt Nam
cũng không nằm ngoài khu vực bị ảnh hưởng nhất là khi chúng ta trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khủng hoảng có
những ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội và các nhà kinh tế
học trên thế giới, chính phủ các nước nói chung cũng như chính phủ Việt Nam
nói riêng cũng đã làm hết sức mình để đưa nền kinh tế của quốc gia mình thoát
khỏi khủng hoảng. Bằng việc xem xét lại các lý thuyết kinh tế đang được áp
dụng hiện nay đặc biệt là lý thuyết bàn tay hữu hình với sự can thiệp điều tiết
nền kinh tế của nhà nước, các quốc gia đã có những chính sách kinh tế với
những gói giải cứu kinh tế nhằm kích cầu đầu tư, tiêu dùng, tạo công ăn việc
làm nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Chính sách kích cầu kinh tế bên cạnh
những mặt tích cực thì cũng có những hạn chế. Nhận thức được những hạn chế
này sẽ giúp chính phủ có được những sự lựa chọn thích hợp trong việc thực thi
chính sách. Nhóm sinh viên chuyên ngành kinh tế đầu tư chúng em với mong
muốn tìm hiểu, vận dụng những kiến thức chuyên ngành để đi sâu tìm hiểu vấn
đề thực tiễn. Điều đó thôi thúc chúng em tiến hành nghiên cứu đề tài:” Kích cầu
đầu tư - Lý thuyết và thực tiễn tiễn”. Trong đề tài thảo luận này chúng em đưa
ra một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và kích cầu đầu tư, tình hình thực tiễn
kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm kích cầu
đầu tư có hiệu quả.
Nhóm thảo luận chúng em xin chân thành cám ơn PGS.TS Từ Quang
Phương cùng các thầy cô giáo trong bộ môn kinh tế đầu tư đã giúp đỡ chúng em
thực hiện bài viết này. Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kiến thức nên bài
viết không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được những
góp ý của thầy cô để bài viết hoàn thiện hơn.
- 1 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn


MỤC LỤC
LƠÌ NÓI ĐẦU…………………………………………..……………………….1
Chương I: Lí luận chung về kích cầu đầu tư………….…………………………4
I. Đầu tư và cầu đầu tư………………………………………………………..4
1. Khái niệm về đầu tư……………..………………………………………4
2. Cầu đầu tư…………………..……………………………………………4
2.1. Khái niệm………………...…………………………………………….4
2.2. Các nhân tố tác động tới cầu đầu tư……………...…………………….4
2.2.1. Lợi nhuận kì vọng…………………………………………………..4
2.2.2. Lợi nhuận thực tế……………………………………………………6
2.2.3. Lãi suất tiền vay………….………………………………………….7
2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia………….………………..8
2.2.5. Chu kì kinh doanh…………………………………...……………...10
2.2.6. Đầu tư nhà nước……………………..…..…………………………11
2.2.7. Môi trường đầu tư……………………..……….……………………11
2.2.8. Thuế thu nhập doanh nghiệp………......……………………………12
II. Một số vấn đề về kích cầu và kích cầu đầu tư………..……......................13
1. Thế nào là kích cầu…………………..…………………………………13
1.1.Khái niệm……………………………..………………………………13
1.2. Nguồn gốc và cơ sở của chính sách…………...…………………13
1.3. Mục đích của chính sách kích cầu………………………………15
1.4. Nguyên tắc cơ bản của kích cầu…………………………………15
1.5. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu……..….…………………18
2. Kích cầu đầu tư…………………………………………………………18
2.1. Khái niêm…………..………………………………...………………18
2.2. Phân biệt kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng………..……………18
2.3. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư……………….…………………………19
2.4. Tác động của kích cầu đầu tư……………...…………………………19
2.4.1. Tác động tích cực……………………………..……………………19
2.4.2. Tác động tiêu cực……………..……………………………………22

2.5. Nguồn vốn cho kích cầu đầu tư………...………….…………………24
2.5.1. Vốn trái phiếu chính phủ……………………...……………………24
2.5.2. Vốn ngân sách nhà nước……………………...……………………25
2.5.3. Quỹ dự trữ ngoại hối………………………….……………………25
2.5.4. In tiền……………………………………….………………………26
2.5.5. Vay nợ nước ngoài…………………………………………………26
2.5.6. Trì hoãn trả nợ…………………………..…………………………27
2.6. Các công cụ, biện pháp sử dụng………...……………………………27
2.6.1. Nhóm chính sách tiền tệ……………………….…………………27
2.6.2. Nhóm chính sách tài khóa……………………….…………………30
2.6.3. Nhóm chính sách giải pháp khác……………………...……………30
2.7. Kinh nghiệm kích cầu đầu tư trên thế giới………………………32
2.8. Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kích cầu đầu tư………..……………34
2.8.1. Độ trễ chính sách…………………………………...………………34
- 2 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
2.8.2. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách……………….……………35
Chương II: Thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam
I. Thực tiễn kích cầu đầu tư trước khủng hoảng kinh tế 2007…………...……37
1. Tình hình kinh tế -xã hội Việt Nam giai đoạn 1986_2007……....……37
2. Tình hình kích cầu đầu tư của Việt Nam giai đoạn 1986_2007……..…39
II. Thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2007_nay……….……49
1. Khủng hoảng kinh tế thế giới và ảnh hưởng tới Việt Nam…………….49
2. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới và của Việt Nam……52
2.1. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới………….…………52
2.2. Nội dung kích cầu ở Việt Nam……………….………………………55
2.2.1. Gói kích cầu thứ nhất………………….………………………….55
2.2.1.1. Nội dung cụ thể goi kích cầu…………..…………………………55
2.2.1.2. Công cụ biện pháp thực hiện……………..………………………56
2.2.1.3. Tình hình thực hiện………………………………………………61

2.2.1.4. Tác động của gói kích cầu………………..………………………62
2.2.1.5. Các vấn đề của gói kích cầu…………..…………………………71
2.2.2. Gói kích cầu thứ hai………………..………………………………75
2.2.2.1. Các quan điểm……………………………………………………75
2.2.2.2. Nội dung cụ thể gói kích cầu…………….……….………………76
2.2.2.3. Tác động của gói kích cầu số 2…………………..………………77
3. So sánh các gói kích cầu ở Việt Nam và một số nước trên thế giới78
Chương III: Giải pháp thực hiện chính sách kích cầu đầu tư hiệu quả ở Việt
Nam
I. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kích cầu đầu tư……………80
1. Huy động vốn kịp thời và hiệu quả………………………..……………80
2. Giải pháp sử dụng hiệu quả vốn kích cầu đầu tư…………..……………80
2.1. Kích cầu phải kịp thời………………………...………………………80
2.2. Phân bổ nguồn vốn hợp lí……………………..………………………81
II. Kết hợp với chính sách tiền tệ, tỷ giá, khyến khích xuất khẩu, thu hút đầu
tư………………………...……………………………………….……………..82
III. Giám sát và đánh giá kết quả gói kích cầu…………….………………….83
1. Vai trò giám sát của quốc hội……………………….…………………...83
2. Đánh giá kết quả thực hiện gói kích cầu………………………………...84
IV. Một số đề xuất nhằm phát huy hiệu quả chính sách kích cầu đầu tư……..84
V. Các giải pháp kich cầu đầu tư trong dài hạn…………….…………………87
1. Giải pháp kích cầu đầu tư trong nước……………………………………87
2. Giải pháp kích cầu đầu tư nước ngoài……………………………………88
KẾT LUẬN……………….……………………………………………………89
Danh mục tài liệu tham khảo:…………………………………………..………90

- 3 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
I. Đầu tư và cầu đầu tư

