Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Sự Ổn Định Chính Sách Bộ Ba Bất Khả Thi Và Các Chính Sách Vĩ Mô Quốc Tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 18 trang )

TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 1


Sự Ổn Định Chính Sách Bộ Ba Bất Khả Thi Và Các
Chính Sách Vĩ Mô Quốc Tế
Helen Popper, Alex Mandilaras, and Graham Bird

October 10, 2011

TÓM LƯỢC
Bài viết này khảo sát tính ổn định của các chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế. Bằng việc
sử dụng mô hình đơn giản của lý thuyết bộ ba bất khả thi cổ điển, trong nền kinh tế mở,
chúng tôi giới thiệu một phương thức đo lường mới, đơn biến của sự ổn định chính sách kinh
tế vĩ mô quốc tế. Chúng tôi cũng mô tả các cách kết hợp chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế xét
về hình thức bên ngoài của chúng đến các nguyên mẫu đằng sau đó, và, chúng tôi sử dụng
các hạn chế của bộ ba bất khả thi để cung cấp một đánh giá mới về chủ quyền tiền tệ.
Bằng cách áp dụng các phương thức này vào phân tích dữ liệu thời kỳ hậu Bretton
Woods, chúng tôi thấy rằng sự kết hợp chính sách kinh tế vĩ mô thế giới ít ổn định nhất là tỷ
giá hối đoái linh hoạt và thị trường vốn tự do. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng hầu hết các
quốc gia đều thực hiện chủ quyền tiền tệ ở mức độ cao hơn so với trước đây. Thông thường,
các nước hòa trộn chính sách độc lập về chế độ tiền tệ ở mức độ cao với cả chính sách ổn
định tỷ giá hối đoái và mở cửa thị trường tài chính. (Theo ý nghĩa mở rộng này, hầu hết các
nước đang ở trong mức “trung gian"của không gian chính sách.) Ngoài ra, chúng tôi nhận
thấy rằng việc nắm giữ chính thức dự trữ ngoại tệ ở mức độ lớn tương ứng với sự ổn định
chính sách cao hơn ở các nước có thu nhập thấp. Tuy nhiên, không có sự gia tăng nào về mức
độ ổn định xảy ra tại các nước thu nhập trung bình, tại đó các chính sách ít ổn định nhất, hoặc
ở các nước giàu.

1. Giới thiệu
Theo lý thuyết về bộ ba bất khả thi trong nền kinh tế mở cổ điển, một quốc gia không


thể đồng thời đạt được sự ổn định về tỷ giá, thị trường vốn tự do và chủ quyền tiền tệ. Mỗi
quốc gia phải có một sự đánh đổi giữa 3 mục tiêu này. Trong khi lý thuyết bộ ba bất khả thi
cho rằng phải thực hiện một sự lựa chọn thì lịch sử gần đây cho thấy rằng không có sự lựa
chọn cuối cùng nào cả. Trường hợp của Trung Quốc nhắc nhở chúng ta rằng chủ quyền tiền
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 2

tệ có thể bị xói mòn, Brazil nhắc nhở chúng ta rằng các rào cản mới đối với dòng lưu chuyển
vốn có thể được dựng lên, và những câu hỏi mới ở châu Âu nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả
một liên minh tiền tệ cũng có thể bị tháo dỡ. Các nước thực hiện các lựa chọn, và sau đó lại
tiếp tục lựa chọn lại. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi tìm hiểu sự ổn định của những lựa
chọn đó. Chúng tôi đặt ra câu hỏi, ví dụ, liệu rằng tỷ giá hối đoái cố định và kiểm soát vốn sẽ
ổn định hơn quyền tự chủ tiền tệ kết hợp với thị trường vốn mở (có), và liệu dự trữ ngoại hối
có liên quan đến sự ổn định chính sách (có, ở một mức độ nào đó, nhưng chỉ xảy ra ở các
nước nghèo). Để kiểm tra những vấn đề này và các câu hỏi liên quan, chúng tôi giới thiệu
một cách thức đo lường mới, chính thức về sự ổn định của chính sách kinh tế vĩ mô theo thời
gian.
Phương thức mới của chúng tôi bắt đầu với mô hình đơn giản về bộ ba bất khả thi.
Chúng ta có thể hình dung các chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế của một quốc gia như là một
vị trí trong một không gian ba chiều hạn chế, mỗi một điểm trong đó là chính sách ổn định tỷ
giá, nền tài chính mở, và chính sách tiền tệ độc lập. Trong cấu trúc này, sự thay đổi trong
chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế của một quốc gia được đo lường một cách tự nhiên như một
sự dịch chuyển từ điểm này đến điểm khác trong không gian chính sách ba chiều. Ở đây,
chúng tôi đánh giá sự ổn định chính sách của một quốc gia bằng cách đánh giá mức độ thay
đổi của nó theo thời gian. Đăc biệt, sự ổn định hoặc không ổn định tổng thể được đo bằng
khoảng cách giữa các điểm nối tiếp nhau trong không gian chính sách. Một chính sách kinh
tế vĩ mô ổn định được định nghĩa là một chính sách có sự thay đổi tương đối nhỏ trong không
gian chính sách, trong khi sự thay đổi lớn trong không gian chính sách đại diện cho chính
sách không ổn định.
Chúng tôi cũng cung cấp một phương pháp đo lường mới về chủ quyền tiền tệ. Các

phương pháp mới có nguồn gốc từ hạn chế của bộ ba bất khả thi: bộ ba bất khả thi hạn chế
chính sách độc lập tiền tệ về chi phí của sự ổn định tỷ giá và tự do tài chính. Bằng các cách
đo lường sự ổn định tỷ giá và tự do lưu chuyển vốn cũ, các hạn chế của bộ ba bất khả thi
mang lại một phương pháp ngầm định về chủ quyền tiền tệ. Biện pháp mới này cung cấp một
sự thay thế rõ ràng cho các biện pháp tiêu chuẩn hiện tại, cái mà dựa vào mối tương quan
giữa lãi suất của một quốc gia và lãi suất của một quốc gia cơ sở nào đó.
Trong phần tiếp theo của bài viết này, chúng tôi giới thiệu phương thức đo lường mới
về sự ổn định. Sau đó chúng tôi sử dụng các phương thức này để đánh giá sự ổn định của
chính sách bộ ba bất khả thi trong tổng số 177 nền kinh tế trong thời kỳ hiện đại (thời hậu
Bretton Woods). Bằng cách đó, chúng tôi dựa vào biện pháp đo lường mới về chủ quyền tiền
tệ - một biện pháp chỉ ra rằng hầu hết các nước thể hiện sự độc lập về chế độ tiền tệ lớn hơn
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 3

