Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

THỰC TRẠNG NHU CẦU VAY VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA CÁC DNNVV VÀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.8 KB, 19 trang )

Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Chương 3: THỰC TRẠNG NHU CẦU VAY VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA CÁC
DNNVV VÀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
3.1 Tình hình hoạt động và nhu cầu vay vốn của các DNNNVV
3.1.1 Tình hình hoạt động của các DNNVV
Trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, DNNVV đóng vai trị quan trọng, góp
phần gìn giữ và phát triển những ngành nghề truyền thống, tạo nhiều việc làm cho người lao
động. Theo số liệu thống kê, tính đến 1/2007 cả nước hiện có gần 200.000 DNNVV chiếm
hơn 97% tổng số DN hiện có có trên cả nước, với trên 15 nghìn hợp tác xã và trên 2 triệu hộ
kinh doanh có đăng ký.
Mặc dù quy mơ khơng lớn, nhưng các DN này đã huy động được gần 30 tỷ USD, đóng
góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp khoảng 26%
tổng sản phẩm xã hội, 31% giá trị sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, 64% tổng lượng
vận chuyển hàng hoá.
DNNVV hiện nay đang góp phần tích cực trong việc huy động nguồn vốn đầu tư trong
dân, nhanh chóng đáp ứng được các thay đổi của nền kinh tế, đồng thời cũng rất năng động
trong vai trò phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Trong việc giải quyết việc làm,
DNNVV có vai trị rất quan trọng vì loại hình DN này tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông
nghiệp ở nông thôn (khoảng 26% lực lượng lao động cả nước). Trong khi đó vốn đầu tư cho
một chỗ làm cho lao động của DNNVV là rất thấp chỉ bằng 3 đến 10% so với các DN lớn.
Cùng với sự phát triển vượt bậc về số lượng, các DNNVV đã hoạt động năng động hơn
và có hiệu quả hơn, quan hệ sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường của hệ thống
DNNVV đã phát huy tính năng động, sáng tạo, góp phần không nhỏ trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Các DNNVV còn tạo được mối liên kết chặt chẽ với các
tổng DN nhà nước, các tập đoàn xuyên quốc gia, mặc dù thời gian qua, mối quan hệ này
mới chỉ được xác lập bước đầu qua việc cung ứng NVL, hợp đồng phụ và thành lập mạng
lưới vệ tinh phân phối sản phẩm, song đây là một hướng phát triển mới, hết sức quan trọng
để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các DNNVV. Tuy nhiên trong q trình hoạt động
DNNVV vẫn gặp những khó khăn:



SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 50


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Môi trường pháp lý ở nước ta chưa thật đồng bộ: Hiện nay, để điều chỉnh hoạt động
của DN tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu có Luật DN Nhà nước, Luật Đầu tư nước ngồi tại
Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Trong các luật này, các quy định khơng
giống nhau, cịn có nhiều điểm khác biệt, làm cho hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, tính
minh bạch bị hạn chế, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các DNNVV nói
riêng. Chưa có quy chế riêng về cơ chế tài chính đối với DNNVV cũng có những ảnh hưởng
đến sự phát triển các DNNVV, đến việc thực hiện kiểm tra giám sát hoạt động của các DN
từ phía cơ quan quản lý Nhà nước.
Chính sách về tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh cho DNNVV: Vẫn còn những hạn
chế thời gian kéo dài, thủ tục còn phiền hà, để thực hiện đầu tư đa số các DN phải tự lo xoay
xở tìm kiếm đất đai làm mặt bằng kinh doanh, tự xây dựng kết cấu hạ tầng. Tất cả những cái
đó đã làm cho DNNVV mất cơ hội kinh doanh khi quy mơ vốn cịn nhỏ, rất nhiều DN do
phải chi những khoản tiền lớn để có được mặt bằng kinh doanh, thì vốn đầu tư mua sắm
thiết bị, xây dựng nhà máy còn rất ít, dẫn đến hoạt động của các DN gặp nhiều khó khăn.
Nguồn vốn tín dụng mà các DNNVV có thể khai thác: Trên thực tế ngày càng đa
dạng hơn, nhưng thực tế thì khả năng tiếp cận nguồn vốn này cũng còn trở ngại nhất định
như thủ tục, điều kiện vay vốn, trong khi các DNNVV do ít vốn, năng lực tài chính cịn hạn
chế nên trong nhiều trường hợp không đáp ứng yêu cầu mà các tổ chức cho vay đặt ra. Quỹ
bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV mới được triển khai thí điểm nên chưa phát huy tác
dụng đã ảnh hưởng đến khả năng về vốn của các DN, trong sản xuất kinh doanh.
3.1.2 Nhu cầu vay vốn và tình hình tiếp cận với nguồn vốn trung và dài hạn của
các DNNVV

3.1.2.1 Nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV
Thời gian gần đây, khối DNVVN ngày càng khẳng định vị trí của mình. Nhiều thương
hiệu đã có chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hiện tại
DNNVV, ngoài những cái vừa thiếu, vừa yếu về quy mô sản xuất, cơng nghệ, trình độ quản
lý, tay nghề người lao động...hoạt động trong tình trạng khơng đủ vốn cần thiết, dẫn đến quy
mô sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, khả năng cạnh tranh thấp kém nên muốn tồn tại và cạnh
tranh, họ rất cần vốn để nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới trang thiết bị, dời nhà
xưởng… “Đói vốn ” đang là rào cản lớn nhất cho sự phát triển của thành phần kinh tế này.

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 51


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
DNNVV tìm vốn ở đâu? Có rất nhiều nguồn như từ bạn bè, người thân, ngân hàng,
cơng ty th mua tài chính, quỹ đầu tư, cơ quan nhà nước, tổ chức xúc tiến phát triển DN,
cơ quan quản lý tài nguyên - môi trường và cả bạn hàng. Nhiều là vậy nhưng DNNVV vẫn
thiếu vốn vì sao?
Như chúng ta đã biết, phần lớn DNNVV Việt Nam đều có quy mơ nhỏ và vừa nên
trong cơ cấu nguồn vốn hoạt động thì vốn vay từ ngân hàng chiếm tỷ trọng cao. DN lớn thì
vay từ 20-30% trên tổng vốn hoạt động. DN nhỏ hơn có khi vốn vay chiếm 70% vốn hoạt
động. Tuy nhiên các DNNVV muốn vay vốn ngân hàng không phải là chuyện dễ. Ở Việt
Nam, khi DNNVV đi vay vốn ngân hàng DN phải đáp ứng được yêu cầu liên quan đến
chính sách đất đai, một loại tài sản thế chấp phổ biến, nhưng đa số DN lại thiếu một quyển
“sổ đỏ” chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp.
Các DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài
hạn từ các ngân hàng cũng như từ các ngân hàng khác, các khoản vay có bảo lãnh cũng
thường không đến được với DNNVV. Nhiều DN để hoạt động họ thường vay vốn từ các tổ