1. Khái niệm đầu tư :
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lưc đã bỏ ra để đạt đươc các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn với những hi sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
2. Cầu đầu tư
2.1. Khái niệm:
Cầu đầu tư là tất cả nhu cầu của doanh nghiệp về hàng hóa vật tư, máy
móc, dịch vụ…và nguồn tài chính để duy trì hay mở rộng sản xuất của doanh
nghiệp đó trong một thời gian nhất định.
2.2. Các nhân tố tác động tới cầu đầu tư
Nhu cầu đầu tư của các cá nhân, các doanh nghiệp và của chính phủ có
vai trò quan trọng đối với nền kinh tế bởi đầu tư là một bộ phận chính cấu thành
nên tổng cầu. Vì vậy cần xem xét kĩ lưỡng các yếu tố tác động đến cầu đầu tư
dưới đây để thấy được yếu tố nào tác động ít, yếu tố nào tác động nhiều và xu
hướng tác động của các yếu tố như thế nào để đưa ra chính sách kích cầu phù
hợp và đem lại hiệu quả mong muốn cho nhà đầu tư.
2.2.1. Lợi nhuận kì vọng
2.2.1.1. Lí thuyết của Keynes:
- Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi
vọng sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết
của Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết
đầu tư của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn
để kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi
nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng
thì các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ
gửi tiền vào ngân hàng.
- Mặt khác, theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ
suất đầu tư của số tiền đầu tư mới. Do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên

của vốn giảm dần. Điều này có thể giải thích do các nguyên nhân sau:
Trước hết, khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về
vốn tăng dẫn đến sự gia tăng của lãi suất cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các
yếu tố khác không đổi thì khi đó, lợi nhuận giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên
giảm.
Thứ hai, xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia
tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động, phát huy kết quả trong thực
tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng, nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào
- 4 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
nền kinh tế. Cung tăng, giá sản phẩm sẽ giảm, chi phí sản xuất xem như ổn định,
lúc đó tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm.
Thứ ba, xuất phát từ năng suất lao động. Khi gia tăng vốn đầu tư vào sản
xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi
lao động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1
đơn vị vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn so với khi lượng
vốn nhiều. Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn
cũng giảm dần.
Thứ tư, khi quy mô vốn đầu tư tăng, hiệu quả biên của vốn giảm dần nên
các nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư cho tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn
mức lãi suất vốn vay trên thị trường vốn. Khi hiệu quả biên của vốn thấp hơn lãi
suất vốn vay, nghĩa là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn chi phí tăng thêm thì các
nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. Điểm cân bằng là
điểm hiệu quả biên của vốn bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Theo Keynes, tỉ suất lợi nhuận là đại lượng rất khó xác định. Nhưng
chính điều đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư quyết định bỏ tiền đầu tư. Do lợi
nhuận khó xác định, có thể rất cao nhưng cũng có thể rất thấp, thậm chí có thể
âm nên kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng có thể thu được khoản lợi
nhuận cao đó. Tuy nhiên, bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có
thể xảy ra. Đó là tính 2 mặt của hoạt động đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được

lợi nhuận kì vọng.
2.2.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng
+ Cung – cầu hàng hóa:
Trong các giai đoạn của 1 dự án thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư được xem là
khâu quan trọng nhất. Việc xác định cung cầu hàng hóa cho sản phẩm của dự án
có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Nghiên cứu cầu hàng hóa để đảm bảo sản phẩm bán ra có thể tiêu thụ
được. Cầu hàng hoá trước hết phụ thuộc vào sức mua chung của người dân, đó
là tỷ lệ tiêu dùng (C) chia cho thu nhập khả dụng của từng người dân (Yd) với
tổng số dân cư của địa phương hay của một quốc gia. Như vậy cầu hàng hóa phụ
thuộc vào thu nhập, mức sống, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của người dân.
Cung hàng hóa là mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu trong 1 thời điểm
nhất định. Trước hết nó phụ thuộc vào khả năng sản xuất xã hội, tức là khả năng
cung ứng và kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vốn, công
nghệ...Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu và khả năng phân phối,
lưu thông hàng hóa.
+ Mức độ rủi ro:
Một trong những đặc điểm của đầu tư phát triển là thời kì đầu tư và thời
gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài, nguồn vốn chi cho đầu tư khá lớn, nghĩa là
kèm theo với mức độ rủi ro cao. Từ đó nó ảnh hưởng lớn đến yếu tố lợi nhuận kì
vọng. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro là rất rộng, ví dụ như những thay đổi không
lường trước được của giá cả, công nghệ,… Vấn đề là khả năng quản trị rủi ro
của doanh nghiệp như thế nào, mức độ phát triển của các dịch vụ hạn chế rủi ro
- 5 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
(bảo hiểm, tín dung,..) và quan trọng nhất là sự ổn định của môi trường đầu tư cả
về kinh tế, xã hội và chính trị.
+ Các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất:
Với mỗi dự án, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư thì họ phải xác
định được các yêu tố đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành

khai thác kết quả của dự án sau này, đó bao gồm các yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất. Cụ thể là:
- Các điều kiện về nguồn nhân lực: bao gồm cả về chất lượng và số
lượng. Khi xem xét nguồn nhân lực ta cần chú ý về khả năng dự báo tốc độ tăng
dân số, về tiền lương, về trình độ học vấn và văn hóa của họ…
- Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển: đó chính là khả năng huy
động vốn trên thị trường tài chính và tỷ lệ phân bổ vốn cho hoạt động đầu tư.
- Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào: phụ thuộc vào các chính sách bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên, tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng, các mối liên hệ
giữa các ngành kinh tế….
- Về trình độ công nghệ: phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công
nghệ, khả năng nghiên cứu ứng dụng của đội ngũ khoa học trong nước.
Nếu là nhập công nghệ từ nước ngoài thì còn phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ
cán bộ khoa học trong nước: họ tiếp thu, triển khai công nghệ đó như thế nào?
- Về cơ sở hạ tầng: phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước, do đó
phụ thuộc vào quy hoạch vùng và khả năng ngân sách.
+ Thuế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, vừa là công cụ tái
phân phối của cải xã hội vừa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các ngành,
vùng, miền. Thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp nên các
ưu đãi về thuế thường được sử dụng như 1 biện pháp khuyến khích đầu tư.
Vấn đề ở đây là phải xây dựng một chính sách thuế phù hợp. Bởi nếu ưu
đãi quá mức sẽ gây thất thu ngân sách và giảm đầu tư công cộng. Ngược lại, một
mức thuế cao sẽ giảm tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước cũng
như làm gia tăng tình trạng trốn thuế hay buôn lậu.
2.2.2. Lợi nhuận thực tế
Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lơi nhuận thực tế ta có thể xem
xét đến “lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ”,theo thuyết này thì qui mô đầu tư tỷ lệ
thuận với lợi nhuân thưc tế của doanh nghiệp thể hiện qua phương trình:
I = f (lợi nhuận thực tế)

Do đó, dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận
cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn có
thể huy động cho đầu tư bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay
các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi
nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh
nghiệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động
từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình
trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào phá sản. Do
đó việc đi vay không phải là hấp dẫn, trừ khi có ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng
- 6 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn, còn
bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp áp dụng khi hiệu
quả của dựa án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ
lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ thì doanh nghiệp thường
chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng
của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
2.2.3. Lãi suất tiền vay
Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là
chi phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu
tài chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản
ánh giá của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá vay tiền (giá của vốn) cao hơn tỉ
suất lợi nhuận bình quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại.
Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước
quy định, các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suất lớn hơn 150%
so với lãi suất cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay đầu
tư tài chính, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu, tái
chiết khấu. Sự chênh lệch giữa các loại lãi suất góp phần điều tiết sự phân bổ
vốn trong nền kinh tế.

Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị
trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu
nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự điều tiết
của ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp
vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất cũng chịu
ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước, nếu tình trạng thâm hụt ngân sách
kéo dài thì chính phủ phải đi vay để bù đắp thâm hụt, hơn nữa thâm hụt ngân
sách còn làm cho tiết kiệm quốc gia giảm khiến cho cung vốn vay giảm đẩy lái
suất tăng lên làm cho cầu đầu tư giảm xuống.
Lãi suất thực tế không chỉ phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa mà còn phụ
thuộc vào tỉ lệ lạm phát thông qua biểu thưc sau:
+Nếu tỷ lệ lạm phát π >=10% :
+Nếu tỷ lệ lạm phát π <=10%:
r =i – π
Trong đó : r là lãi suất thực tế;
i là lãi suất danh nghĩa;
π là tỷ lệ lạm phát;
Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi tỷ suất hoàn vốn nội bộ(IRR) của
dự án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn,
nhu cầu đầu tư sẽ giảm.
- 7 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Đồ thị:

Tuy nhiên lãi suất thấp hơn thì sẽ có nhiều dự án có IRR thấp được triển
khai, tức là các dự án ít hiệu quả, độ rủi ro cao. Khi đó nền kinh tế có thể tăng
trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng kết cục có thể dẫn đến lạm phát cao,
chính phủ buộc phải thực thi các biện pháp kiểm soát tiền tệ, các dự án có hiệu
quả thấp sẽ bị lỗ nếu tiếp tục vay vốn, nhiều dự án sẽ bị phá sản, nền kinh tế lại
rơi vào suy thoái. Ngoài ra nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới thì

có thể vốn đầu tư trong nước sẽ chảy ra nước ngoài do đó không làm tăng tổng
đầu tư trong nước.
Trên thực tế có trường hợp doanh nghiệp vẫn tăng qui mô vốn đầu tư khi
lãi suất cho vay ở mức cao. Đó là những trường hợp mà doanh nghiệp nhận thấy
được rằng mở rộng qui mô sản xuất sẽ thu được lợi nhuận cao hoặc những hoạt
động kinh doanh mạo hiểm với mức độ rủi ro cao hoặc những doanh nghiệp vừa
và nhỏ sử dụng ít vốn vay hơn nên tác động của lãi suất đến quyết định đầu tư là
không lớn dẫn đến họ vẫn quyết định đầu tư. Và cũng có những trường hợp khi
lãi suất cho vay thấp nhưng doanh nghiệp vẫn không tăng qui mô vốn đầu tư vì
họ cho rằng mở rộng qui mô vốn đầu tư không làm tăng lợi nhuận cũng như việc
tăng qui mô cũng làm tăng độ rủi ro lên.
Do đó việc lãi suất tăng cao hay giảm xuống luôn luôn gây bất lợi cho nền
kinh tế cho nên việc điều hành chính sách của nhà nước cũng như ngân hang sao
cho lãi suất giữ ở mức ổn định vừa kích thích đầu tư vừa kiềm chế được lạm
phát, phát triển nền kinh tế.
2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia
Đây là một chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác.
- Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố
ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư. Ví dụ: Khi GDP tăng
- 8 -
D
i
I
O
i
0
i
1
I
0

I
1
Hình 1: Lãi suất tiền vay là biến nội sinh của hàm cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
nhanh sẽ làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích tiêu dùng lại
vừa làm tăng tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm tăng
thì cung vốn vay tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư ( Do AD = C +I + G +
NX - M)
Hơn nữa, khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về
đầu tư.
Quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban
đầu trong sản lượng sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
- Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn
đề này được đề cập trong lí thuyết gia tốc vốn đầu tư . Theo lý thuyết này, để
sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất
định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo công
thức: x = K/Y (*)
Trong đó:
K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu;
Y: sản lượng tại thời kì nghiên cứu;
x: hệ số gia tốc đầu tư;
Từ công thức thức trên ta suy ra: K = x * Y
Như vậy nếu x không đổi thì khi qui mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến
nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng
phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hoặc không đổi so với
thời kì trước.
Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
+ Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì
kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
+ Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi kinh tế

tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết
kiệm tăng cao và đầu tư tăng nhiều.
Tuy nhiên, nó còn có 1 số hạn chế :
Thứ nhất, ở đây giả định quan hệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định.
Thực tế đại lượng này (x) luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác.
Thứ hai, thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI)
chứ không phải sư biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi của sản lượng. Thật
vậy, từ công thức (*) ở trên có thể viết:
Tại thời điểm t: Kt =x * Yt (1)
Tại thời điểm (t-1): Kt-1 = x * Yt-1 (2)
Lấy (1) trừ (2) ta có :
Kt – Kt-1 =x*Yt –x*Yt-1 = x*(Yt – Yt-1)
Trong đó (Kt–Kt-1) là đầu tư ròng và bằng (It – D), với D là khấu hao
Do đó, (It – D) = (Kt –Kt-1) = x*(Yt – Yt-1) =x*∆Y
Và đầu tư ròng : ∆I = x.∆Y
Như vậy theo lí thuyết này thì đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản
lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần).
Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm.
- 9 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ
bằng không. Khi ∆Y = 0 thì ∆I = 0
Thứ ba, theo lí thuyết này thì toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được
thực hiện ngay trong cùng 1 thời kì. Điều này không đúng vì nhiều lí do, chẳng
hạn như do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến vốn đầu tư không đáp ứng,
do cầu vượt quá cung…Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện
qua thời gian. Theo lí thuyết đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác
định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô
đầu tư mong muốn được xác định trong thời gian dài hạn.
2.2.5. Chu kì kinh doanh

- Thế nào là chu kì kinh doanh? Đó là những dao động của nền kinh tế
xung quanh xu thế tăng trưởng dài hạn, bao gồm cả những thời kì tăng trưởng
nhanh xen kẽ với những thời kì suy thoái của nền kinh tế. Mỗi chu kì kinh doanh
bao gồm 4 thời kì: suy thoái, khủng hoảng, phục hồi, hưng thịnh
- Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu
đầu tư khác nhau.
Khi nền kinh tế đang đi lên thì đầu tư tăng, vì sao?
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định
thì việc gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết
kiệm chi phí sản xuất, gia tăng đầu tư.
Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền
kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh
nghiệp tư nhân gia tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi
xuống, qui mô nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh
nghiệp tư nhân thu hẹp lại.
Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư
lại chưa chắc đã giảm?
Thật vậy, không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh
nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của toàn
bộ nền kinh tế. Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn
đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất
chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số
- 10 -
0
t
Hình I.5. Chu kỳ kinh doanh
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của
quốc gia đang trên đà đi xuống để kéo dài chu kì sống của sản phẩm.
Mặt khác, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định và đi lên,của cải tăng nên

công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu cầu sử dụng,họ
muốn đầu tư vào những tài sản thay thế có lợi tức dự kiến cao như đầu tư vao
chứng khoán công ty bởi vì khi nền kinh tế ổn định thì thị trường chứng khoán
trở nên ổn định hơn, rủi ro chứng khoán giảm và hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
2.2.6. Đầu tư của Nhà nước
Trong tổng đầu tư xã hội bao gồm đầu tư của nhà nước và đầu tư của
doanh nghiệp.
Tổng đầu tư xã hội = Đầu tư nhà nước + Đầu tư tư nhân
Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu
lợi mà tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội.
Thông qua ngân sách, chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới
giao thông, viễn thông, cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…điều này nhằm cải
thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu
tư vào các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà nước.
Ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vấn giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, nguồn vốn của họ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội, tổng vốn vay từ các ngân hàng thương mại và từ nước ngoài.
Vì vậy mỗi động thái trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp này đều có
tác động ít nhiều đến các hành vi của các chủ đầu tư khác trong nền kinh tế. Nói
cách khác, đầu tư nhà nước dẫn đường cho đầu tư của tư nhân, của các doanh
nghiệp đi sau.
Đầu tư nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố như thâm hụt ngân sách,
nợ nước ngoài, các quy hoạch kinh tế xã hội, tỷ lệ thất thoát, tham nhũng, tốc độ
giải ngân vốn, các thủ tục khi sử dụng vốn nhà nước.
Do vậy, đầu tư nhà nước vừa là đòn bẩy kích thích đầu tư tăng cao góp
phần làm cho tổng đầu tư xã hội tăng nếu hoạt động đầu tư nhà nước có hiệu

quả. Trong trường hợp đầu tư nhà nước không đúng hướng,không phù hợp hoặc
sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả sẽ gây hiệu ứng ngược lại cho đầu tư tư
nhân và khiến cho tổng đầu tư xã hội giảm sút, kéo nền kinh tế đi xuống.
2.2.7. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố và điều kiện khách quan,chủ
quan, bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp hay các nhà đầu tư có mối liên
hệ tương tác lẫn nhau,có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của nhà đầu tư.
Có thể nói môi trường đầu tư như một chất xúc tác ban đầu cho quyết
định bỏ vốn của nhà đầu tư, sự cải thiện môi trường đầu tư có ảnh hưởng vô
cùng quan trọng và tác động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu
- 11 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
tư và tăng chi tiêu đầu tư toàn xã hội. Trong một thế giới mở cửa và hội
nhập,việc cải thiện môi trường đầu tư hoặc hướng tới một môi trường kinh
doanh lành mạnh, đủ sức cạnh tranh là đích đến để phát triển kinh tế xã hội của
bất kì quốc gia nào. Môi trường đầu tư được coi là nhân tố số một để khơi thông
các dòng vốn từ mọi tầng lớp dân cư trong nước và nước ngoài. Môi trường
thuận lợi thì các doanh nghiệp, doanh nhân mới toàn tâm, toàn ý tập trung trí
tuệ, vốn và kĩ thuật để phát triển sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội.
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hiệu quả đầu tư. Có thể nói đến hai khái niệm:
- Môi trường cứng: bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ
thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, ví dụ như hệ thống thông tin liên lạc, cơ
sở hạ tầng giao thông,…
- Môi trường mềm: bao gồm hệ thống thủ tục hành chính, dịch vụ pháp
lý liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng…
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính tiên phong, định hướng, xúc tác cho các
hoạt động đầu tư, nó mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển. Vì