nhiều so với suy nghĩ trước đây. Cuối cùng, chúng tôi phân loại các quốc gia vào các nguyên
mẫu chính sách trong mỗi năm, chúng tôi đánh giá sự ổn định của mỗi nguyên mẫu, và chúng
tôi xem xét mối liên hệ giữa sự ổn định, nguyên mẫu, và dự trữ.
2. Một phương thức đo lường sự ổn định
Để đánh giá sự ổn định kinh tế vĩ mô quốc tế, chúng ta bắt đầu với bộ ba chính sách
tiêu chuẩn của bộ ba bất khả thi quốc tế. Chúng ta biểu thị sự kéo dài của chế độ nước thứ i
trong khoảng thời gian t là R
i,t
, trong đó:

Và S
i,t
thể hiện sự ổn định tỷ giá, F
i,t
thể hiện tự do lưu chuyển vốn và M
i,t

thể hiện chủ
quyền tiền tệ. Các phép tính S
i,t,
F
i,t
và M
i,t
đã được chuẩn hóa và theo đó, mỗi yếu tố sẽ nằm
trong khoảng từ 0 đến 1, và các giá trị tại 1 thể hiện tỷ giá hối đoái cố định hoàn hảo, tự do
hóa thị trường vốn hoàn hảo và chủ quyền tiền tệ hoàn hảo. Như vậy, một sự kết hợp giữa tỷ
giá cố định với thị trường vốn mở cửa là R
i,t
,= (1,1,0), một sự kết hợp giữa tỷ giá cố định với
là chủ quyền tiền tệ R
i,t
,= (1,0,1) và sự kết hợp giữa tỷ giá thả nổi với thị trường vốn mở cửa
và độc lập tiền tệ là R
i,t
,= (0,1,1).
Theo cấu trúc này, một sự thay đổi về chế độ của 1 quốc gia từ thời kỳ này sang giai
đoạn kế tiếp đơn giản chỉ là một vecto nối kết 2 điểm liền nhau trong không gian chính sách:


Bằng việc sử dụng vecto biểu diễn các thay đổi chính sách này r
i,t
chúng ta chắc chắn
có thể đo lường được sự thay đổi chính sách tổng quát bằng chuẩn vecto || r
i,t
|| (chuẩn
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG

NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 4

Euclide). Với chuẩn vecto này, chúng ta xác định được một phương thức đo lường định
lượng, đơn biến, đã điều chỉnh nằm trong khoảng từ 0 đến 1:

Tiêu chuẩn điều chỉnh n
i,t
này biểu diễn một cách vô hướng đơn giản phạm vi đầy đủ
những thay đổi của các chính sách bộ ba vĩ mô quốc tế của một quốc gia.
Hình 1 minh họa phương pháp này để đo lường sự ổn định chính sách. Các số liệu
hiển thị hai điểm dữ liệu của một quan sát đơn lẻ cơ bản của các chỉ tiêu điều chỉnh, n
i,t
.
Quan sát này thực hiện cho Indonesia tại thời điểm cuộc khủng hoảng châu Á (i = Indonesia,
và t = 1997), và các dữ liệu cơ bản là từ nghiên cứu của Aizenman, Chinn và Ito (2010), mà
chúng tôi thảo luận chi tiết hơn trong phần tiếp theo.
Như đã biết, Indonesia đã trải qua một sự suy giảm đáng kể về sự ổn định tỷ giá và
giảm nhẹ về sự tự do thị trường tài chính trong cuộc khủng hoảng, trong khi đó lại tăng chủ
quyền tiền tệ một cách đáng kể. Những thay đổi này được chỉ rõ bởi các vector đã được biểu
diễn giữa các quan sát trong năm 1996 và năm 1997.
Chiều dài chuẩn hóa của vector đo lường sự thay đổi tổng thể trong bộ ba chính sách.
Các chỉ tiêu trong năm 1997 bằng khoảng 5 lần giá trị tiêu biểu của Indonesia hồi đầu thập
kỷ, và nó vượt quá (với một biên độ đáng kể) 95% của giá trị trong mẫu.
Nhìn chung, chuẩn của vector tóm tắt những thay đổi tổng thể trong các chính sách
kinh tế vĩ mô quốc tế của bộ ba bất khả thi. Dưới đây, chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn (đã được
hiệu chỉnh để nằm trong khoảng giữa 0 và 1) để kiểm tra sự ổn định của các chính sách khác
nhau và để đánh giá mức độ mở rộng mà sự ổn định này có thể được liên kết với việc nắm
giữ chính thức dự trữ ngoại hối.

3. Dữ liệu và tính ổn định tổng quát

Trong phần này, chúng tôi tính toán phương thức đo lường sự ổn định mới mỗi năm
bằng việc sử dụng một mẫu gồm 177 quốc gia với dữ liệu thường niên từ năm 1970 đến năm
2008. Chúng ta bắt đầu với các phương thức đo lường „thực tế‟ sự ổn định tỷ giá hối đoái và
chủ quyền tiền tệ cung cấp bởi Aizenman, Chinn và Ito (2010), đã được cập nhật phiên bản
mới nhất của phương pháp đo lường „luật định‟ (de jure) mức độ tự do các tài khoản tài chính
của Chinn và Ito (2008). Sau đó, chúng tôi tính toán phương thức đo lường sự ổn định của
chúng tôi về bằng việc sử dụng biến thay thế chủ quyền tiền tệ.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 5

Aizenman et. al. xây dựng các đo lường sự ổn định tỷ giá hối đoái thường niên, S
i,t
,
bằng việc sử dụng độ lệch chuẩn theo từng tháng của tỷ giá hối đoái của một quốc gia đối với
một quốc gia cơ sở. Giống như nhiều nhà nghiên cứu khác, họ đi theo nghiên cứu của Giáo
sư Shambaugh (2004) trong việc xây dựng các cách đo lường chủ quyền tiền tệ, M
i;t
, bằng
cách sử dụng mối tương quan giữa lãi suất thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia và của quốc
gia cơ sở của nó. Cuối cùng, phương pháp đo lường „theo luật định‟ de jure của Chinn và Ito
đo lường mức tự do hóa thị trường tài chính, F
i,t
, về cơ bản là bình quân gia quyền của các
chỉ tiêu hạn chế ngoại hối của Quỹ tiền tệ quốc tế.

