Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu tới hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị trường Nhật Bản của Công ty cổ phần và đầu tư dịch vụ ô tô Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 57 trang )

Trường Đại học Thương Mại
“ Ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu tới hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị
trường Nhật Bản của Công ty cổ phần và đầu tư dịch vụ ô tô Việt Nam”
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

1
Trường Đại học Thương Mại
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1.Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày
càng giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang bước
qua hơn hai thập kỷ của công cuộc đổi mới chính sách và cơ chế kinh tế, trong đó hội
nhập kinh tế với khu vực và quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu, một trong những
nguồn lực để thưc hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để tham gia vào quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều vấn đề về cơ chế chính sách cần phải được xem
xét, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó thuế nhập khẩu
đóng một vai trò rất quan trọng trong các hoạt động liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, chính sách thuế nhập khẩu đã và đang không chỉ là mối quan tâm của
các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, của các nhà nghiên cứu mà còn của cả
các doanh nghiệp và đông đảo quần chúng nhân dân. Kể từ khi chuyển cơ chế quản lý
kinh tế theo hướng thị trường thì việc thay đổi trong chính sách thuế nhập khẩu luôn
có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu và tình hình kinh doanh của các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.Việc tăng thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt
hàng có thể làm hạn chế việc nhập khẩu mặt hàng đó, ảnh hưởng không tốt tới hoạt
động nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc ngược lại khi giảm thuế
suất thuế nhập khẩu thì sẽ khuyến khích việc nhập khẩu hàng hóa của các doanh
nghiệp này.
Công ty CPĐT & DV ôtô Việt Nam được thành lập từ năm 2004, là thành viên
của Viện máy bộ công nghiệp Việt Nam. Công ty ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
ngày càng đa dạng của thị trường xe hơi trong nước, đặc biệt là dòng xe nhập khẩu cao


cấp đến từ thị trường Mỹ, Nhật, Trung Đông Công ty chuyên kinh doanh các dòng
xe du lịch cao cấp của TOYOTA và HONDA nhập khẩu nguyên chiếc mới 100%.
Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường ngày càng lớn và chứng minh được sự
lớn mạnh của công ty, năm 2008 Công ty thành lập thêm trung tâm TOYOTA nhập
khẩu tại TP HCM, đưa thương hiệu VautoClub đến mọi miền trên toàn quốc. Năm
2009, Công ty tiếp tục thành lập thêm trung tâm kinh doanh xe ôtô đã qua sử dụng tại
Hà Nội giúp cho khách có thể lựa chọn được những sản phẩm tốt nhất làm khách hàng
hài lòng nhất. Ngoài hoạt động nhập khẩu và kinh doanh buôn bán xe hơi đã mang lại
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

2
Trường Đại học Thương Mại
rất nhiều thành công cho Công ty thì hiện nay Công ty còn mở rộng kinh doanh thêm
một số nghành nghề khác như: Dịch vụ vận chuyển hành khách, vận tải hàng hóa;
Dịch vụ cho thuê xe ô tô các loại; Dịch vụ sửa chữa, bảo trì xe gắn máy, xe ô tô các
loại; Tư vấn, đào tạo, dạy nghề trong lĩnh vực ô tô xe máy; Dịch vụ lữ hành nội địa, lữ
hành quốc tế; Buôn bán thiết bị, vật tư nghành viễn thông; Lắp đặt, sửa chữa, bảo
dưỡng, bảo hành thiết bị viễn thông; Xây dựng, lắp đặt các công trình viễn thông; Đại
lý kinh doanh thiết bị bưu chính viễn thông
Như chúng ta đều biết, ô tô nhập khẩu là một mặt hàng đang được ưa chuộng và
theo dự báo là sẽ có nhu cầu vô cùng lớn trong những năm tới. Nhưng cũng giống
nhiều doanh nghiệp kinh doanh ô tô khác, đó là một trong những thuận lợi và cũng là
thách thức đối với Công ty. Trong quá trình kinh doanh thì Công ty luôn gặp nhiều
khó khăn do biến động của thị trường thế giới, khủng hoảng tài chính, tỷ giá hối đoái
thay đổi, sự cạnh tranh của các công ty trong nước và đặc biệt là chính sách thuế
nhập khẩu ô tô của nước ta luôn thay đổi liên tục chính là một vấn đề khó cho doanh
nghiệp trong quá trình nhập khẩu và kinh doanh ô tô. Qua quá trình thực tập tại Công
ty cổ phần đầu tư và dịch vụ ô tô Việt Nam, nghiên cứu, khảo sát và tìm hiểu hoạt
động kinh doanh của công ty cùng với những tình hình thực tiễn em thấy rằng hoạt

động nhập khẩu ô tô của công ty bị tác động quá lớn bởi chính sách thuế nhập khẩu
của nhà nước. Vì vậy mà em đã chọn đề tài “ Ảnh hưởng của chính sách thuế nhập
khẩu tới hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị trường Nhật Bản của Công ty cổ phần và
đầu tư dịch vụ ô tô Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. Em hy vọng
đề tài này sẽ góp phần hoàn thiện hơn các chính sách về thuế nhập khẩu ô tô nhằm
khuyến khích hoạt động nhập khẩu.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài.
Thuế nhập khẩu là một trong những vấn đề rất được quan tâm trong nền kinh tế,
đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, đang từng bước hoà nhập
vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Ở nước ta, quá
trình cải cách chính sách thuế nhập khẩu trong thời gian qua đã tác không chỉ tác động
đến nền kinh tế mà còn trực tiếp tác động tới hoạt động nhập khẩu của các doanh
nghiệp.Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là cần nhận định đúng vai trò và ảnh hưởng của
thuế nhập khẩu, tìm hiểu thực trạng của chính sách thuế nhập khẩu hiện nay và các
nhân tố ảnh hưởng tới nó đồng thời tìm hiểu thực trạng tình hình kinh doanh của
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

