Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Ứng dụng phong thủy trong bố trí nội thất và nhà ở nội đô phường bắc sơn , thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 75 trang )

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 4.2. Đông tứ và Tây tứ Error: Reference source not found
Hình 1.1: Ngũ hành 11
Hình 1.2: Bát quái, phương vị 13
Hình 1.3: Phòng khách theo phong thủy 34
Hình 1.4: Ghế ngồi phòng khách 36
Hình 1.5: Tranh ảnh và vật dụng trong phòng khách 39
Hình 1.6: Phòng ngủ theo phong thủy Error: Reference source not found
Hình 1.7: Giường ngủ 43
Hình 1.8: Nhà bếp 44
Hình 1.9: Bàn thờ 48
Hình 2.0 : Phòng thờ 49
Hình 2.1 : Người cung ly(9) Error: Reference source not found
Hình 2.2: Nhà ông Nguyễn Hải Phong Error: Reference source not found
Hình 2.3: Phòng khách của nhà ông Nguyễn Hải Phong Error: Reference source
not found

Hình 2.4: Phòng ngủ của vợ chồng ông Nguyễn Hải Phong 53
Hình 2.5: Phòng ngủ của Nguyễn Hải Huy 54
Hình 2.6: Nhà bếp của gia đình ông Nguyễn Hải Phong 54
Hình 2.7: Phòng thờ của gia đình ông Nguyễn Hải Phong 55
Hình 2.8: Nhà của ông Nguyễn Thái Bình 56
Hình 2.9: Người thuộc cung Khôn (2) 57
Hình 3.0 : Phòng khá ch nhà ông Nguyễn Thái Bình 58
Hình 3.1 : Phòng ngủ của 2 vợ chồng ông Nguyễn Thái Bình 59
Hình 3.2 : Phòng ngủ của con trai ông Nguyễn Thái Bình 60
Hình 3.3 : Nhà bếp của gia đình ông Bình 60
Hình 3.4 : Phòng thờ nhà ông Bình 61
Hình 3.5 : Người cung ly(9) 62
Hình 3.6 : Nhà ông Nguyễn Hải Phong 63
Hình 3.7 : Phòng khách của nhà ông Nguyễn Hải Quân 64


Hình 3.8 : Phòng ngủ của vợ chồng ông Nguyễn Hải Phong 65
Hình 3.9 : Nhà bếp của gia đình ông Nguyễn Hải Quân 65
Hình 4.0 : Phòng thờ của gia đình ông Nguyễn Hải Quân 66
MỤC LỤC
1.2. Mục đích nghiên cứu 2
1.3. Yêu cầu của đề tài 2
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài 5
2.1.1. Khái niệm về phong thủy 5
2.1.2. Nguồn gốc ra đời của khoa học phong thủy 7
2.1.3. Một số khái niệm căn bản trong phong thủy 9
2.1.4. Bản chất khoa học của phong thủy 13
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 14
2.2.1. Thuật phong thủy trên thế giới 14
2.2.2. Thuật phong thủy ở Trung Quốc 16
2.2.3. Thuật phong thủy tại Việt Nam 18
2.3. Ứng dụng phong thủy trong bài trí nhà ở, công trình xây dựng, cảnh quan 21
2.3.1. Ứng dụng Phong thủy trong bài trí nhà ở 21
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 26
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 26
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 26
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 26
3.3. Nội dung nghiên cứu 26
3.4. Phương pháp nghiên cứu 27
3.4.1. Phương pháp kế thừa tài liệu 27
3.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa 27
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn ngiên cứu 28
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 28
4.1.2. Các nguồn tài nguyên 28
4.1.4. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 29
a/ Kinh tế 29

4.1.5. An ninh quốc phòng 31
4.2. Khoa học phong thủy trong bố trí công trình nhà ở nội đô 31
4.2.1. Chọn chất đất và thế đất 31
4.2.3. Bố trí cổng nhà và cửa nhà 33
4.2.4. Bố trí cầu thang 34
4.3. Ứng dụng khoa học phong thủy trong bố trí nội thất 35
4.3.1. Bố trí phòng khách 35
4.3.2. Phòng ngủ 40
4.3.3. Bố trí bếp 45
4.3.4. Bố trí phòng thờ 48
4.3.5. Bố trí tiểu cảnh theo phong thủy 50
4.4. Phân tích một số công trình nhà ở được thiết kế và sử dụng có vận dụng kiến thức khoa học
phong thủy 51
Nhận xét: Do ngôi nhà được xây dựng phù hợp với quy luật Phong thủy nên cuộc
sống của mọi người trong gia đình nhìn chung khỏe mạnh, làm ăn đều thuận lợi,
con cái học hành tốt nhiều năm liền đạt danh hiệu học sinh khá, giỏi. Ông Nguyễn
Thái Bình Chủ tịch UBND quận Hải An. Vợ là bà Lê Kiều Như hiện đang là
giảng viên trường Đại học Hải Phòng. Con trai Nguyễn Nhật Minh đang công tác
tại Bệnh viên Kiến An, con gái Nguyễn Minh Hà đang học năm cuối tại trường
đại học y Hà Nội 62
5.1. Kết luận 68
5.2. Đề nghị 69
1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết sự tồn tại của con người bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tác
động của các yếu tố tự nhiên, con người và thiên nhiên luôn có một mối quan hệ
gắn bó mật thiết với nhau, địa thế và môi trường có ảnh hưởng trực tiếp và có ý
nghĩa quyết định đến đời sống của con người .Từ xa xưa con người đã biết vận

dụng những kinh nghiệm sống để phù hợp với tự nhiên. Cụ thể là họ đã vận dụng
những hiểu biết của mình về tự nhiên vào việc xây dựng, chọn lựa nơi sinh sống. Những
kiến thức sống ấy trải qua hàng ngàn năm đã dần hình thành nên thuật phong thủy.
Thuật phong thủy là nghệ thuật vận dụng bố cục, sắp đặt, trang trí nhà cửa,
văn phòng công ty, cơ sở thương mại theo những nguyên tắc cụ thể khai thông và
hướng dẫn sinh khí làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, công việc làm ăn phát đạt.
Trong cuộc sống thực tế, chúng ta vẫn được thấy những trường hợp khác
nhau, người làm nhà xong thì ăn lên làm ra, thăng quan tiến chức, con cái đỗ đạt.
Ngược lại, người thì lụi bại, thất thế sa cơ, suy sụp sức khỏe…
Vậy để tránh được những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người cần
phải bố trí công trình, nhà ở, bố trí nội ngoại thất như thế nào thì mới phù hợp với
quy luật phong thủy? Môi trường cảnh quan xung quanh công trình, nhà ở có ảnh
hưởng như thế nào đến vận mệnh công trình, nhà ở và những người sống trong đó?
Ngày nay hầu hết các gia đình trước khi bắt tay vào tiến hành việc xây nhà
đều tham khảo kỹ lưỡng về Phong thủy nhưng vẫn lúng túng trong việc thực
hiện đúng tuần tự các bước hoặc như người xưa nói rằng “lắm thầy nhiều ma”,
tức là quá nhiều lời khuyên Phong thủy, quá nhiều không gian cần tuân theo
một nguyên tắc nào đó nhằm mục đích đạt được sự hanh thông, đón tài đón
lộc…. Phong thủy đóng vai trò quan trọng trong xây dựng nhà ở nhưng chỉ áp
2
dụng đúng lúc đúng chỗ mới phát huy được tối đa lợi thế và ngược lại sẽ gây
bất tiện cho người sử dụng.
Phong thủy dù còn vẻ huyền bí nhưng rất thực tế và gần gũi với đời sống
con người, phong thủy sẽ giúp tạo ra một không gian sống tốt hơn, hài hòa hơn,
và tự nhiên hơn. Từ đó con người cảm thấy được bình an, thoải mái, viên mãn
tạo động lực giúp họ làm việc tốt hơn, thành đạt hơn, giàu có hơn, sống hạnh
phúc hơn.
Được sự phân công của ban chủ nhiệm Khoa Quản lý Tài nguyên, Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo GS.TS.
Nguyễn Thế Đặng, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Ứng dụng phong thủy