Bảng 1 cung cấp một bản tóm tắt các chỉ tiêu điều chỉnh, n
i,t
, tính toán dựa trên những
dữ liệu này.


Bảng này cung cấp bản tóm tắt các số liệu thống kê phân loại theo thu nhập, được lấy
từ danh sách các nền kinh tế tháng 1 năm 2011 của Ngân hàng Thế giới, và nó cũng cung cấp
số liệu thống kê cho nhóm các thị trường mới nổi, được lấy từ Chỉ số thị trường mới nổi của
Morgan Stanley Capital International. Cột đầu tiên thể hiện giá trị trung bình cho mỗi nhóm.
Như là một nhóm, các nước giàu nhất có các chính sách kinh tế vĩ mô ổn định nhất. Giá trị
Trung bình của chúng, thể hiện ở dòng thứ ba, là 0,11. (Hãy nhớ rằng một chính sách thả nổi
bền vững có thể là một phần của chính sách "ổn định", mặc dù thực tế là tỷ giá hối đoái tự nó
biến động.)
Dòng cuối cùng là số liệu thống kê cho các nền kinh tế mới nổi. Với giá trị trung bình
hiệu chỉnh là 0,16, nó thể hiện chỉ tiêu lớn nhất. Như vậy, trong khi những nước giàu có
chính sách ổn định nhất, thì các nền kinh tế mới nổi – chứ không phải là các nước nghèo - có
sự bất ổn định về chính sách nhất.
Hình 2 biểu diễn các chỉ tiêu điều chỉnh theo thời gian. Các đường đứt nét trong các
đồ thị thể hiện các giá trị đo lường cho đến nay, đã được tóm tắt trong bảng 1.Các đường liền
tương ứng với một phương thức đo lường sự ổn định thứ hai, có liên quan chặt chẽ - cái thay
thế một phương thức đo lường chủ quyền tiền tệ (được mô tả dưới đây) cho phương thức
được sử dụng bởi Giáo sư Shambaugh Aizenman, Chinn và Ito.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 6



4. Các phương thức đo lường liên quan và Kiểm nghiệm
4.1 Phương thức ngầm định về chủ quyền tiền tệ
Như đã nói ở trên, phương pháp tiếp cận của giáo sư Shambaugh (2004) để đo chủ
quyền tiền tệ sử dụng sự tương quan giữa lãi suất ngắn hạn trong nước của một quốc gia và
của một quốc gia cơ sở giả định, thường là Hoa Kỳ. Mối tương quan cao được thể hiện như
là dấu hiệu của phụ thuộc tiền tệ. Có nghĩa là, nó thể hiện sự thiếu độc lập chính sách tiền tệ.
Những hạn chế của phương pháp tiếp cận có giá trị này là, ngoài việc phản ánh sự phụ thuộc
tiền tệ, nó cũng phản ánh mối tương quan giữa các tình huống cơ bản khác mà theo đó chính

sách tiền tệ độc lập có thể phản ứng lại. Canada là một ví dụ nói về vấn đề của biện pháp: bất
chấp chủ quyền tiền tệ rõ ràng, lãi suất của nó liên quan chặt chẽ với Hoa Kỳ. Bề ngoài,
phương pháp này sẽ sai lạc nói rằng Ngân hàng của Canada bị hạn chế bởi các chính sách
của Cục Dự trữ Liên bang. Các nhà nghiên cứu khác, chẳng hạn như Frankel, Schmukler, và
Serven (năm 2004, trong các nghiên cứu cùng thời điểm với Giáo sư Shambaugh), và Reade
và Volz (2008), cung cấp các biện pháp đo lường chủ quyền tiền tệ có liên quan khác cho
phép xem xét nhiều hơn nữa các liên kết chung giữa các mức lãi suất của các nước. Tuy
nhiên, ngay cả những biện pháp tổng quát hơn cuối cùng dựa trên tương quan lãi suất, vì vậy
chúng có thể có những hạn chế tương tự
7
.
Ở đây, chúng tôi giới thiệu một phương thức đo lường chủ quyền tiền tệ thay thế mà
không bị ảnh hưởng của hạn chế này, và chúng tôi sử dụng các phương thức mới về chủ
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 7

quyền để cải tiến quy mô của tính ổn định,
n
i,t
. Phương thức đo lường mới của chúng tôi về
chủ quyền bắt đầu bằng cách lấy bộ ba bất khả thi làm trọng tâm: chúng tôi giả định rằng bộ
ba bất khả thi được thực hiện. Với giả định đó, từ phương thức đo lường ổn định tỷ giá,
S
i,t
,
và thị trường vốn tự do,
F
i,t
, giúp chúng ta có một phương thức ẩn về chủ quyền tiền tệ,
M

i,t
. Đặc biệt, phương thức ngầm định về chủ quyền tiền tệ là:
M
i,t
=
2 −
S
i,t

F
i,t

Hình 3 cung cấp các biểu đồ mô tả cả hai phương thức ẩn về chủ quyền tiền tệ (các
đường liền), cùng với các biện pháp Shambaugh (các đường đứt nét)
8
. Nhìn chung, theo cách
mới, phương thức ngầm định cho thấy một mức độ đáng kể về căn bản của độ độc lập chính
sách tiền tệ hơn phương thức của Giáo sư Shambaugh. Ví dụ, sử dụng phương thức mới về
chủ quyền tiền tệ, các quan sát mới nhất của Canada (năm 2007 và 2008) là 0,75 và 0,81,
trong khi của Giáo sư Shambaugh cùng trong những năm gần đây là nhỏ hơn nhiều: 0,25 và
0.31
9
. Từ khi phương thức đo lường chủ quyền tiền tệ mới của chúng tôi về việc dùng bộ ba
bất khả thi được đưa ra, chúng tôi không thể sử dụng nó để kiểm tra tính hợp lệ của bộ ba bất
khả thi, như kết quả khảo sát của Aizenman, Chinn và Ito (2010)
10
. Tuy nhiên, chúng tôi có
thể sử dụng phương thức ngầm định để khám phá những điều thu hút chúng tôi ở đây: sự ổn
định của chính sách bộ ba bất khả thi.


