Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

lĩnh vực hôn nhân của pháp luật phong kiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.8 KB, 11 trang )

Trải qua 1000 năm Bắc thuộc có lẽ dấu ấn lớn nhất mà chính quyền đô hộ để
lại cho nước Đại Việt đó là mô hình tổ chức bộ máy nhà nước theo kiểu QCCC, kéo
theo đó là sự biến đổi của pháp luật để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Pháp luật
phong kiến Việt Nam đã có những thành tựu to lớn nổi bật trong đó là lĩnh vực hôn
nhân và gia đình. Quan hệ hôn nhân và gia đình có những nét độc đáo tiến bộ và có
tính chất vượt thời đại còn ảnh hưởng đến ngày nay. Bên cạnh đó còn có những điểm
hạn chế do tồn tại xã hội quyết định, quan điểm trọng nam khinh nữ. Vậy trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình của pháp luật phong kiến Việt Nam có những điểm gì tích
cực và hạn chế đó là vấn đề mà em muốn làm sáng tỏ qua bài viết này.
I. Những điểm tích cực ở lĩnh vực hôn nhân của pháp luật phong kiến
Việt Nam.
Theo quan điểm của nho giáo vai trò của gia đình là rất to lớn, trong đó hôn
nhân là một công cụ để củng cố quyền lực gia đình, dòng họ. Với hệ tư tưởng nho
giáo xây dựng gia đình phụ quyền vai trò của người đàn ông rất lớn họ là trung tâm
của mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Tuy nhiên trong lĩnh vực hôn nhân thì có
những điểm tích cực tiến bộ có tính chất vượt thời đại là do nhà làm luật đã xây dựng
trên những phong tục tập quán độc đáo của người Việt Nam phù hợp với thực tế cuộc
sống điều đó làm cho nó khác biệt với pháp luật phong kiến Trung Quốc thể hiện rõ
nhất qua QTHL.
1.Xác lập quan hệ hôn nhân.
a. Các điều kiện kết hôn
Cả hai Bộ luật đều quy định rất cụ thể điều kiện kết hôn.
- Điều kiện về sức khoẻ thể lực mới được kết hôn, QTHL quy định con trái
con gái bị ác tật đều có quyền từ hôn, con trai mà phá tán tài sản gia đình thì con gái
được quên quan trả đồ lễ mà không phải cưới (Điều 322). Những trường hợp như vậy
không phải là bội hôn không bị phân biệt đối xử như thoái hôn. Việc cho con gái
quyền từ hôn là điểm mà pháp luật phong kiến Trung Quốc không hề có.
- Tuy hôn nhân là sự ưng thuận của đôi bên gia đình, thể hiện ý chí của đôi
bên trai gái, Điều 109 HVLL quy định con trai từ 20 tuổi trở lên và con gái tái giá có
quyền tự chủ trong hôn nhân đây là điểm tiến bộ không có trong QTHL và pháp luật
phong kiến Trung Quốc.


Khi xác lập hôn nhân phải xác lập bằng văn bản làm bằng gọi là hôn thư. Pháp
luật nhà Nguyễn quy định rằng sau lễ đính hôn nếu có văn bản (hôn thư) hoặc đã trao
nhận lễ kỷ nạp thì hôn nhân có hiệu lực pháp luật. Có thể nói hứa gả con gái bằng văn
bản là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Đây là một hiện tượng
pháp luật độc đáo chỉ có ở pháp luật phong kiến Việt Nam thời Nguyễn. Ở QTHL
còn quy định những trường hợp hôn nhân cẩu thả nhưng nếu nộp phạt thì trở thành
giá thú hợp pháp nhằm hạn chế những trường hợp tiêu hủy giá thú.
b. Cấm kết hôn.
Cả hai bộ luật đều đưa ra các trường hợp cấm kết hôn, cấm các vương hầu quý
tộc, quan lại cậy thế bắt ép con gái nhà lành kết hôn với mình tại Điều 338 của QTHL
và Điều 103 của HVLL “Cấm quan cướp phụ nữ bộ dân làm thê thiếp”, tại Điều 105
còn quy định cấm cường hào cưỡng đoạt đàn bà con gái làm vợ. Việc quy định cấm
các quan, vương hầu quý tộc bắt ép dân thường kết hôn với mình là vì sợ các quan bị
chi phối về mặt tình cảm làm sao nhãng bổn phận với triều đình, hoặc ngăn ngừa sự
lộng quyền có thể đe doạ đến quyền lực của nhà Vua nhưng nó phần nào đã bảo vệ
quyền lợi của người dân, phẩm giá của người phụ nữ.
2. Quan hệ hôn nhân.
Việc kết hôn có hiệu lực làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và
chồng pháp luật chủ yếu nhìn nhận mối quan hệ này ở 2 góc độ: nhân thân và tài sản.
a. Tài sản.
Tuy ảnh hưởng của nho giáo pháp luật phong kiến Trung Quốc địa vị pháp lý
của người vợ rất thấp kém, họ không có quyền gì trong gia đình và bị ràng buộc bởi
thuyết tam tòng, nhưng QTHL đã thiết lập một chế độ tài sản tương đối bình đẳng
giữa vợ và chồng đây là điểm tiến bộ nhất so với pháp luật Trung Quốc. Quyền bình
đẳng về tài sản thể hiện qua các quyền sở hữu tài sản của vợ và chồng đối với tài sản
chung và tài sản riêng.
* Nguồn tài sản gồm có:
- Tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình nhà chồng (phu điền sản)
- Tài sản của vợ được thừa kế từ gia đình nhà vợ (thê điền sản)
- Tài sản chung do cả hai vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân (tần tảo điền

