Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Pháp luật Việt Nam về các loại thuế, phí và lệ phí đối với xăng dầu và thực tiễn áp dụng tại Cảng dầu – Công ty xăng dầu B12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.61 KB, 44 trang )

TÓM LƯỢC.
Một thực tế rất rõ ràng là tất cả các ngành trong nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng
to lớn của xăng dầu. Khi giá xăng dầu biến động, chắc chắn giá cả các mặt hàng khác
cũng sẽ biến động theo, từ đó gây tác động đến tính ổn định của nền kinh tế và đặc biệt
là tác động trực tiếp đến đời sống của người dân.
Việt Nam tuy là đất nước có nguồn dầu mỏ to lớn nhưng hầu hết lượng xăng
dầu được sử dụng đều phải nhập khẩu, và phụ thuộc rất lớn vào giá của xăng dầu thế
giới. Thị trường xăng dầu được hình thành khi các sản phẩm từ dầu mỏ được giao dịch
mua bán. Từ những hành vi mua bán thông thường, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
các ứng dụng của xăng dầu, thì trường xăng dầu càng đạt đến những bước phát triển
như vũ bão. Đòi hỏi Nhà nước cũng cần có sự thay đổi để điều hành thị trường một
các tốt nhất, các công cụ thuế, phí và lệ phí là những công cụ thiết yếu để điều hành thị
trường xăng dầu, hình thành nên giá xăng dầu và tạo nguồn thu cho Nhà nước.
Đề tài khóa luận nghiên cứu với mục đích hệ thống lý thuyết về thuế, phí và lệ
phí, giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về thuế, phí và lệ phí nói chung, và hiểu
thêm về các loại thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế môi
trường áp dụng đối với xăng dầu nói riêng, đồng thời nghiên cứu một cách tổng quát
về thực trạng các loại thuế đó đã được áp dụng, thực hiện như thế nào tại một đơn vị
kinh doanh xăng dầu. Qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với xăng dầu.
i
LỜI CẢM ƠN.
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Thương Mại, được sự chỉ bảo tận
tình của các Thầy Cô, em đã có được những kiến thức, bài học quý báu. Em xin chân
thành cảm ơn các Thầy Cô trong khoa Kinh tế-Luật trường Đại Học Thương Mại đã
dạy dỗ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian qua.
Em xin cảm ơn giảng viên Nguyễn Thanh Hương đã tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ
em trong quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám đốc, cùng các anh, chị
công tác tại Cảng dầu – Công ty xăng dầu B12 đã tạo điều kiện cho em có khoảng thời
gian quý báu học tập và nghiên cứu tại quý công ty.


Do kiến thức của em còn hạn chế nên khóa luận sẽ không thể tránh khỏi những
sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý Thầy Cô
trong bộ môn Luật căn bản cho bài khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn
nữa !
Sau cùng, em xin kính chúc quý Thầy Cô trong bộ môn Luật căn bản và cô giáo
Nguyễn Thanh Hương thật dồi dào sức khỏe để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của
mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2014.
Người viết khóa luận
Phạm Thế Hùng
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC BẢNG, BIỂU.
iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
GTGT Giá trị gia tăng
NK-XK Nhập khẩu-Xuất Khẩu
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
WTO Tổ chức Thương mại thế giới:
World Trade Organization
v
LỜI MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Xăng dầu là mặt hàng chiến lược, có vai trò rất quan trọng trong tất cả các lĩnh
vực sản xuất, đời sống xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng. Trong cân bằng năng
lượng thế giới, xăng dầu và khí thiên nhiên chiến tỷ lệ khoảng 63%, phần còn lại thuộc
về than đá (23%), điện hạt nhân và thủy điện (12,5%), các dạng năng lượng khác
(1,5%). Chi phí về xăng dầu là một loại chi phí để sản xuất ra rất nhiều loại hàng hóa,
ngay cả những hàng hóa sử dụng rất ít xăng dầu trong quá trình sản xuất vẫn đòi hỏi

phải có xăng dầu để vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Ở Việt Nam chi phí
về xăng dầu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành của nhiều ngành kinh tế: chiếm 40%
giá thành của ngành vận tải, 22-52% trong ngành điện, 5-17% trong ngành công
nghiệp và 3-15% trong ngành nông nghiệp
(1)
. Có thể nói rằng xăng dầu là nguồn nhiên
liệu chính cho mọi hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, không một quốc gia nào trên thế
giới hoàn toàn thả nổi hoạt động kinh doanh xăng dầu mà luôn có sự can thiệp của
Nhà nước ở các mức độ khác nhau với những công cụ khác nhau. Tiêu biểu cho các
công cụ đó chính là các khoản thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với xăng dầu được Nhà
nước đưa ra nhằm điều tiết giá thành của xăng dầu sao cho phù hợp với từng thời
điểm. Một sự bất ổn của thị trường xăng dầu có thể tạo ra gánh nặng đối với các nền
kinh tế tùy thuộc vào mức độ mà một quốc gia phụ thuộc vào xăng dầu nhập khẩu, về
phương diện này thì hiện tại Việt Nam đang phải nhập khẩu phần lớn lượng xăng dầu
tiêu dùng trong nước. Tuy vài năm vừa qua (giai đoạn 2010-2013) nền kinh tế gặp
nhiều biến động, nhiều nhà máy xí nghiệp, công ty bị phá sản giải thể làm cho lượng
tiêu thụ xăng dầu giảm bớt, nhưng cũng không thể phủ nhận một điều là lượng nhập
khẩu xăng dầu còn rất lớn, tuy rằng việc các nhà máy lọc dầu trong nước đã đi vào
hoạt động cũng đã giúp phần nào giảm lượng xăng dầu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoạt động gần ở mức 100% công suất, với sản lượng các
ăm 2011, 2012, 2013 lần lượt là 5,45 triệu tấn, 5,6 triệu tấn và 5,65 triệu tấn (tính đến
ngày 8/11/2013) nhưng mới chỉ đảm bảo trên 30% nhu cầu tiêu thụ của cả nước, còn
lại vẫn phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu xăng dầu trên thế giới
(2)
. Cụ thể:

1)
.Trích số liệu trên trang wed của Hiệp hội xăng dầu Việt Nam – hiephoixangdau.org

2)