Hình 3: Những phương thức đo lường chủ quyền tiền tệ
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 8

Bảng 2 cung cấp một bảng tóm tắt sự ổn định của chính sách sử dụng các chỉ tiêu
điều chỉnh tính toán mới, phương thức ngầm định của chính sách tiền tệ. Như đã được thể
hiện trong hình, các chỉ tiêu trung bình tổng thể hiện nay là thấp hơn. Tuy nhiên, sự ổn định
tương đối của các nhóm thu nhập không thay đổi, và những khác biệt lớn có ý nghĩa thống
kê: các nước có thu nhập cao lại thể hiện các chính sách kinh tế vĩ mô ổn định nhất, trong khi
các nền kinh tế mới nổi thể hiện kết quả chính sách kém ổn định nhất. Suốt phần còn lại của
bài nghiên cứu, chúng tôi tính toán các chỉ tiêu sử dụng phương thức mới, phương thức ổn
định chính sách tiền tệ bằng bộ ba bất khả thi.

Chú ý: Ở đây, định mức điều chỉnh được tính toán bằng cách sử dụng phương thức
mới, phương thức ngầm định về chủ quyền tiền tệ cho mỗi nước trong số 177 quốc gia 1971-
2008. Các nhóm phân loại theo thu nhập lấy từ Ngân hàng Thế giới (tháng 1 năm 2011),
www.worldbank.org, và các nhóm mới nổi lấy theo Chỉ số thị trường Morgan Stanley
Capital International (không bao gồm Đài Loan do dữ liệu không có sẵn). Cột cuối cùng báo
cáo giá trị của thống kê-t giả thuyết cho rằng mức trung bình thu nhập của nhóm có liên quan
bằng với phần còn lại của thế giới. Ba dấu hoa thị chỉ ra rằng kiểm định thống kê là có ý
nghĩa ở mức một phần trăm
.

4.2 Tính ổn định theo thời gian
Bằng cách sử dụng các tiêu chuẩn ngầm, Bảng 3 kiểm tra rằng liệu một số những sự
thay đổi mạnh mẽ trong tính ổn định được nêu ở hình 2 là có ý nghĩa thống kê. Đặc biệt,
bảng trên còn cung cấp các kết quả rằng các chỉ tiêu điều chỉnh trung bình vẫn không thay
đổi sau khi xảy ra các cuộc khủng hoảng, ví du: Cuộc khủng hoảng Mexico (1994), cuộc
khủng hoảng Đông Nam Á (1997), và cuộc khủng hoảng Argentine (2002).
Bảng này chỉ ra rằng những nhóm thu nhập khác nhau đã trải qua những biến đổi khác nhau.

Đối với những nước có thu nhập thấp, thể hiện trong ô đầu tiên, chỉ có một số bằng chứng
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 9

nhỏ cho thấy có sự gia tăng rất ít trong sự bất ổn sau cuộc khủng hoảng Mexico. Đối với các
nhóm còn lại, tất cả những thay đổi đi theo chiều hướng ngược lại: về mức ổn định hơn
(giảm trong định mức). Đối với các nước thu nhập trung bình, thể hiện trong ô thứ hai, có
một số bằng chứng cho thấy một sự gia tăng nhỏ trong sự ổn định kể từ Cuộc khủng hoảng
Argentina. Đối với các nước có thu nhập cao, thể hiện trong ô thứ ba, thay đổi rõ ràng hơn.
Đối với những quốc gia này, gia đoạn gần đây thể hiện sự ổn định chính sách kinh tế vĩ mô
quốc tế lớn hơn, bất kể việc sử dụng yếu tố khủng hoảng để phân chia các mẫu. Đối với
nhóm tập hợp tất cả các nước, thể hiện trong ô thứ tư, chúng ta có thể tự tin bác bỏ ý kiến cho
rằng các giá trị trung bình hiện tại đều giống nhau cũng như giai đoạn trước hay kể cả qua hai
cuộc khủng hoảng gần đây nhất. Các nước mới nổi, thể hiện trong ô cuối cùng, cũng biểu
hiện sự gia tăng tính ổn định như toàn bộ thế giới, nhưng bằng chứng là hơi yếu.
4.3 Những chính sách hành lang
Khi nói đến sự ổn định chính sách, đôi khi những thay đổi rất lớn trong chính sách
được quan tâm nhất. Vì vậy, chúng tôi kiểm định các bằng chứng của một cuộc khảo sát lớn
một cách riêng lẻ. Bảng 4 cung cấp dữ liệu trên các thập phân vị lớn nhất của định mức điều
chỉnh. Bảng này liệt kê số lượng những quan sát lớn trong mỗi năm, theo nhóm thu nhập và
đối với toàn mẫu. Trong mỗi ô trong bảng, tử số cho biết số lượng các quan sát lớn, trong khi
mẫu số cho biết tổng số quan sát. Nhìn chung, các thay đổi lớn về chính sách dựa trên các giá
trị trung bình. Các nền kinh tế giàu có ít có sự thay đổi, trong khi các nền kinh tế mới nổi có
thay đổi lớn nhất. Trong các bảng hồi quy sau, chúng tôi kiểm tra tất cả các thay đổi chính
sách - lớn và nhỏ, sau đó, chúng tôi tập trung chú ý vào các xác suất của những thay đổi lớn
trong chính sách được xác định dưới đây.

TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 10


4.4 Nguyên mẫu
Tiếp theo, chúng tôi tìm hiểu cách thức các chỉ tiêu khác nhau thông qua các kiểu kết
hợp chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế. Chúng tôi chia các quan sát thành 4 kiểu chính sách kế
hợp khác nhau dựa trên biểu hiện của chúng thành một trong bốn loại nguyên mẫu: một là
kiểu “HongKong”, với sự ổn định tỷ giá và thị trường vốn mở, kiểu “Trung Quốc”, với sự ổn
định tỷ giá và chủ quyền tiền tệ, kiểu “Mỹ” với thị trường tài chính tự do và độc lập tiền tệ,
và kiểu “Trung gian”, với một mức độ khiêm tốn của tất cả ba đặc điểm.
Chúng tôi sử dụng mô hình đơn giản của bộ ba bất khả thi để mô tả các loại chính
sách chính xác hơn. Đặt j = „Hong Kong‟, „China‟, „Mỹ‟ và „Trung gian‟. Chúng tôi định
nghĩa loại j (typej) mà theo đó Rj nhận các giá trị (1,1,0); (1,0,1), (0,1,1) và (2/3, 2/3, 2/3).
Mỗi giá trị này đại diện cho một điểm trên biên giới của một tập khả thi được định nghĩa theo
lý thuyết bộ ba bất khả thi. Ba điểm đầu tiên đại diện cho ba góc tương ứng với các nguyên
mẫu `Hồng Kông, '' Trung Quốc, 'và' Mỹ „ mô tả ở trên, và điểm cuối cùng đại diện cho
`Trung gian‟ của vùng biên giới có tính khả thi. Sau đó, chúng tôi đinh nghĩa loại của quốc
gia i trong khoảng thời gian t bằng sự ước lượng với một trong bốn điểm. Cụ thể, chúng tôi
cho