chức tài chính phi chính thức, tư nhân, bạn bè, họ hàng và bản thân người lao động trong
DN. Do vậy, DNNVV có kế hoạch mở rộng sản xuất thì lại thiếu vốn. Hơn nữa, nếu vay
được vốn ngân hàng thì chúng đều là các khoản vay ngắn hạn với mức lãi suất cao nên các
DNNVV cho dù có được phép vay vẫn khó tìm được nguồn vốn trung và dài hạn.
Những địi hỏi như DN phải có uy uy tín với ngân hàng (điều này khơng thể có đối với
DN lần đầu đi vay) hay điều kiện tiên quyết là DN phải có tài sản thế chấp, đã khiến họ bỏ
cuộc. Một mặt, DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc thế chấp tài sản vì ở nước ta thị
trường bất động sản kém phát triển. Mặt khác, việc xác định trị giá tài sản thế chấp hoàn
toàn phụ thuộc vào ngân hàng, khơng có cơ quan trung gian định giá tài sản tham gia. Do
đó, giá trị tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp đã bị hạ thấp so với thực giá trên thị
trường. Bên cạnh đó, sự sách nhiễu của một số cán bộ ngân hàng thủ tục hành chính đã làm
nhụt ý chí kinh doanh của những “ thượng đế nhỏ và vừa”. Theo số liệu điều tra của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội gần đây trong vô số lý do khiến đơn đi vay của
DNNVV bị từ chối thì lý do thiếu thế chấp chiếm 48%, quy định hành chính phức tạp
chiếm 35%, kế hoạch kinh doanh kém và những lý do khác chỉ chiếm 5% và 12%.

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 52


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các DNNVV của
ta có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên
ngồi một cách rộng rãi và ổn định hơn.
Mặc dù Nhà nước đã có chính sách mở cửa thị trường tín dụng nhưng điều đáng ngạc
nhiên là tỷ suất nợ trên tổng tài sản của DNNVV lại vơ cùng khiêm tốn, trung bình là 229
triệu đồng/1.710 triệu đồng (8%) trong một DN nhỏ có vay nợ. Cũng chỉ có một nửa số
DNNVV được điều tra là có vay nợ, hầu hết là nợ ngắn hạn và vay từ các nguồn khác nhau.

Theo PGS-TS Thái Bá Cẩn - Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu tài chính - Bộ Tài
chính: "Có một thực tế là nhiều nguồn vốn ngân hàng hiện nay đang trong tình trạng vốn
chờ dự án, trong khi các DN lại luôn kêu thiếu vốn. Tại sao có điều này? Ơng Cẩn cho rằng
hiện đang tồn tại tình trạng bất bình đẳng giữa các DN ngoài quốc doanh và DN Nhà nước
trong việc tiếp cận các nguồn vốn ngân hàng. Hiện tại các DN Nhà nước có thể vay vốn
ngân hàng mà khơng phải thế chấp nhưng ngược lại DN ngoài quốc doanh muốn vay vốn
ngân hàng thì buộc phải có tài sản thế chấp. Hoặc tình trạng "bng rơi DN ngồi quốc
doanh" như trong khi về khung pháp lý, các cơ chế, chính sách quy định khá chi tiết về
chính sách tín dụng dành cho các DN Nhà nước, hợp tác xã... nhưng riêng đối tượng DN
ngồi quốc doanh thì vẫn bị bỏ ngỏ. Các DN ngồi quốc doanh rất khó có thể được Nhà
nước bảo lãnh vay vốn, rất khó tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng dài hạn các
ngân hàng nên hầu hết các DNNVV... đều thực hiện chính sách vay ngắn hạn ngắn hạn
để đầu tư dài hạn. Mà đây là một trong những điều tối kỵ, vi phạm nguyên tắc sử dụng vốn
trong kinh doanh. Nếu đầu tư theo quy trình ngược này thì tất yếu hiệu quả sản xuất kinh
doanh của từng DN sẽ khó có thể tối ưu hố lợi nhuận, thậm chí có khơng ít DN phải vay
vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến thâm hụt đầu tư, phá sản DN".
3.1.2.2 Tình hình tiếp cận với nguồn vốn trung và dài hạn của các DNNVV
Mặc dù nhiều giám đốc NHTM luôn khẳng định: Tiềm năng của khối DNNVV đang là
hướng đầu tư trọng điểm của ngân hàng, cửa các ngân hàng sẽ mở rộng hơn cho nhiều
DNNVV, nhưng trong thực tế tình hình lại khơng được như mong đợi.
Số liệu điều tra về thực trạng hoạt động của DNNVV, được Cục Phát triển DN Bộ Kế
hoạch - Đầu tư công bố mới đây cho thấy, chỉ có 32,38% số DN cho biết có khả năng tiếp
cận được các nguồn vốn Nhà nước (chủ yếu là từ các ngân hàng thương mại), 35,24%