sản).
Tại các Điều 374, 375 của QTHL qui định mọi tài sản trong gia đình đều
thuộc tài sản của vợ và chồng. Vợ chồng với tư cách là cha mẹ, giữ quyền làm chủ
gia đình cũng như được hưởng các lợi tức từ tài sản trên, con cái không được hưởng
lợi tức từ tài sản đó, trừ trường hợp cha mẹ mất. Điều đặc sắc là quyền sở hữu tài
sản giữa cha mẹ và con cái độc lập khi con cái có tài sản riêng, Bộ luật đã thừa nhận
quyền sở hữu tài sản riêng giữa các thành viên trong gia đình làm cho họ có tính độc
lập và linh hoạt hơn trong các mối quan hệ giữa các thành viên. Qua đây ta thấy được
sự khác biệt rất lớn với gia đình truyền thống Trung Quốc, về quy mô gia đình rất
đông gồm nhiều thế hệ gọi là đại gia đình. Mặt khác quan hệ tài sản rất khó tách rời
quyền sở hữu giữa các thành viên trong gia đình mỗi người đều có quyền làm chủ tài
sản của gia đình. Vì vậy rất khó xác định đâu là tài sản riêng của vợ chồng trong khối
tài sản chung của gia đình. Tóm lại sự qui định rõ ràng thành phần khối lượng tài sản
giữa vợ chồng là điểm tiến bộ và độc đáo của pháp luật thời Lê mà nó còn được tiếp
thu đến ngày nay.
* Quyền sở hữu với tài sản riêng.
Trong Bộ luật thừa nhận vợ chồng đều có quyền sở hữu với tài sản riêng. Tài
sản riêng của vợ chồng là tài sản có trước khi kết hôn, được thừa kế từ gia đình mỗi
người. Đối với tài sản này vợ chồng đều có quyền sở hữu riêng, mặc dù tài sản này
được quản lý chung bởi vợ chồng và các lợi tức từ tài sản đó mang lại là tài sản
chung, nhưng tài sản này chỉ tạm thời gộp lại để vợ chồng quản lý trong thời gian
hôn nhân. Như vậy có thể hiểu tài sản riêng của vợ và chồng thì cả hai đều có quyền
chiếm hữu, sử dụng trong thời gian hôn nhân nhưng không có quyền định đoạt đối
với tài sản riêng của người khác. Do đó khi họ ly hôn thì tài sản riêng của ai vẫn
thuộc về người đó và họ có quyền mang theo trừ trường hợp ly hôn do vợ gian dâm.
Việc thừa nhận vợ có quyền sở hữu tài sản riêng đó là điểm đặc sắc của pháp luật
phong kiến nhà Lê và tạo cho người vợ có vị thế ngang bằng nhất định với người
chồng.
* Quyền sở hữu với tài sản chung.
Là tài sản chung vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân được quy định tại