vậy cần chú ý đến công tác đầu tư chuẩn bị hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút các
nhà đầu tư, tạo cho họ sự tin cậy để bỏ vốn đầu tư.
Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc
đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các chính
sách nhằm tăng lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan tâm. Chính
sách và hành vi của chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác động của nó
đến chi phí, rủi ro và các rào cản cạnh tranh.
2.2.8. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Đây là loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ
phải chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng với họ đầu tư
vẫn hợp lí, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản ( lãi suất thực tế của vay
vốn tư bản đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá thuê thấp
hơn chi phí tư bản.
Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay đổi động
cơ đầu tư nhưng lại cản trở đầu tư vì các doanh nghiệp phải trích khấu hao dựa
trên chi phí lịch sử, tức là phần trích khấu hao được tính trên cơ sở giá mua tư
bản ban đầu. Trong thời kì lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chi phí lịch sử nên
thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng đánh giá quá cao lợi nhuận, thậm chí
vẫn đánh thuế ngay cả khi lợi nhuận của doanh nghiệp bằng không, từ đó làm
cho việc chi tiêu vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn hơn, cản trở hoạt động đầu tư.
Bên cạnh đó thì việc miễn thuế đầu tư lại là một quy định trong luật thuế
nhằm mục tiêu khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư sẽ làm giảm mức
thuế mà doanh nghiệp phải nộp khi chi tiêu cho đầu tư, họ sẽ dành khoản tiền đó
để mua hàng đầu tư mới, nói cách khác sẽ làm giảm chi phí đầu tư thực tế của
mỗi đơn vị tư bản. Như vậy, miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư và tăng
chi tiêu đầu tư.
- 12 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Thuế thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp nên chính phủ cần đưa ra chính sách thuế hợp lý nhằm khuyến khích và

nâng cao hiệu quả của chi tiêu đầu tư nhưng vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước.
II.Một số vấn đề về kích cầu và kích cầu đầu tư
1. Thế nào là kích cầu ?
1.1. Khái niệm:
Chính sách kích cầu là một loạt các biện pháp kinh tế nhằm duy trì và gia
tăng tổng cầu của một nước thông qua sự can thiệp của Nhà nước.
1.2. Tại sao phải kích cầu? (nguồn gốc và cơ sơ của chính sách)
Chính sách kích cầu xuất phát từ học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học
nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Trong lý thuyết của
mình, Keynes rất coi trọng tổng cầu của nền kinh tế. Theo ông, nền kinh tế chịu
tác động của hai nhân tố cơ bản: Tổng cung, tức toàn bộ số hàng hóa bán trong
nền kinh tế không phải là tổng cung mà chính là tổng cầu. Tổng cung giữ vai trò
thụ động, nó chịu sự tác động của tổng cầu. Tổng cẩu phụ thuộc vào cac yếu tố:
mức chi tiêu cá nhân của mỗi gia đình, mức chi tiêu cho đầu tư, mức chi tiêu của
chính phủ và chi tiêu ròng của nước ngoài đối với hàng hóa sản xuất trong nước
( xuất khẩu ròng) trên thị trường và tổng cầu, tức toàn thể số hàng hóa mà người
ta muốn mua. Nhân tố trực tiếp quyết định mức sản lượng và việc làm.
Theo Keynes, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thường
không theo kịp so với tổng cung. Điều đó ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu
hẹp đầu tư, gây ra nạn thất nghiệp cũng như khủng hoảng kinh tế. Để giải quyết
tình trạng này phải tăng tổng cầu. Tổng cầu lớn hơn tổng cung sẽ làm gia tăng
đầu tư. Do đó sẽ gia tăng việc làm và gia tăng thu nhập. Cuối cùng sản lượng
quốc gia cũng được gia tăng.Đồng thời, Keynes cũng đề cao vai trò của Nhà
nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách kich cầu của Chính
phủ. Ông cho rằng để thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp cần có sự can thiệp
của Nhà nước vào kinh tế để tăng tổng cầu, gia tăng việc làm và thu nhập. Sự
can thiệp của Nhà nước thông qua các công cụ như chương trình đầu tư Nhà
nước; Chính sách tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ; Mở rộng việc làm
bằng cách mở rộng đầu tư thậm chí cả vào các ngành thuộc lĩnh vực quân sự;

Khuyến khích tiêu dùng cá nhân...Như vậy, có thể nói, chính sách kích cầu bắt
nguồn từ tư tưởng kích cầu rút ra từ hai giả thuyết quan trọng của học thuyết
Keynes:
- Giả thuyết thuyết thứ nhất:
Cuộc suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực sản xuất bị dư thừa.
Biểu hiện của tình trạng này là các yếu tố đầu vào cho sản xuất không được sử
dụng hết công suất: thất nghiệp trên thị trường lao động, máy móc bị bỏ bê trong
khu vực doanh nghiệp, và hàng hóa ế thừa.
- 13 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Hiện tượng dư cung này khiến cho các nhà sản xuất giảm giá để hy vọng
bán được hang hóa. Điều này làm cho giá cả có khuynh hướng giảm trên tất cả
các thị trường. Lúc này những người tiêu dùng không còn nhu cầu sử dụng thêm
vì họ đã thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của họ nên dù có giảm giá hàng hóa cũng
không khuyến khích người mua, và cầu càng ở dưới xa cung thực tế.
- Giả thuyết thứ hai:
Chính phủ có khả năng chủ động chi tiêu toàn bộ, thậm chí nhiều hơn thu
nhập của mình. Trong khi đó, các khu vực không phải chính phủ (hộ gia đình và
khu vực kinh tế tư nhân) thường chi tiêu ít hơn tổng thu nhập vì họ muốn để
dành (khuynh hướng tiết kiệm biên lớn hơn 0). Trong điều kiện bình thường,
khoản tiết kiệm được chuyển sang khu vực doanh nghiệp để đầu tư (tạo nên
thành phần của tổng cầu), nhưng trong thời kỳ suy thoái, doanh nghiệp không
muốn đầu tư thêm nữa vì không có khả năng lợi nhận
Như vậy, qua giả thuyết thứ nhất, Keynes cho rằng nền kinh tế bị suy
thoái vì tạm thời không có đủ cầu cho cung đang dư thừa, tức là thiếu cầu hiệu
- 14 -
Sản lượng
Mức giá
AD
AS

Mức giá
Sản lượng
AD
AS
Y*
Y*
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
lực. Vì thế để thoát khỏi suy thoái thì cần có một lượng cầu đủ lớn. Xuất phát từ
giả thuyết thứ hai, Keynes cho rằng chỉ có chính phủ mới dám chi tiêu mạnh tay
khi nền kinh tế đang suy thoái.
Trên cơ sở hai giả thuyết này, Keynes đề xuất tư tưởng kích cầu theo
nguyên lý sau: Dịch chuyển sức mua từ khu vực dân cư và tư nhân vào tay chính
phủ để tăng cầu hiệu lực, đưa nền kinh tế ra khỏi cái bẫy đình đốn do thiếu sức
mua.
Ra đời trong giai đoạn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933,
học thuyết kinh tế của Keynes đã chiếm một vị trí quan trọng trong kinh tế học
hiện đại và có ảnh hưởng sâu rộng trong chính sách kinh tề ở nhiều quốc gia trên
thế giới cho đến hiện nay.
1.3. Mục đích chính sách kích cầu
Mục tiêu của gói kích cầu là tạo thêm cầu để đối ứng với năng lực sản
xuất hiện tại của nền kinh tế khi suy thoái, tránh để dư thừa năng lực sản xuất ở
mức quá cao gây lãng phí nguồn lực cũng như gây ra những vấn đề về xã hội do
thất nghiệp tăng cao gây ra. Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ
tiến đến ngưỡng nguy hiểm đẩy suy giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: thất
nghiệp sẽ dẫn đến cắt giảm thu nhập (thực tế và kỳ vọng) làm giảm tiêu dùng,
càng làm khó khăn về đầu ra của doanh nghiệp phải tiếp tục cắt giảm sản xuất
và lao động, đẩy thất nghiệp tăng lên ở vòng tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy. Do
vậy mục đích lớn nhất của gói kích cầu là duy trì việc làm.
1.4. Các nguyên tắc cơ bản để thực hiện kích cầu
Nếu một gói kích cầu được thiết kế không tốt, thì mặc dù có tên gọi là gói