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 53


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác

thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
DN khó tiếp cận và 32,38% số DN không tiếp cận được. Trong khi đó, việc tiếp cận
nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn chỉ có 48,65% số DN khả năng tiếp cận, 30,43% số
DN khó tiếp cận và 20,92% số DN không tiếp cận được. Đối với các DNVVN vốn và mặt
bằng sản xuất là hai yếu tố quan trọng nhất để duy trì sự tồn tại và phát triển của DN. Những
tỷ lệ này cũng sát với khảo sát của phóng viên tại một số ngân hàng thương mại cổ phần và
ngân hàng thương mại quốc doanh: trong 100 hồ sơ vay vốn ngẫu nhiên của các DNNVV
thì chỉ có khoảng từ 35 – 40 hồ sơ có thể được chấp nhận cấp vốn. Như vậy, khả năng tiếp
cận vốn NHTM của các DNNVV vẫn còn nhiều hạn chế.
Với nhiều ngân hàng, các DNVVN là đối tượng khách hàng chủ lực. Tuy nhiên, cũng
phải “trơng giỏ, bỏ thóc”, khơng phải DN nào cũng có thể vay được vốn ngân hàng, nhiều
DNVVN thường kêu ca là khó tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, nhất là với những DN
mới thành lập, chưa có uy tín trên thị trường. Do đó, hầu hết các DNVVN tự hoạt động với
nguồn vốn tự có chứ ít khi đi vay ngân hàng nguyên nhân chính là quy mơ hoạt động của
các DN cịn hạn chế.
Bà Kim Thành, giám đốc một DN chuyên sản xuất hàng may mặc cho biết: "Để mở
rộng nhà xưởng, đầu tư xây dựng một nhà máy mới tại khu công nghiệp, chúng tơi đã phải
mất trung bình 6 tháng ngược xi gõ cửa các ngân hàng chứng minh khả năng trả nợ của
DN mình vậy mà vẫn khơng vay được vốn.Vậy là phải huy động vốn từ bên ngoài, biết là
lãi cao hơn nhưng cũng đành chịu". Đây không phải là trường hợp cá biệt bởi với hơn
200.000 DNVVN thì nhu cầu vay vốn và bị các từ chối cho vay khơng phải là ít.
Tuy nhiên, khi mang trăn trở này đặt lên bàn của một số lãnh đạo NHTM, thì lại nhận
được những câu trả lời khác hẳn. Theo họ, vốn của ngân hàng khơng hề thiếu, cái thiếu
chính là DN không đủ tiêu chuẩn để được vay tiền. Ngân hàng cũng là người đi vay, chính
vì vậy để đảm bảo được nguồn vốn vay thì phải có những tiêu chuẩn nhất định, ngân hàng
không thiếu vốn để đáp ứng cho DN mà chính là các DN đang thiếu những tiêu chuẩn của
ngân hàng để có thể tiếp cận nguồn vốn này.
a) Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam hiện nay có thể huy động vốn trung và dài
hạn từ một số nguồn
- Thứ nhất, từ hệ thống các ngân hàng hiện hành. Hệ thống này tiến hành cung cấp

vốn cho các DNVVN thông qua các tổ chức sau: Các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần,

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 54


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân (hợp tác
xã tín dụng nơng thơn và hợp tác xã tín dụng đơ thị ), Cơng ty cho thuê tài chính.
- Thứ hai, từ nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước: Tín dụng cho đầu tư phát triển, tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu.
- Thứ ba, quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN.
- Thứ tư, các chương trình tín dụng của các tổ chức, chính phủ nước ngoài: Quỹ phát
triển DNVVN cộng đồng châu Âu (SMEDF), tín dụng hỗ trợ của ngân hàng hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JBIC), dự án phát triển khu vực Mê Kơng (MPFD), hỗ trợ của DN tài chính quốc
tế (IFC) tại Việt Nam, dự án tín dụng phát triển nơng thơn của ngân hàng thế giới.
b) Tuy nguồn vốn tín dụng mà các DNVVN có thể khai thác là đa dạng nhưng khả
năng tiếp cận của các DN này còn rất hạn chế. Cụ thể:
- Thứ nhất, đối với các nguồn vốn từ hệ thống các ngân hàng hiện hành. Mặc dù được
Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế như đảm bảo tiền vay được đa dạng hoá, lãi
suất tự do thoả thuận... nhưng các DNVVN vẫn chưa tiếp cận được nhiều nguồn vốn của
các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh. Có thể kể tới một số nguyên nhân
như:
+ Thị trường vốn chưa phát triển một cách đầy đủ, hệ thống pháp luật chung chưa
thực sự hồn chỉnh, thiếu động bộ với chính sách tín dụng, cơ chế cho vay thay đổi liên tục
gây khó khăn cho các ngân hàng.
+ Về phía các ngân hàng: Điều kiện vay và thủ tục vay vốn quá chặt chẽ, phức tạp,
các DNVVN rất khó đáp ứng được. Mặt khác, các tổ chức này thiếu thông tin chính xác, kịp

thời về DN, khả năng đánh giá các dự án có hiệu quả cịn hạn chế...
- Thứ hai, đối với nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước: Phần nào các DNVVN đã
được tiếp cận nguồn vốn này, đặc biệt là tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu và chương trình
cho vay giải quyết việc làm. Tuy nhiên khả năng vay nguồn vốn đầu tư phát triển cịn nhiều
hạn chế vì đây là nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước, DN chỉ tiếp cận được trong trường hợp
kinh doanh trong ngành nghề được khuyến khích...
- Thứ ba, đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, đây là nguồn vốn ưu tiên cho
các DNVVN nên có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên hiện nay các quỹ này mới được thành lập ở
dạng thí điểm, trong q trình thành lập cịn gặp nhiều khó khăn như: quy định về mức vốn

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 55


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
điều lệ còn quá cao so với thực thế nhiều địa phương (tối thiều là 30 tỷ đồng, ngân sách địa
phương góp tối đa bằng 30% vốn điều lệ), nhận thức của các quỹ tín dụng về vai trị và hiệu
quả của quỹ còn nhiều hạn chế.
- Thứ tư, đối với các chương trình tín dụng của các tổ chức chính phủ nước ngoài: Đây
là những nguồn vốn rất thiết thực và cần thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà
Chính phủ khuyến khích phát các DNVVN, kêu gọi vốn từ bên ngồi hỗ trợ. Các chương
trình dự án này hoạt động có hiệu quả trong việc hỗ trợ vốn cho một số DNVVN để đổi mới
trang thiết bi, công nghệ và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên nguồn vốn và quy mô của các quỹ
này vẫn hạn chế, những đòi hỏi thủ tục còn phức tạp nên DNVVN cịn khó tiếp cận.
Trên đây là những kênh tín dụng cho DNVVN Việt Nam và những hạn chế khi tiếp
cận các nguồn vốn của DN này. Hy vọng trong thời gian tới, khi những hạn chế này được
khắc phục, DNVVN sẽ có đủ nguồn vốn để phát triển, khẳng định vai trò của khu vực này
trong nền kinh tế.