trong bố trí nội thất và nhà ở nội đô phường Bắc Sơn , Thành phố Hải Phòng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích được việc áp dụng Phong thủy trong lựa chọn đất và thế đất tốt.
- Khái quát được những lý luận cơ bản của Phong thủy áp dụng trong
xây dựng nhà ở và bố trí nội thất.
- Phân tích được việc áp dụng Phong thủy trong bố trí nhà ở nội đô và bố
trí nội thất hợp Phong thủy.
- Phân tích được ứng dụng phong thủy tron bố trí nội thất và nhà ở nội
đô phường Bắc Sơn, thành phố Hải Phòng.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Thu thập các tài liệu nghiên cứu về khoa học phong thủy.
- Nắm bắt được một số quy luật cơ bản của phong thủy trong xây dựng
nhà ở, công trình kiến trúc.
- Xác định rõ ảnh hưởng của việc xây dựng công trình nhà ở nội đô theo
phong thủy
- Ứng dụng Phong thủy trong xây dựng nhà ở nội đô.
3
- Ứng dụng Phong thủy trong cách bài trí nội thất ngoại thất.
4
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong học tập và nghiên cứu khoa học, giúp
cho người học tập nghiên cứu củng cố lại những kiến thức đã học, biết cách thực
hiện một đề tài khoa học và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Đối với thực tiễn, đề tài góp phần đề xuất các cách giúp chúng ta có được
một ngôi nhà như ý, vừa đảm bảo về mặt thẩm mỹ vừa đảm bảo hài hòa giữa thiên
nhiên và con người, đồng thời đón lành, tránh dữ.
Thấy được mức độ ảnh hưởng khi ứng dụng Phong thủy đến đời sống
con người.

5
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Khái niệm về phong thủy
Có rất nhiều nhà khoa học, kiến trúc sư, học giả… đã đưa ra khái niệm
về phong thủy, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính xác nào về
phong thủy là gì?
"Từ Hải" viết: "Phong Thuỷ, còn gọi là Kham Dư, một loại mê tín ở
nước Trung Quốc cổ. Cho rằng hình thể, hướng gió, dòng chảy xung quanh nhà
ở hoặc mồ mả, có thể đem lại họa, phúc cho người ở hoặc cho người chôn. Từ
đó chỉ cách xem nhà ở, phần mộ" (Hoàng Gia Ngôn – Qúy Long) .
"Từ Nguyên" viết: "Phong Thuỷ, chỉ địa thế, phương hướng đất nhà ở hoặc
đất phần mộ. Thời xa, mê tín căn cứ vào đó để xem lành giữ, tốt xấu và nhân sự".
Mới đây, Trường Ðại học Ðông Nam Trung Quốc xuất bản quyển "Nguồn gốc
Phong thuỷ", giáo sư Phan Cốc Tây trong lời tựa viết: "Nội dung chính của Phong
thủy là một loại học vấn mà người ta dùng để xử lý và chọn lựa hoàn cảnh ăn ở, cung
thất, chùa chiền, lăng mộ, thôn xóm. Phong Thuỷ và hoàn cảnh ăn ở, ảnh hưởng chủ
yếu trên ba mặt: Một, sự lựa chọn địa điểm, tức tìm một địa hình thỏa mãn cả hai mặt
tâm lý và sinh lý; Hai, xử lý về mặt hình thái trong cách bố trí, bao gồm lợi dụng và
cải tạo hoàn cảnh thiên nhiên, hướng nhà, vị trí, cao thấp to nhỏ, cửa ra vào, đường
đi, nguồn cấp nước, thoát nước…v.v ; Ba, trên cơ sở nói trên, thêm vào một dấu
hiệu, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý tránh cái dữ, lấy cái lành cho con người".
Học viện Dân tộc Trung Nguyên xuất bản cuốn "Tìm hiểu sự lành dữ trong
Phong Thuỷ nhà ở", tác giả trong "Lời nói đầu" viết: "Trong vốn kiến thức lâu đời
của Trung Quốc, có một môn học gọi là Kham Dư, thông thường gọi là Phong
Thuỷ. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu trong nhiều năm của tác giả, thì cái gọi là
Phong thuỷ, nói theo ngôn ngữ hiện đại là "khoa học và mối quan hệ giữa từ trường
6
trái đất và con người". Về nội dung, môn Phong thuỷ gồm hai phần, phần một là