. Trích số liệu trên trang wed của Hiệp hội xăng dầu Việt Nam – hiephoixangdau.org
1
Bảng 1: Lượng xăng dầu nhập khẩu vào Việt Nam trong 10 tháng năm 2012, 2013.
Với việc là một hàng hóa thiết yếu như vậy, việc quản lý của Nhà nước bằng
các công cụ thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với xăng dầu là thực sự có giá trị trong
nghiên cứu, đặc biệt là đối với Việt Nam, một nước đang phát triển và giá cả xăng dầu
là vấn đề có tính nhạy cảm cao và được sự quan tâm của toàn dân.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm qua, hoạt động kinh doanh xăng dầu
đang ngày càng phát triển. Nếu như trước đây chỉ có một doanh nghiệp nhà nước độc
quyền kinh doanh xăng dầu thì đến nay cả nước có trên 12 doanh nghiệp nhà nước đầu
mối nhập khẩu xăng dầu và rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trên thị
trường nội địa. Khối lượng xăng dầu nhập khẩu, tiêu thụ trên thị trường không ngừng
tăng (khoảng 10% mỗi năm
(1)
). Kết cấu hạ tầng và phương tiện phục vụ kinh doanh
xăng dầu từng bước được tăng cường theo hướng hiện đại hóa. Hệ thống phân phối
bán lẻ được phủ kín trên các tỉnh thành. Các khoản thuế, phí và lệ phí thu từ hoạt động
kinh doanh xăng dầu vào ngân sách Nhà nước mỗi năm lên đến hàng chục nghìn tỷ
đồng. Thực tế đã cho thấy, các chính sách quản lý Nhà nước đối với kinh doanh xăng
dầu luôn được đổi mới và hoàn thiện theo hướng thúc đẩy thị trường xăng dầu phát
triển, đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp, quyền lợi người tiêu dùng và thu ngân
sách Nhà nước. Chính sách thuế nhập khẩu thường xuyên được điều chỉnh phù hợp
với biến động của thị trường thế giới. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm bất cập, việc sừ
dụng các chính sách thuế, giá và chỉ tiêu nhập khẩu chưa đồng bộ dẫn đến sự gián
đoạn nguồn cung ở một số thời điểm nhạy cảm, tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà
nước và tạo sức ỳ cho các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu đồng thời dẫn đến cuộc
rượt đuổi dường như không có điểm dừng giữa thuế nhập khẩu và giá xăng dầu trong
nước( năm 2004, 14 lần điều chỉnh thuế suất nhập khẩu và 4 lần điều chỉnh giá bán lẻ
trong nước
(1)

). Nhiều pháp lệnh về thuế, phí ban hành chưa được sự đồng tình của

1)
. Theo Hiệp hội xăng dầu Việt Nam – hiephoixangdau.org.

1)
.Trích: bài viết “Đổi mới cơ chế quản lý trong hoạt động kinh doanh xăng dầu”, ngày 19/06/2012,
hiephoixangdau.org.
2
đông đảo nhân dân, gây những phản ứng trong dư luận, tiêu biểu là thuế tiêu thụ đặc
biệt, hiện giờ câu hỏi nên bỏ hay không thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào xăng dầu vẫn
là một cuộc tranh luận chưa có hồi kết, vì đây là hàng hóa thiết yếu phục vụ cho lợi ích
thiết thực của nhân dân cũng như các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất.
Chính các lý do trên mà cần phải nghiên cứu thực trạng về thuế, phí và lệ phí
đang áp dụng đối với xăng dầu, để thấy được những bất cập và ưu điểm của pháp luật
Việt Nam, về khả năng của Nhà nước trong việc sử dụng các công cụ này.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Từ trước đến nay các tài liệu trong nước nghiên cứu về kinh doanh xăng dầu và
chính sách quản lý Nhà nước mà tiêu biểu là các loại thuế, phí và lệ phí đối với hoạt
động này không nhiều. Có một vài luận án tiến sỹ tiêu biểu trong nước như luận án
tiến sỹ được tiến hành năm 1995 của Nguyễn Cao Vãng với đề tài: “Kinh doanh xăng
dầu theo cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay”. Và năm 2001, Bộ Thương Mại (nay là
Bộ Công Thương-cơ quan quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu) thực hiện đề tài khoa học cấp bộ “Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước đối với
mặt hàng xăng dầu trong tình hình mới”. Một vài năm trở lại đây, khi giá dầu thô thế
giới biến động theo chiều hướng tăng do những bất ổn của tình hình chính trị thế giới
kéo theo việc giá bán lẻ xăng dầu trong nước liên tục bị điều chỉnh tăng thì trên các tạp
chí khoa học trong nước xuất hiện một loạt các nghiên cứu liên quan đến thị trường
xăng dầu và vai trò quản lý của nhà nước đối với thị trường này. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này chỉ tập trung vào việc lý giải tại sao nhà nước phải bình ổn giá xăng

dầu và bình ổn bằng cách nào.
Các luận án nước ngoài liên quan đến các loại thuê, phí và lệ phí cũng không có
nhiều, có chăng chỉ là một số tài liệu liên quan đến kinh doanh xăng dầu và các chính
sách quản lý Nhà nước đối với hoạt động này, và trong đó có một vài mục liên quan
đến thuế. Một số tài liệu: “Strategic Petroleum Reserve: United States engry security,
oil politics, and petroleum reserves policies in the twentieth century – Beaubourf B.A-
1997; Energy consumption in Yemen: Economics and policy – Dahan A.A – 1996;
Petroleum development in the context of self-reliance; China’s changing policy since
1960-Lee H.P-1989; An application of rational choice theory to petroleum policies in
Canada, Britian, and Norway M – 1988; Petroleum politics in Japan: State and
industry in a changing policy context – Caldwell M.A – 1981; The politics of public
enterprise oil and the French state – Feigenbaum H.B – 1981. Hầu hết các nghiên cứu
này đều tập trung vào vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh doanh xăng dầu ở các
khía cạnh khác nhau. Một số xem xét vai trò, vị trí của các tập đoàn xăng dầu quốc gia
trong việc đảm bảo nguồn cung và định giá hợp lý các sản phẩm xăng dầu trên thị
3
trường. Một số khác lại nghiên cứu các chính sách quản lý Nhà nước đối với kinh
doanh xăng dầu, tiêu biểu có công trình nghiên cứu về chính sách thuế xăng dầu của
120 quốc gia giai đoặn 1990 – 1991 của Gupta và Mahler năm 1994 đã giải thích tại
sao xăng dầu lại bị đánh nhiều loại thuế với thuế suất cao và các quốc gia đã xác định
tỷ lệ thuế như thế nào. Song đấy chỉ là đối với các thị trường xăng dầu trên thế giới,
những nơi có hệ thống pháp luật khác xa với Việt Nam. Thực tế cho thấy việc ban
hành các chính sách và thực thi các chính sách quản lý của Nhà nước đối với xăng dầu
ở nước ta hiện nay còn mang tính đối phó với thay đổi, tính ngắn hạn, chưa có tính chủ
động, chưa đưa ra được những chính sách có tính chiến lược, những nguyên tắc và
phương pháp thống nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thực thi cũng như
các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
3. Xác lập và tuyên vấn đề tài nghiên cứu.
Với các lý do như đã nêu ở trên em xin chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam về các
loại thuế, phí và lệ phí đối với xăng dầu và thực tiễn áp dụng tại Cảng dầu – Công ty