3
Trường Đại học Thương Mại
doanh nghiệp để thấy được những ảnh hưởng to lớn của thuế nhập khẩu. Từ những
nhận định này, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa to lớn khi nghiên cứu về chính sách thuế
nhập khẩu và những tác động của nó đối với nhập khẩu ô tô nói riêng và nhập khẩu
các mặt hàng khác nói chung nên em chọn đề tài : “ Ảnh hưởng của chính sách thuế
nhập khẩu đến hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị trường Nhật Bản ”
1.3. Các mục tiêu nghiên cứu.
- Đối với nhà nước:
Thông qua việc nghiên cứu về thuế nhập khẩu cùng với thực tiễn điều hành chính
sách về thuế nhập khẩu ở Việt Nam nhằm khẳng định ảnh hưởng lớn của thuế nhập
khẩu đến các hoạt động của nền kinh tế nước ta. Quá trình nghiên cứu còn giúp chúng

ta nêu lên thực trạng của chính sách thuế nhập khẩu hiện nay của Nhà nước, những mặt
đạt được và chưa đạt được. Để từ đó đưa ra các giải pháp đối với nhà nước nhằm hoàn
thiện chính sách thuế nhập khẩu và những dự báo ảnh hưởng của chính sách thuế nhập
khẩu trong thời gian tới để hạn chế những ảnh hưởng này.
- Đối với Công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ ô tô Việt Nam:
Nghiên cứu, phân tích hoạt động nhập khẩu, tình hình kinh doanh của công ty và
sự biến động của thuế nhập khẩu ô tô mà Công ty nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản để
đánh giá mức độ ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu đến hoạt động nhập khẩu
và kinh doanh của Công ty. Từ đó sẽ giúp Công ty né tránh, khắc phục đồng thời tìm ra
các giải pháp nhằm hạn chế ở mức thấp nhất các tác động tiêu cực mà thuế nhập khẩu
gây ra cho Công ty.
1.4. Phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu:
Công ty CP đầu tư và dịch vụ ô tô Việt Nam kinh doanh trên khả nhiều lĩnh vực
nhưng mặt hàng ô tô nhập khẩu là một măt hàng chính đã đem lại rất nhiều thành công
cho Công ty và đây cũng chính là mặt hàng mà Công ty bị ảnh hưởng nhiều nhất của
thuế nhập khẩu. Do đó em tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách thuế
nhập khẩu nói chung và mặt hàng ô tô nhập khẩu nói riêng.
- Khách thể nghiên cứu:
Chủ yếu nghiên cứu về ô tô nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản và tập trung vào dòng
xe du lịch là chính.
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

4
Trường Đại học Thương Mại
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi không gian là Công ty
CP đầu tư và dịch vụ ô tô Việt Nam, tập trung nghiên cứu thuế nhập khẩu ô tô mà
Công ty nhập từ thị trường Nhật Bản.

+ Phạm vi thời gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong thời gian khoảng
3 năm từ năm 2007 – 2009.
1.5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ
hình vẽ, tài liệu tham khảo, các phụ lục, đề tài luận văn được thể hiện chủ yếu ở 4
chương:
- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài.
- Chương 2: Một số lý luận cơ bản về chính sách thuế nhập khẩu.
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng ảnh
hưởng của chính sách thuế nhập khẩu đến hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị trường Nhật
Bản của Công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ ô tô Việt Nam.
- Chương 4: Các kết luận và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế
nhập khẩu tới hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị trường Nhật Bản của Công ty cổ phần
đầu tư và dịch vụ ô tô Việt Nam.
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

5
Trường Đại học Thương Mại
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP
KHẨU
2.1. Một số khái niệm cơ bản.
2.1.1. Khái niệm, vai trò của thuế
 Khái niệm thuế
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và các pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp
thuế.
Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do
chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và Pháp luật.

 Vai trò của thuế
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại các thu nhập theo đường lối xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ nước
ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua bán sòng
phẳng”,“có vay, có trả”, thuế phải là công cụ quan trọng góp phần tích cực giảm bội
chi ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề
cho việc phát triển đất nước lâu dài. Vì vậy, thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu,
một bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh.
- Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc thuế, việc
xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm,
phương pháp quản lý thu thuế dựa trên cơ sở hạch toán kế toán đầy đủ, chính xác, thuế
là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội thể hiện trên hai mặt:
khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết làm ăn có hiệu quả;
đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất, hạn
chế tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí. Thuế còn khuyến khích việc bỏ
vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Thuế góp phần khuyến khích khai
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

6
Trường Đại học Thương Mại
thác nguyên liệu, vật tư trong việc tranh thủ vốn hợp tác của nước ngoài để phát triển
kinh tế hàng hóa, không ngừng nâng cao khả năng tích lũy, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
và xuất khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước. Thuế thúc đẩy mở rộng thị trường một cách
lành mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng hóa, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng
vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu cơ tích trữ để hưởng chênh lệch giá.
- Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế

Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng trong
làm nghĩa vụ và quyền lợi. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính
sách động viên giống nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ với mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi cho bất
cứ đối tượng nào. Thuế kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đầu tư
vốn, đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách chính đáng.
2.1.2. Khái niệm thuế nhập khẩu.
Theo cách nhìn nhận của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thì thuế nhập khẩu
được xem như là một chi phí vận chuyển. Nếu việc đánh thuế nhập khẩu bằng hoặc
lớn hơn chênh lệch giữa hai thị trường thì sẽ không có việc mua bán hàng hóa từ một
nước xuất khẩu đến một nước nhập khẩu.
Hay thuế nhập khẩu còn được hiểu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng
lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu.
Hay thuế nhập khẩu là thuế gián thu đánh vào hàng hóa mậu dịch hoặc phi mậu
dịch được phép nhập khẩu qua biên giới của một quốc gia.
2.1.3. Vai trò của thuế nhập khẩu
- Thuế nhập khẩu góp phần vào việc bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự
cạnh tranh của các hàng hóa nhập khẩu. Bảo hộ lợi thế cạnh tranh của hàng hóa nội
địa chính là đặc điểm nổi bật của thuế nhập khẩu.
- Theo dõi trên đồ thị ta nhận thấy:
Tại điểm cân bằng O do chưa có sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập, mức giá của
hàng nội địa là P0 và nhu cầu tiêu dùng đối với loại hàng hóa này là HQ0. Do sự chênh
lệch về lợi thế phân bổ nguồn lực, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý Một
số quốc gia có khả năng sản xuất cùng mặt hàng nói trên có chất lượng tương đương
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