xem xét hình thái của núi, phần hai là xem xét phương và lý khí.
Học giả Rosk Kowski khoa địa lý trường Ðại học New Zealand là một
chuyên gia về nghiên cứu Phong Thuỷ, tác phẩm ông có "Mối quan hệ Phong thuỷ
giữa Văn hoá, thiên nhiên Triều Tiên", những năm gần đây nghiên cứu về Phong
thuỷ Trung Quốc, trong bài đăng trên tạp chí "Nghiên cứu lịch sử khoa học tự
nhiên" tháng 1 năm 1989, viết: "Phong Thuỷ là một hệ thống đánh giá cảnh quan
nhằm tìm một địa điểm tốt lành cho công trình kiến trúc. Nó là nghệ thuật lựa chọn
địa điểm và bố cục địa lý của Trung Quốc cổ đại, không thể căn cứ vào khái niệm
của phương Tây mà nói một cách đơn giản rằng là mê tín hay khoa học Phong
thuỷ Trung Quốc được xây dựng trên ba cơ sở: Một: địa điểm này có lợi cho xây
nhà hoặc xây phần mộ so với các địa điểm khác. Hai: Ðịa điểm tốt lành chỉ có thể
căn cứ vào những nguyên tắc Phong Thuỷ thông qua việc khảo sát địa điểm ấy mà
lựa chọn. Ba: Một khi đã có một địa điểm như thế, thì tổ tiên và con cháu sống hoặc
mai táng ở địa điểm ấy, sẽ được hưởng một sự tốt lành do địa điểm ấy mang lại"
(Trần Di Khôi).
Theo Ths. KTS Phan Đăng Trình, phong thủy là một hiện tượng văn hóa có
từ thời cổ đại, là thuật số đón lành, tránh dữ, phong tục dân gian lưu truyền sâu
rộng, là quan niệm về mối quan hệ giữa con người với môi trường. PGS. Lê Kiều
định nghĩa thì phong thủy là địa thế, địa hình, là đất và nước quanh ta. Phong thủy
là môi trường sống mà con người tồn tại trong đó. Phong thủy còn có nghĩa rộng là
những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, sao trời, vũ trụ trái đất, khí tượng, địa thế
làm nhà, đặt mồ mả nên phong thủy vừa gần gũi vừa xa lạ với con người…. Còn
KTS. Lý Thái Sơn thì đưa ra nhận định: Phong thủy là nơi đan xen nhiều chiều
(không chỉ về không gian địa lý, lịch sử, chủng tộc, dân tộc), phức tạp giữa các yếu
tố khoa học tự nhiên và kỹ thuật (kiến trúc, xây dựng, quy hoạch đô thị - nông thôn,
môi trường sinh thái, nghệ thuật tạo hình và tổ chức không gian) và khoa học xã hội
nhân văn (tâm lý cư trú cá nhân, cộng đồng tín ngưỡng dân tộc, cách tư duy, kiểu
sống) giữa vật thể và phi vật thể…
7
Có thể hiểu rằng: Phong thủy là học thuyết chuyên nghiệp nghiên cứu sự

ảnh hưởng của địa lý đến đời sống họa phúc của con người. Là sự ảnh hưởng
của hướng gió, khí, mạch nước đến mỗi cá nhân. Phong thủy có vai trò rất to
lớn, tuy nhiên nó chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ không làm thay đổi hoàn
toàn vận mệnh.
Trên thực tế, phong thủy học chính là môn khoa học tự nhiên tổng
hợp nhiều ngành như địa lý, địa chất, khí tượng học, cảnh quan học, kiến trúc học,
sinh thái học và nhân thể học. Tôn chỉ của nó là khảo sát, tìm hiểu kĩ càng về môi
trường tự nhiên, thuận theo tự nhiên, sử dụng và cải tạo tự nhiên hợp lý, tạo ra môi
trường sinh sống tốt, được thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
2.1.2.
Nguồn gốc ra đời của khoa học phong thủy
Nguồn gốc phong thủy bí ẩn như chính tên gọi của nó. Thực ra cũng khó có
thể xác định chắc chắn rằng phong thủy xuất hiện từ bao giờ. Có lẽ là ngay từ khi
con người xuất hiện trên trái đất thì họ đã có tư duy về phong thủy. Tất nhiên vào
những thời kỳ còn nguyên thủy thì khái niệm phong thủy còn rất manh nha nhưng
chắc chắn con người đã tìm mọi cách để có thể thích ứng với thiên nhiên và mục
đích hòa hợp với tự nhiên vẫn là một trong những nội dung chính của phong
thủy cho đến ngày nay.
Đã có thời gian Phong thủy được đánh đồng với tôn giáo. Thậm chí bị coi là nhảm
nhí, là mê tín dị đoan cũng do cách giải thích thiếu hiểu biết của chính các thầy Phong
thủy, muốn thần thánh hóa, làm thần bí phức tạp thêm trong con mắt của gia chủ nhằm
trục lợi cho bản thân. Ngày nay, Phong thủy đã được coi là một đối tượng nghiên cứu khoa
học. Nhiều nước tiên tiến trên thế giới đã có những cơ quan nghiên cứu về Phong thủy.
Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu chính xác nào nghiên cứu về nguồn gốc ra đời của khoa
học phong thủy mà chỉ là những phỏng đoán theo tiến trình lịch sử của Trung Quốc là nơi
đã phát sinh khoa Phong thủy. Một trong những giả thuyết cho rằng khoa Phong thủy
ra đời cùng với thời gian mà người Trung Hoa khám phá ra đặc tính của nam châm
và sử dụng để làm la bàn tìm phương hướng, đó là thời gian mà người ta ước đoán
là khoảng năm 2600 trước Công Nguyên.
8

Bởi vậy, chúng ta chỉ lưu ý đến tiến trình của khoa Phong Thủy và những
người đã có công hoàn chỉnh bộ môn này với những dữ kiện có thể tin tưởng được.
Lão Tử, vị giáo chủ của đạo Lão, là nhân vật đầu tiên mà đa số những người tìm
hiểu về khoa Phong Thủy nghĩ rằng ông đã có công góp phần không ít cho bộ môn
này trong buổi sơ khai. Tuy không có một tài liệu chính xác nào lưu lại, nhưng
người ta tin tưởng Lão Tử đã dựa vào Kinh Dịch để đặt nền tảng cho khoa Phong
Thủy vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Bậc thầy thứ hai là Hồng Phạm,
trong thời nhà Hán, người đã lập ra hệ phái Cửu Tinh Bát Môn, dựa vào chòm sao
Đại Hùng Tinh là 7 sao có thật trên vòm trời mà hồi đó ông đã phát hiện được, cộng
thêm với hai sao tượng trưng là Tả Phù và Hữu Bật làm thành nhóm Cửu Tinh. Và
trong suốt thời Tam Quốc phân tranh, một người được xưng tụng với danh hiệu Vạn
Thế Biểu Sư chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng (181 - 234 sau Công Nguyên).
Ông là một chiến thuật, chiến lược gia kỳ tài và là một bậc tôn sư về môn Phong
Thủy, ông đã áp dụng những nguyên tắc căn bản của môn này vào lãnh vực binh bị,
như việc lập doanh trại, địa thế nơi đóng quân… làm cho khoa Phong Thủy được
người đời tin tưởng và nghiên cứu để học hỏi nhiều hơn.
Vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên, tức là những năm đầu của nhà
Hán cho đến thời Hán Sở tranh hùng, qua tài liệu khảo cổ, chúng ta thấy di tích một
vài tác phẩm nói về cách chôn cất và cách đặt mộ phần, tức là khoa Phong Thủy
Âm Trạch sau này. Nhưng tiếc thay, những tác phẩm nói trên đều viết bằng loại cổ
tự Trung Hoa, cách diễn tả khó hiểu và bị mất mát quá nhiều, lại thêm tình trạng
“tam sao thất bản”, nên người đời sau không thể dựa vào đó để tham khảo được gì.
Khoảng năm 618 sau Công Nguyên, tức là vào đời nhà Tần, đã xuất hiện
nhiều nhà Phong Thủy nổi tiếng, họ như những bậc tôn sư của thời đại, có công
hoàn chỉnh và phổ biến sâu rộng khoa học Phong Thủy trong nhân gian.
Và cũng từ thời điểm này, khoa học Phong Thủy chia ra làm nhiều hệ phái
như Cửu Tinh Bát Môn, Ngũ Hành Chính Thống, Huyền Không Ngũ Hành, Hồng
Phạm Ngũ Hành… và phân ra làm hai lãnh vực: Âm trạch, chủ về mộ phần và
Dương trạch, chủ về nhà cửa, cơ sở thương mại.
9