kích cầu, nhưng trên thực tế những gói kích cầu này dù có thể rất tốn kém nhưng
lại không “kích thích” được nền kinh tế. Điều này đặc biệt đúng nếu gói kích
cầu không tuân theo các nguyên tắc nhất định của kinh tế học, mà lại được thiết
kế để đáp ứng các yêu cầu về chính trị hoặc theo các nhóm lợi ích. Theo
Lawrence Summers (giáo sư kinh tế, cố vấn kinh tế cho tổng thống Obama) cho
rằng để một gói kích cầu có hiệu quả thì phải đảm bảo ít nhất 3 điều kiện: Kịp
thời, đúng đối tượng và ngắn hạn (nhất thời).
- 15 -
Sản lượng
Mức giá
AD
AS
Y*
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
1.4.1. Nguyên tắc số 1: Kích cầu phải kịp thời
Kích cầu phải kịp thời có nghĩa là khi chính phủ thực hiện gói kích cầu thì
những biện pháp kích cầu này phải có hiệu ứng kích thích ngay, làm tăng chi
tiêu ngay trong nền kinh tế.
Kich cầu phải kịp thời ở đây không phải chỉ là việc kích cầu phải được
chính phủ thực hiện một cách nhanh chóng khi xuất hiện nguy cơ suy thoái, mà
kịp thời còn có nghĩa la một khi được chinh phủ thực hiện thì những biện pháp
nay sẽ có hiệu ứng kích thích ngay, tức là làm tăng chi tiêu ngay trong nền kinh
tế. Nếu để tự nền kinh tế phục hồi thì việc phục hồi sớm muộn cũng sẽ diễn ra,
mặc dù việc phục hồi có thể kéo dài, cho nên mục tiêu của kích cầu là đẩy nhanh
việc phục hồi của nền kinh tế.
Do đó, việc kích cầu chỉ có thể được thực hiện một cách có ý nghĩa trong
một khoảng thời gian nhất định. Các chính sách mất quá nhiều thời gian để thực
hiện sẽ không có tác dụng, vì khi đó nền kinh tế tự nó đã có thể phục hồi, và
việc gói kich cầu lúc đó lại có thể có tác dụng xấu do có khả năng làm hun nóng
nền kinh tế dẫn đến lạm phát và những mất cân đối vĩ mô lớn. Các chương trình

đầu tư, dự án đầu tư có tốc độ giải ngân chậm không phải là những công cụ kích
cầu tốt. Điều này la bởi vì khi tổng cầu sụt giảm, thi các biện pháp này lại không
có tác động gì tới tổng cầu trong lúc cần phải tăng tổng cầu lên nhiều nhất (để
tránh các tác động tích cực của suy thoai như việc cac doanh nghiệp sa thải công
nhân).
1.4.2. Nguyên tắc số 2: Kích cầu phải đúng đối tượng
Mức độ “đúng đối tượng” của gói kích cầu của Chính phủ phụ thuộc vào:
+ Mức độ chi tiêu của các đối tượng nhận được thu nhập nhờ có gói kích cầu
thông qua tác động lan tỏa diễn ra trong nhiều vòng.
+ Mức độ “rò rỉ” ra hàng ngoại nhập của các chi tiêu đó ở trong mỗi vòng
của tác động lan tỏa.
Gói kích cầu có thành công hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào xu
hướng chi tiêu và đầu tư của các đối tượng thuộc diện nằm trong goi kich cầu.
Để kích thích được cầu đối với hàng hóa va dịch vụ, thi gói kích cầu phải được
nhắm tới nhóm đối tượng sao cho gói kích cầu được sử dụng ngay (chi tiêu
ngay), và qua đó làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế. Những biện pháp kich cầu
đúng đối tượng là những biện pháp nhắm tới các đối tượng sẽ chi tiêu hầu như
toàn bộ lượng kích cầu dành cho họ. Muc tiêu của gói kích cầu là làm tăng cầu,
nên chìa khóa để thực hiện điều này là cấp tiền cho những người (có thể là các
cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và chính quyền) – sẽ sử dụng những đồng
tiền nay, và qua đó đưa thêm tiền vào nền kinh tế. Tiền kích cầu phải được sử
dụng để khuyến khích các nhóm đối tượng này tiến hành các khoản chi tiêu mới,
hoặc hạn chế việc các nhóm này cắt giảm chi tiêu. Ở thế giới cũng như ở Việt
Nam, những người có thu nhập thấp thường có mức tiêu dùng cao trên 1 đồng
thu nhập có thêm được và thường tiêu dùng hàng nội địa. Do vậy, nếu kích cầu
đúng nhóm đối tượng này thì đạt đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và
côngbằng, khác với sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà trong kinh tế
thường gặp.
- 16 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn

Kích cầu đúng đối tượng là việc kích cầu hướng tới những chủ thể kinh tế
nào tiêu dùng nhanh hơn khoản tài chính được hưởng nhờ kích cầu và do đó sẽ
sớm gây ra tác động lan tỏa tới tổng cầu hơn, đồng thời gướng tới những chủ thể
kinh tế nào bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế, thường đó là những
chủ thể kinh tế có thu nhập thấp hơn. Việc hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp
để họ không phải giảm tiêu dùng thậm chí còn tăng tiêu dùng tạo ra hiệu ứng lan
tỏa, kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất và thuê mướn thêm lao động.
Tóm lại, mức độ “đúng đối tượng” (well-targeted) của gói kích cầu của
Chính phủ phụ thuộc vào: (i) mức độ chi tiêu của các đối tượng nhận được thu
nhập nhờ có gói kích cầu thông qua tác động lan tỏa diễn ra trong nhiều vòng
như mô tả ở trên; và (ii) mức độ “rò rỉ” ra hàng ngoại nhập của các chi tiêu đó ở
trong mỗi vòng của tác động lan tỏa.
1.4.3. Nguyên tắc số 3: Kích cầu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn
Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế
được cải thiện. Nguyên tắc ngắn hạn có hai ý nghĩa:
+ Gói kích cầu thực hiện trong ngắn hạn sẽ làm tăng hiệu quả gói kích cầu
+ Chỉ kích cầu trong ngắn hạn để không làm ảnh hưởng tới tình hình ngân
sách trong dài hạn.
(i) Tính ngắn hạn làm tăng hiệu quả của gói kích cầu:
Những chính sách mà vẫn còn hiệu lực sau khi nền kinh tế phục hồi, ví dụ
như chinh sách cắt giảm thuế cố định (permanent tax cuts) là những biện pháp
kích cầu kém hiệu quả bởi vì những biện pháp kích thích này sẽ trở thành những
khoản chi phí của chính phủ hoặc khoản thất thu khi mà thời gian cần kích thích
đã kết thúc. Hơn thế nữa, các biện pháp như tín dụng đầu tư, hoặc ưu đãi khấu
hao tài sản sẽ là những biện pháp kích cầu hiệu quả hơn khi được thực hiện là
những gói tạm thời, ngắn hạn. Nếu là những biện pháp dài hạn sẽ không kích
thích được cầu. Điều này là do các biện pháp nếu chỉ được thực hiện trong ngắn
hạn sẽ khuyến khích được các doanh nghiệp tiến hành, đẩy nhanh tốc độ đầu tư
để tận dụng những ưu đãi này (ví dụ như ưu đãi về thuế). Những biện pháp dài
hạn, ví dụ như giảm thuế quá lâu sẽ không phải là một biện pháp kích cầu tốt,