các Điều 374, 375của QTHL qua đó ta thấy tính chất bình đẳng giữa vợ và chồng đối
với tài sản chung, sự bình đẳng này thể hiện ở hai khía cạnh:
+ Trong trường hợp cần chia tài sản chung thì tài sản của vợ chồng làm ra đều
được chia đôi, mỗi người một nửa. Phần tài sản của mỗi bên vợ chồng được nhận
làm của riêng thì thuộc sở hữu riêng của người ấy. Việc chia đôi tài sản chung chứng
tỏ sự đóng góp của vợ và khối tài sản chung đó là ngang bằng với chồng. Đồng thời
pháp luật thừa nhận sự ngang bằng về vị trí của người vợ trong hoạt động kinh tế của
gia đình do đó họ có quyền làm chủ tài sản của gia đình.
+ Quyền định đoạt tài sản.
Vợ cũng có quyền tài sản với tài sản chung, pháp luật, phong tục đòi hỏi sự
đồng ý của hai vợ chồng trong việc chuyển nhượng tài sản chung cho người khác.
Các văn cổ tự lập dưới thời Lê về việc định đoạt tài sản như là bán, tặng, cho, cầm cố
phải lập di chúc đều do cả hai vợ chồng thực hiện và cùng ký vào văn tự đó được quy
định tại các Điều 374, 375, 376. Với tư cách là người chủ gia đình người chồng có
quyền quyết định tài sản gia đình nhưng phải phù hợp với lợi ích của gia đình nếu
làm tổn hại đến thì người vợ có quyền phản đối.
b. Quan hệ nhân thân.
Mặc dù thiên về bảo vệ quyền lợi của người chồng với tư cách là người gia
trưởng song pháp luật phong kiến Việt Nam quy định rõ ràng những ràng buộc nhất
định của chồng với vợ.
* Nghĩa vụ đồng cư.
Cả 2 bộ luật đều quy định vợ chồng phải có nghĩa vụ đồng cư nhưng QTHL
thể hiện sự tiến bộ là đã quan tâm đến quyền lợi của người vợ hơn. Điều 308 QTHL
“Nếu người chồng lơ là, không làm tròn bổn phận với người vợ trong thời gian 5
tháng nếu có con là 1 năm thì được quyền ly hôn”. Qua đây ta thấy Luật đòi hỏi
người chồng, con cái đặc biệt là vợ cả, họ có quyền được quan tâm cả về vật chất lẫn
tinh thần. Điều 309 quy định “vì quá say xưa nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì bị xử tội
biếm”, lại một lần nữa người vợ cả được pháp luật bảo vệ và buộc người chồng phải
thực hiện những lợi ích chính đáng của người vợ cả, đây cũng là những điểm độc đáo
chỉ có ở pháp luật thời Lê.

* Nghĩa vụ chung thuỷ.
Pháp luật không chỉ đòi hỏi sự chung thủy ở người vợ mà còn đòi hỏi ở cả
người chồng, Điều 401 QTHL quy định “gian dâm với vợ của người khác thì bị xử
tội lưu đày hay tội chết, với vợ lẽ của người khác thì giảm đi một bậc với người quý
tộc thì xử khác, kẻ phạm tội đều phải nộp tiền tạm” ngoài ra còn được quy định tại
Điều 254 của HVLL, qua đây ta thấy sự trừng phạt đối với người chồng khi không
chung thuỷ vừa có tác dụng bảo vệ quyền lợi của gia đình mà còn bảo vệ quyền lợi
của người vợ.
* Một số nghĩa vụ khác.
Trong mối quan hệ vợ chồng thì dù chồng giữ quyền gia trưởng song người
chồng không có quyền được đánh, đối xử tàn bạo với vợ. Hành vi đánh vợ bị xử lý
theo pháp luật, sự trừng phạt của pháp luật đối với người chồng khi có hành vi xâm
hại đến tính mạng, sức khoẻ là một đòi hỏi tất yếu bởi phụ nữ cũng là con người và là
một người rất gần gũi với chồng.
Theo Thạc sĩ Nguyễn Phương Lan thì chế độ đa thê ở QTHL còn có những
điểm tích cực, trật tự thê thiếp không thể đảo lộn giữa vợ cả và vợ lẽ, nàng hầu. Tuy
nhiên nếu vi phạm thì người chồng chỉ bị xử phạt khi người vợ thưa kiện. Qua đây ta
thấy cách xử sự của người vợ cả quyết định đến sự xác lập hôn nhân nhiều vợ của
người chồng.
3. Chấm dứt hôn nhân.
Thông thường quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng chấm dứt do 3 nguyên cớ
là vi phạm điều kiện thủ tục kết hôn, do một người chết và do ly hôn. Trong đó ly
hôn có quy định đã bảo vệ đến lợi ích của người phụ nữ.
a. Những trường hợp chồng không được ly hôn.
Cả hai bộ luật đều qui định trường hợp tam bất cứ tức là vợ phạm vào thất
xuất nhưng cũng không được ly hôn đó là:
+ Khi vợ đã để tang nhà chồng 3 năm.
+ Khi vợ chồng lấy nhau nghèo sau giàu.
+ Khi vợ chồng lấy nhau thì vợ còn bà con thân thích, khi bỏ nhau thì không
còn ai để trở về nhà nữa.