3.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của DNNVV khi tiếp cận với nguồn vốn
trung và dài hạn.
3.1.3.1 Thuận lợi
Những thuận lợi mà các ngân hàng đã dành cho khối DNNVV khi có nhu cầu vay vốn
trung và dài hạn có thể kể đến là :
- Ngân hàng đã xây dựng cho mình chiến lược cho vay vốn trung và dài hạn hẳn hoi đối
với các DNVVN như xây dựng cơ chế ưu đãi hơn so với vay bình thường, thủ tục đảm bảo
tiền vay linh hoạt, trong đó cho phép DN được thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay.
- Hiện nay với sự canh tranh gay gắt của hệ thống ngân hàng thương mại các DN khơng
cịn phải chủ động tìm đến ngân hàng như trước kia mà CBTD của ngân hàng đã xuống
từng DN để tiếp thị sản phẩm của mình đến DN, ngồi ra ngân hàng thành lập một bộ phận
chuyên gia hỗ trợ DN trong việc lập dự án sản xuất kinh doanh, chuẩn bị tài liệu tài chính và
pháp lý cần thiết cho việc vay vốn tín dụng. Các ngân hàng đã loại bỏ dần sự phân biệt đối
xử của ngân hàng giữa DNNVV quốc doanh với các DNNVV ngoài quốc doanh.
- Ngân hàng cải tiến thủ tục cho vay đối với DNNVV theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn,
tiếp tục cải tiến quy trình cho vay nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, đa dạng hoá

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 56


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
hơn nữa các hình thức bảo đảm tín dụng trung và dài hạn để thích ứng với đặc điểm của các
DNNVV.
- Một số ngân hàng cho doanh nghiệp thỏa thuận về mức độ thế chấp tài sản, nghĩa là
doanh nghiệp không bị động trong việc đánh giá tài sản thế chấp như bấy lâu nay.
- Bên cạnh đó, ngân hàng cịn thương xuyên có buổi nói chuyện giữa DN với ngân
hàng để ngân hàng có thể giới thiệu những sản phẩm mới tới DN, và đồng thời ngân hàng

có thể giải đáp những khúc mắc trong quá trình vay vốn của DN. Đối với những DN giao
dịch lâu năm đối với ngân hàng, ngân hàng có những chính sách ưu đãi về số tiền vay, thời
gian xử lý hồ sơ, giải ngân, lãi suất, thời gian ân hạn.
3.1.3.2 Khó khăn
Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng (huy động vốn, dịch vụ cho vay, đầu tư,
thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn, quản lý tài sản...) đã đến với cộng đồng các
DN. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNNVV hiện nay vẫn là thiếu vốn
ngun nhân chính của tình trạng này là từ chính bản thân DN vì vốn chủ sở hữu rất thấp,
ít có tài sản thế chấp, cầm cố, khơng có người bảo lãnh; khơng lập được phương án sản
xuất, kinh doanh có đủ sức thuyết phục. Trình độ quản lý hạn chế, báo cáo tài chính
khơng đủ độ tin cậy đối với người cho vay...
Giải thích về việc tại sao DNNVV khó tiếp cận các nguồn vốn, TS.Nguyễn Kim Anh,
Chủ nhiệm khoa ngân hàng, Học viện ngân hàng cho biết: “Một trong những nguyên
nhân cơ bản khiến việc tiếp cận vốn tín dụng các DNNVV Việt Nam cịn rất hạn chế xuất
phát từ chính bản thân các DNNVV khơng hiểu về cơ chế tín dụng của ngân hàng thương
mại, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng, rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay
của ngân hàng khó khăn. Phần lớn các DNNVV thiết lập thủ tục vay vốn của ngân hàng
không đúng quy định mà ngân hàng yêu cầu. Năng lực tài chính nội tại của DN yếu, các hệ
số tài chính khơng đảm bảo theo yêu cầu của ngân hàng, không xác định rõ ràng được dịng
tiền lưu chuyển bởi vậy khơng tính toán được đúng khả năng trả nợ trong tương lai. Một số
lớn các DNNVV lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư cịn mang nặng
tính chủ quan, áp đặt của lãnh đạo DN, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần t”.
a) Khó khăn từ chính nhận thức và sự hiểu biết của các DNNVV đối với các sản
phẩm , dịch vụ của ngân hàng

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 57



Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Để nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng, trước hết các DNNVV cần phải
chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm
dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà mà ngân hàng cung ứng.
Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến việc tiếp cận vốn tín dụng của các
DNNVV Việt Nam cịn rất hạn chế xuất phát từ chính bản thân các DN khơng hiểu về cơ
chế tín dụng của ngân hàng, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp,
việc giải quyết cho vay của ngân hàng khó khăn. Phần lớn các DNNVV thiết lập thủ tục vay
vốn của ngân hàng không đúng quy định mà ngân hàng yêu cầu.
Trong quan hệ với ngân hàng cịn thiếu kinh nghiệm, việc bố trí cán bộ quan hệ giao
dịch với ngân hàng không hợp lý, cán bộ có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, khả
năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng
b ) Thiếu thơng tin tài chính tin cậy về các DNNVV
Báo cáo tài chính của DN là một nguồn thơng tin chính để ngân hàng đánh giá rủi ro tín
dụng. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết nhiều DNNVV khơng cung cấp đủ thơng tin tài chính
đáng tin cậy. Điều này khiến cho các DNNVV khó có khả năng có thể vay được vốn ngân
hàng. Mặt khác, năng lực tài chính nội tại của DN yếu, các hệ số tài chính khơng đảm bảo
theo u cầu của ngân hàng, khơng xác định rõ ràng được dịng tiền lưu chuyển bởi vậy
khơng tính tốn được đúng khả năng trả nợ trong tương lai. Một số lớn các DNNVV lập
phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư đơi khi được thiết lập sơ sài, mang
nặng tính chủ quan, áp đặt của lãnh đạo DN, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần tuý bởi vậy
thiếu thuyết phục ngân hàng khi xem xét thẩm định cho vay.
Theo ơng Hồng Văn Dũng, Phó chủ tịch thường trực Phịng Thương mại và Cơng
nghiệpViệt Nam (VCCI) thì :“Điểm yếu của DNNVV Việt Nam là hạn chế về nguồn lực
con người và tài chính nên các nguồn tài chính (dưới dạng đầu tư bên ngồi, các khoản vay,
các khỏan tài trợ…) đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển của DN. Ông Dũng cũng
khuyến nghị, để tiếp cận, sử dụng các nguồn tài chính và đầu tư có hiệu quả, DN cần phải
nâng cao năng lực quản trị tài chính của mình. Hiện nay, việc cơng khai tài chính của DN
cịn rất thiếu minh bạch, phần lớn các DNNVV Việt Nam khơng có hệ thống kế tốn tiêu

chuẩn. Vì vậy, q trình quan hệ, hợp tác đầu tư với các đối tác và tiếp cận tín dụng từ các
tổ chức tài chính gặp nhiều khó khăn”.