7

Trường Đại học Thương Mại
hoặc cao hơn nhưng với chi phí sản xuất thấp hơn và giá bán sản phẩm này trên thị
trường thế giới là H << P0 . Nếu hàng hóa này được tự do nhập khẩu vào thị trường nội
địa mà không có sự tác động của thuế nhập khẩu. Khi đó, mức giá của hàng nhập khẩu
thấp hơn nhiều so với mức giá hàng nội địa, do giá hạ nên nhu cầu sẽ tăng nên HD =
HQ0 + Q0D. Dù nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên nhưng thị phần của các nhà sản
xuất hàng hóa trong nước bị thu hẹp do sự cạnh tranh về giá của hàng ngoại nhập, sản
xuất nội địa chỉ chiếm được thị phần HG < HQ0 , phần còn lại GD sẽ do các nhà cung
cấp hàng ngoại nhập chiếm giữ. Như vậy, do sự cạnh tranh về giá của hàng ngoại nhập
khiến cho người tiêu dùng chuyển sang lựa chọn hàng ngoại nhập thay vì tiêu dùng
hàng nội địa như trước đây. Sự cạnh tranh tự do này buộc các nhà sản xuất nội địa phải
tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất, giảm giá bán từ P0 xuống H, chỉ một số rất ít nhà
sản xuất có khả năng làm được điều này, phần lớn các nhà sản xuất nội địa sẽ phải phá
sản do không đủ năng lực cạnh tranh. Có thể nói rằng mặt hàng ngoại nhập với sự
cạnh tranh tuyệt đối về giá đã bóp chết ngành sản xuất trong nước.
Hình 1: Bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với nền sản xuất trong nước trước sự cạnh
tranh của hàng nhập khẩu.
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

O
C
D
F
B Q0
G
Cầu
Cung
P
(Giá)

P0
A
H
8
Q (Lượng)
Trường Đại học Thương Mại
Lúc này, Nhà nước với vai trò người bảo hộ sản xuất nội địa sẽ dùng chính sách
thuế nhập khẩu để hạn chế đến mức thấp nhất những thiết hại do hàng ngoại nhập gây
ra cho nhà sản xuất nội địa. Một khoản thuế nhập khẩu T sẽ được áp dụng lên mặt
hàng này. Mức thuế nhập khẩu T cao hay thấp tùy thuộc vào từng mặt hàng cũng như
mức độ bảo hộ sản xuất nội địa của nhà nước với ngành nghề đó. Nhà nước có thể quy
định mức thuế nhập khẩu rất cao để ngăn cản hoàn toàn hàng ngoại nhập, bảo hộ tuyệt
đối sản xuất nội địa. Cũng có khả năng mức thuế này chỉ giao động ở mức vừa phải để
ngăn cản tương đối hàng ngoại nhập, bảo hộ có giới hạn đối với sản xuất nội địa. Thuế
nhập khẩu T có tác dụng làm tăng giá bán hàng ngoại nhập từ H tăng lên A. Giá bán
hàng ngoại nhập tăng lên làm cho nhu cầu đối với hàng ngoại nhập giảm đi, ngược lại
người tiêu dùng sẽ tìm đến với hàng nội địa nhiều hơn. Do tăng giá nhu cầu đối với
mặt hàng này sẽ giảm xuống đến AC < HD. Tuy nhiên thì nhu cầu tiêu dùng hàng nội
địa sẽ tăng lên đến AB > HG, đồng thời nhu cầu tiêu dùng hàng ngoại nhập lai giảm
xuống BC < GD. Nhà sản xuất nội địa có điều kiện mở rộng thị phần, mở rộng quy mô
sản xuất và thiệt hại đối với ngành sản xuất mặt hàng này sẽ ít hơn trong trường hợp
không có sự tác động của thuế nhập khẩu.
- Huy động nguồn lực tài chính, cân đối ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn từ
năm 5 năm từ 2005- 2008, nghành hải quan luôn đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách,
góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ Tài Chính. Số thu năm
sau luôn cao hơn năm trước, cụ thể: năm 2005 đạt 52.000 tỷ đồng, năm 2006 đạt
58.000 tỷ đồng, năm 2007 đạt 69.900 tỷ đồng, năm 2008 đạt 84.500 tỷ đồng ( tốc độ
tăng doanh thu bình quân hàng năm 20% )
- Là công cụ thực hiện chính sách thị trường như chống lại các hành vi phá giá
bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị

trường hay hạn chế nhập khẩu cac mặt hàng xa xỉ phẩm, đi ngược các truyền thống
văn hóa dân tộc từ đó sẽ hướng tiêu dùng trong nước theo những mục tiêu nhất định.
- Thể hiện quyền lực chính trị, vị thế của quốc gia trong mối quan hệ thương mại
song phương, đa phương, góp phần thúc đẩy tự do hóa thương mại.
2.1.4. Khái niệm về chính sách thuế nhập khẩu.
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

9
Trường Đại học Thương Mại
Chính sách thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách kinh
tế nói chung, chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng của một quốc gia Nhiệm vụ cơ bản
của chính sách thuế nhập khẩu là điều tiết nhập khẩu. Từ đó điều tiết thị trường. Đồng
thời là biện pháp quan trọng nhất để quản lý hoạt động ngoại thương, góp phần thực
hiện chính sách kinh tế đối ngoại, đảm bảo an toàn về kinh tế và công nghệ của đất
nước, giải quyết các mục tiêu kinh tế, tài chính và thương mại.
Có thể nói rằng chính sách thuế nhập khẩu là tổng hòa các phương hướng của
nhà nước ở từng giai đoạn trong lĩnh vực thuế nhập khẩu và các biện pháp để đạt được
mục tiêu đã định. Chính sách thuế nhập khẩu thể hiện đường lối và phương hướng
động viên thu nhập trong nền kinh tế quốc dân dưới hình thức thuế nhập khẩu. Chính
sách thuế nhập khẩu được thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong
lĩnh vực nộp thuế nhập khẩu, danh mục và biểu thuế nhập khẩu, xác định mức thuế và
các ưu đãi về thuế nhập khẩu trong từng giai đoạn nhất định.
2.2. Một số lý thuyết về chính sách thuế nhập khẩu.
2.2.1. Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ để
hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài
khóa có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu của chính phủ và thuế. Chi tiêu của chính phủ
có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô của chi tiêu công cộng, do đó có thể tác động trực
tiếp đến tổng cầu và sản lượng.