xăng dầu B12” làm đề tài khóa luận của mình.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuế, nhưng có thể hiểu một cách thống nhất
như sau: “Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp
thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do
chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật. Thuế là
một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó không chỉ phụ thuộc
vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế-pháp luật.
Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí ban hành theo quy định của
Nhà nước.
Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước
hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước được quy định trong
Danh mục lệ phí ban hành.
Có thể nói có rất nhiều các loại thuế, phí và lệ phí áp dụng cho các mặt hàng,
dịch vụ, cũng như việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị, doanh nghiệp. Nhưng về
phía đề tài khóa luận chỉ nghiên cứu các loại thuế, phí và lệ phí mà pháp luật Việt Nam
hiện hành áp dụng đối với xăng dầu. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của khóa luận là
các loại thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với xăng dầu.
4
4.2. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu là làm rõ ràng các loại thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với
xăng dầu, trên cơ sở hiểu rõ, từ đó đánh giá các loại thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với
xăng dầu, đề ra một số giải pháp nhằm năng cao hiệu quả hơn nữa việc sử dụng pháp
luật về thuế, phí và lệ phí.
4.3. Phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về các loại thuế,

phí và lệ phí áp dụng đối với các loại xăng dầu và thực tiễn áp dụng các quy định đó
tại Cảng dầu B12 – Công ty xăng dầu B12.
Nghiên cứu vào khoảng thời gian sau thời kì đổi mới, tập trung chủ yếu vào
khoảng thời gian từ 2008-2013.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận thực hiện một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát tại các doanh nghiệp nhập khẩu và phân phối
xăng dầu tại Việt Nam.
- Phương pháp lấy ý kiến các chuyên gia, các nhà quản lý.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, tổng hợp từ các công trình nghiên cứu, các
bài viết, tài liệu luật và các tài liệu có liên quan đến nội dung về thuế, phí và lệ phí,
hay các tài liệu liên quan đến nội dung về chính sách quản lý của Nhà nước đối với
kinh doanh xăng dầu.
- Phương pháp tổng hợp,so sánh, thống kê.
6. Kết cấu khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu khóa luận
gồm 3 chương:
- Chương 1: Những lý luận cơ bản của pháp luật Việt Nam về các loại thuế, phí
và lệ phí áp dụng đối với xăng dầu.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thuế,phí và lệ phí áp dụng đối
với xăng dầu tại Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
- Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy phạm pháp luật Việt Nam về
thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với xăng dầu.
5
Chương 1: Những lý luận cơ bản của pháp luật Việt Nam về thuế, phí và lệ phí áp
dụng đối với xăng dầu.
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến thuế, phí và lệ phí.
1.1.1. Khái niệm thuế, đặc điểm, chức năng và vai trò của thuế.
1.1.1.1. Khái niệm thuế.
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài người

đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự hình thành và
phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc thực hiện các chức
năng của mình, Nhà nước cần có nguồn vật chất để thực hiện những chi tiêu có tính
chất xã hội, phục vụ cho bộ máy hoạt động của Nhà nước. Bằng quyền lực chính trị,
Nhà nước thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ thu,
nộp các nguồn vật chất này chính là thuế. Thu thuế được thực hiện từ hình thức giá trị
bằng hiện vật chuyển dần sang thu dưới hình thức giá trị. Nhưng đến khi tiền tệ ra đời
đã làm giảm nhẹ hình thức cống nộp. Thuế chính là một điều tất yếu sinh ra và phát
triển cùng với sự phát triển của Nhà nước. Thuế luôn là một đối tượng phức tạp cho
các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này. Đã có nhiều khái niệm của nhiều nhà kinh tế học
sau quá trình nghiên cứu về thuế đưa ra, tiêu biểu có khái niệm về thuế của Các Mác :
“Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu
được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước”
(1)
. Một số
chuyên gia về luật thuế sau quá trình nghiên cứu cũng đưa ra được định nghĩa như sau:
“Thuế là một trật tự đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự
tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu, nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào giữa các bang hay các vùng lãnh thổ”
(2)
. Hay như trong giáo trình Luật
thuế Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội có viết: “Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt
buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có đủ những điều kiện
nhất định”
(3)
.
Từ một số khái niệm của các nhà nghiên cứu ta có thể định nghĩa thuế như sau:
“Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp

thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do
chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật”.

1)
.Trích: Các Mác, Ăng nghen Tuyển tập, Tập 2, Nxb.Sự thật, 1961.

2)
.Trích: Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, trang 669, 1998.

3)
.Trích: Giáo trình Luật thuế Việt Nam-Đại học Luật Hà Nội, trang 10, Nxb.Công an nhân dân, 2008.
6
Ngày 8/8/1990 nước ta cải cách thuế toàn diện, sâu sắc và căn bản, bao gồm
nhiều sắc thuế khác nhau. Tùy theo các tiêu chí phân loại mà có các loại thuế khác
nhau. Nếu căn cứ vào mục đích điều tiết, thuế có hai loại cơ bản là thuế gián thu và
thuế trực thu. Nếu căn cứ vào đối tượng tính thuế, có thuế đánh vào tài sản, thuế đánh
vào thu nhập tiêu dùng
(1)
.
1.1.1.2. Đặc điểm của thuế.
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm
riêng phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình về thuế. Tuy nhiên, thuế bao giờ
cũng mang những đặc tính nhất định. Trên phương diện điều chỉnh của pháp luật, việc
nghiên cứu đặc tính của thuế một mặt giúp nhà làm luật lựa chọn sự điều chỉnh pháp
luật một cách phù hợp đối với thuế; mặt khác, giúp cho các đối tượng có liên quan
thực hiện đầy đủ chức năng và nhiệm vụ của mình. Về đặc điểm của thuế:
Thứ nhất, sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành
các giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước – Pháp luật. Thuế là một thực thể
pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó không chỉ phụ thuộc vào ý chí con
người mà còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kì nhất định.

Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho hoạt động
thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà nước tồn tại, duy trì
quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Trong điều kiện có các giai
cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với phạm vi hoạt động của Nhà nước ngày càng mở
rộng thì chế độ đóng góp theo phương thức tự nguyện của nhân dân trong chế độ cộng
sản nguyên thủy không còn phù hợp nữa. Để có được lượng của cải cần thiết, Nhà
nước đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp luật, ấn định bắt buộc các thế
nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nước một phần của cải mà họ làm ra và
hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những của cải vật chất này
được thu nộp dưới dạng hiện vật, dần dần thuế được chuyển sang hình thức tiền tệ.
Đồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp của cải vật chất đối với dân cư, Nhà nước
đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước. Sự
xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế tồn tại và phát triển.
Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan, thuế ra đời
xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước và sự tồn tại của thuế không
tách rời quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, thuế là do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành. Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định,Quốc hội có nhiệm vụ và
quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do yêu cầu điều

1)
Trích: Giáo trình Luật thuế Việt Nam-Đại học Luật Hà Nội, trang 14, 15, Nxb.Công an nhân dân, 2008.
7
chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình thức ban hành
Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
Thứ ba, thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và
thể nhân đối với Nhà nước, không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp. Thuế là nghĩa
vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu hiệu và điều kiện được quy
định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và được đảm

bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Thuế không phải là khoản phải trả khi
các đối tượng nộp thuế đã nhận được một lợi ích hay quyền lợi cụ thể nào từ phía Nhà
nước. Bất kì “ai” khi đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước,
không phân biệt họ đã nhận được những lợi ích cộng đồng nào
(1)
.
Thứ tư, thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới
hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Nhà nước thu thuế
làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với các thể nhân và pháp nhân trong
xã hội. Đối tượng của quan hệ phân phối này là của cải vật chất được biểu hiện dưới
hình thức giá trị.
1.1.1.3. Chức năng của thuế.
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có
của các quan hệ tài chính, thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và các
chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính. Thuế thực hiện các
chức năng sau:
Một là, chức năng phân phối và phân phối lại, đó là chức năng cơ bản, đặc thù
của thuế. Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng quan trọng. Điều
này được giải thích bởi sự phát triển, mở rộng các chức năng của Nhà nước và việc
thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đó có việc can thiệp của Nhà nước vào
các quá trình kinh tế.
Hai là, chức năng điều tiết đối với nền kinh tế. Thực hiện chức năng điều chỉnh
của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn
đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế
phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích
các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi
ích toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh
tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi
ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự
can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải


1)
Trích: Giáo trình Luật thuế Việt Nam-Đại học Luật Hà Nội, trang 13, Nxb.Công an nhân dân, 2008.
8
kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể
kinh doanh.
1.1.1.4. Vai trò của thuế.
Về phương diện luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông quan
ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy định
nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện
pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hóa các chính sách
kinh tế, xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý
nghĩa kinh tế, xã hội của thuế có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã
hội. Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều
kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Đầu tiên, thuế có vai trò là công cụ chủ yếu tạo lập nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước. Từ khi Nhà nước ra đời, vai trò đích thực của thuế là tạo lập nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước mà trước hết là nuôi bộ máy quản lý Nhà nước và trang trải các
chi phí hiện thực chức năng của Nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực chính trị bắt
buộc các công dân phải đóng góp vào quỹ chung là ngân sách Nhà nước. Nhưng để
tránh sự tùy tiện, lạm thu và đảm bảo công bằng xã hội, Nhà nước phải quy định sự
đóng góp đó theo các luật thuế. Với xu hướng chi tiêu công cộng ngày càng tăng và
mang tính quy luật, cho nên thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà
nước.
Thứ hai, thuế là một công cụ quản lý và điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Ngoài việc
huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn có vai trò quan trọng trong
việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Điều 26 Hiến pháp 1992 nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách”
(1)

. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt
Nam, thuế và pháp luật liên về thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật về thuế, Nhà nước thể chế hóa
và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã
hội.
Thứ ba, thuế có vai trò là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Một trong những khuyết tật của nền kinh tế
thị trường là sự phân hóa giàu nghèo nhanh chóng, tạo ra hai cực đối lập trong xã hội.
Một bộ phận người giàu lên nhanh chóng, còn đa số cuộc sống vẫn không đạt đến mức
tiến bộ đáng kể. Vai trò điều tiết thu nhập của thuế thể hiện ở sự tác động của thuế đối
với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.

1)
.Trích: Hiến pháp 1992 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
9
1.1.2. Các loại thuế áp dụng đối với xăng dầu.
Theo khoản 9, điều 3 nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu:”
9. Giá cơ sở là giá để hình thành giá bán lẻ xăng dầu bao gồm các yếu tố và được xác
định bằng (=) {Giá CIF cộng (+) Thuế nhập khẩu cộng (+) Thuế tiêu thụ đặc biệt}
nhân (x) Tỷ giá ngoại tệ cộng (+) Chi phí kinh doanh định mức cộng (+) Quỹ Bình ổn
giá cộng (+) Lợi nhuận định mức trước thuế cộng (+) Thuế giá trị gia tăng cộng (+)
Phí xăng dầu cộng (+) Các loại thuế, phí và các khoản trích nộp khác theo quy định
pháp luật hiện hành”
(
2
)
. Theo đó sẽ có các loại thuế cơ bản áp dụng đối với xăng dầu:
”thuế nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế giá trị gia tăng”, ngoài ra có thể còn có
các loại thuế khác tùy từng thời kì cũng như điều kiện của thị trường kinh doanh xăng
dầu.

1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thuế nhập khẩu áp dụng đối với xăng dầu.
Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp
bằng tiền của tổ chức và cá nhân vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật,
khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa qua biên giới.
Xét về phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu có thể hình dung như là quan hệ
phát sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế) về
việc tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá trình
thu thuế nhập khẩu.
Lượng xăng dầu để đáp ứng và phục vụ nhu cầu trên đất nước ta chủ yếu là do
nhập khẩu, hiện nay một số nhà máy lọc dầu đã đưa vào hoạt động nhưng mới chỉ là
đáp ứng phần nào nhu cầu. Trong những năm gần đầy nhà nước đã linh động, nghiên
cứu để thay đổi thuế suất thuế nhập khẩu để phù hợp với giá xăng dầu thế giới và tình
hình kinh tế trong nước. Một số loại xăng dầu thuộc nhóm danh mục yêu đãi và mức
thuế suất thuế nhập khẩu đó được quy định tại danh mục thuế suất thuế nhập khẩu ưu
đãi đối với một số mặt hàng thuộc nhóm 2710, ban hành kèm theo một Thông tư của
bộ tài chính.
1.1.2.2. Khái niệm, đặc điểm thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng đối với xăng dầu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu, đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ
thuộc đối tượng chịu thuế theo quy định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế được cấu
thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ, thuế tiêu thụ đặc biệt chủ yếu thu vào một số ít
mặt hàng cần tập trung để điều tiết tiêu dùng.
Xăng dầu là mặt hàng thiết yếu phục vụ cho các hoạt động trong đời sống của
con người, mặt khác thuế tiêu thụ đặc biệt thường áp dụng đối với các mặt hàng không
khuyến khích nhập khẩu và sử dụng như rượu, bia, thuốc lá…Nhưng tại sao xăng dầu