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 58


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Có hai lý do có giải thích là: thiếu năng lực hoặc hạch toán kế toán sai. Các cuộc phỏng
vấn cho thấy nhiều DNNVV chuẩn bị ba bộ hồ sơ kế toán, một bộ cho ngân hàng, một cho
phòng thuế, và một cho chính DN. Tuy nhiên, cán bộ ngân hàng hiểu rất rõ thực tế này, và
đa số họ khẳng định rằng họ thường yêu cầu DN xin vay vốn nộp bản sao báo cáo tài chính
có dấu nhận hồ sơ của cục thuế, do các báo cáo tài chính lập để gởi cơ quan thuế thường thể
hiện kết quả hoạt động tài chính xấu nhất. Cung cấp báo cáo tài chính có chất lượng là hết
sức quan trọng đối với quá trình xét duyện cho vay vốn.
Trên thực tế việc chuẩn bị báo cáo tài chính đáng tin cậy và lập kế hoạch kinh doanh
khả thi cho hồ sơ xin vay vốn là rất khó đối với các chủ DN DNNVV, những người khơng
có kiến thức cơ sở về tài chính.
c) Qui mơ sản xuất, trình độ người lao động, năng lực ứng dụng công nghệ trong
sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các DNNVV ở Việt Nam còn yếu
Phần lớn DNNVV có quy mơ sản xuất nhỏ, manh mún, vốn ít, trình độ khoa học kỹ
thuật và cơng nghệ sản xuất lạc hậu. Thực tế cho thấy, các DNNVV của Việt Nam có hệ
thống máy móc, thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, khoảng trên dưới 20 năm. Hầu hết công nghệ đang
được sử dụng trong DNVVN Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những
người chủ DNVVN khơng có kiến thức, thơng tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan
đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Hậu quả của cách làm đó là cơng nghệ được
sử dụng trong các DN này trở thành mớ hỗn độn, chắp vá.
Trình độ quản lý, quản trị DN còn yếu, việc điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh

đạo thiếu bài bản, mang nặng tính gia đình, cộng với hạn chế về năng lực tài chính nên các
DN rất khó nhập khẩu ngun liệu trực tiếp từ các đối tác nước ngoài, hầu hết các DNNVV
chưa thực sự chú trọng đến việc nắm bắt cơ hội, khai thác thông tin về thị trường vốn, lao
động thị trường NVL, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường xuất khẩu, nhiều quyết định
kinh doanh dựa vào cảm tính, kinh nghiệm trên sân nhà.
Mặt khác các DN cịn thiếu nhanh nhạy, yếu kém về tiếp cận thị trường, các dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh, cải tiến mẫu mã sản phẩm...Việc phân tích, đưa ra các chiến lược sản xuất
kinh doanh cịn mang tính thời vụ.

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 59


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Một hạn chế nữa đang là điểm yếu đối với DNNVV nước ta là trình độ hiểu biết, ý
thức tuân thủ pháp luật của các DN chưa cao, do đó cịn gặp nhiều hạn chế, khó khăn trong
xây dựng và hồn thiện hồ sơ vay vốn.
d) Cho vay dựa vào tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo là một yếu tố quyết định quan trọng trong quá trình đánh giá khoản
vay của các DN tư nhân , hay cụ thể hơn là của các DNVVN. Các chủ DNVVN thương
phàn nàn nhiều về việc cho vay dựa vào tài sản đảm bảo vì họ khơng có cách nào tiếp cận
các khoản tín dụng trung và dài hạn khơng có tài sản đảm bảo. Một số chủ DNVVN định
rằng cán bộ ngân hàng sẽ khơng xem xét nghiêm túc các báo cáo tài chính và kế hoạch của
nếu doanh khơng có đủ tài sản đảm bảo. Họ chỉ trích cách thức xét cho vay chỉ dựa vào tài
sản đảm bảo.
d) Phụ thuộc vào chính sách tín dụng, thủ tục cho vay, nhận định mang tính các
nhân của cán bộ quản lý ngân hàng
Bản thân chính sách tín dụng cũng có sự phân biệt, gây thiệt thịi cho DNNVV. Đó là

trường hợp DNNN vay vốn đầu tư khi gặp rủi ro sẽ được xem xét giảm cả lãi và vốn gốc,
còn DNNVV khi vay đã phải ký hợp đồng tín dụng lãi suất cao nhưng nếu gặp rủi ro bất khả
kháng thì vẫn phải trả đủ mức lãi suất đó. Hoặc có sự phân biệt đối sử giữa DNNN và
DNNVV. Nhiều DN thắc mắc, tại sao DNNN muốn vay vốn bao nhiêu và vay lúc nào cũng
được (vì có tài sản thế chấp là của Nhà nước), nhưng DNNVV vay theo dự án lại rất khó
khăn vì khơng có hoặc khơng có đủ tài sản thế chấp. DN cũng rất gian nan trong việc tìm
người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng.
Thủ tục thế chấp rườm rà cũng là một lực cản trong q trình tiếp cận với nguồn vốn
tín dụng. Có DN đã dẫn chứng: “Trước kia thế chấp ngân hàng ở địa phương này chỉ sử
dụng sổ đỏ, có xác nhận của Phịng quản lý đất đai của phường và cơng chứng, nhưng nay
lại phải có thêm xác nhận của Phịng tài nguyên môi trường quận, huyện. Thế là mặc dù rất
cần vốn nhưng DN bắt buộc vẫn phải đợi thêm 7 ngày nữa để chuyển hồ sơ từ phường lên
quận. Thực tế cũng bộc lộ rõ sự khắt khe, thậm chí được coi là vơ lý trong bản thân các quy
định của các ngân hàng. Chẳng hạn DN đã dùng tài sản của mình để thế chấp ngân hàng,
nhưng cũng chỉ được vay tối đa 50% tổng giá trị tài sản”.

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 60


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Những chủ DNVVN có kinh nghiệm về vay vốn ngân hàng cho biết mối quan hệ cá
nhân đóng vai trị quan trọng khi lần đầu tiên vay vốn ngân hàng. Một số tiếp cận được
nguồn tín dụng ngân hàng là nhờ có mối quan hệ với cán bộ ngân hàng, trong khi một số
khác thì được bạn bè thơng báo về kế hoạch tài trợ dành cho các DNVVN của các nhà tài
trợ. Số liệu khảo sát cho ta thấy khoảng 20-30% DN coi mối mối quan hệ các nhân là hết
sức quan trọng trong việc thương thỏa với ngân hàng. Hơn thế nữa, 22% DNVVN và gần
50% DN tư nhân cũng đồng tình là quan hệ cá nhân là hết sức quan trọng trong việc tiếp cận