Qua đây ta thấy tính nhân đạo, bác ái của người Việt Nam đối với người phụ
nữ xuất phát từ phong tục tập quán tốt đẹp của người Việt Nam mà quyền lợi ích cơ
bản của người phụ nữ được bảo vệ. Đặc biệt pháp luật nhà Lê đã đồng nhất các
trường hợp thất xuất cổ điển với trường hợp tuyệt nghĩa đã làm cho những trường
hợp buộc phải bỏ vợ thu hẹp lại, đây cũng là một sự sáng tạo của nhà làm luật.
b. Chấm dứt hôn nhân do ly hôn.
* Vợ có quyền yêu cầu ly hôn.
Bên cạnh việc chồng có quyền rẫy vợ thì việc quy định cho phép vợ có quyền
ly hôn trong QTHL đã thể hiện tính độc lập vị thế ngang bằng của người vợ trước
người chồng về mặt pháp lý. Các trường hợp vợ có quyền yêu cầu ly hôn bao gồm:
- Nếu chồng không thực hiện nghĩa vụ đồng cư.
- Con rể mắng nhiếc cha mẹ vợ bị coi là bất hiếu và vợ có quyền ly hôn.
Quyền yêu cầu ly hôn của vợ là điểm tiến bộ độc đáo của pháp luật phong
kiến Việt Nam so với pháp luật Trung Quốc.
* Ly hôn thuận tình.
Điều 284 HVLL quy định “Nếu vợ chồng không cùng ăn ý vui vẻ mà cả hai
muốn ly dị, tình thì không hiệp ân thì đã lìa thì không thể hoà giải được. Chiếu theo
điều không nên bỏ nghĩa tuyệt cho phép họ ly dị không bị coi là phạm tội”. Cả hai vợ
chồng đều không vi phạm những điều mà pháp luật buộc phải ly dị nhưng họ cảm
thấy không thể sống được với nhau thì có quyền yêu cầu ly hôn, có quyền thể hiện ý
chí của mình trong việc chấm dứt hôn nhân. Đây cũng là một bước tiến mới trong
pháp luật phong kiến Việt Nam, đã nâng quyền của người phụ nữ lên một bậc.
c. Thủ tục ly hôn.
HVLL quy định ly hôn không được tuỳ tiện mà phải trình lên quan cả hai bên
đều phải làm giấy tờ “Tự ước hoặc văn thư” làm bằng. Đây là cơ sở pháp lý cho việc
chấm dứt hôn nhân mà ngày nay vẫn còn được kế thừa.
d. Hậu quả sau ly hôn.
Pháp luật bảo vệ quyền của người vợ sau ly hôn tại các Điều 308 QTHL “Nếu
đã bỏ vợ mà ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phạm tội biếm”. Khi quan hệ hôn
nhân chấm dứt thì người chồng cũ không có quyền quyết định đối với người vợ trong

tất cả mọi việc.
Về tài sản sau ly hôn: Có thể nói đây là điểm độc đáo của pháp luật nhà Lê so
với pháp luật phong kiến Việt Nam và cả Trung Quốc. Khi ly dị người vợ có quyền
đối với tài sản riêng của mình kể cả những gì mà trước đây người chồng tặng. Tài sản
chung của vợ chồng làm ra t rong thời kỳ hôn nhân được chia đều cả hai trừ trường
hợp vợ có lỗi do gian dâm hoặc tự ý bỏ nhà chồng đi thì mất quyền sở hữu tài sản đó.
2. Những điểm tích cực trong lĩnh vực gia đình của pháp luật phong kiến
Việt Nam
a. Quan hệ tài sản.

×