bởi vì các doanh nghiệp sẽ không cảm thấy cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ đầu
tư trong giai đoạn nền kinh tế cần được kích thích nhất.
(
ii) Ngắn hạn để đảm bảo không làm ảnh hưởng tới ngân sách trong dài hạn.
Thông thường khi thực hiện các biện pháp kích thích nền kinh tế bằng
việc mở rộng chi tiêu (tạm thời) của chính phủ sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách.Do
đó, các gói kích cầu chỉ được phép mang tính tạm thời, và trong ngắn hạn có thể
làm tăng thâm hụt ngân sách, nhưng trong dài hạn phải không được phép làm
thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn. Việc đảm bảo rằng trong dài hạn tình hình
kinh tế không kèm đi cũng là yếu tố quan trọng để gói kích cầu ngắn hạn đạt
hiệu quả hơn.
Khi cân nhắc xem xét các biện pháp kích cầu cụ thể của gói kích cầu, thì
cả ba nguyên tắc trên đều phải được tuân thủ và xem xét một cách đồng thời.
Nếu một biện pháp kích cầu cụ thể mà vi phạm một trong ba nguyên tắc trên thì
về cơ bản biện pháp kích cầu đó chưa phải là một biện pháp kích cầu tốt. Để
- 17 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
tăng hiệu quả của gói kích cầu, cần có các chính sách bổ trợ khác (không vi
phạm các cam kết thương mại quốc tế của quốc gia) như không để tỉ giá bị định
giá cao (overvalued) và tăng tính linh hoạt của tỉ giá nhằm sử dụng công cụ này
như vẫn tự động điều chỉnh thâm hụt thươngmại ở mức hợp lý và bền vững.
1.5. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu
Khủng hoảng- phục hồi- hưng thịnh- suy thoái là các pha trong chu kì của
một nền kinh tế,đây là yếu tố khách quan mà không một chính phủ hay một tổ
chức nào có thể thay đổi được. Suy thoái kinh tế có thể liên quan đến sự suy
giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc
làm,đầu tư,lợi nhuận.Suy thoái có thể gắn liền với hạ giá cả (giảm phát) hoặc
ngược lại giá cả tăng nhanh(lạm phát). Một sự suy thoái lâu dài và trầm trọng
được gọi là khủng hoảng kinh tế. Khi lý thuyết bàn tay vô hình của Adamsmith
sụp đổ với đỉnh điểm là cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 phải nhường lại cho

kinh tế học vĩ mô “Keynes” với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng
tiền lương(để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh
tế. Từ khi kinh tế học keynes ra đời với các biện pháp can thiệp của chính phủ
vào nền kinh tế để điều chỉnh những méo mó của thị trường thì nền kinh tế thị
trường ở các nước có sự chuyể biến rõ nét. Khi nền kinh tế có dấu hiệu bắt đầu
suy thoái kéo dài, để tránh tình trạng trở nên tồi tệ hơn, chính phủ các nước đã
áp dụng nhiều chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô để kích cầu nhằm đưa nền
kinh tế tăng trưởng trở lại. Trong đó kích cầu đầu tư là biện pháp hữu hiệu của
các chính phủ.
2. Kích cầu đầu tư
2.1. Khái niệm:
Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công cụ
pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng
nhiều vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
trong một giai đoạn hay thời kì nhất định.
2.2. Phân biệt kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng
Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là hai khái niệm thường được nhắc
tới cùng nhau tuy nhiên về bản chất thì hai khái niệm này có sự khác biệt.
Trước hết là về đối tượng tác động của hai loại hình kích cầu này là khác
nhau. Đối tượng của kích cầu tiêu dùng là về phía cầu trong nền kinh tế, thông
qua các chính sách của chính phủ để kích thích tiêu dùng trong nước như chính
sách thuế thu nhập cá nhân, chính sách hỗ trợ người tiêu dùng. Mục đích của
kích cầu tiêu dùng là kích thích tiêu dùng trong nước thông qua đó tạo thêm thị
trường cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất giúp nền kinh tế lấy lại đà tăng
trưởng trong tình hình nền kinh tế gặp khó khăn như thời kì hậu khủng hoảng.
Còn xét về kích cầu đầu tư thì đây là các chính sách trực tiếp tác động tới hoạt
động đầu tư của nền kinh tế nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư sản xuất của
doanh nghiệp thông qua chính sách lãi suất hay chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp.
- 18 -

Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Khác với kích cầu tiêu dùng, kích cầu đầu tư có tác động tích cực cả trong
ngắn hạn và trong dài hạn vì đầu tư không chỉ là cấu phần của tổng cầu mà còn
là yếu tố cấu thành trữ lượng vốn của tổng cung. Trong ngắn hạn,khi đầu tư tăng
sẽ tạo thêm công ăn việc làm và nhu cầu hàng hóa sản xuất trực tiếp cho ngành
được đầu tư và tiếp đến là các ngành liên quan và cuối cùng tạo tác động lan tỏa
tăng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Về dài hạn,
đầu tư làm tăng nguồn vốn, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế và do
vậy tổng cung tăng sẽ tạo động lưc bền vững cho tăng trưởng dài hạn.
Tuy nhiên hai chính sách kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng lại có
quan hệ bổ trợ lẫn nhau, bổ xung cho nhau nhằm phát huy tốt hơn hiệu quả của
cả hai chính sách,tất cả đều hướng tới mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế.
2.3. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, nhất
là một nước đang phát triển như Việt Nam. Ở các nước đang phát triển hiện nay
tồn tại "cái vòng luẩn quẩn" với đặc điểm là : thu nhập thấp – tích lũy thấp –
trình độ công nghệ lạc hậu – năng suất thấp, và cần các biện pháp kích cầu đầu
tư để phá vỡ nó, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Có những biện pháp kích cầu đầu tư cụ thể và thích hợp sẽ làm tăng
lượng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện mức
sống của người dân. Đầu tư tăng sẽ làm tăng tổng cung, kích cầu tiêu dùng. Đầu
tư vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh
tế. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo ngành, vùng lãnh thổ và theo thành
phần kinh tế. Đầu tư nước ngoài còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại của
các nước trên thé giới, làm thay đổi bộ mặt của toàn bộ nền kinh tế, cải thiện các
vấn đề xã hội. Như vậy kích cầu đầu tư có tác dụng rất quan trọng ở mỗi quốc
gia, và mang tính tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
2.4. Tác động của kích cầu đầu tư
Khi chúng ta thi hành bất kì một chính sách nào tác động vào nền kinh tế

thì các chính sách đó bao giờ cũng có tính hai mặt, có thể là tích cực đối với yếu
tố này nhưng lại là tiêu cực với yếu tố kia, và đôi khi bản thân các yếu tố cũng
có tác động qua lại lẫn nhau. Bên cạnh việc có thể đạt được các mục đích như
mong muốn thì còn tồn tại những tiêu cực không mong muốn. Đối với chính
sách kích cầu đầu tư thường được sử dụng khi nền kinh tế lâm vào khó khăn như
khủng hoảng kinh tế cũng không nằm ngoài qui luật đó. Khi chính phủ thực hiện
các chính sách kích cầu đầu tư sẽ tác động cả mặt tích cực và tiêu cực tới nền
kinh tế. Bài toán đặt ra ở đây là làm cách nào để đạt được tối đa hiệu quả của
chính sách và giảm đến mức tối thiểu các tác động tiêu cực. Và thông qua
nghiên cứu những tác động của kích cầu đầu tư để có thể rút ra những bài học
cho hoạt động kích cầu. Vì vậy cần cân nhắc thận trọng khi đưa ra các quyết
định can thiệp. Mục tiêu cuối cùng của kích cầu đầu tư là tăng trưởng kinh tế
nhưng phải đảm bảo cả về mặt văn hóa, xã hội.
2.4.1. Tác động tích cực
- 19 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
2.4.1.1 Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
- Tác động đến tổng cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu
tư. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh
tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 đến 28%
trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác
động của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu
tư là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay
đổi, gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng (nếu các yếu tố khác không
đổi).Ta có công thức sau:
AD=C+I+G+X-M
Trong đó: C: Tiêu dùng
I: Đầu tư
G: Tiêu dùng của Chính Phủ
X: Xuất khẩu