Chính sách tài khóa là các chính sách của chính phủ nhằm tác động lên định
hướng phải triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và
thuế khóa. Chính sách tài khóa đối lập với những chính sách kinh tế cơ bản khác như
chính sách tiền tệ, đó là chính sách nhằm ổn định nền kinh tế bằng cách kiểm soát tỉ lệ
lãi suất và nguồn cung tiền. Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của
chính phủ và hệ thống thuế. Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi
tiêu của chính phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số sau trong nền kinh tế:
+ Tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

10
Trường Đại học Thương Mại
+ Kiểu phân bổ nguồn lực
+ Phân phối thu nhập
Chính sách tài khóa liên quan đến tác động tổng thể của ngân sách đối với hoạt
động kinh tế. Có các loại chính sách tài khóa điển hình là trung lập, mở rộng, và thu
gọn.
- Chính sách trung lập: là chính sách cân bằng ngân sách khi đó G = T (G: chi
tiêu chính phủ, T: thu nhập từ thuế). Chi tiêu của chính phủ hoàn toàn được cung cấp
do nguồn thu từ thuế và nhìn chung kết quả có ảnh hưởng trung tính lên mức độ của
các hoạt động kinh tế.
- Chính sách tài khóa mở rộng: là chính sách tăng cường chi tiêu của chính phủ
(G > T) thông qua chi tiêu chính phủ tăng cường hoặc giảm bớt nguồn thu từ thuế hoặc
kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách nặng nề hơn hoặc thặng dư ngân
sách ít hơn nếu trước đó có ngân sách cân bằng.
- Chính sách tài khóa thu hẹp: là chính sách trong đó chi tiêu của chính phủ ít đi
thông qua việc tăng thu từ thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn
đến thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn lên so với trước đó, hoặc
thặng dư nếu trước đó có ngân sách cân bằng.

2.2.2. Chính sách kinh tế đối ngoại.
Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái
cân bằng, các quy định về hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp
tài chính, tiền tệ khác, tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu.
Chính sách kinh tế đối ngoại là nhằm ổn định tỷ giá hối đoái và giữ cho thâm hụt
cán cân ngân sách ở mức có thể chấp nhận được. Các quy định về thuế quan, bảo hộ
mậu dịch, quota nhằm khuyến khích hoặc hạn chế xuất nhập khẩu khẩu. Còn các
chính sách về thị trường ngoại hối lại dựa vào việc chủ động thay đổi tỷ giá hối đoái
để tác động vào các hoạt động của nền kinh tế.
2.2.3. Công cụ của chính sách thuế nhập khẩu.
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

11
Trường Đại học Thương Mại
Thuế nhập khẩu được coi như là công cụ bảo hộ mậu dịch. Thuế nhập khẩu được
tính toán dưa vào công thức: Thuế NK phải nộp = ( Số lượng hàng hóa NK ) x ( Giá
tính thuế đơn vị từng mặt hàng ) x ( Thuế suất thuế nhập khẩu từng mặt hàng ).
Nhìn vào cách tính toán thuế nhập khẩu chúng ta có thể thấy được các công cụ
hình thành nên chính sách thuế nhập khẩu ở nước ta. Đó là số lượng hàng hóa NK vào
nước ta, giá tính thuế, thuế suất và biểu thuế.
*Số lượng hàng hóa nhập khẩu: làm căn cứ tính thuế, nó là số lượng từng mặt
hàng thực tế nhập khẩu.
* Giá tính thuế: là giá thực tế phải trả tính trên cửa khẩu nhập đầu tiên và được
xác định theo hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO. Hiệp định xác định về giá tính
thuế hải quan nêu lên 1 phương pháp chuẩn và 5 phương pháp thay thế ( sử dụng trong
trường hợp không áp dụng phương pháp chuẩn )
- Phương pháp tính chuẩn: Trị giá hàng hoá được sử dụng để tính thuế nhập
khẩu là giá thực trả hoặc giá sẽ phải trả khi hàng hoá được bán từ nước xuất khẩu sang
nước nhập khẩu (gọi là giá giao dịch). Nói cách khác, giá sử dụng để tính thuế sẽ là giá

ghi trên hợp đồng mua bán ngoại thương, trên hoá đơn bán hàng. Mức giá này có thể
được điều chỉnh cộng thêm một số loại chi phí hợp lý.
- Các phương pháp tính thay thế là các phương pháp xác định giá tính thuế thay
thế khi hải quan quyết định không áp dụng phương pháp chuẩn (tức là không thừa
nhận giá giao dịch làm giá tính thuế hải quan).
Bao gồm:
- Trị giá giao dịch của các hàng hoá giống hệt;
- Trị giá giao dịch của hàng hoá tương tự;
- Trị giá khấu trừ;
- Trị giá tính toán;
- Một phương pháp hợp lý (trong trường hợp cả 4 phương pháp trên đều
không sử dụng được)
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

12
Trường Đại học Thương Mại
*Thuế suất thuế nhập khẩu và biểu thuế: Theo luật thuế nhập khẩu được sửa
đổi và có hiệu lực từ này 1/1/1999 thì thuế suất thuế nhập khẩu có 3 mức:
- Thuế suất thuế ưu đãi: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi được quy định cụ thể cho từng mặt hàng
tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do Bộ tài chính ban hành.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước đã có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam
theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan Thuế suất ưu đãi đặc biệt
được áp dụng cụ thể cho từng mặt hàng theo quy định trong thỏa thuận.
- Thuế suất thông thường: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không có thỏa thuận về thực đối xử tối huệ quốc
trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất thông thường được quy định cao

hơn thuế suất ưu đãi từng mặt hàng và bằng 150% thuế suất ưu đãi.
Biểu thuế nhập khẩu có tên gọi là Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, áp dụng đối với
hàng hóa nhập khẩu. Biểu thuế được chia thành từng chương, mỗi chương được chia
thành từng nhóm và mỗi nhóm được chia thành từng phân nhóm, thậm chí còn được
chia thành từng loại hàng hóa. Việc sửa đổi danh mục biểu thuế nhập khẩu theo hệ
thống thống nhất trong mô tả hàng hóa của Tổ chức Hải quan thế giới là một bước tiến
quan trọng theo hướng tạo lập sự rõ ràng cho việc áp dụng chính sách thuế nhập khẩu
ở Việt Nam.
2.3. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu về chính sách thuế nhập khẩu.
Sau khi tìm hiểu các vấn đề trong đề tài nghiên cứu em nhận thấy có một số công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài có thể kể ra như:
- Một số giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong quá trình hội
nhập ở nước ta – Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thu Hà lớp K35F1.Luận
văn đã đề cập khá đầy đủ và chi tiết các lý thuyết về thuế xuất nhập khẩu, vai trò của
thuế xuất nhập khẩu, tác động của thuế xuất nhập khẩu, thực trạng của chính sách thuế
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