Như vậy, loại quan sát được định nghĩa bằng 1 điểm mà nó tối thiểu khoảng cách giữa quan
sát và nguyên mẫu.
Bảng 4: Số lượng các giá trị định mức ngầm trong các thập phân vị gần đây theo nhóm thu
nhập

Low


Middle
High

All




1971
9/26

12/48
9/29
30/103

4/15

1972
3/27

7/48
3/29
13/104

0/15

1973
8/27

12/50
13/30

33/107

2/15


1974
5/28

4/51
3/31
12/110

2/15

1975
2/27

4/49
5/31
11/107

0/15

1976
3/26

7/51
4/31
14/108

4/15

1977
1/26


2/52
6/34
9/112

0/15

1978
4/26

7/53
4/36
15/115

3/15

1979
1/26

8/53
4/36
13/115

3/15

TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 11









1980
1/27

7/55
2/36
10/118

4/15

1981
1/27

7/56
1/36
9/119

3/15

1982
3/30

8/58
1/37
12/125


5/15

1983
3/31

10/63
3/37
16/131

5/15

1984
3/31

5/65
2/37
10/133

1/15

1985
1/33

7/66
1/37
9/136

3/16

1986

4/33

6/70
2/37
12/140

3/16

1987
1/33

7/70
0/39
8/142

4/18

1988
1/33

1/70
2/39
4/142

0/18

1989
0/35

6/71

1/39
7/145

1/18








1990
3/35

5/72
1/39
9/146

1/18

1991
2/34

5/73
2/39
9/146

1/18


1992
2/34

10/73
1/39
13/146

4/18

1993
1/34

12/73
5/40
18/147

2/18

1994
4/34

13/74
3/40
20/148

4/18

1995
7/33


10/75
0/40
17/148

3/18

1996
6/34

14/78
2/40
22/152

5/18

1997
3/34

14/89
4/47
21/170

6/20

1998
2/36

11/89
4/47
17/172


1/20

1999
3/37

13/89
4/47
20/173

2/20








2000
6/37

15/90
0/47
21/174

2/20

2001
4/36


9/88
5/47
18/171

4/20

2002
4/36

6/87
1/47
11/170

2/20

2003
4/37

8/88
2/47
14/172

1/20

2004
2/37

10/88
2/47

14/172

1/20

2005
2/36

6/88
1/47
9/171

1/20

2006
1/36

5/86
2/46
8/168

1/20

2007
3/33

4/83
2/46
9/162

1/20


2008
0/33

18/82
3/47
21/162

1/20








Total
113/1218

315/2664

110/1500

538/5382

90/662


(%)

9.3%

11.8%

7.3%

10.0%

13.6%




















TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG

NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 12

Sử dụng Định nghĩa này cho các loại đã nêu ở trên. Hình 4 cho thấy số lượng các nền
kinh tế trong từng năm của từng loại. Suốt thời kỳ hiện đại, hình thức chính sách phổ biến
nhất là kiểu `Trung Quốc '. Phần lớn, hơn bốn mươi nền kinh tế có tỷ giá tương đối ổn định
và một mức độ tương đối cao về chủ quyền tiền tệ. hình thức phổ biến thứ 2 là chính sách
kiểu `Trung gian'. Số lượng quan sát kiểu „Trung gian‟ tăng lên vào khoảng giữa thập niên 90
do nhiều nền kinh tế kiểu `Trung Quốc ' bắt đầu nới lỏng các chính sách kiểm soát vốn của
họ. Số lượng các nền kinh tế theo kiểu `Hồng Kông‟ đã tăng khá đều đặn kể từ những năm
chín mươi. Số lượng các nền kinh tế kiểu „Hoa Kỳ‟ đã tăng suốt thời gian qua, mặc dù ít ổn
định.

Con số này cũng cho thấy rằng không thể duy trì được việc `đào sâu vào kiểu Trung
gian‟, được định nghĩa theo bộ ba đầy đủ các chính sách bộ ba bất khả thi. Các nghiên cứu
đâu tiên về `đào sâu vào kiểu Trung gian‟ cho rằng việc tăng cường mức dịch chuyển của
vốn đã làm chế độ tỷ giá hối đóai trung gian không bền vững, buộc các chính phủ phải lựa
chọn giữa không ổn định hoặc ổn định tỷ giá hối đoái hoàn toàn. Trong khi việc mở cửa thị
trường tài chính là Trung gian của quan điểm 'đào sâu' hay 'lưỡng cực‟, nhiều nghiên cứu mở
rộng còn định nghĩa những cụm từ một cách độc đoán theo sự ổn định tỷ giá hối đoái. Ở đây,
việc định nghĩa `trung' và 'cực' theo cả 3 chiều của bộ ba bất khả thi, chúng tôi nhận thấy
rằng không có sự chuyển đổi rõ ràng với bất kỳ góc của bộ ba. Do đó, việc `đào sâu 'hay
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 13