nguồn vốn.
Trong các cuộc phỏng vấn với ngân hàng, một số cán bộ quản lý cao cấp của ngân
hàng cũng thừa nhận rằng cho vay đối với DNVVN chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo và các
mối quan hệ cá nhân của chủ DN. Hoạt động ngân hàng dựa vào mối quan hệ như vậy rất
hữu hiệu đối với ngân hàng, đặc biệt trong việc tài trợ các DNVVN vì các DN này chưa
thiết lập được lịng tin và tình hình sản xuất kinh doanh của họ thường biến động. Cán bộ
quản lý hoặc CBTD có liên hệ cá nhân với chủ hoặc nhân viên của DN là người có nhiều cơ
hội tiếp cận với những thơng tin mềm, và có thể nhận định việc cho vay trên cơ sở thơng tin
đó. Việc những cán bộ này được giao quyền quyết định hơn có thể giúp các DNVVN tiếp
cận với những khoản vay ngân hàng dễ dàng hơn. Tuy nhiên, phụ thuộc quá nhiều vào thẩm
quyền các nhân như vậy có thể tạo ra tham nhũng.
e) Các thủ tục phiền hà, sự chậm chễ trong thủ tục của các cơ quan nhà nước
Nhiều DNVVN than phiền về các thủ tục phiền hà khi vay vốn vì ngân hàng yêu cầu
cung cấp quá nhiều giấy tờ trong hồ sơ xin vay vốn và quá trình đánh giá hồ sơ xin vay vốn
quá phức tạp và mất nhiều thời gian. Do thực tế này, rất có thể nhiều DN tư nhân muốn
tránh phiền hà trong việc xin các khoản vay chính thức và lựa chọn vay tiền của cá nhân
hoặc bạn bè và họ hàng, những người khơng địi hỏi các thủ tục phức tạp.
Thủ tục rườm rà trong cho vay không chỉ là vấn đề của các ngân hàng. Một số
DNVVN cịn gặp khó khăn do sự chậm trễ trong khâu xin cấp chứng nhận quyền sử dụng
đất từ cơ quan nhà nước.
3.2 Thực trạng cơng tác thẩm định tín dụng trung và dài hạn
3.2.1 Thuận lợi trong quá trình thẩm định

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 61


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM

- Ngân hàng có những chính sách, quy trình, cơ chế, văn bản hướng dẫn, mẫu biểu sử
dụng trong khi thẩm định đã được chuẩn hoá rõ ràng.
- Sự phân rõ trách nhiêm, nghĩa vụ của mỗi phòng ban trong ngân hàng, sự giúp đỡ của
các cán bộ quản lý cấp cao, môi trường làm việc thân thiện giữa các đồng nghiệp.
- CBTD có đầy đủ kiến thức chun mơn về nghiệp vụ, sản phẩm, bên cạnh đó ngân
hàng cịn thường xun có tổ chức các lớp bồi dưỡng, tham luận về nghiệp vụ, giải đáp
những thắc mắc trong q trình cơng tác, do đó, giúp nâng cao kiến thức chun mơn của
CBTD, giúp cho quá trình thẩm định được tiến hành một cách nhanh chóng, chính xác và
theo đúng qui định của ngân hàng.
- Sự giúp đỡ của công ty định giá tài sản , công ty quản lý và khai thác tài sản giúp cho
việc định giá tài sản đảm bảo chính xác.
- Sự cung cấp thơng tin, đầy đủ kịp thời của DN để phục vụ cho quá trình thẩm định.
3.2.2 Khó khăn trong q trình thẩm định
a) Rủi ro tín dụng xuất hiện từ khi CBTD bắt đầu tiếp xúc với đơn xin vay vốn của
khách hàng
Quá trình đánh giá đơn xin vay vốn của DNNVV bao gồm các thông tin khách quan
lẫn chủ quan, đồng thời biết được các nguồn thông tin nào cần được đánh giá nghiêm túc ra
sao để đi đến một quyết định mang tính cân bằng. Trong tậm của việc đánh giá ln dựa
trên khả năng trả nợ vay từ nguồn tiền mặt tạo ra và từ kết quả tạo ra từ dự án đầu tư đang
xét đến. Do đó khi tiếp cận với đơn xin vay vốn của khách hàng CBTD phải :
 Đưa ra câu hỏi thăm dò về khách hàng, về phương án kinh doanh
 Nghiên cứu xem xét khách hàng và dự án
 Xem xét uy tín khách hàng và hồ sơ vay vốn
 Xem xét mục đích của hồ sơ vay vốn
 Hồ sơ có đáp ứng các tiêu chí về tư cách / chính sách tín dụng
Các nguồn có thể tham khảo khi xem xét hồ sơ vay vốn của khách hàng
 Kế hoạch kinh doanh
 Các sổ ghi chép (hồ sơ) tại ngân hàng
 Các cuộc thăm viếng tại chỗ
 Kiến thức cá nhân


SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 62


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
 Các nguồn bên ngồi
b) Điều mà số liệu tài chính khơng nói ra
 Chất lượng quản lý (ban lãnh đạo) của DN
 Nhu cầu trong tương lai đối với các sản phẩm dịch vụ của DN
 Chất lượng của sản phẩm dịch vụ.
 Chất lượng của cơ sở khách hàng của DN, bao gồm tất cả các khách hàng có nợ
xấu hoặc nợ đang nghi vấn không được thông báo
 Các kế hoạch trong tương lai đối với DN và liệu tài sản của DN có đủ để hỗ trợ các
kế hoạch đó khơng.
 Liệu DN có phải phụ thuộc vào một loại sản phẩm dịch vụ duy nhất hay không.
 Sự chính xác của các đánh giá về giá trị hàng tồn kho, kể cả các hàng tồn kho lâu
đã bị lạc hậu (điều nay cũng có thể được áp dụng với các loại tài sản khác của
DN)
 DN cho nợ tiền trong bao lâu? Có thể có những khoản tiền khơng bao giờ được
thanh tốn và cần phải được coi là nợ xấu.
 Ngồi ra các chủ DN có thể vay dưới danh nghĩa cá nhân để bơm thêm vốn vào
DN. Khi đó CBTD cần phải xem xét thêm :
 Chi tiết thuế cá nhân
 Các DN liên quan
 Thơng tin về các DN tương tự khác mà có thể cho phép bạn so sánh dễ dàng hơn
hoặc thông tin về môt trường kinh doanh và triển vọng của ngành cần phải được
xem xét.

c) Hạn chế của các báo cáo tài chính
Cần nhớ rằng việc lập các báo cáo tài chính có thể phụ thuộc nhiều vào thơng tin và hồ
sơ do ban giám đốc / chủ sở hữu DN cung cấp, đặc biệt là đối với các DN nhỏ. Điều này có
nghĩa là độ chính xác của sổ sách kế toán và độ trung thực của chủ sở hữu DN là những
nhân tố chính đem lại tính tin cậy của các báo cáo được lập.
Trong nhiều trường hợp, các giá trị TSCĐ như xe cộ, vật cố định và đồ đạc được xác
định dựa trên ước tính cao nhất của chủ sở hữu / giám đốc DN.