13
Trường Đại học Thương Mại
xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay. Từ đó cho chúng ta thấy được sự cần thiết phải
hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu và các giải pháp để hoàn thiện nó trong
điều kiện hội nhập.
- Ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu đến hoạt động nhập khẩu phụ gia
cho sản xuất bê tông ở nước ta hiện nay. Thực trạng và giải pháp – Luận văn tốt
nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Dung A lớp K41F1. Luận văn đã tập trung nghiên
cứu các lý thuyết về thuế, thuế nhập khẩu, thực tế ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đến
mặt hàng phụ gia cho sản xuất bê tông ở nước ta hiện nay và đưa ra giải pháp hạn chế
những ảnh hưởng này.
- Ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu đến hiệu quả kinh doanh các mặt

hàng điện tử nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản – Luận văn tốt nghiệp của sinh viên
Lương Thùy Ninh lớp K41F3. Trong luận văn tác giả đã làm rõ nét các vấn đề lý luận
cơ bản về thuế như khái niệm, bản chất và chức năng của thuế. Tác giả cũng đã nghiên
cứu và làm rõ thế nào là thuế nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh, chính sách thuế nhập
khẩu, nội dung của nó bao gồm những gì? Đưa ra các ảnh hưởng của thuế nhập khẩu
tới nền kinh tế và các doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng điện tử. Từ đó đưa ra các định
hướng của chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu và định hướng
kinh doanh của doanh nghiệp.
Thuế nhập khẩu và các chính sách về thuế nhập khẩu đã có khá nhiều các công
trình nghiên cứu. Các công trình này cũng đã đề cập khá nhiều tới thuế nhập khẩu, các
chính sách của thuế nhập khẩu và các ảnh hưởng của chính sách này tới nền kinh tế,
tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên với một góc độ
tiếp cận hoàn toàn mới mẻ cộng với việc đi sâu vào nghiên cứu mặt hàng ô tô, là một
mặt hàng chịu ảnh hưởng vô cùng lớn của thuế nhập khẩu, thì đề tài: “ Ảnh hưởng của
chính sách thuế nhập khẩu tới hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị trường Nhật Bản của
Công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ ô tô Việt Nam” là một đề tài có tính thời sự và phù
hợp với định hướng phát triển của ngành công nghiệp ô tô và xu thế phát triển của
nước ta hiện nay. Đề tài không chỉ đi sâu nghiên cứu các lý thuyết về thuế nhập khẩu,
chính sách thuế nhập khẩu, các công cụ của chính sách thuế nhập khẩu mà còn đưa ra
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

14
Trường Đại học Thương Mại
được các ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu đến mặt hàng ô tô và một số giải
pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu ô tô.
2.4. Phân định nội dung nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu
đến hoạt động nhập khẩu.
2.4.1. Nguyên tắc cơ bản khi xây dựng chính sách thuế nhập khẩu.
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao đổi

hàng hóa giữa các quốc gia ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia đều cố gắng xây dựng
cho mình một hệ thống thuế phù hợp nhằm đối phó với những biến động trên thị
trường trong nước và quốc tế. Chính vì vậy mà khi xây dựng chính sách thuế nói riêng,
chính sách thuế nhập khẩu nói chung cần phải đảm bảo:
* Mục tiêu của chính sách thuế nhập khẩu:
- Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động xuất, nhập
khẩu, phù hợp với chính sách mở cửa, phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà
nước trong xu thế tự do hóa kinh tế quốc tế, bảo đảm điều hành toàn bộ hoạt động
nhập khẩu một cách linh hoạt, có hiệu quả.
- Thông qua chính sách thuế nhập khẩu đảm bảo kết hợp hài hòa và phát huy khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới với yêu cầu
bảo vệ và hỗ trợ nền sản xuất trong nước. Đồng thời thông qua thuế nhập khẩu nhằm
định hướng tăng cường nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật cao nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp sản xuất trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm Bên cạnh đó chính sách thuế nhập khẩu góp phần hạn chế nhu cầu
tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt đối với những hàng hóa mà trong nước đã sản
xuất được.
- Thuế nhập khẩu phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập nền kinh tế
nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới, thực hiện các cam kết song phương và đa
phương.
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

15
Trường Đại học Thương Mại
- Thực hiện yêu cầu động viên nguồn thu từ thuế nhập khẩu vào ngân sách Nhà
nước, cải thiện cơ cấu nguồn thu trong điều kiện nền kinh tế hội nhập khu vực và quốc
tế
* Các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng chính sách thuế nhập khẩu:
Nguyên tắc thứ 1: Chính sách thuế nhập khẩu phải hướng tới tính trung lập, rõ

ràng, minh bạch phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nguyên tắc thứ 2: Chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo bảo hộ chính đáng
sản xuất trong nước, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa.
Nguyên tắc thứ 3: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu phải hướng tới hiệu quả
của thuế.
2.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thuế nhập khẩu.
* Mục tiêu của một nền kinh tế phát triển là:
- Tạo ra sản lượng cao, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân.
- Đạt tỷ lệ người có công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp.
- Đảm bảo ổn định giá cả trong điều kiện thị trường tự do hoạt động.
Để đạt được mục tiêu trên, Nhà nước phải sử dụng các công cụ bằng các chính
sách có thể điều chỉnh tốc độ và phương hướng của hoạt động kinh tế. Quá trình thực
hiện các chính sách của Nhà nước đều có những ảnh hưởng đến chính sách thuế nhập
khẩu.
* Chính sách tài khóa: bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế khóa. Chi tiêu của
chính phủ là một nhân tố then chốt định mức tổng chi tiêu.Khi nhà nước thực hiện một
chính sách tài chính bành trướng (tăng chi tiêu của Chính phủ và giảm thuế) sẽ ảnh
hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng
đến hoạt động xuất nhập khẩu, điều này dẫn đến cần có sự điều chỉnh về thuế xuất
nhập khẩu. Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu, đường cầu dịch
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

16
Trường Đại học Thương Mại
chuyển về bên phải, kết hợp với việc chính phủ giảm thuế, làm cho thu nhập nhiều hơn
được sẵn sàng dùng để chi tiêu và làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu dùng trong nền
kinh tế. Lúc này cầu về hàng hóa dich vụ là vô cùng lớn, hàng hóa trong nước chưa
chắc đủ cung cấp, nhà nước cần điều chỉnh về chính sách thuế nhập khẩu để đảm bảo
cân bằng cung cầu trên thị trường.