'phân cực' (trước đây là lưỡng cực) không được trình bày ở các phần sau này.
Bảng 5 tóm tắt phương pháp chúng tôi đo lường sự ổn định chính sách, định mức điều
chỉnh, các chính sách ổn định khác nhau đối với bốn kiểu kết hợp chính sách như thế nào.
Như thể hiện trong Bảng 5, sự ổn định của các chính sách khác biệt rõ rệt giữa các kiểu. Đối
với tất cả các loại, một điểm có thể bác bỏ giả thiết một cách mạnh mẽ đó là các định mức thì
tương tự nhau đối với các nền kinh tế còn lại trên tổng thể. Đáng chú ý, các chính sách kinh

tế vĩ mô ít ổn định nhất xuất hiện ở các chính sách theo kiểu 'Mỹ': khi tỷ giá hối đoái và thị
trường tài chính được tự do. Trung bình của các chỉ tiêu điều chỉnh cho loại này, 0.17, gần
gấp đôi mức trung bình của loại `Trung Quốc ', 0.09, và gần gấp ba giá trị trung bình cho loại
`Hồng Kông, 0.06, có sự ổn định nhất. Các chỉ tiêu trung bình của các nguyên mẫu kinh tế
kiểu „Trung gian‟, 0.12, nằm gần giữa phạm vi định mức. Trong khi nó không phải là ổn định
nhất trong số các chính sách, một lần nữa, nó cho thấy rằng rất ít khả năng để chính sách kiểu
`Trung gian' có thể tồn tại.
Hình 5 cho một hình ảnh phong phú hơn về cách thay đổi sự ổn định theo thời gian
cho mỗi loại.

Mean

Max.
Min.
St. Dev.
Obs.
H
0
China Archetype
0.09

0.75

0.00
0.14

2251

5.43(***)
Hong Kong Archetype

0.06

0.94

0.00
0.13

706

8.43(***)
U.S. Archetype
0.17

0.94

0.00
0.18

508

10.68(***)
Mid Archetype
0.12

0.74

0.00
0.13

1917


5.04(***)








Bốn đồ thị hiển thị các mức hiệu chỉnh của bốn loại trên mẫu. Mặc dù các đỉnh rõ
ràng trong các định mức của kiểu Trung Quốc` và kiểu `Hồng Kông' tại thời điểm khủng
hoảng châu Á, những nguyên mẫu này, có sự ổn định tỷ giá hối đoái tương tự nhau, biểu hiện
là thay đổi chính sách tổng thể nhỏ nhất, và, sự ổn định tương đối của chúng đã được duy trì
trong giai đoạn khủng hoảng 2007-2008 gần đây. Trong khi các định mức của các nguyên
mẫu kiểu `Mỹ‟ đã giảm so với thời kỳ hiện đại, chúng vẫn còn tương đối cao và các định
mức của các nguyên mẫu theo cả hai kiểu `Trung gian'và' Mỹ' đã tăng trong thời kỳ hỗn loạn
gần đây.



TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 14

5. Bảng hồi quy
Phần này sử dụng mô hình hồi quy để chỉ ra mối liên hệ giữa sự ổn định chính sách
kinh tế vĩ mô và các chính sách bộ ba bất khả thi cơ bản. Chúng tôi bắt đầu với hồi quy
tuyến tính để kiểm tra một chuỗi đầy đủ, từ nhỏ đến lớn, các thay đổi chính sách. Sau đó,
chúng tôi sử dụng mô hình xác suất đơn vị dự toán để tập trung vào khả năng quan sát
những thay đổi chính sách lớn. Chúng tôi áp dụng mô hình tuyến tính và hồi quy xác suất

đơn vị với các nhóm thu nhập riêng biệt, và, bao gồm 2 đặc điểm có liên quan nối kết đánh
giá của chúng tôi về sự ổn định với các chính sách bộ ba bất khả thi cơ bản và với quyền
nắm giữ dự trữ ngoại hối chính thức.
Kết quả thu được về dự trữ phản ánh một truyền thống lâu đời của việc nghiên cứu
các liên kết của họ với các chính sách. Bắt đầu với các công trình nghiên cứu đầu tiên về
dự trữ tối ưu trong một thiết lập ngẫu nhiên, các nhà kinh tế đã xây dựng các mô hình dự
trữ do sự sụt giảm lợi nhuận tiềm năng hoặc là chi phí của việc phá giá, các cuộc tấn công
đầu cơ, và sự dừng lại đột ngột. Trong phạm vi dự trữ hoạt động như một khoảng đệm để
chống lại các sự kiện như vậy, người ta có thể mong đợi dự trữ có liên quan tích cực đến sự
ổn định chính sách. Ngoài ra, người ta có thể mong đợi một liên kết tiêu cực giữa dự trữ và
ổn định nếu dự trữ được tích lũy trước bất ổn chính sách với mục đích ngăn chặn nền kinh
tế khỏi tác động của những bất ổn đó. Trong cả hai trường hợp, dự trữ có thể tương tác với
các chính sách bộ ba bất khả thi cơ bản.
Kỹ thuật đầu tiên của chúng tôi xây dựng lại các chỉ tiêu điều chỉnh dự trữ quá khứ,
các phương pháp quá khứ để đo lường sự ổn định tỷ giá và tự do tài chính, và cả sự tương
tác giữa dự trữ và hai phương pháp đo lường. Kỹ thuật thứ hai cũng xây dựng lại các chỉ
tiêu điều chỉnh dự trữ, nhưng thay vì gộp cả các phương pháp đo lường sự ổn định tỷ giá và
tự do tài chính, nó bao gồm các biến giả cho các nguyên mẫu kinh tế vĩ mô thế giới.

Đặc biệt, hai công thức tuyến tính theo các kỹ thuật là:



tại đó, n
i;t
là tỷ lệ của tỷ lệ dự trữ chính thức trên GDP, và các đường gạch ngang phía trên để
chỉ trung bình của mẫu, và D
j
là biến giả cho type
i;t

= R
j
.Mỗi kỹ thuật tuyến tính được ước
tính không có tác dụng cố định với các hiệu ứng cố định quốc gia, với các hiệu ứng thời gian,
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 15