2
)
.Trích: Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu của chính phủ.
10
lại bị áp thuế tiêu thụ đặc biệt, lí giải điều này Bộ trưởng Vương Đình Huệ-Bộ trưởng

tài chính cho biết:”Xăng dầu là mặt hàng không tái tạo nên áp thuế tiêu thụ đặc biệt,
việc thu thuế tiêu thụ đặc biệt với mặt hàng xăng đã thực hiện từ năm 1996 và mức
thuế của nước ta còn thấp hơn so với nhiều nước lân cận”
(1)
. Nhưng dù muốn hay
không, thực tế rằng thuế tiêu thụ đặc biệt đã được áp dụng đối với mặt hàng xăng và
được quy định tại:”điểm g, khoản 1, điều 2 và theo điều 7 – Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt”. Cụ thuể, xăng các loại, nap-ta, chế phẩm tái hợp và các chế phẩm khác để pha
chế xăng đều phải chịu chung mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 10%. Tuy hiện tại
nhiều nước trên thế giới đã áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dầu, nhưng nước ta
vẫn chưa áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng này.
1.1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng áp dụng đối với xăng dầu.
Theo điều 2-Luật thuế giá trị gia tăng có viết: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính
trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng”
(2)
.
“Năm 1947, Pháp cải tổ thuế doanh thu thành thuế đánh một lần vào sản xuất
(Taxe unique a production). Năm 1948, thuế này được cải tổ thành thuế đánh vào tổng
số tiền bán hàng do các khâu sản xuất phải nộp hàng tháng (sau khi trừ đi thuế nằm
trong giá cả sản phẩm của khâu sản xuất trước), viết tắt là TVA, còn ở Mỹ người ta gọi
là Value Added Tax (VAT), ở Việt Nam gọi là thuế giá trị gia tăng và thường được
viết tắt là GTGT hay VAT”
(1)
. Bản chất của thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu do
người tiêu dùng phải chịu thông qua giá của hàng hóa, dịch vụ, nhưng lại được thu ở
từng công đoạn trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, đánh vào giá trị tăng
thêm của sản phẩm qua mỗi khâu luân chuyển. Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế
gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm
hàng hóa hoặc được cung ứng dịch vụ nên tạo nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho

Nhà nước. Đối với hàng hóa xuất khẩu không những không phải nộp thuế giá trị gia
tăng mà còn được khấu trừ hoặc hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác
dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng
xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế, còn đối với hàng hóa nhập khẩu từ
nước ngoài, thuế giá trị gia tăng cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với
hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa. Hiện
nay các nước áp dụng thế VAT có sự khác nhau trong việc thiết kế mức thuế suất và

1)
.Trích: Bài viết trên trang web: vangquocte.net.vn

2)
.Trích: Điều 2-Luật thuế giá trị gia tăng.
(
1)
.Trích: Giáo trình Thuế-Trường đại học Bách khoa Hà Nội,tác giả Nguyễn Xuân Quảng trang 57, Nxb. Giao
thông vận tải.
11
số lượng thuế trong đạo luật thuế giá trị gia tăng. Luật thuế giá trị gia tăng của Việt
Nam hiện hành quy định mức thuế suất cho các hàng hóa, dich vụ trong khoảng từ 0%
đến 10% cho mỗi đơn vị tính của các loại hàng hóa, dịch vụ đó. Có hai phương pháp
tính thuế giá trị gia tăng hiện nay, đó là ”phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp
tính trực tiếp”.
• Phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế giá trị gia tăng phải nộp = thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ (-) thuế giá trị
gia tăng đầu vào được khấu trừ.
• Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Số thuế phải nộp = giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ nhân (x) với thuế suất
thuế giá trị gia tăng.
Giá trị gia tăng bằng giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ đi giá

thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng.
Xăng dầu là một mặt hàng rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế,
cũng như các mặt của đời sống hàng ngày. Ở nước ta hiện nay, tuy đã đưa vào hoạt
động một số nhà máy lọc dầu để có nguồn cung xăng dầu phục vụ trong nước nhưng
với mức sản xuất của các nhà máy đó là chưa đủ, và hiện nay nước ta vẫn phải nhập
một số lượng lớn xăng dầu để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Biểu thuế thuế giá trị
gia tăng của Bộ tài chính ban hành quy định khá rõ ràng về mức thuế suất thuế giá trị
gia tăng đối với mặt hàng xăng dầu. Cụ thể, chương 27 “Nhiên liệu khoáng, dầu
khoáng và các sản phẩm chưng cất từ chúng; các chất chứa bi tum; các loại sáp khoáng
chất”
(1)
, các sản phẩm trong chương này từ danh mục mã hàng “2706 00 00 00” hầu
hết là xăng dầu, nhiên liệu, các sản phẩm họ xăng dầu và hầu hết đều được áp dụng
mức thuế suất thuế giá trị gia tăng là 10%.
1.1.2.4. Khái niệm, đặc điểm thuế bảo về môi trường áp dụng đối với xăng dầu.
“Thuế bảo vệ môi trường là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa
(sau đây gọi chung là hàng hóa) khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường”
(2)
.
Theo khoản 1, điều 3, Luật thuế bảo vệ môi trường quy định rất rõ về các đối tượng
chịu thuế-đây là các sản phẩm xăng dầu, hay các sản phẩm có họ từ xăng dầu. Luật
thuế bảo vệ môi trường là một trong những sắc thuế cần được xây dựng để hoàn thiện
hệ thống chính sách thuế với mục tiêu đánh thuế vào các đối tượng gây ô nhiễm nhằm
bảo vệ môi trường sinh thái. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội. Góp
phần làm thay đổi hành vi của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng năng lượng
tiết kiệm, hiệu quả , giẳm bớt tác động tiêu cực của sản xuất đến môi trường. Căn cứ
tính thuế bảo vệ môi trường là số lượng hàng hóa tính thuế và mức thuế tuyệt đối.

1)
.Trích: Biểu thuế thuế giá trị gia tăng-Bộ tài chính.