M: Nhập khẩu
- Tác động đến cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là
cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là
một hàm của các yêu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ…thể
hiện qua phương trình sau:
Q= F(K, L, T, R…)
Trong đó: K: Vốn đầu tư
L: Lao động
T: Công nghệ
R: Tài nguyên
Như vậy kích cầu đầu tư làm tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực
tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt
khác tác động của vốn đầu tư còn được thể hiện thông qua việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đổi mới công nghệ…Do đó đầu tư lại gián tiếp làm tăng
tổng cung của nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối quan hệ
biện chứng nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ
sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước
trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.
2.4.1.2. Tác động đến tăng trưởng kinh tế
- Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động tới chất lượng
tăng trưởng. Kích cầu đầu tư làm tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng hợp lý
những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tăng năng
suất nhân tố tổng hợp, tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theon hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…do đó,
nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
- Mô hình số nhân đầu tư :
Nếu đầu tư tăng 1 lượng ∆I thì thu nhập quốc dân sẽ tăng lên 1 lượng ∆Y
tương ứng. Trong đó:
∆Y = 1/(1- MPC)*∆I

- 20 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Với 1/(1- MPC) là số nhân dầu tư, MPC là tiêu dùng cận biên
+ Xét 1 cách đơn giản với số nhân tĩnh
Y = C+S ; S = I

Y = C + I
C= aY + b => ∆Y = a∆Y + ∆I
∆Y = 1/(1-a). ∆I với a = MPC
+ Với số nhân động:
Yt = Ct + It với S = I
Ct = aYt + b
Nếu như ta tăng một lượng đầu tư ở năm thứ nhất 1 lượng là ∆I thì sẽ dần
đến một ảnh hưởng dây chuyền đến tất cả các yếu tố và các năm sau đó.
∆Y1 =

I
∆Y2 =
2
a
∆I

Y3 =
2
a
∆I
………………
∆Yn =
1


n
a
∆I
=> ∆Y = 1/ (1-a) ∆I
Như vậy theo mô hình này sự gia tăng một khoản đầu tư sẽ có tác động
lan tỏa đến toàn bộ nền kinh tế và mở rộng tác động của nó. Khi đầu tư tăng
thêm 1 lượng thì thu nhập quốc dân sẽ tăng lên với số nhân đầu tư là m
I
=1/ (1-
MPC), MPC càng lớn thì chính sách kích cầu đầu tư càng có hiệu quả.
Mô hình cho thấy được tầm quan trọng của kích cầu đầu tư đối với sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2.4.1.3. Tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Đối với cơ cấu ngành kinh tế:
Việc đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử
dụng như thế nào đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành
nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Cụ thể, đầu tư sẽ góp phần tăng cường
vật chất kĩ thuật, nâng cao hàm lượng công nghệ qua đó nâng cao năng suất lao
động của ngành. Nhờ đó sẽ tạo ra sản lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Mặt
khác, đầu tư là tiền đề tập trung các nguồn lực khác của nền kinh tế (lao động,tài
nguyên,vốn dư thừa…) cho mục tiêu phát triển ngành. Chính đầu tư chứ không
phải các quyết định hành chính là nhân tố trực tiếp nhất có thể huy động tất cả
các yếu tố đầu vào cần thiết cho sự phát triển của ngành. Không những thế việc
đầu tư còn tạo ra điều kiện vật chất cho sự ra đời của những ngành mới. Sự thay
đổi tỉ trọng giữa các ngành và sự ra đời của những ngành mới chính là chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành.
- Đối với cơ cấu lãnh thổ kinh tế:
Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích
hợp đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những
vùng tập trung nhiều khu công nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của

một quốc gia. Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng
khác cùng phát triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thoát
khỏi đói nghèo và giảm dần khoảng cách với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu
lãnh thổ theo góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho
- 21 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
chất lượng của đô thị hoá. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định
của chính phủ sẽ chỉ là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý.
Đô thị hoá không thể gọi là thành công thậm chí còn cản trở sự phát triển nếu cơ
sớ hạ tầng không đáp ứng được các nhu cầu của người dân. Các dịch vụ y tế,
giáo dục… cũng cần được đầu tư cho phù hợp với sự phát triển của một đô thị.
- Đối với cơ cấu thành phần kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ
thuộc vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết
định thành phần nào là chủ đạo; thành phần nào được ưu tiên phát triển; vai trò;
nhiệm vụ của các thành phần trong nền kinh tế…Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân
tố thực hiện.
Việc kích cầu đầu tư cũng đi đối với việc thay đổi các biện pháp chính
sách, phương hướng phát triển của cả xã hội. Tùy và điều kiện và trình độ phát
triển của mỗi quốc gia khác nhau mà có những chiến lược phát triển các ngành
nghề trọng điểm khác nhau. Động lực chính của sự chuyển dịch này đó là những
ngành nghề quan trọng, mang lại thu nhập cao cho nên kinh tế quốc dân cần
phải được chú trọng phát triển.
2.4.1.4. Tác động đến khoa học công nghệ.
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định đổi mới và phát
triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia.Trong mỗi thời kỳ,
các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn
đầu, các nước phát triển do có nhiều lao đông và nguyên liệu, thường đầu tư các
loại công nghệ sử dụng nhiều lao đông và nguyên liệu, sau đó giảm dần hàm
lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng

vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư
đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu
tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối.Tuy
nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá
trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn
đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự
phát triển của khoa học và công nghệ.
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc
tự nghiên cứu và ứng dụng. Dù nhập khẩu hay tự nghiên cứu cũng đòi hỏi lượng
vốn đầu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù
hợp để lựa chon công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát
huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
Tạo ra sự phát triển của khoa học công nghệ là góp phần quan trọng vào
tăng trưởng trong dài hạn của nền kinh tế, vì tiến bộ khoa học là động lực mạnh
mẽ nhất phá vỡ giới hạn của tăng trưởng.
2.4.1.5. Góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.
Để kích cầu đầu tư trong nước thì chính phủ đã thực hiện các chính sách
tăng chi tiêu công,đẩy nhanh giải ngân vốn cho các công trình xây dựng cơ bản.
Ví dụ như xây dựng đường giao thông vận tải, các công trình xây dựng nhà ở xã
hội,các chính sách này đã gián tiếp thông qua các công ty có liên quan tạo thêm
- 22 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
việc làm cho người lao động, bên cạnh việc các doanh nghiệp sau khi nhận được
các gói kích thích kinh tế đã cơ bản vượt qua các khó khăn bước đầu phục hồi và
phát triển. Như vậy nhìn chung các biện pháp kích cầu nói chung và các biện
pháp kích cầu đầu tư nói riêng đã có tác động tốt tới tình hình việc làm và giảm
bớt tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Bởi lẽ thất nghiệp là một trong các yếu tố
kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2.4.2. Mặt trái của kích cầu
Bên cạnh những tác động tích cực của kích cầu nói trên thì việc lạm

dụng và sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu có thể gây ra một số hiệu ứng
tiêu cực. Mặt trái của kích cầu được biểu hiện ở các phương diện sau:
2.4.2.1. Nguy cơ sa vào bẫy thanh khoản
Bẫy thanh khoản là hiện tượng trong đó chính sách tiền tệ được nới lỏng
bằng biện pháp giảm lãi suất để rồi lãi suất xuống thấp quá một mức nhất định
khiến cho mọi người quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng tiền mặt và
chính sách tiền tệ trở nên bất lực. Về bản chất, “bẫy thanh khoản” hay “bẫy tiền
mặt” xảy ra khi đường LM trong mô hình IS-LM trở nên thoải và song song với
trục hoành. Khi đó việc điều tiết chu kỳ kinh tế chỉ còn trông cậy vào chính
sách tài chính. Đây là một trong những lý luận của kinh tế học Keynes. Khi nền
kinh tế vào pha suy thoái, ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ
bằng việc giảm lãi suất để kích thích tiêu dùng và kích thích đầu tư tư nhân dẫn
tới tăng tổng cầu, thoát khỏi suy thoái. Tuy nhiên, nếu việc giảm lãi suất là liên
tục và xuống thấp quá mức thì, theo thuyết ưa chuộng tính thanh khoản, mọi
người sẽ giữ tiền mặt chứ không gửi vào ngân hàng hay mua chứng khoán. Hậu
quả là đầu tư tư nhân khó có thể được thúc đẩy vì ngân hàng không huy động
được tiền gửi thì cũng không thể cho xí nghiệp vay và chứng khoán không bán
được thì xí nghiệp cũng không huy động được vốn. Chính sách tiền tệ trở nên
bất lực trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân và do đó là bất lực trong kích thích
tổng cầu. Trong khi đó, chính sách tài chính thường không phát huy được hiệu
lực đầy đủ do hiện tượng thoái lui đầu tư thì lúc này lại phát huy đầy đủ hiệu lực
do hiện tượng thoái lui đầu tư không còn (vì lãi suất thấp). Tuy nhiên khi đó sẽ
dẫn tới tình trạng trì trệ trong đầu tư tư nhân, kéo theo toàn bộ nền kinh tế trì trệ.
Kinh tế học Keynes cho rằng khi nền kinh tế rơi vào tình trạng này thì chỉ
có cách sử dụng tích cực chính sách tài khóa (giảm thuế, tăng chi tiêu công
cộng), tăng xuất khẩu ròng, khuyến khích tư nhân đầu tư để đổi mới công nghệ.
Cũng có các biện pháp khác đó là nới lỏng tiền tệ thông qua cơ sở tiền tệ. Việc
tiếp tục thực hiện chính sách mở rộng chi tiêu Chính phủ trong điều kiện tồn tại
“bẫy thanh khoản” sẽ làm giảm quyền lực của rào cản kiểm soát tín dụng và làm
cho dư nợ tín dụng và nợ quá hạn tăng lên nhanh chóng Trong trường hợp này,