và với cả hiệu ứng quốc gia lẫn thời gian, và cho tất cả các hồi quy, cả OLS đơn giản và cụm
mạnh mẽ sai số chuẩn đều được báo cáo.
Đối với các ước lượng probit, chúng ta định nghĩa một sự thay đổi lớn trong chính sách như
là cái mà nằm trong thập phân vị (decile) ( số liệu mẫu / số đo vị trí của một phân phối/một
trong những giá trị của một biến thống kê mà chia phân phối của biến thành mười nhóm có
tần số bằng nhau ) trên cùng của mỗi nhóm thu nhập. Thập phân vị giới hạn vùng từ n = 0,24
cho các nước có thu nhập cao đến n = 0,30 đối với các nước thu nhập trung bình. Biến phụ
thuộc sau đó mang một giá trị của nó khi định mức tăng lương vượt quá giá trị giới hạn, và
nó mang một giá trị không khác 0. Sử dụng các giá trị này, chúng tôi ước lượng mô hình
probit sử dụng các biến giải thích tương tự như trong hai bảng thông số kỹ thuật tuyến tính ở
trên. Đối với probit, một trong hai thông số kỹ thuật được ước tính với sai số chuẩn thông
thường, sau đó với các sai số được nhóm lại, và sau nữa là với các hiệu ứng ngẫu nhiên.
D
j
là biến giả cho type
i;t
= R
j
.Mỗi kỹ thuật tuyến tính được ước tính không có tác
dụng cố định với các hiệu ứng cố định quốc gia, với các hiệu ứng thời gian, và với các hiệu
ứng quốc gia và thời gian, và cho tất cả các hồi quy, cả hai OLS đơn giản và cụm mạnh mẽ
sai số chuẩn đều được báo cáo.
Đối với các ước lượng probit, chúng ta định nghĩa một sự thay đổi lớn trong chính

sách như là cái mà nằm trong thập phân vị (decile) ( số liệu mẫu / số đo vị trí của một phân
phối/một trong những giá trị của một biến thống kê mà chia phân phối của biến thành mười
nhóm có tần số bằng nhau ) trên cùng của mỗi nhóm thu nhập. Thập phân vị giới hạn vùng từ
n = 0,24 cho các nước có thu nhập cao đến n = 0,30 đối với các nước thu nhập trung bình.
Biến phụ thuộc sau đó mang một giá trị của nó khi định mức tăng lương vượt quá giá trị giới
hạn, và nó mang một giá trị không khác 0. Sử dụng các giá trị này, chúng tôi ước lượng mô
hình probit sử dụng các biến giải thích tương tự như trong hai bảng thông số kỹ thuật tuyến
tính ở trên. Đối với probit, một trong hai thông số kỹ thuật được ước tính với sai số chuẩn
thông thường, sau đó với các sai số được nhóm lại, và sau nữa là với các hiệu ứng ngẫu
nhiên.
5.1 Những nền kinh tế thu nhập thấp
Bảng 6 và 7 cung cấp các kết quả ước lượng cho các nền kinh tế có thu nhập thấp.
Các ước lượng tuyến tính được cho trong bảng 6. Trong cột đầu tiên của bảng, các hệ số
tương quan giữa sự ổn định tỷ giá trễ và dự trữ thì mang giá trị âm và vừa ít có ý nghĩa
thống kê. Hệ số dựa trên tự do tài chính có tính đến độ trễ cũng âm và có ý nghĩa, nhưng hệ
số về sự tương tác của nó với dự trữ thì dương. Tóm lại, những kết quả ban đầu này chỉ ra
rằng, đối với các nền kinh tế thu nhập thấp, dự trữ chính thức là dấu hiệu của sự ổn định lớn
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 16

hơn khi tỷ giá hối đoái tương đối cố định và thị trường vốn tương đối khép kín. Như thể hiện
trong bảng, các kết quả này được nhân rộng khi tính đến các hiệu ứng thời gian, mặc dù ý
nghĩa thống kê biến mất khi tính đến các hiệu ứng quốc gia.
Cột thứ hai của bảng 6 đưa ra những dự toán ban đầu từ đặc điểm kỹ thuật thứ hai, cái mà sử
dụng các nguyên mẫu có tính đến độ trễ. Trong trường hợp này, hệ số dự trữ là khá lớn, âm,
và có ý nghĩa. Phát hiện này rất quan trọng cả về quy mô lẫn ý nghĩa đối với tất cả các ước
lượng. Đối với các nước có thu nhập thấp, các điều khoản trên/về các nguyên mẫu ở giai
đoạn trước, sự duy trì lớn dự trữ chính thức là dấu hiệu của sự ổn định đáng kể chính sách
kinh tế vĩ mô trên tầm quốc tế.
Bảng 7 đưa ra các kết quả probit. Các đặc điểm kỹ thuật (thông số kỹ thuật) đầu tiên

mang lại những dấu hiệu tương tự như dự toán tuyến tính, nhưng chúng biểu hiện yếu hơn.
Tuy nhiên, đặc tính nguyên mẫu, giống như bản sao tuyến tính của nó trong Bảng 6, một lần
nữa cho thấy rằng trong nền kinh tế có thu nhập thấp, tùy thuộc vào nguyên mẫu, sự dự trữ
lớn hơn là biểu hiện mạnh mẽ của sự ổn định chính sách bộ ba bất khả thi lớn hơn.
5.2 Các nền kinh tế có thu nhập trung bình và cao
Bảng 8 và 9 cung cấp các kết quả cho các nền kinh tế thu nhập trung bình, và bảng
10 và 11 cho các kết quả cho các nền kinh tế có thu nhập cao. Trong bảng 8, chúng tacó thể
thấy trong thông số kỹ thuật đầu tiên rằng các mối tương quan về sự ổn định tỷ giá có tính
độ trễ là âm và có ý nghĩa thống kê cho tất cả các trường hợp thu nhập trung bình. Với các
thông số kỹ thuật thứ hai, các chỉ số tương quan đối với tất cả các nguyên mẫu có tính độ trễ
đều mang ý nghĩa mạnh mẽ. Đó là, sự ổn định chính sách kinh tế vĩ mô lớn nhất trong các
nền kinh tế thu nhập trung bình được tìm thấy trong số các nguyên mẫu Hồng Kông, và đến
một mức độ ít hơn là các nguyên mẫu Trung Quốc '. Cũng theo đó, sự bất ổn lớn nhất được
tìm thấy trong số các nguyên mẫu kiểu Mỹ.
Bảng 9 đưa ra các ước lượng probit cho các nền kinh tế thu nhập trung bình. Theo
cách này, chúng tôi nhận thấy có một chút ý nghĩa quan trọng đối với thông số kỹ thuật đầu
tiên, nhưng thông số kỹ thuật thứ hai khẳng định cho ý tưởng rằng các nguyên mẫu Mỹ -
nguyên mẫu với tỷ giá hối đoái thả nổi - là cấu hình chính sách ít ổn định nhất. Kết hợp lại
với nhau, hai bảng này cho chúng ta biết rằng đối với các nước thu nhập trung bình, sự ổn
định trong chính sách bộ ba bất khả thi lớn nhất tồn tại ở những quốc gia có cơ chế tỷ giá hối
đoái cố định.
Kết quả cho các nước thu nhập cao, được đưa ra trong hai bảng tiếp theo, nhìn chung
tương tự như của các nước thu nhập trung bình. Như đã được thể hiện trong ước lượng tuyến
tính ở bảng 10, các hệ số về ổn định tỷ giá hối đoái có tính trễ lại một lần nữa tất cả đều âm
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 17

và, trong hầu hết các trường hợp, có ý nghĩa ở mức tin cậy tiêu chuẩn. Đó là, sự ổn định tỷ
giá hối đoái một lần nữa biểu hiện sự ổn định lớn hơn xét trên tổng thể các chính sách kinh tế
vĩ mô quốc tế. Trong thông số kỹ thuật thứ hai, các hệ số về 'nguyên mẫu kiểu Hồng Kông