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 63


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
Bảng cân đối kế tốn khơng cho biết nhiều giá trị thị trường của tài sản trong trường
hợp DN phá sản (trường hợp bán rời từng tái sản) hoặc giá trị “phát mại” khi cần bán gấp
TSCĐ để đáp ứng khả năng thanh toán, mặc dù DN vẫn tiếp tục hoạt động, số liệu có thể đã
bị chủ sở hữu / kế tốn điều chỉnh nhằm phản ánh tình hình mà họ mong muốn. Sự thiếu
chính xác cũng có thể khơng phải là chủ định mà do các số liệu không được kiểm tốn đầy
đủ. Điển hình là đánh giá hàng tồn kho có thể khơng chính xác do đó các con số khác đặc
biệt là lợi nhuận sẽ bị ảnh hưởng.
Giá trị hiện tại của DN với tư cách là một thực thể đang hoạt dộng sẽ không được thực
hiện. Mặc dù các báo cáo có thể cung cấp thơng tin hữu ích về DN, CBTD khơng nên q lệ
thuộc vào báo cáo này. Hồn cảnh có thể thay đổi rất nhanh, tình hình hiện tại có thể khác
xa so với những gì được phản ánh trong báo cáo được lập 18 tháng trước.
Nhiều DN, nhất là các công ty TNHH, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn,
thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó thẩm định, đánh giá về năng lực thực sự của khách
hàng. Hệ thống sổ sách kế toán, nội dung và phương pháp hạch tốn kế tốn của DN thường
khơng đầy đủ, chính xác và thiếu minh bạch.

d) Rủi ro về lạm phát
Câu hỏi liệu có nên và khi nào sử dụng giá cố định hay giá lưu động (lạm phát) trong
các phân tích tài chính. Có thể thấy rằng đối với sự đánh giá dịng tiền và tính sinh lợi của
dự án, các hiệu ứng lạm phát có thể lược bỏ qua, với điều kiện giá tương đối của các đầu
vào và đầu ra chính của dự án có nhiều khả năng không thay đổi trong thời gian của dự án,
tuy nhiên nếu như giá tương đối có nhiều khả năng thay đổi (ví dụ như trong chi phí lao
động, hàng nhập khẩu, giá NVL, giá thay thế các TSCĐ, giá của hàng hoá khi bán ra thị
trường nội địa cũng như thế giới) độ nhạy cảm của các dòng tiền dự đoán đối với các hiệu
ứng lạm phát như vậy cần phải được phân tích trong nghiên cứu khả thi. Phân tích khơng
nên giới hạn trong phạm vi xác định độ nhạy cảm đến những thay đổi trong giá cả tương đối
của đầu vào và đầu ra của dự án, mà còn nên xác định các chiến lược hợp lý để đối phó với
các rủi ro lạm phát.
Trong trường hợp có siêu lạm phát, suất sinh lợi của dự án đầu tư nên được tính tốn
giả định giá khơng đổi. Nếu như dự đốn có sự thay đổi đáng kể về giá tương đối, mức tăng
hay giảm tương đối cũng cần được áp dụng. Lấy ví dụ, giả định rằng tỷ lệ lạm phát hàng

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 64


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
năm là x% và mức tăng trung bình trong chi phí nhân cơng là (x+1.5)%, dịng tiền nên được
tính tốn với giá khơng đổi, khơng kể phí nhân cơng được tăng lên 1.5% một năm. Trong
trường hợp mức tăng giá trung bình hàng năm thấp hơn lạm phát nói chung, một tỷ lệ lạm
phát âm cần phải được đưa vào cho hạng mục tương ứng.
Quy hoạch tài chính trong trường hợp của lạm phát ở mức đáng kể, đặc biệt là siêu lạm
phát, đòi hỏi phải áp dụng các phương pháp kế toán đặc biệt, tuân thủ theo các quy tắc và
qui định có hiệu lực của nhà nước mà dự án được thực hiện. Các phương án này kèm theo

thường xuyên đánh giá lại giá trị sổ sách của TSCĐ và TSLĐ
Cho thuê: Rủi ro lạm phát có thể có một tác động đến quyết định mua hay thuê một nhà
máy. Nếu như các thanh toán tiền thuê trong tương lai được cố định giá trị tiền mặt, như
thường thấy trong các trường hợp, lạm phát có xu hướng làm tăng tính hấp dẫn của việc cho
th, bởi vì rủi ro lạm phát khi đó sẽ có một phần được chuyển giao cho người thuê.
f) Đánh hiệu quả tài chính của dự án trong điều kiện tình hình tài chính khơng ổn
định
Các dự báo về môi trường kinh doanh trong tương lai về nhu cầu sản phẩm, sản xuất và
bán hàng chỉ có thể là các dự báo gần đúng bởi vì dựa trên các dữ kiệu q khứ người ta
khơng thể làm gì hơn là xác định một xu hướng trong quá khứ và có thể ngoại suy thành
một tương lai khơng chắc chắn.
Trong q trình thẩm định một dự án đầu tư, một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là
độ tin cậy của các số liệu được đánh giá cũng như thiết kế dự án (khái niệm tiếp thị và
chương trình bán hàng, lựa chọn đầu vào và địa điểm của dự án, lựa chọn công nghệ, thiết
kế kỹ thuật, quản lý, nhân lực và tổ chức cũng như việc thực hiện dự án). Để hạn chế đến
mức tối thiểu sự khơng ổn định có liên quan đến độ tin cậy của dữ liệu và thiết kế dự án
CBTD cần phải kiểm tra xem xét liệu nghiên cứu khả thi đã bao trùm tất cả các mặt liên
quan đến quyết định đầu tư và cung cấp tài chính. Khi đó nghiên cứu khả thi phải chỉ ra
được tất cả các nguồn dữ liệu và bất cứ giả định nào cũng cần phải giải thích và chứng
minh. Chỉ nghiên cứu khả thi tuân thủ các yêu cầu cơ bản đó người ta mới nên bắt đầu phân
tích các rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên các lý do phổ biến nhất cho sự khơng chắc chắn
đó là lạm phát, thay đổi cơng nghệ, ước tính sai về năng lực sản xuất và thời gian xây dựng,
chạy thử. Vấn đề về sự không chắc chắn càng tăng lên cùng với diễn biến của dự án trong