2)
.Trích: Khoản 1, điều 2, Luật thuế bảo vệ môi trường, ban hành bởi Quốc Hội, năm 2010.
12
Thuế bảo vệ môi trường phải nộp = Số lượng đơn vị hàng hóa tính thuế x Mức
thuế tuyệt đối trên một đơn vị hàng hóa.
Mức thuế tuyệt đối để tính thuế bảo vệ môi trường cho mặt hàng xăng dầu cũng
được quy định khá rõ ràng tại điều 8-Luật bảo vệ môi trường. Mức thuế suất này cũng
được Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định, điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kì,
chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước; xác định theo mức độ gây tác động
xấu đến môi trường của hàng hóa.
1.1.3. Khái niệm, một số đặc điểm về phí và lệ phí.
Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí ban hành kém theo pháp
lệnh về phí và lệ phí.
Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước
hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước được quy định trong
Danh mục lệ phí ban hành kèm theo pháp lền về phí và lệ phí.
Đối với xăng dầu, vào 1/1/2012 là thời điểm Luật Thuế bảo vệ môi trường
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành, tức là xăng dầu sẽ phải chịu thuế bảo
vệ môi trường thay cho phí môi trường như thời điểm trước ngày 1/1/2012.
Còn đối với việc Phí xăng dầu hiện nay thực chất là phí giao thông. Ngày
07/12/1994 Chính phủ ban hành Nghị định số 186/CP về việc thu lệ phí giao thông
qua giá xăng dầu và giao cho cơ quan thuế thu khoản phí này nộp ngân sách Nhà
nước. Ngày 26/12/2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2000/NĐ-CP về phí
xăng dầu, theo đó từ ngày 01/01/2001 sẽ không thu lệ phí giao thông mà chuyển sang
thu phí xăng dầu. Cho đến ngày nay, đến khi thu phí sử dụng đường bộ thì việc bãi bỏ
hay tiếp tục giữ phí xăng dầu vẫn còn là một câu hỏi đối với các ban ngành có liên
quan.
1.1.4. Phân biệt thuế, phí và lệ phí.

• Về mặt pháp lý.
Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng văn
bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hôi và ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua. Trình tự ban hành một Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ. Trong khi
đó lệ phí, phí được ban hành dưới dạng Nghị định, Quyết định của Chính phủ; Quyết
định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
• Xét về mục đích và mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế - xã hội.
Thuế có ba tác dụng lớn: Tạo nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước; điều
chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát triển kinh tế;
đảm bảo sự bình đẳng giữa những chủ thể kinh doanh và công bằng xã hội. Qua đó ta
13
thấy thuế có tác động to lớn đến toàn bộ quá trình phát triển kinh tế-xã hội của một
quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách tài chính
quốc gia. Trong khi đó lệ phí, phí ít có những tác dụng nói trên, nó chỉ có tác dụng tạo
nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không phải dùng
đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi mặt của Nhà nước mà trước hết dùng để bù đắp các chi
phí hoạt động của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số dịch vụ công cộng.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về thuế, phí và lệ phí áp
dụng đối với xăng dầu.
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về thuế, phí và lệ phí.
Đối với các văn bản pháp luật nói chung thì căn cứ pháp lý làm cơ sở ban hành
văn bản pháp luật đó là văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên
đang có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản đó, bao gồm:
• Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên có thẩm quyền
quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ban hành văn bản;
• Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên có thẩm quyền
quy định về vấn đề thuộc đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản;
• Cơ quan, người có thẩm quyền chỉ được ban hành các văn bản có nội dung
phù hợp với thẩm quyền của mình được pháp luật cho phép hoặc đã được phân công,
phân cấp. Thẩm quyền này được xác định trong các văn bản của cơ quan Nhà nước

cấp trên có thẩm quyền quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý Nhà
nước cụ thể của từng cơ quan, từng cấp, từng ngành đối với từng lĩnh vực.
Đối với các văn bản quy phạm pháp luật về thuế nói riêng, cơ sở đề ban hành ra
các văn bản này là Hiến pháp - Văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho tới thời điểm hiện nay. Theo điều 47 Hiến pháp
nước cộng hòa xã hôi chủ nghĩa Việt Nam năm 2014 đã có hiệu lực từ 01/01/2014 thì:
“Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định”
(1)
.
Đây chính là cơ sở ban hành cho các đạo luật thuế, đạo nguồn thu ngân sách
phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước, của các ban ngành có liên quan.
Với phí và lệ phí thì các văn bản pháp luật chính là các pháp lệnh về phí và lệ
phí, cơ sở ban hành cho những pháp lệnh về phí và lệ phí liên áp dụng đối với xăng
dầu được căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Căn cứ
vào Nghị quyết của Quốc hội trong các Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Đối
với một số phí về xăng dầu được Bộ tài chính ban hành có thể dựa vào một số căn cứ
từ Luật tổ chức Chính phủ; Luật Ngân sách Nhà nước…

1)
.Trích: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
14
Đối với thuế, phí và lệ phí, cơ sở thực tiễn để ban hành các quy phạm pháp luật
liên quan đến các lĩnh vực này là vì định hướng phát triển kinh tế, xã hội, để quản lý
nền kinh tế, cho phù hợp với từng thời kì của Đảng và Nhà nước, vì nhân dân, vì lợi
ích tổng thể của quốc gia.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với xăng
dầu.
Luật thuế do Quốc hội ban hành, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ. Xem xét các
nội dung pháp luật điều chỉnh đối với các loại thuế chính là xem xét đến cấu tạo của
Luật thuế đó. Thông thường, Luật thuế có cấu tạo gồm các bộ phận chủ yếu: tên gọi;