Rồi cũng từ đó, khoa học Phong Thủy đã trở thành những nguyên tắc không
thể thiếu sót trong cuộc sống của người Trung Hoa cho đến ngày hôm nay.
Bước vào thế kỷ hai mươi, khoa học Phong Thủy không còn là tài sản riêng
của người phương Đông nói chung, mà đã được người phương Tây nghiên cứu, học
hỏi và áp dụng. Theo đà tiến hóa của xã hội với thời gian, Phong Thủy hôm nay chỉ
còn áp dụng nhiều trên hai lãnh vực nhà ở và cơ sở thương mại.
2.1.3. Một số khái niệm căn bản trong phong thủy
2.1.3.1. Khí
Là hơi thở hoặc năng lượng. Năng lượng được hiểu là Long mạch, nuôi
dưỡng khí đề làm giàu cuộc sống và khí của những người cư ngụ. Phong thủy ảnh
hưởng đến khí của con người. Do đó, có thể dùng phong thủy để giúp gỡ rối được
các “nút” ngăn chặn hạnh phúc, mục đích và hi vọng của con người.
Trong thuật phong thủy, khí là một khái niệm phổ biến và quan trọng. Khí có
sinh khí, tử khí, âm khí, dương khí, thổ khí, địa khí, tụ khí, nạp khí, khí mạch, khí
mẫu…. Khí là nguồn gốc của vạn vật, khí biến hóa vô cùng, khí quyết định họa
phúc của con người.
Nhìn một cách tổng quát, sinh khí là khí của nhất nguyên vận hóa, ở trên trời
thì lưu chuyển xung quanh lục hư, ở dưới đất thì sinh ra vạn vật. Dù là âm trạch hay
dương trạch đều phải chú ý thặng sinh khí, tránh tử khí.
Đặc điểm quan trọng là khí có tính linh hoạt trong vận động, chịu ảnh hưởng
của cấu trúc môi trường và vật dẫn từ vi mô đến vĩ mô. Khí cũng có thể phân là
nhiều loại theo phương pháp luận của thuyết âm dương ngũ hành, trong đó sự phân
loại có tính khái quát nhất là Dương khí và Âm khí. Khí thường gặp nhất trong
phong thủy là Dương khí. Dương khí vận động trên mặt đất, chịu ảnh hưởng và ảnh
hưởng trực tiếp đến các vật thể trên mặt đất, đặc biệt là vật thể sống.
Theo sách cổ để lại, khí gặp gió thì tán, nghĩa là “khí” nhẹ, lẫn vào không khí
nên bị gió cuốn đi. Nếu gió nhẹ vừa phải sẽ có tác dụng dẫn khí lưu thông, được coi
là tốt. Còn gió mạnh làm tán khí, mất khí lại là không tốt. Sách cũng ghi “khí” gặp
nước thì dừng. Thường thì khí trong tự nhiên vận động dựa theo sức mang của
10

không khí, khi gặp vật cản sẽ đổi hướng theo dòng khí. Khí gặp nước thì dừng
nghĩa là nước có khả năng giữ khí lại, khái niệm chuyên môn của phong thủy là “ tụ
khí”. Hay nói một cách khác mang tính hình tượng hơn là nước có khả năng hút khí,
hòa tan khí. Nước chảy chậm rãi, có chỗ dừng là rất tốt vì mang được khí tươi mới
đến và lưu lại ở đó. Đó là nguyên nhân để các chuyên gia phong thủy nhìn dòng
nước chảy để dự đoán khí vận trong lòng đất mà từ chuyên môn gọi là “long mạch”.
Tính chất của khí sẽ khác nhau tùy theo sự tụ thủy, sức mạnh yếu trong lưu thông
của dòng nước…. “ Khí” cần lưu động nhẹ nhàng, bình ổn mới có tác dụng tương
tác tốt. Dòng chảy hỗn tạp, chảy rối, dòng rối hay các dạng dòng chảy hẹp, vòi
phun, dòng xung kích đều không tốt, gây nguy hiểm.
Chúng ta có thể hình dung tính chất thủy khí động học của “khí phong thủy”
gần giống của nước, trừ tác dụng của trọng lực. Dòng nước chảy xiết, nước xoáy
mạnh cũng tạo ra xung khí, tạp khí. Nếu dòng nước bẩn thỉu hôi hám thì khí cũng sẽ
bị uế tạp, không còn mang được năng lượng sống cho con người nữa.
2.1.3.2. Âm dương
Học thuyết Âm Dương cho rằng mọi vật tồn tại và phát triển được đều do hai khí
âm dương vận động mà tạo thành. Âm Dương là hai mặt đối lập nhưng thống nhất trong
cùng một sự vật hiện tượng, mâu thuẫn nhau và chuyển hóa lẫn nhau không thể tách rời.
Đặc tính của Âm Dương luôn đối lập nhau. Dương là cứng, mạnh, quả quyết, màu sáng,
hướng lên. Âm là nhu thuận, mềm yếu, màu tối, hướng xuống.
Trong tự nhiên, mọi vật đều tồn tại ở hai trạng thái đối lập nhau như nóng với
lạnh, đen với trắng, ngày với đêm, họa với phúc…. Tuy mâu thuẫn nhưng lại có sự thống
nhất từ đầu đến cuối, dựa vào nhau mà tồn tại, cái này làm tiền đề cho cái kia.
Một quy luật trọng yếu của Âm Dương đó là “vật cùng tắc biến, vật cực tắc
phản” có nghĩa là âm dương luôn vận động, cái này yếu thì cái kia mạnh lên. Khi Dương
đến cực điểm sẽ biến thành Âm, khi Âm đến cực điểm sẽ biến thành Dương. Âm Dương
cân bằng là thế tối ưu của sự vật, giúp cho sự vật phát triển ở mức độ tốt nhất.
Âm Dương chuyển hóa lẫn nhau, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm.
Trong ngành vật lý, người ta đã khám phá ra khi vật chất tan rã sẽ trở thành năng
11