"và" Trung Quốc lại một lần nữa âm và có ý nghĩa. (Trong khi các hệ số về nguyên mẫu Mỹ
là có ý nghĩa thống kê đối với các nước thu nhập trung bình, chúng không có ý nghĩa ở đây.)
Trong những ước lượng probit cho nhóm thu nhập cao được thể hiện trong bảng 11, các hệ số
về nguyên mẫu Hồng Kông và Trung Quốc cũng âm và có ý nghĩa mạnh mẽ. Đối với các nền
kinh tế giàu có này, bộ ba chính sách là ổn định nhất (như/bởi vì nó là dành cho các nền kinh
tế thu nhập trung bình) khi tỷ giá hối đoái tương đối cố định.
5.3 Những nền kinh tế mới nổi
Các kết quả ước lượng cho những nền kinh tế mới nổi được trình bày ở bảng 12 và
13. Tập trung vào những nền kinh tế này, ta nhận thấy rằng tự do hóa tài chính trở nên quan
trọng hơn là tỷ giá hối đoái. Như đã thấy ở bảng 12, thông số trong các thông số kỹ thuật
tuyến tính cho ra các hệ số về tự do tài chính trễ, chúng đều dương và mang phần lớn ý nghĩa
thống kê. Đó là, mức độ tư do tài chính nhiều hơn trong các nền kinh tế mới nổi là dấu hiệu
của sự bất ổn nhiều hơn trong chính sách bộ ba bất khả thi. Đồng thời, các hệ số về sự ổn
định tỷ giá hối đoái trễ thì ở mức độ không đáng kể. Đó là, tỷ giá ổn định dường như nói rất
ít về sự ổn định chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế tổng thể trong nền kinh tế mới nổi. Thông
số thứ hai của các thông số kỹ thuật tuyến tính, nó là nguyên mẫu Mỹ cái mà hầu như
thường xuyên có ý nghĩa, và các hệ số của nó cũng thống nhất tích cực. Đối với dự toán/ước
lượng sử dụng những thay đổi chính sách lớn, thể hiện trong bảng 13, cái quan trọng nhất
trong số các nguyên mẫu là nguyên mẫu Hồng Kông, và, giống như nguyên mẫu Mỹ, các hệ
số của nó là dương. Việc mở cửa thị trường tài chính ở một mức độ cao là cái mà hai nguyên
mẫu này thể hiện. Như trong bảng 12, các hệ số về tự do tài chính trong bảng 13 lại một lần
nữa dương. Mặc dù chúng ít quan trọng hơn so với các hệ số thể hiện sự tự do tài chính tuyến
tính, nhưng chúng dù sao vẫn cho thấy rằng những thay đổi lớn trong chính sách bộ ba bất
khả thi được tìm thấy thường xuyên hơn trong nền kinh tế tương đối mở về mặt tài chính.
Đây chỉ là một trong số những nền kinh tế mới nổi mà chúng ta thấy rằng sự công khai tài
chính có liên quan đến sự bất ổn bộ ba bất khả thi.

6. Kết luận
Vấn đề chính của bài nghiên cứu này là sự sẵn sàng để chỉ ra một cách nghiêm túc
những hạn chế của và rút ra một số tác động của nó (của các chính sách bộ ba bất khả thi cổ

điển, trong nền kinh tế mở) đối với các nghiên cứu thực về các chính sách kinh tế vĩ mô quốc
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GVHD: TS. ĐINH THỊ THU HỒNG
NHÓM 10_CAO HỌC ĐÊM 4_K22 Page 18

tế. Đó là, mô hình đơn giản của bộ ba bất khả thi, cái mà cung cấp cho chúng ta một thước đo
đơn biến về sự ổn định của các chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế và đa chiều của một quốc
gia. Theo các phương pháp đo lường sự ổn định tỷ giá và tự do lưu thông tài chính quốc tế
hiện hữu đã nêu, đó là hạn chế của bộ ba bất khả thi cái mà cung cấp cho chúng ta một đánh
giá tiềm ẩn của chủ quyền tiền tệ. Đây còn là không gian chính sách bộ ba bất khả thi cho
phép chúng ta chỉ ra được đăc điểm của các sự kết hợp về chính sách quốc tế theo biểu hiện
bên ngoài của chúng đến các chính sách nguyên mẫu cuối cùng.
Bằng cách sử dụng mô hình bộ ba bất khả thi, chúng tôi đánh giá sự ổn định của
chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế của kỷ nguyên hiện đại. Chúng tôi thấy rằng các kết hợp
chính sách theo đuổi sự linh hoạt tỷ giá là tổng thể kém ổn định nhất. Tuy nhiên, chính sách
tỷ giá quan trọng hơn trong nền kinh tế mới nổi, nơi thị trường tài chính tự do có liên kết chặt
chẽ hơn với sự bất ổn. Nhìn vào dự trữ ngoại hối, chúng ta thấy rằng chúng đến cùng với sự
ổn định chính sách tốt hơn chỉ ở các nước nghèo.
Trên toàn thế giới, hầu hết các nước bây giờ pha trộn ba mục tiêu của bộ ba bất khả
thi. Đó là, các nước áng chừng thường nằm khoảng ở giữa, chứ không phải ở hai cực, của
không gian chính sách bộ ba bất khả thi. Tại đây, họ biểu hiện một mức độ độc lập chủ quyền
tiền tệ đáng kể nhưng không đầy đủ. Trong kỷ nguyên hiện đại, và sự kết hợp của chủ quyền
tiền tệ lớn với thị trường tài chính tự do lớn vẫn tương đối ổn định và tương đối phổ biến.

×