những quy định chung; căn cứ tính thuế; đối tượng nộp thuế; chế độ khai thuế, thu
thuế; chế độ miễn, giảm thuế; nghĩa vụ và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế; chế độ
xử lý vi phạm; khen thưởng và giải quyết khiếu nại về thuế. Xăng dầu là mặt hàng rất
thiết yếu, giá xăng dầu luôn được đặc biệt quan tâm bởi nhân dân, các doanh nghiệp,
đơn vị sản xuất kinh doanh. Mặt khác, các loại thuế là các yếu tố chủ yếu cấu thành
nên giá xăng dầu hiện nay. Trong những năm qua nội dung được nhà nước quan tâm,
điều chỉnh nhiều nhất về Thuế nhập khẩu; Thuế giá trị gia tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt;
Thuế môi trường áp dụng đối với xăng dầu chính là thuế suất. Các nội dung khác ít
được sự điều từ phía pháp luật là do các loại xăng dầu nhập về, tiêu thụ trên thị trường
thường không có sự biến động lớn, các mặt hàng này vẫn giữ được sự ổn định về
chủng loại.
Thuế suất là mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đợn vị
của đối tượng tính thuế. Tùy theo từng Luật thuế, từng loại hàng hóa mà người ta áp
dụng các mức thuế suấ khác nhau. Đi kèm theo trong mỗi Luật thuế được ban hành là
“biểu thuế”. Biểu thuế là bảng tập hợp các thuế suất hoặc các mức thuế nhất định trong
một Luật thuế được áp dụng để thu thuế đối với từng quan hệ cụ thể. Biểu thuế thường
có các hình thức: Biểu thuế thông thường bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất
áp dụng ổn định và thống nhất cho toàn bộ đối tượng tính thuế; Biểu thuế lũy tiến bao
gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp dụng càng cao theo quy mô của đối tượng
tính thuế, biểu thuế lũy tiến có hai hình thức biểu thuế lũy tiến toàn phần và biểu thuế
lũy tiến từng phần. Trong những năm qua giá xăng dầu thế giới luôn luôn biến động,
giá xăng dầu trong nước vì thế cũng biến động theo, việc điều chỉnh mức thuế suất của
các loại thuế áp dụng đối với xăng dầu luôn là một đề tài nóng bỏng không chỉ đối với
nhà quản lý mà còn đối với người tiêu dùng.
1.3. Yêu cầu về pháp luật thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với xăng dầu.
Tính minh bạch: Cần rõ ràng về hình thức, ngôn ngữ sử dụng chính xác, dễ
hiểu, diễn đạt rõ ràng, không bị hiểu theo nhiều cách khác nhau. Các số liệu, dẫn
15
chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn từ các cơ quan
quản lý Nhà nước về xăng dầu cần mạch lạch rõ ý, những từ ngữ đi mượn, có yếu tố

mới, hoặc yếu tố nước ngoài cần giải thích rõ ràng trong các văn bản luật đó.
Tính thống nhất: Các Luật về thuế, phí và lệ phí cần tuân thủ với các văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn như Hiến pháp. Không có mâu thuẫn đối với các
quy định của các loại thuế đối với từng bản thân các loại thuế.
Tính hợp lý:Đưa ra được các quy định hợp lý đối với thị trường xăng dầu,
không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Nhà nước và tư nhân.
Các văn bẳn Luật cần quy định chi tiết , kịp thời., tạo ra sự chặt chẽ.
16
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với
xăng dầu tại Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến thuế, phí và lệ phí áp
dụng đối với xăng dầu tại Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
2.1.1. Giới thiểu tổng quát về Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
2.1.1.1. Giới thiệu khái quát về Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
Tên doanh nghiệp: Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
Địa chỉ: Khu 1 – Phường Bãi Cháy – Thành phố Hạ Long – Tỉnh Quảng Ninh.
Số điện thoại: 033.3846360; Fax: 033.3847091.
Mã số thuế: 5700101690.
Tiền thân của Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12 là công trình thủy lợi B12
được thành lập ngày 27/08/1968 do Chính phủ duyệt quy hoạch thiết kế thi công.
Công trình di Liên Xô (cũ) giúp ta xây dụng cảng đầu mối lớn nhất miền Bắc dùng để
tiếp nhận nhập khẩu xăng dầu phục vụ cho sản xuất và quốc phòng. Khi mới thành lập,
Cảng dầu B12 có 138 lao động; quản lý cơ sở vật chất gồm 22.000M³ bể chứa xăng
dầu, 03 phương tiện thủy lợi, 02 tầu phục vụ, cảng phao tiếp nhận tầu 30.000DWT.
Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12 được giao nhiệm vụ quản lý khai thác hệ
thống các công trình xăng dầu gồm: Cảng tiếp nhận xăng dầu B12 (theo thiết kế ban
đầu cảng chỉ cho phép tiếp nhận được loại tầu đến 10.000DWT, qua nhiều lần cải tạo,
nâng cấp đến nay là cảng cứng, có một cầu tiếp nhận được tầu đến 5.000DWT và một
cầu tiếp nhận được loại tầu có trọng tải đến 40.000DWT); kho bể chứa xăng dầu hiện
đại với dung tích hơn 90.000M³.

Cảng dầu B12 thuộc công ty xăng dầu B12, là đơn vị kinh tế có tư cách pháp
nhân hạch toán phụ thuộc vào công ty theo chế độ phân cấp đặc thù của ngành xăng
dầu, đồng thời chịu sự chỉ đạo mọi mặt của công ty theo chế độ phân cấp, chịu sự kiểm
tra giám sát của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Thành phố Hạ Long.
Thực hiện Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/03/2010 của Chính phủ về
việc chuyển đổi công ty Nhà nước thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ
sở hữu và Thông tư số 79/2010/TT-BTC ngày 24/05/2010 của Bộ Tài chính hướng
dẫn xử lý tài chính khi chuyển đổi công ty Nhà nước thành Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên. Công ty đã chuyển đổi thành công sang mô hình Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên (vào ngày 09/07/2010), theo đó Cảng dầu B12 thuộc
Công ty xăng dầu B12 nên cũng chịu sự ảnh hưởng của việc chuyển đổi này.
17
2.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
- Tổ chức tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu; Thực hiện nhập, xuất xăng dầu điều
động nội bộ của Tập đoàn xăng dầu Việt Nam; Tồn chứa, bảo quản, bơm chuyển xăng
dầu bằng đường ống, đường thủy, bảo đảm tạo nguồn cho các đơn vị tuyến sau;
- Kinh doanh bán buôn, bán lẻ xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu trên biển;
- Dự trữ xăng dầu quốc gia;
- Tổ chức thực hiện tốt các mặt công tác: Bảo vệ an ninh trật tự, an toàn phòng
cháy chữa cháy, phòng chống khủng bố, an toàn cảng biển, an toàn môi trường;
- Tổ chức kinh doanh hạch toán kinh tế;
2.1.1.3. Ngành nghề kinh doanh của Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
* Loại hình kinh doanh chính:
- Kinh doanh các mặt hành xăng dầu (xăng Mogas 92, xăng Mogas95, dầu
Diesel, dầu Mazút);
- Kinh doanh các loại dầu mỡ nhờn, dầu động cơ (phục vụ các phương tiện cơ
giới và tầu thuyền);
- Hoạt động tái xuất xăng dầu;
* Loại hình kinh doanh phụ:

- Các loại nhiên liệu lỏng được sản xuất từ dầu mỏ, Gas và các phụ kiện gas…;
- Vận tải xăng dầu bằng đường ống cho Tập đoàn xăng dầu Việt Nam và các
Công ty kinh doanh xăng dầu khác khi có nhu cầu;
- Các dịch vụ Cảng biển (lai dắt, buộc cởi dây, cung ứng nước ngọt…);
- Bảo quản dự trữ xăng dầu cho Nhà nước và cho thuê kho hàng để dự trữ xăng
dầu;
- Vận tải bằng ô tô sitec chuyên dùng;
- Dịch vụ ứng cứu dầu tràn;
2.1.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Cảng dầu B12-Công ty xăng dầu B12.
Ban giám đốc Cảng dầu B12 là những người có quyền cao nhất lãnh đạo, chỉ
đạo mọi hoạt động của Cảng dầu B12. Giám đốc Cảng dầu B12 chịu trách nhiệm trước
Giám đốc Công ty xăng dầu B12 về tổ chức điều hành và hoạt động kinh doanh của
Công ty theo quy định pháp luật.
Phòng kinh doanh: Lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện kế
hoạch công ty giao; Kiểm tra theo dõi quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
đơn vị; Tiến hành công tác phát triển thị trường, khách hàng; Giám định, bảo đảm chất
lượng, số lượng hàng hóa nhập khẩu qua Cảng dầu B12.
Phòng kế toán: Có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin về các hoạt động kinh
tế tài chính của đơn vị nhằm giúp Giám đốc điều hành; Quản lý hoạt động kinh tế tài
18
chính đạt hiệu quẩ cao; Phản ánh đầy đủ tài sản hiện có của doanh nghiệp và sự vận
động tài sản của đơn vị; Phản ánh toàn bộ các chi phí, kết quả quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phòng kỹ thuật: Chịu trách nhiệm về tình trạng kỹ thuật toàn bộ tài sản, vật tư,
trang thiết bị; kho bể, tuyến ống, máy móc thiết bị, cầu cảng, nhà cửa văn phòng…;
Lập kế hoạch trùng tu bảo dưỡng các công trình xăng dầu.
Phòng tổ chức hành chính: Chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự, tuyển dụng
nhân viên, bố trí công tác thi đua khen thưởng; Tham mưu cho Giám đốc bố trí sắp
xếp lao động cho phù hợp.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Cảng dầu:
2.1.2. Tổng quan tình hình liên quan đến hoạt động xăng dầu ở Việt Nam.

2.1.2.1. Tổng quan thị trường xăng dầu Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Xăng dầu Việt Nam vẫn phải phụ thuộc vào lớn vào tình hình thị trường xăng
dầu trên thế giới, trong nước một số nhà máy lọc dầu đã bắt đầu đi vào hoạt động
nhưng mới chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu trong nước, còn lại nguồn cung vẫn chủ yếu
phụ thuộc vào nước ngoài. Năm 2008, thị trường dầu thô thế giới như chiếc tàu sóng
sánh giữa biển khơi, trải qua hàng loạt biến động để đạt mức kỉ lục 145$/thùng, sau đó
lại xuống ngay mức 33$/thùng. Điều này làm giá nhập khẩu tăng cao trên 41%, giá
xăng tháng 02/2008 ở mức 14.500 VNĐ/lít, đến tháng 07/2008 đã tăng lên đến 19.000
VNĐ/lít, tháng 10 lại hạ xuống 16.500 VNĐ/lít. Đó là điểm khởi đầu cho hàng loạt
những lần biến động sau này của giá xăng dầu trong nước.
19
Năm Diesel 0.25S (VNĐ/Lít) Xăng Mogas 92 (VNĐ/Lít)
2008 15.450 19.000
2009 14.550 16.300
2010 14.850 16.990
2011 21.050 21.300
2012 21.850 23.800
2013 22.260 24.570
Bảng 2.1: Mức giá Diesel 0.25S và xăng Mogas 92 cao nhất từ năm 2008 đến nay.
Bảng trên là giá của hai mặt hàng xăng dầu thiết yếu đối với thị trường Việt
Nam, ta có thể thể thấy được rằng từ năm 2008 đến năm 2013 giá hai mặt hàng này đã
có những bước nhảy đáng kể. Cũng trong giai đoạn này do tình hình kinh tế thế giới có
nhiều biến động, ảnh hưởng khá nhiều đến tình hình kinh tế trong nước, lượng tiêu thụ
xăng dầu của năm 2013 tiếp tục giảm so với các năm trước mặc dù nguồn cung xăng
dầu vẫn được đảm bảo tốt , đa dạng hơn, ít phụ thuộc vào thị trường Singapore.
2.1.2.2. Tổng quan cơ chế quản lý Nhà nước đối với thị trường xăng dầu.
Có thể nói, giai đoặn từ năm 2008 đến nay, giai đoặn này tuy rất ngắn nhưng đã
bộc lộ nhiều những bất cập của cơ chế điều hành giá và thuế xăng dầu. Việc tiếp tục
can thiệp vào giá và áp dụng một cơ chế điều hành trong điều kiện giá xăng dầu thế
giới biến động rất nhanh chóng theo hai xu hướng ngược nhau đã dẫn đến nghịch lý là:

trong thời kì giá thế giới giảm sâu, Nhà nước vẫn phải bỏ một số tiền bù giá tương
đương, thậm chí cao hơn so với giai đoạn giá thế giới tăng đỉnh điểm.
Ngày 16/09/2008, Bộ tài chính ban hành quyết định số 79/2008/QĐ-BTC, theo
đó, các thương nhân Việt Nam kinh doanh nhập khẩu xăng dầu hoặc chế biến xăng
dầu tại thị trường trong nước được quy định giá bán xăng dầu theo cơ chế giá trị
trường, trong hệ thống phân phối thuộc mình quản lý. Tuy nhiên, trước khi ban hành
giá bán, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu và chế biến xăng dầu tại thị trường trong
nước có trách nhiệm đăng ký mức giá bán với Liên Bộ Tài Chính-Công Thương, sau
đó tổ chức bán hàng theo giá đã đăng ký, niêm yết giá bán đã đăng ký công khai trong
toàn hệ thống, bán hàng đủ khối lượng, đúng chất lượng cho khách hàng và không bán
cao hơn giá niêm yết.
Ngày 15/10/2009, Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu của
Chính phủ ra đời, có hiệu lực từ ngày 15/12/2009. Nghị định này quy định về mọi mặt
kinh doanh xăng dầu và điều kiện kinh doanh xăng dầu ở thị trường Việt Nam. Cơ chế
này quy định giá xăng dầu từ đây sẽ vận hành theo cơ chế thị trường có sự định hướng
20

×