Paul Krugman cho rằng tác động của chính sách tiền tệ là ở chỗ cam kết của
NHTW trong việc duy trì một chính sách tiền tệ nới lỏng dài hạn có kiểm soát.
Việc duy trì dài hạn một chính sách tiền tệ nới lỏng, tuy nhiên, có thể chứa đựng
nguy cơ lạm phát và thâm hụt tài khoản vãng lai nếu như sự nới lỏng này không
tạo nên động lực điều chỉnh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng như
năng lực quản trị rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
- 23 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
2.4.2.2. Thâm hụt ngân sách và gia tăng gánh nặng nợ.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách
nhà nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là
việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính phủ.Thâm
hụt ngân sách nhà nước là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước
vượt qua các khoản thu không mang tính hoàn trả ( thu trong cân đối ngân sách).
Phương trình cân bằng ngân sách: B= T- G
Như đã biết trong kích cầu nói chung hay kích cầu đầu tư nói riêng chính
sách tài khóa mở rộng được áp dụng thông qua biện pháp cụ thể là giảm thuế và
tăng chi tiêu ngân sách nhà nước, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất
kích thích tổng cầu cao hơn.. Một khi gói kích cầu quá lớn hệ quả tất yếu là sẽ
càng khoét sâu thêm vào thâm hụt ngân sách nếu như không có chính sách kịp
thời, thậm chí nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới lòng tin của các nhà đầu tư.
Việc kích cầu đầu tư đòi hỏi phải chấp nhận một mức thâm hụt ngân sách,
tuy nhiên sẽ phải có nguồn bù đắp trong thời gian sau đó. Hai nguồn chính bù
đắp cho thâm hụt ngân sách là vay trong nước và ngoài nước, nếu như các khoản
chi ngân sách để kích thích sản xuất có hiệu quả sẽ tạo ra nguồn thu để trả các
khoản nợ nhưng nếu chúng không được sử dụng hiệu quả sẽ tạo ra sự lãng phí
lớn và làm gia tăng gánh nặng nợ quốc gia cũng như gánh nặng nợ chính phủ.
Trong dài hạn, bội chi ngân sách sẽ tạo áp lực tăng lãi suất và sẽ dẫn tới thoái lui
đầu tư làm giảm hiệu quả của chính sách kích cầu đầu tư.
2.4.2.3. Áp lực lạm phát cao

Trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp, sử dụng chi ngân sách nhà
nước lớn sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách, mà việc bù đắp thâm hụt ngân sách lớn
như vậy thực tế vẫn làm cho cung tiền tăng, nguy cơ lạm phát cao sau kích cầu.
Chính sách tiền tệ và tín dụng nới lỏng nhằm phục vụ chính sách kích thích kinh
tế, hỗ trợ kích cầu đã đẩy nhanh tốc độ gia tăng của các phương tiện thanh toán,
tốc độ đưa tiền ra lưu thông tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, việc tăng quá
nhanh và quá mạnh tín dụng cũng là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ lạm phát. Kinh
nghiệm cho thấy nếu tăng trưởng tín dụng đột biến, thì chỉ sau 2-3 tháng sẽ tác
động tới tăng giá cả và lạm phát là điều có thể thấy trước. Hơn nữa, việc đổ một
lượng tiền đầu tư lớn ra nền kinh tế, nếu như được sử dụng kém hiệu quả sẽ
không hấp thụ được lượng tiền trong nền kinh tế và lạm phát tiền tệ sẽ xảy ra.
Điều này đặt ra yêu cầu trong việc sử dụng chính sách kích cầu phải đảm bảo
tính ngắn hạn, các giải pháp chính sách tiền tệ cần được giảm thiểu đúng lúc
đồng thời việc sử dụng vốn đúng mục đích và cho hoạt động của nền kinh tế. có
hiệu quả sẽ góp phần làm giảm nguy cơ lạm phát cao, tạo ra sự ổn định vĩ mô.
2.5. Nguồn vốn cho kích cầu đầu tư
Vốn là nhân tố vô cùng quan trọng cho việc kích cầu nói chung và kích
cầu đầu tư nói riêng bởi nếu không có vốn đầu tư thì không thể tiến hànhcác
hoạt động đầu tư và nền kinh tế cũng không thể tăng trưởng được. Vì thế chính
phủ mỗi nước trước khi tung ra các gói kích cầu cần nghiên cứu, xem xét chi tiết
- 24 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
đến các nguồn vốn có thể cung ứng để đảm bảo cho họat động kích cầu đầu tư
hiệu quả nhất. Dưới đây là một số nguồn vốn chủ yếu cho kích cầu đầu tư:
2.5.1. Vốn trái phiếu chính phủ
* Vay nợ từ công chúng
-Số tiền huy động được để tài trợ cho gói kích cầu. Trái phiếu phát hành bằng
nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ có thể tăng thuế thậm chí
in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát
hành bằng ngoại tệ ( thường là ngoại tệ mạnh có nhu cầu lớn) có rủi ro tín dụng

cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ
để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá . Tuy nhiên, việc tài trợ này gặp
phải những khó khăn nhất định :
-Nếu lãi suất không hấp dẫn thì khó có thể huy động được vốn trong dân do
không cạnh tranh được với lãi suất của các định chế tài chính khác.
-Chính phủ có thể phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá
nhân và Lạm phát kỳ vọng có thể tăng.
-Việc tài trợ cho gói kích cầu này thông qua vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và
gây sức ép xấu đến khu vực tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Huy động với lãi suất
cao còn làm tăng các khoản trả lãi thêm hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm trong
tương lai, và làm trầm trọng thêm vấn đề thâm hụt ngân sách.
* Vay nợ từ hệ thống các ngân hàng thương mại
Việc vay nợ này tuy có thể vay được lượng vốn lớn nhưng cũng gặp những hạn
chế không nhỏ :
-Gây sức ép đối với dự trữ của các ngân hàng này và các ngân hàng sẽ đòi
hỏi trợ giúp về khả năng thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước. Nếu những đòi hỏi
này được đáp ứng, cơ sở tiền tệ sẽ tăng và lạm phát sẽ quay trở lại.
-Nếu Ngân hàng Nhà nước không đáp ứng những đòi hỏi về tính thanh khoản
này, các ngân hàng thương mại buộc phải giảm các nguồn tín dụng cho khu vực
doanh nghiệp tư nhân và lao vào một cuộc cạnh tranh lãi suất huy động, đây chính
là hiện tượng chi tiêu chính phủ lấn át đầu tư của khu vực tư nhân.
Do vậy, việc thực hiện gói kích cầu có thể không đạt được mục tiêu như
mong đợi khi biện pháp tài trợ thông qua vay nợ trong nước được lựa chọn. Việc
vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và gây khó khăn thêm cho các doanh nghiệp tư
nhân và không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế.
2.5.2. Quỹ dự phòng NSNN
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư
cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt
trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong những điều kiện cụ thể, nguồn

kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của
các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển
sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn
tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định
hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
2.5.3. Quỹ dự trữ ngoại hối
- 25 -

×