* Chính sách thu nhập: đó là chính sách về giá cả và tiền lương. Nếu mức giá cả
giảm mà cung tiền tệ không thay đổi, giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá trị thực tế tăng,
bởi vì nó có thể dùng để mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Do vây cũng như ảnh
hưởng của việc tăng chi tiêu của Chính phủ, điều này cũng ảnh hưởng đến chính sách
thuế nhập khẩu Ngược lại một mức giá cao hơn, giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá cả
thực tế giảm, nhu cầu tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ giảm. Điều này khiến Nhà
nước cũng phải xem xét điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu để bảo hộ nền sản xuất
trong nước. Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của chi phí sản xuất là chi phí tiền
lương, khi tiền lương tăng làm chi phí sản xuất tăng, làm giảm lợi nhuận theo đơn vị
sản phẩm tại một mức giá cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm.
* Chính sách tỷ giá: bao gồm các biện pháp liên quan đến việc hình thành quan
hệ về sức mua giữa tiền của nước này so với một ngoại tệ khác, nhất là đối với các
ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.Tỷ giá sẽ tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh
và xuất nhập khẩu hàng hóa của một nước. Khi nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm
tăng giá của hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng
hóa trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu tư giảm Khi tỷ giá ngoại tệ
giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu, nền công nghiệp trong nước có
thể bị sự cạnh tranh của nước ngoài tăng lên, kích thích nhập khẩu. Điều này có thể sẽ
bóp chết nền sản xuất trong nước. Như vậy, khi có sự thay đổi về tỷ giá hối đoái thì
Nhà nước cũng cần phải có những xem xét và điều chỉnh hợp lý cho chính sách thuế
nhập khẩu .
* Ngoài các chính sách của nhà nước có ảnh hưởng đến thuế nhập khẩu thì thì
việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương ( APEC ), Khu vực mậu dịch tự do Asean ( AFTA ) thì
những sự thay đổi về hàng rào thuế quan là không thể tránh khỏi. Chúng ta phải thực
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

17
Trường Đại học Thương Mại

hiện các cam kết khi gia nhập các tổ chức này. Đây cũng là một trong những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến chính sách thuế nhập khẩu ở nước ta.
2.4.3. Ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu.
 Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế.
- Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi nhưng
người tiêu dùng bị thiệt hại vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức giá thế giới
lên bằng với giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động của thuế
nhập khẩu:
.
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

S (cung)
D (cầu)
Giá thế giới
cộng thuế quan
Giá thế giới
A B C
D
EF
P1
P2
Doanh thu
thuế quan
t:thuế
quan
18
P (giá)
Q (sản lượng)
Q1

Q2 Q3 Q4
0
Trường Đại học Thương Mại
Hình 2: Tác động của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế
- Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng
muốn mua một số lượng Q4 hàng hoá ở mức giá thế giới trong khi những nhà sản xuất
trong nước chỉ sản xuất một số lượng Q1 ở mức giá thế giới P1. Bằng cách nhập khẩu
phần thiếu hụt (chênh lệch giữa Q4 và Q1) ở mức giá thế giới P1, người tiêu dùng có thể
thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở mức giá này.
- Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước bị
tăng lên đến mức bằng giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu ( từ P1 lên P2 với P2 = P1 +
t ) đã kích thích những nhà sản xuất trong nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất
trong nước từ Q1 lên Q2. Tuy nhiên do giá tăng nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ
Q4 xuống Q3. Rõ ràng việc giá bị đẩy lên cao đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm
một khoản tiền bằng diện tích của hình chữ nhật CP1P2E để mua số lượng hàng Q3.
Khoản trả thêm này một phần (bằng diện tích hình BCEF) được chuyển cho chính phủ
dưới dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng diện tích hình FAP1P2) được
chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai phần này không làm
thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên phần diện tích hình ABF đã bị mất
trắng, đây chính là tổn thất của xã hội để chi phí cho sự yếu kém của những nhà sản
xuất trong nước. Diện tích hình ECD lại là một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của
người tiêu dùng bị giảm sút: thay vì có thể tiêu thụ Q4 hàng hoá, do có thuế nhập khẩu
họ chỉ có thể tiêu dùng Q3 mà thôi.
- Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng
sang chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của toàn
xã hội. Do những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất phi hiệu quả trong nước, làm
cho người tiêu dùng giảm sút độ thoả dụng do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra
nguồn thu cho chính phủ.
 Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu tới hoạt động nhập khẩu của các doanh
nghiệp nhập khẩu.

Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

19
Trường Đại học Thương Mại
Giả sử các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa X. Khi chính phủ chưa đánh thuế nhập
khẩu thì tại mức giá P1 sẽ ứng với sản lượng hàng hóa nhập khẩu là Q1 và chúng được
xác định bởi đường cầu Dx và đường cung Sx. Lúc này chúng ta sẽ đi xem xét ảnh
hưởng của thuế nhập khẩu tới hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Trường hợp 1: Khi thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa X tăng ( hình 1) làm giá
nội địa tăng từ P1 lên P2 đồng thời làm cho sản lượng nhập khẩu của doanh nghiệp
giảm từ Q1 xuống Q2, đường cung của hàng hóa X dịch chuyển song song sang trái từ
Sx sang S’x. Khi đó các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa X muốn nhập khẩu một
khối lượng hàng hóa đúng bằng khối lượng hàng hóa NK khi chưa đánh thuế thì sẽ
phải bỏ ra với chi phí lớn hơn chi phi khi chưa đánh thuế. Điều này sẽ khiến cho doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo nguồn hàng đầu vào của mình. Nếu
doanh nghiệp không có những biện pháp ứng phó kịp thời sẽ làm cho quá trình sản
xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn do đầu vào không ổn định.
Trường hợp 2: Khi thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa X giảm ( hình 2 ) làm giá của
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

P
S’x
x
Dx
P
0 0Q
P
Sx

Sx
S’x
x
Dx
A
B
Q2
Q1
Q1
Q2
P2
P1
A
B
Hình 1: Thuế NK tăng
Hình 2: Thuế NK giảm
Q
20
P2
P1
Trường Đại học Thương Mại
hàng hóa X giảm từ P1 xuống P2 đồng thời làm cho sản lượng nhập khẩu của doanh
nghiệp tăng từ Q1 lên Q2, đường cung của hàng hóa X dịch chuyển song song sang
phải từ Sx sang S’x . Khi đó, để nhập khẩu một khối lượng hàng hóa X đúng bằng
khối lượng này khi chưa giảm thuế nhập khẩu thì doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra với chi
phí ít hơn. Điều này sẽ kích thích hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, tăng nguồn
cung cho đầu vào, kích thích hoạt động sản xuất và kinh doanh.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ PHÂN
TÍCH THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU
ĐẾN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Ô TÔ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ

VÀ DỊCH VỤ Ô TÔ VIỆT NAM.
3.1. Phương pháp hệ nghiên cứu.
3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu.
Có rất nhiều phương pháp để thu thập dữ liệu, nhưng qua quá trình thực tập tại Công
ty CPĐT & DV ô tô Việt nam cùng với thực tế nghiên cứu, tìm tòi tham khảo thì để
hoàn thành việc nghiên cứu đề tài này em đã sử dụng hai phương pháp thu thập dữ
liệu:
Một là, phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua phát phiếu điều tra trắc
nghiệm và phiếu phỏng vấn chuyên sâu;tiến hành phỏng vấn các chuyên gia, đối tượng
chủ yếu là Phó tổng giám đốc, giám đốc, trưởng phòng của công ty Cổ phần đầu tư và
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

21
Trường Đại học Thương Mại
dịch vụ ô tô Việt Nam, từ đó tổng hợp các ý kiến của các chuyên gia về ảnh hưởng của
chính sách thuế nhập khẩu đến hoạt động nhập khẩu ô tô từ thị trường Nhật Bản, về tình
hình chính sách thuế nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua và từ đó sẽ kết hợp với
việc khảo sát tìm hiểu thực tế đưa ra những nhận định đúng đắn và phù hợp.
Hai là, phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Thông qua thu thập thông tin về
hoạt động nhập khẩu và kinh doanh ô tô của công ty, thông qua các nguồn số liệu thu
thập được trên internet, báo và tạp chí có liên quan đến Công ty, đến chính sách thuế
nhập khẩu, biểu thuế về mặt hàng ô tô nhập khẩu
3.1.2. Phương pháp sử lý tổng hợp số liệu.
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp dựa vào các số liệu, kết quả từ các phiếu
điều tra, phỏng vấn chuyên sâu để tiến hành đánh giá, phân tích một cách khách quan.
- Phương pháp bảng biểu, đồ thị: Từ các thông tin thu thập được đã mô hình hoá các
số liệu thu thập được phục vụ phân tích các dữ liệu này.
Ngoài ra luận văn tiến hành phân tích các dữ liệu bằng phần mềm SPSS.
3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến chính

sách thuế nhập khẩu.
3.2.1. Đánh giá tổng quan tình hình hoạt động nhập khẩu ô tô và chính sách thuế
nhập khẩu của nước ta hiện nay.
 Tình hình hoạt động nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua.
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập tổ chức thươn mại quốc tế (WTO) nói riêng đã
làm cho nền kinh tế nước ta có xu hướng mở cửa. Điều này kéo theo những ảnh hưởng
tới thị trường nhập khẩu của Việt Nam.
Đơn vị: Tỷ USD
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

22
Trường Đại học Thương Mại
Nguồn: Niên giám thống kê các năm
Năm 2008: Kim ngạch nhập khẩu đạt 80,714 tỷ USD, tăng 28,5% so với năm 2007 chỉ
đạt 62,765 tỷ USD, chiếm tỷ lệ là 93,59% so với tổng sản phẩm trong nước. Nhập siêu
hàng hóa năm 2008 là 17 tỷ USD, bằng 28,8% kim ngạch xuất khẩu.
Năm 2009: Kim ngạch nhập khẩu đạt 68,83 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm
trước. Nhập siêu hàng hóa năm 2009 là 12,246 tỷ USD, bằng khoảng 21,6% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu tăng liên tục 7 tháng đầu năm 2009, sau đó
giảm khoảng 8% trong tháng 8, tiếp tục tăng trong 3 tháng sau đó, trước khi điều chỉnh
nhẹ trong tháng cuối cùng của năm.
Năm 2009 nước ta có khoảng 27 mặt hàng nhập khẩu, đa số tăng về lượng (chỉ có 3
mặt hàng giảm), nhưng số mặt hàng tăng về giá trị cũng không nhiều (9 mặt hàng).
Trong đó, nhập khẩu xăng dầu đã giảm 3,5% về lượng và giảm tới 43,8% về giá trị;
phân bón tăng 41,9% về lượng và giảm 8,4% về giá trị; sắt thép tăng 13,8% và giảm
22,9%; khí đốt hóa lỏng tăng 11,5% và giảm 24,9% Riêng về mặt hàng ô tô thì năm
2009, Việt Nam nhập khẩu khoảng 76.300 ô tô với giá trị kim ngạch nhập khẩu là
1171 triệu USD. Như vậy so với năm 2008 thì lượng ô tô nhập khẩu tăng tới 50% và

kim ngạch tăng 13%.
 Đánh giá tổng quan chính sách thuế nhập khẩu của nước ta.
Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam được hình thành vào cuối những năm 80
cùng với việc chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế. Năm 1987 ban hành pháp lệnh thuế xuất
khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Ngày 26/12/1991 ra đời luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu ( sửa đổi 5/7/1993 và 20/5/1998 ). Có thể nói là mặc dù đã từng bước được cải
cách và hoàn thiện vào những năm 1990 – 2000, nhưng chính sách thuế xuất nhập
khẩu vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải cách, sửa đổi cho phù hợp.
Từ năm 2001 đến nay chính sách thuế nhập khẩu thay đổi liên tục. Ngày 6/6/2002
chính phủ đã ban hành nghị định số 60/2002 NĐCP quy định về việc xác định giá tính
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