lượng cũng chính là một hình thức khác của vật chất. Cũng vậy, trong môn phong
thủy, địa khí hay địa trường cũng nằm trong trạng thái biểu hiện bên ngoài bằng
những hình thái của vật chất như sông, núi, gò, rãnh…. Nhưng nó không ngừng vận
chuyển và tác động lên môi trường xung quanh. Điều đó giải thích tại sao mà có
những nơi chúng ta đến lại thấy thư thái trong lòng, có những nơi lại mang lại cho
chúng ta cảm giác sầu muộn hay bứt rứt.
Nguyên lý Âm Dương được người xưa diễn tả qua đồ hình mang tính triết
học và khái quát sâu sắc. Trong hình vẽ Âm Dương cho thấy: Vòng tròn thể hiện
Thái Cực, tức vũ trụ. Vũ trụ chia làm hai phần Âm và Dương hòa quyện vào nhau.
Âm màu đen nặng hướng xuống, Dương màu trắng nhẹ nổi lên trên. Trong Âm có
Dương và trong Dương có Âm thể hiện tính biện chứng của triết học Âm Dương.
2.1.3.3. Ngũ hành
Là sự hài hòa khí của con người với ngôi nhà: Khí gồm: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ.
Ngũ hành kết hợp với màu sắc, thời gian, mùa màng, phương hướng, các tinh
tú, phủ tạng để điều chỉnh khí của người.
Ngũ hành có 2 chu kỳ: chu kỳ hình thành và chu kỳ hủy diệt.
Học thuyết này ra đời trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm, những quan sát có
tính trực quan và do đó, nó có tính ứng dụng thực tiễn rất cao trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội Người ta dùng Ngũ hành để chia tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên
và xã hội (ngũ âm, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ nhạc, ngũ giác quan ). Trong thuật phong thủy,
các hình thể kể cả phương hướng, đất đai, sông núi đều được phân chia theo ngũ hành, sau
đó căn cứ sự sinh hay khắc của ngũ hành để quyết định cát hung.
Học thuyết ngũ hành sau khi ra đời và hoàn thiện kết hợp với học thuyết âm
dương nên thường được gọi chung là học thuyết Âm dương - Ngũ hành.
12
Hình 1.1: Ngũ hành
2.1.3.4. Bát quái
Trong Phong thủy, một không gian có 8 góc và 8 cặp tam quái gọi là bát
quái, được dùng để chuẩn đoán các sự bất cân xứng trong môi trường và đời sống,

từ đó cải thiện sức khỏe, hạnh phúc và thịnh vượng. Khi thiết kế, phải xem xét
những góc không bình thường của một ngôi nhà để có giải phá xử lý thoát đáng
nhằm tạo sự cân bằng và hài hòa giữa chủ nhân và ngôi nhà.
Theo cổ nhân xưa, lúc đầu vũ trụ chỉ là 1 khối hỗn độn, không có hình dạng
rõ ràng gọi là thời hỗn mang. Trong sự hỗn mang đó, vũ trụ còn chưa có sự định
hình và phân chia được gọi là Thái Cực. Sở dĩ gọi là Thái Cực bởi vì nó huyền bí và
vô tận nên không thể xác định rõ ràng trạng thái của nó ra sao.
Biến hóa là biểu hiện bên ngoài của Thái Cực mà đạo Dịch căn cứ sự biến hóa
của vũ trụ và vạn vật. Do đó Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hóa (Dịch) một cách
khái quát như sau: “Dịch hữu Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ
Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái sinh Ngũ Hành”: Đạo Dịch có nguồn
gốc là Thái Cực, Thái Cực sinh ra 2 Nghi (Âm và Dương), hai Nghi sinh ra 4
Tượng (Huyền Vũ, Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ), bốn Tượng sinh ra 8 Quẻ
(Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Tám quẻ sinh ra 5 Hành: Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Như vậy ta có thể hiểu, tám quẻ của Bát Quái tượng trưng
13
cho 8 trạng thái khác nhau của Âm Dương trong quá trình hình thành Vũ trụ và
mọi vật. (Hoàng Yến).
2.1.3.5. Phương vị phong thủy
Trong phong thủy thường chia ra 24 phương vị, tổng cộng giác độ của 24
phương vị là 360
0,
chia đều ra thành 24 phần, mỗi phương vị là 15
0
.Vậy 24
phương vị trong phong thủy còn gọi là “Nhị thập tứ sơn phương vị”, lấy tám
thiên can “Canh, tân, nhâm, quý, giáp, ất, bính, đinh” cộng với 12 địa chi “Tý, sửu,
dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi” và 4 quẻ “Kiền, Khôn, Cấn, Tốn”
mà thành, dựa theo chiều kim đồng hồ sắp xếp như hình vẽ:
Hình 1.2: Bát quái, phương vị

2.1.4. Bản chất khoa học của phong thủy
Phong thủy học là một bộ môn khoa học cổ, đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc
trong lịch sử phát triển của các dân tộc ở phương Đông, nay lan truyền sang cả
phương Tây.
Phong thủy đã và đang trở thành phong tục, tập quán sinh hoạt, phương thức
tư duy, lòng tin, ý thức trầm tích ở trong mỗi người dân, mỗi quần thể tộc người ở
phương Đông.
14
Phong thủy giúp nâng cao hiểu biết của mọi người về môi trường sống tự
nhiên và từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Do đó, nghiên cứu khoa học Phong thủy không chỉ là nghiên cứu tư duy cổ
mà còn dần dần nghiên cứu cả nền văn hóa phương Đông nói riêng và của nhân
loại nói chung. Ngày nay khoa học đương đại đã có cách nhìn, cách đánh giá mới
về Phong thủy cổ truyền, coi phong thủy như là bộ môn khoa học cần phải nghiêm
túc nghiên cứu và ứng dụng để giúp con người sống hài hòa với thiên nhiên, đón
cát - trừ hung.
Huyền không phi tinh:
Theo trường phái Huyền không thì mọi sự tương tác của các sự vật hiện
tượng đều do Cửu tinh (9 ngôi sao) cai quản và họ dựa trên Cửu tinh để suy luận cát
hung. Huyền không phái hay còn gọi là Huyền không Phi tinh là một trường phái
xuất hiện từ lúc nào thì chưa thể xác định chính xác được. Theo sự ghi chép của
những thư tịch cổ thì vào đời Hán, trong "Hán Thư, Văn nghệ chí" người ta thấy có
mối quan hệ với các bài ca quyết của Huyền không phái được ghi chép vào khoảng
đời Đường (Trung Quốc) trở về sau của các Phong thuỷ học.
Huyền không phi tinh dựa vào tính chất và sự di chuyển của 9 sao (tức Cửu
tinh hay 9 số) mà đoán định họa, phúc của từng căn nhà (dương trạch) hay từng
phần mộ (âm trạch). Cửu tinh: tức là 9 con số, từ số 1 tới số 9, với mỗi số đều có
tính chất và ngũ hành riêng biệt.
Thuật Huyền không phi tinh lấy sự phối hợp của cửu tinh (9 sao) trong Lạc
thư làm chủ. Sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư theo thuận chiều hay nghịch

chiều là cơ sở cho việc xác định hướng tốt hay xấu trong 24 sơn và 8 hướng.
(Nguyễn Thế Đặng - Nguyễn Ngọc Nông).
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Thuật phong thủy trên thế giới
Thuật phong thủy được phát hiện ở Trung Quốc từ hàng ngàn năm trước, tuy
nhiên cho đến nay nó không còn là của riêng người Trung Quốc nữa mà đã được áp
dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
15
Hy Lạp La Mã cổ đại, năm 460 trước Công nguyên, Hipocrat - người đặt nền
móng cho nền y học phương Tây đã có thu thập trước tác “Bàn về gió, nước và
hoàn cảnh” của một thầy thuốc vô danh vào trong văn tập của mình. Sách này coi
hoàn cảnh là một hệ thống chế ước mối quan hệ tương hỗ của sự tồn tại của xã hội,
luận chứng mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Một học giả cổ Hy Lạp khác
là Olympia (208-126 trước Công nguyên) rất coi trọng chí học, coi thủy văn hoặc
núi non là nhân tố chủ đạo của vùng, căn cứ vào đất đai màu mỡ hoặc khô cằn mà
nhận xét tính cách ôn hòa hoặc thô bạo của cư dân. Một học giả Hy Lạp là Acranist
(190-150 trước Công nguyên) đã viết tác phẩm “Hồng Hải”. Đây là một trước tác về
Địa lý học giữa con người và hoàn cảnh. Thông qua nghiên cứu về con sông, trình bày
về phân tích mối quan hệ giữa con người và dòng sông qua nghiên cứu về các bộ lạc sở
tại. Ông nêu con người muốn sinh tồn phải thích ứng với hoàn cảnh, ví dụ, cư dân vùng
ven biển đất đai lồi lõm (Hồng Hải) chọn cửa hàng phía Bắc là để tránh nóng.
Tại Mỹ, dân chúng Mỹ ngày càng tin vào thuyết phong thủy. Trong ngành
kiến trúc, một bộ môn học mới cũng được hình thành. Xây nhà ở, mở cửa hàng đều
phải chọn hướng, địa thế. Từ điển kinh doanh Mỹ đã có một thuật ngữ mới: Feng
Shui - phong thủy, đọc theo âm tiếng Trung Hoa. Báo chí Mỹ cũng đăng tải nhiều
bài về thuật phong thủy. Một loạt các cuốn sách xuất hiện như : “Thuật phong thủy
- nhà khoa học trong nhà bạn” của giáo sư Đại học Northwest John Govert ; “Nhà
thiết kế với phong thủy” của Sarah Rossbach và nữ kiến trúc sư Robin Lennon với
cuốn “Kiến tạo căn nhà cho trái tim bạn”. Riêng tại bang California, thành phố
Gardena cũng có cả hàng chục ngàn cư dân theo thuyết phong thủy, bắt đầu là

người Mỹ gốc châu á, rồi đến cả người Mỹ chính gốc, là siêu sao Hollywood hay
người mẫu thời trang cũng sùng thuyết phong thủy, đến nỗi theo sự tư vấn của
chuyên gia phong thủy, hay gọi là thầy địa lý Angi Ma Wong, một nhà quản lý, ông
Mitch Lansdell, mỗi khi có cuộc gọi quan trọng, ông ta phải xoay ghế ngồi đối diện
với góc Ðông Bắc của văn phòng mình hay đánh dấu cửa để ra vào, xếp sách vở tư
liệu kinh doanh vào góc hướng Ðông Nam. Thuật Phong Thủy đã trở thành một
ngành kinh doanh. Hầu như các hãng xây dựng và trang trí nội thất ở Mỹ đều lập
16
văn phòng nghiên cứu thuật này. Khách hàng có thể gọi điện đến yêu cầu giúp đỡ.
Các chuyên gia thuật phong thủy sử dụng kỹ thuật hiện đại như máy Fax, máy quay
video để làm việc. Giá cho mỗi dịch vụ về Phong thủy từ 2-3 giờ là 350-450 đôla.
Thông thường khách hàng sẽ được hướng dẫn tuân theo những nguyên tắc sau: Ba
vật trong nhà quan trọng nhất là giường, bàn làm việc và bếp lò. Phải đặt chúng sao
cho kín đáo để khách lạ đến nhà bước vào cửa mắt không bao giờ thấy chúng. Các
chỗ ngồi trong phòng khách phải kê sao cho khách dễ dàng trò chuyện. Chính cách
sắp xếp đặt ghế ngồi làm cho phòng khách của mình trở nên mời mọc và hấp dẫn
khách đến chơi thường xuyên (Nguyễn Bích Hằng – Nguyễn Viết Dần – Nguyễn
Khắc Minh).
2.2.2. Thuật phong thủy ở Trung Quốc
Trung Quốc là cái nôi của thuật Phong thủy. Người Trung Hoa luôn tin
tưởng địa lý có sự tương quan ảnh hưởng mật thiết đến đời sống con người hơn cả
áo cơm, do đó có câu “Sống vì mồ mả, không ai sống vì cả chén cơm”.
Kinh đô của triều Minh, Yên Sơn, án ngữ giữa dòng khí của núi Côn Lôn.
Thái Sơn, “Thanh Long” ở bên trái; Hoa Sơn, “Bạch Hổ” ở bên phải; và Tùng Sơn
tạo nên những rặng núi che chở ở phía sau. Thật vậy các kinh đô và cung điện của
các triều đại Trung Hoa đều được thiết kế tuân theo các nguyên lý phong thuỷ, như
Tử Cấm Thành được xây dựng vào Triều Minh và tái thiết vào Triều Thanh tuân thủ
chặt chẽ theo các quy tắc của phép xem địa lý. Hoàng cung này cân xứng với việc
định hướng Bắc – Nam và cổng chính đối diện hướng Nam. Việc định hướng Nam
mang tính thích hợp hơn vì gió thổi từ Mông Cổ đến mang nhiều bụi cát vàng và rất

lạnh. Người ta tránh bố trí các cửa sổ ở các hướng bắc và cách xây dựng như thế đã
trở nên phổ biến. Thậm chí ngày nay, nhiều ngôi nhà Bắc Kinh đều không có cửa sổ
hay mở các cửa khác ra hướng bắc. Toàn bộ Tử Cấm Thành được bao bọc bởi một
hệ thống hào khiến cho nước có thể chảy qua cổng chính và lối vào. Cách thiết kế
xây dựng có mô hình như thế vì theo quan điểm của người Trung Hoa, nước tượng
trưng cho của cải. (Nước chảy qua cửa chính có nghĩa là nhận được nhiều của cải).
Thêm vào đó, Thái Hoà Ðiện, Trung Hoà Ðiện và các phần còn lại của Hoàng Cung
17
đều có giả sơn ở phía sau để tạo ra Phong thuỷ tốt. Phía sau trong trường hợp này có
nghĩa là che chở, đặc biệt chống lại gió và lạnh. Thái Hoà Môn, cửa vào chính cung,
được chủ đích bố trí theo phía trước suối Hoàng Thuỷ. Cổng này có chín hàng cột
(số 9 tượng trưng cho trường thọ). Tổng thể Hoàng Cung có lối trang trí bằng màu
sắc và hoạ tiết mang ý nghĩa tốt, Rồng (biểu tượng dương), ngọc trai (biểu tượng
âm), các con thú bốn chân và hoa được tạo ra và trang trí trên các mái nhà và bức
tường như là các biểu tượng của may mắn và thành công. Toàn bộ khung cảnh và
cách bố trí của cung Mùa Hè cũng dựa trên các nguyên lý Phong Thuỷ. Cung điện
này được xây dựng hướng ra hồ Côn Minh trên một mặt dốc có đồi ở phía bắc đóng
vai trò như điểm tựa ở phía sau lưng (Nguyễn Bích Hằng – Nguyễn Viết Dần –
Nguyễn Khắc Minh)
Trung Quốc là một quốc gia đa dân tộc. Thuật phong thủy vốn là một tập tục
của người Hán nhưng khi thâm nhập vào các dân tộc khác thì cũng có những nét
độc đáo riêng. Tộc Choang ở Quảng Tây rất yêu cái đẹp, rất chú ý đến phong thủy.
Họ xây nhà kiểu có lan can, dựa núi kề nước, lưng quay hướng Bắc, mặt ngoảnh về
Nam hoặc quay lưng về Tây, quay mặt về Đông, sân bãi phía trước rộng rãi, suối
chảy róc rách, từng căn nhà nhỏ ẩn hiện trong rừng trúc xanh. Người tộc Dao ở giữa
Kiềm - Quế thịnh hành tục chém áo quan mai táng. Trước khi chôn, thầy mo tế
huyệt, sau khi áo quan hạ huyệt, thầy mo đọc thần chú, tay cầm dao dựa chém ba
nhát trên áo quan ở trái, phải và giữa, tỏ ý linh hồn người chết đã bỏ nhà, bỏ trại, bỏ
người đời. Mộ đắp hình tròn hoặc chữ nhật, trên nấm trồng cọc tiêu. Tộc Miêu ở
phương Tây có tập tục đốt mộ. Trước khi hạ huyệt đốt bằng dầu gọi là sưởi ấm