23
Trường Đại học Thương Mại
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu theo nguyên tắc thực hiện của GATT ( điều 7 trong
hiệp định GATT ). Theo đó giá trị hàng hóa sẽ được tính theo giá trị giao dịch phù
hợp với quy định của WTO. Giai đoạn 2001 – 2005 nước ta chủ trương chuyển quản
lý nhà nước trong lĩnh vực nhập khẩu chủ yếu bằng giấy phép và các công cụ phi thuế
quan mang tính hành chính sang quản lý bằng thuế ( quyết đinh số 46/QĐ – TTg năm
2001). Ngày 14/6/2005 Luật thuế xuất nhập khẩu được quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7
thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2006, sửa đổi bổ sung một số điều
luật thuế nhập khẩu. Sửa đổi để đảm bảo điều kiện thuận lợi đàm phán gia nhập WTO.
Năm 2007 đánh giá một mốc quan trọng đối với nền kinh tế nước ta khi Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, điều này khiến
cho chính sách thuế nhập khẩu của nước ta có những thay đổi và điều chỉnh. Ngày
3/8/2007 nước ta ban hành danh mục thuế suất đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đã
được sửa, đổi bổ sung. Ngày 26/12/2008 theo QĐ số 123/2008, chính phủ đã tiến hành
sửa đổi, bổ sung chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện hành và đưa ra danh mục thuế

suất đối với hàng hóa xuất nhập khẩu mới. Việt Nam cam kết ràng buộc mức trần cho
toàn bộ biểu thuế nhập khẩu với 10.600 dòng thuế sẽ có mức thuế bình quân giảm
khoảng 3% ( từ 17,4% còn 13,4% ). Lộ trình cắt giảm trong vòng 5-7năm kể từ thời
điểm cam kết. Đặc biệt là mặt hàng nông nghiệp đã từ lâu ta xem là mặt hàng chủ lực
của Việt Nam bị cắt giảm tương tự ( từ 23,5% xuống còn 20,9% ) trong vòng 5 năm.
Với hàng công nghiệp là từ 16,8% xuống còn 12,6% trong thời gian từ 5 - 7năm. Mức
cắt giảm bình quân thuế nhập khẩu Việt Nam tuân thủ mức cắt giảm thuế chung là
vào khoảng 27% (30% cho hàng nông sản, 24% cho hàng công nghiệp) đối với các
nước đang phát triển.
Còn theo mức cam kết cụ thể thì có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế bị cắt giảm chủ yếu
là dòng thuế suất cao trên 20% chẳng hạn như sản phẩm thịt, sữa, bia, rượu, thuốc lá,
hoặc xe ôtô, xe máy, xi măng, máy điều hoà, máy giặt trong khoảng thời gian 2-12
năm. Các mặt hàng này tới đây sẽ có được mức giá rẻ nhất so với mức giá thị trường
vào thời điểm hiện nay do đạt đến mức thuế suất cam kết thấp nhất. Tuy nhiên những
mặt hàng trọng yếu vẫn được duy trì mức bảo hộ nhất định. Ngành có mức thuế suất
được giảm nhiều nhất là dệt may, cá, sản phẩm cá, gỗ và giấy, máy móc và thiết bị
điện-điện tử. Bên cạnh đó cũng có trường hợp Việt Nam cam kết mức thuế trần cao
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

24
Trường Đại học Thương Mại
hơn mức đang áp dụng với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất và phương tiện
vận tải.
Theo cam kết cắt giảm thuế tuân thủ một số hiệp định tự do theo ngành của WTO yêu
cầu giảm thuế xuống còn 0% hoặc ở mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện nhưng các
nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Việt Nam cam kết ngành đối với
sản phẩm công nghệ thông tin , dệt may và thiết bị y tế và tham gia một phần với thời
gian thực hiện 3-5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
3.2.2. Ảnh hưởng của nhân tố môi trường tới chính sách thuế nhập khẩu.

 Môi trường bên trong
• Môi trường kinh tế
Nền kinh tế nước ta trong năm 2009 tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng
hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào
tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất nhập khẩu, thị trường vốn, thị
trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta.
Lạm phát trong năm 2009 tuy được khống chế ở mức hợp lý, nhưng nhìn chung giá cả
hàng hóa ngày càng tăng, khiến cho sức mua của người dân giảm, làm cho nhập khẩu
giảm. Để cân bằng cán cân thương mại thì nhà nước cần có những điều chỉnh giảm thuế
nhập khẩu.
Thêm vào đó là cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng khiến mức lại suất liên tục
tăng và sự xuống dốc nghiêm trọng của mức giá cổ phiếu làm cho khả năng huy động
vốn của các công ty nhập khẩu giảm. Nếu mức thuế suất quá cao sẽ làm khả năng nhập
khẩu giảm sút. Mà Việt Nam là một nước đang phát triển, nhập khẩu chủ yếu là các mặt
hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
Nếu hoạt động nhập khẩu bị ngừng trệ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế của
Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu cho phù hợp với
tình hình kinh tế và có mức thuế suất phù hợp với từng mặt hàng.
• Môi trường chính trị - luật pháp
Khi nghiên cứu về môi trường chính trị thì cần phải đi xem xét những rủi ro chính trị
mà chúng ta sẽ gặp phải. Một môi trường chính trị được đánh giá là ổn định khi chúng
ta không phải lo đến các yếu tố như việc sẽ phải sung công hay quốc hữu hóa những
tài sản của doanh nghiệp nước ngoài, nhà nước can thiệp mạnh vào quản lý ngoại hối,
hạn chế nhập khẩu và điều tiết thị trường, những phản ứng tiêu cực từ công đoàn, tập
Khoa Kinh tế Nguyễn Đình Hải – Lớp
K45F5

25

×