huyệt. Sau đó nhà phong thủy vẽ hình bát quái trong huyệt thả một con gà trống
xuống huyệt và cho mổ gạo để đoán sự lành dữ đối với chủ nhà.
Ngày nay, việc xem phong thủy trở thành một việc làm phổ biến đối với
người Trung Quốc. Những con số thống kê đã đưa ra kết quả đáng kinh ngạc. Ở
Hồng Kông, một kiến trúc sư cao cấp được đào tạo ở Luân Ðôn công tác ở Viện
Công trình công cộng công bố sáu thị trấn mới ở vùng lãnh thổ mới có 1,8 triệu dân
được thiết kế theo nguyên lý Phong thủy. Vào năm 1981, một bản báo cáo mới thấy
18
các ông chủ thuộc địa Hồng Kông đã chi hơn 1,5 triệu đôla Hồng Kông cho việc
xem địa lý khi di dời mộ của tổ tiên đến các địa điểm khác. Vào năm 1985, tờ The
Star tuờng trình một nguời đàn ông bị bệnh tâm thần ở Cửu Long đã giết bốn đứa
trẻ và làm bị thương hơn 30 nguời ở nhà trẻ, thầy Phong thủy cho rằng nguyên nhân
là do cột khói công nghiệp huớng thẳng vào nhà trẻ, ống khói đó trông giống như
que nhang đốt lúc tang lễ.
2.2.3. Thuật phong thủy tại Việt Nam
Theo các nhà nghiên cứu, thuật phong thủy đã được truyền vào nước ta và
phát triển vào thế kỷ thứ 17. Khoa địa lý Việt do danh sư Tả Ao và Hòa Chính
truyền đạt qua nhiều đời.
Tả Ao là người thứ nhất học được khoa địa lý chính tông và là nhà địa lý giỏi
nhất Việt Nam xưa kia. Ông tên là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà nghèo, sinh vào thời Lê-Trịnh, mồ côi cha từ nhỏ,
mẹ lòa, anh ruột cũng nghèo. Ông là người có hiếu đã học làm thuốc chữa cho mẹ
khỏi lòa và chữa cho một thầy địa lý khỏi đau mắt gần mù, rồi được thầy truyền cho
khoa địa lý chính tông. Tương truyền, ông không truyền nghề địa lý này cho ai
nhưng ông có làm hai văn bản dạy địa lý được các đời sau in thành sách. Một là tập
Địa đạo diễn ca có 120 câu văn vần, hai là tập Dã đàm Tả Ao bằng văn xuôi. Các
thầy địa lý ở nước ta cho đây là hai tập sách rất tốt. Nó xuất phát từ môn địa lý
chính tông, đi từ căn bản chú trọng tìm cho thấy Long Châu huyệt đích, sau đến
phần chi tiết nói thêm những điều phụ vào phần văn bản. Người nước ta thời xưa rất
thích hai tập sách này vì một lẽ, dễ đọc, dễ hiểu, dễ tiếp thu và dễ thực hành hơn là

những sách du nhập từ Trung Hoa sang, rất rắc rối, mông lung, khó hiểu.
Hòa Chính là một thầy địa lý được Trịnh Sâm cho sang Trung Quốc học,
thành tài. Lúc về, ông có viết sách, chưa được in nên nay chỉ có những bản thảo sao
chép lại, không chắc có đúng nguyên văn của ông không. Sau khi Trịnh Sâm muốn
cướp ngôi nhà Lê sai ông đặt hướng và xây lại thành Cổ Loa để thành một đế đô,
ông không làm, bị chúa Trịnh đổ chì nóng, mù cả hai mắt và bị chết.
* Phong thủy trong kiến trúc kinh thành Huế
19
Theo lẽ tự nhiên, kiến trúc kinh thành phải là một mẫu mực theo thuật phong
thủy bởi lẽ việc lựa chọn địa điểm và xây dựng thành ấp của vua chúa là hết sức
quan trọng, sao cho đó phải là nơi hội tụ của long mạch. Chính vì vậy tổng thể kinh
thành Huế được đặt trong khung cảnh bao la đất rộng và núi cao đẹp, minh đường
lớn, và sông uốn khúc rộng. Cụ thể tiền án của kinh thành là núi Ngự Bình cao hơn
100m, đỉnh bằng phẳng, dáng đẹp, cân phân nằm giữa vùng đồng bằng. Hai bên là
cồn Hến và cồn Dã Viên làm tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ trong thế rồng chầu hổ
phục tỏ ý tôn trọng vương quyền. Minh đường thủy tụ là khúc sông Hương rộng
nằm dài giữa hai cồn cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho đô thành. Do
quan niệm “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ” (Kinh Dịch - Thiên tử phải
quây mặt về hướng nam để cai trị thiên hạ) nhưng đồng thời phải tận dụng được thế
đất đẹp nên kinh thành và các công trình trong nó đựơc bố trí đối xứng qua trục
Dũng đạo quay mặt hơi chếch về hướng Ðông - Nam một góc nhỏ nhưng vẫn giữ
được tư tưởng chính của thuyết phong thủy. Ðây là cách sáng tạo và linh hoạt của
người quy hoạch trong việc vận dụng thuyết phong thủy.
Mặt khác, phong thủy không chỉ xem hướng công trình mà nó cần ảnh hưởng
sâu vào bố trí nội thất, vào các bộ phận và kết cấu trong công trình như chiều dài,
rộng, cao, các cột, cửa… ví dụ như các bộ phận của Ngọ Môn đều có những con số
theo nguyên tắc của dịch học các con số 5, số 9, số 100. Năm lối đi vào Ngọ Môn
tựơng trưng cho Ngũ Hành, trong đó lối vua đi thuộc hành thổ, màu vàng. Chính bộ
mái của lầu Ngũ Phụng biểu hiện con số 5 và 9 trong hào Cửu Ngũ ở Kinh Dịch,
ứng với mạng thiên tử. Một trăm cột là tổng của các con số Hà Ðồ (55) và lạc thư

(45)…. Các con số này ta lại gặp ở tại sân Ðại Triều Nghi với 9 bậc cấp ở phần sân
dưới và 5 bậc cấp ở phần sân trên. Trên mỗi mái của điện Thái Hòa đều được đắp
nổi 9 con rồng trong các tư thế khác nhau, và trong nội thất cũng tương tự. Ðó là
chưa kể đến các con số liên quan đến chiều cao các cửa mà khó có thể liệt kê hết ra
ở đây (Nguyễn Nguyên Quân).
Về vị trí và phong thủy của kinh thành Huế, các sử quan Triều Nguyễn đã
nhận xét, mà có thể nói, như một bản “Luận chứng kinh tế kỹ thuật”: “Kinh sư là
20
nơi miền núi miền biển đều hợp về, đứng giữa miền nam miền bắc, đất đai cao ráo,
non sông phẳng lặng; đường thủy thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm,
đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân ngăn chặn; sông lớn giữ phía trước, núi cao
giữ phía sau, Rồng cuốn Hổ ngồi, hình thể vững chãi, ấy là do trời đất xếp đặt, thật
là thượng đô của nhà vua”.
* Phong thủy trong kiến trúc Dinh Độc Lập
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng rất sùng bái khoa Phong thủy. Ông đã
từng thuê thầy địa lý đặt lại mộ cha Phan Rang để táng vào nơi được đại “cát” nhất.
Ông Thiệu muốn chức vị của mình trường tồn nên đã cho xây lại và yểm bùa dinh
“Tổng thống” tức là “Dinh Độc Lập”.
Nguyên nơi này trước kia gọi là dinh Nô-rô-đôm. Nó vốn là phủ toàn quyền
do thực dân Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ XIX. Khi Pháp trao trả độc lập “giả hiệu”
cho Bảo Đại thì dinh mới bắt đầu đổi tên thành Dinh Độc Lập.
Thời kỳ ông Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống thì ngày 27/02/1962, hai phi
công thuộc phái chống đối tới ném bom làm sập cánh trái của dinh, rồi ngày
01/11/1963, chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cho tới khi các ông Thiệu, ông Kỳ lên
nắm chính quyền, dinh vẫn chưa được sửa xong. Ông Thiệu đã đề ra chương trình
xây dựng lại Dinh Độc Lập, các kiến trúc sư phải thiết kế sao cho dinh mới vững
chãi để chống lại các cuộc tấn công của phe đảo chính.
Theo sách vở cũ thì bộ phận chính của dinh mới được cấu trúc thành ba tầng
lầu kéo ngang thành ba vệt dài và hệ thống cửa lớn ở chính giữa kéo thành một nét
thẳng dọc từ trên xuống dưới, như một nét sổ kết hợp lại với nhau thành chữ vương

(vua), chiếc kỳ đài trên nóc lầu lại tạo thành dấu chấm trên chữ vương và nó tạo
thành chữ chủ nghĩa là chúa.
Trên nóc mái bằng của dinh còn có một cái lầu nhỏ gọi là tứ phương vô sự
lầu. Cái lầu này là nơi yểm bùa làm cho dinh được bình yên vô sự, chống được
mọi hiểm họa từ bốn phương ập tới. Lầu nhỏ này xây theo hình vuông kiểu chữ
khẩu, trước lầu có một cột đâm thẳng thành một nét dọc tạo thành chữ trung, ngụ
ý dinh là trung tâm quyền lực, đồng thời có nghĩa là chính giữa.
21
Ngày 31/10/1966, đúng giờ đại cát, ông Nguyễn Văn Thiệu tới cắt băng
khánh thành Dinh Độc Lập được tái tạo theo kiểu mới đó.
Từ trên cao nhìn xuống, toàn bộ mặt bằng của Dinh Độc Lập được xây dựng
trên khu vực có hình chữ cát (có nghĩa là tốt lành), nhưng rồi có người mách con
đường thảo cầm viên đâm thẳng vào dinh như một mũi tên. Ông Thiệu đến nhờ một
pháp sư yểm cho lá bùa chôn ngay giữa cổng chính. Đồng thời phía trước dinh, ông
Thiệu còn bố trí những rào sắt chắn đặt thường xuyên trên con lộ, tạo thành một vật
cản chặt đứt ngang mũi tên.
Tuy nhiên, xét về tổng thể mà nói, từ trên cao nhìn xuống, tòa nhà Dinh Độc
Lập được thiết kế mang hình tượng cái triện và con dấu, mang ý nghĩa về quyền
lực, cho nên tòa nhà này một thời đã có những vị thế quyền lực nhất định trong xã
hội. Nhưng khi quan sát từ bên ngoài thì tòa nhà này lại mang một hình tượng khá
xấu xét theo quan điểm phong thủy, đó là hình tượng “lộ cốt”. Có lẽ vì thế mà chủ
nhân hoặc người sử dụng công trình này đều không thịnh vượng lâu dài.
2.3. Ứng dụng phong thủy trong bài trí nhà ở, công trình xây dựng, cảnh quan
2.3.1. Ứng dụng Phong thủy trong bài trí nhà ở
Một ngôi nhà mang lại may mắn, thịnh vượng cho gia chủ cần có sự hài hòa
về phong thủy.
Yếu tố phong thủy luôn được coi là yếu tố quan trọng trong việc thiết kế và xây
dựng nhà cửa. Cần lưu ý một số yếu tố dưới đây để có một mái ấm bình an và tài lộc.
2.3.1.1. Môi trường xung quanh
Khi chọn mua đất làm nhà cần chú ý đến điều kiện xung quanh của nó. Theo

phong thủy truyền thống Trung Quốc, vị trí lý tưởng của ngôi nhà đó là: Tây cao,
Đông hạ, hướng Bắc trường; bên trái là Thanh Long, bên phải là Bạch Hổ, phía
trước là Chu Tước, còn phía sau là Huyền Vũ. Bên cạnh đó, khi chọn đất làm nhà
nên tìm hiểu xem nhà có bị ảnh hưởng bởi xung quanh không?, ví dụ như nếu xung
quanh quá nhiều nhà cao tầng sẽ gây cảm giác ngột ngạt, bức bối, nơi có quá nhiều
tiếng ồn hay tạp âm sẽ khiến ảnh hưởng đến việc nghỉ ngơi của mọi người.
2.3.1.2. Chú ý đến diện tích nhà

×