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 65


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác

thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
suốt một quá trình thời gian. Đầu tư cũng tồn tại dưới nhiều sự phát triển và thay đổi trong
mơi trường chính trị, xã hội, thương mại và kinh doanh cũng như thay đổi cơng nghệ, năng
suất và giá cả.
3.2.3 Tình hình cung cấp tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
Ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho DNNVV là từ kênh ngân hàng. Nhưng, cánh
cửa của các ngân hàng có rộng mở hơn trước sự bùng nổ về số lượng DN hiện nay? Theo
định hướng của Chính phủ, đến năm 2010, cả nước sẽ có 500000 DNNVV. Đi cùng với con
số này là một lượng vốn lớn cần được đáp ứng.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng tín dụng dành cho khối
DNNVV trong những năm gần đây cũng đã cho thấy những tín hiệu khả quan, năm
2003 là 37,1%, năm 2004 là 20,18% và năm 2005 ước tính là 22%. Năm 2006 tổng dư nợ
cho vay ngành ngân hàng tăng 137.000 tỷ đồng - bình qn tăng trưởng cả năm khoảng
19%, trong đó cho vay bằng VNĐ tăng khoảng 126.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 18% tổng
dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đến 31-12-2006. Nếu loại bỏ các khoản các NHTM
đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu DN và góp vốn liên doanh, thì dư nợ cho vay tăng thêm chỉ
khoảng 120.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 17% tổng dư nợ cho vay. Trong 120.000 tỷ đồng dư
nợ tín dụng tăng thêm trong năm 2006, có khoảng 84.000 tỷ đồng cho vay ngắn hạn, vay
trung hạn 22.000 tỷ đồng và dài hạn 20.000 tỷ đồng. Trong hai năm gần đây, số vốn mà
các NHTM cho các DNNVV vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ.
Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Đặng Văn Thành. Hỏi: Đối tượng khách hàng của
Sacombank là những DNNVV và chắc chắn khi cỗ máy WTO vận hành, họ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn, thậm chí sẽ có DN phá sản. Vậy Sacombank sẽ trợ giúp khách hàng của
mình theo kiểu nào: "Cứu người cũng là giúp mình", hay "Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ
túi"? Trả lời: Tất nhiên là Sacombank trợ giúp khách hàng của mình trên cơ sở hợp tác cùng
phát triển. Chúng tôi quan niệm chủ động tham gia phịng "cháy" khu vực chính là biện
pháp tốt nhất trong việc chống "cháy" cho chính ngơi nhà mà Sacombank đang sở hữu.
Sacombank từ lâu đã quan tâm đặc biệt đến trách nhiệm tư vấn về quản trị DN và quản trị
tài chính đối với các DN khách hàng. Với việc thành lập thêm các Công ty quản lý quỹ
VFM, Cơng ty cho th tài chính và gần đây nhất là Cơng ty chứng khốn, Sacombank đang


SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 66


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
từng bước hình thành một tập đồn tài chính đa chức năng - đa sở hữu, nhưng đây chính là
những kênh quan trọng giúp các DNNVV khách hàng vượt qua khó khăn trong cạnh tranh
bằng những giải pháp tài chính trọn gói, bằng khả năng thuê tài chính để đổi mới dây
chuyền công nghệ. Trong các khoản cho vay, 40% dành cho cá nhân, một nửa trong đó
là các tiểu thương, phần còn lại cho vay thế chấp và cho vay cá nhân, 60% còn lại của
các khoản cho vay các DNNVV, hoạt động cho vay của ngân hàng phản ánh sự tập trunng
mạnh mang tính gắn bó vào các lĩnh vực các khách hàng cá nhân và DNNVV sản sinh lợi
tức cao hơn, đặc biệt tại TPHCM (chiếm 63% tổng dư nợ cho vay phân theo địa lý). Khoản
dành để cho các DN nhà nước vay thì rất hạn chế.
Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng Việt Nam Nguyễn Trọng Nghĩa phấn khởi: “Thời
gian qua các NHTM của Việt Nam đã bắt đầu chú ý hơn đến đối tượng DNNVV. Dư nợ cho
vay của nhiều ngân hàng đối với đối tượng này đã đạt gần 50%. Sắp tới hiệp hội sẽ tiếp tục
đề xuất biên độ mở về thủ tục cho vay đối với các đối tương này vì sau khi gia nhập WTO
thì lực lượng này sẽ đóng vai trị năng động nhất trong nền kinh tế”.
Tổng Giám đốc ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Trần Bắc Hà
cam kết: “DNNVV sẽ là đối tượng khách hàng chiếm tỷ trọng lớn và chủ đạo của chúng tôi.
Sắp tới, điều kiện để ngân hàng và DN gặp nhau đang ngày càng thuận lợi hơn. Cụ thể,
BIDV Bank sẽ chi nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định tín dụng
ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn với
khoản tài chính khoảng 16.000 tỷ đồng trong năm 2006”
Ơng Lê Đình Long, Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế (VIB
Bank) nói: “DNNVV là đối tượng khách hàng chiếm tỷ trọng lớn và chủ đạo của VIB

Bank.” cũng theo Ông :Khả năng tiếp cận vốn của DNNVV ngày càng tăng vì điều kiện để
ngân hàng và DN gặp nhau đang ngày càng thuận lợi hơn, và đặc biệt là hiệu quả kinh
doanh nói chung của họ ngày càng tốt hơn”.
Ơng Nguyễn Trọng Thành, Giám đốc Ngân hàng Đầu tư Phát triển Sài Gòn (BIDV)
cho biết từ lâu hoạt động của BIDV đã tập trung vào các DNNVV và nay đang phát triển
thêm, rộng lớn hơn. Nguồn vốn của BIDV chủ yếu tập trung hỗ trợ DN vay để di dời, đầu tư
đổi mới thiết bị, tài trợ xuất nhập khẩu và nhiều hoạt động khác liên quan đến sản xuất kinh
doanh qua hình thức đầu tư trung và ngắn hạn. Đặc biệt, BIDV vừa mới khai trương Công

SVTH: Phan Thị Thanh Luân

Trang 67


Chương 3:Thực trạng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV và công tác
thẩm định dự án vay vốn trung và dài hạn tại các NHTM
ty cho thuê Tài chính II tại TPHCM với vốn điều lệ 150 tỷ đồng nhằm hỗ trợ các DN không
đủ điều kiện mua sắm trang thiết bị hiện đại cần thiết cho sản xuất và đổi mới công nghệ”.

Theo ông Trần Quốc Tuấn, Phó Tổng Giám đốc của SCB: “Cho các DNNVV này
vay rất hiệu quả và phù hợp với yêu cầu phát triển cũng như khả năng của ngân hàng. Mặt
khác, nếu thẩm định kỹ, khả năng an toàn vốn rất cao”.
Do đó có thể nói rằng tiềm năng của khối DNNVV đang là hướng đầu tư trọng
điểm của các ngân hàng thương mại. Cửa các ngân hàng sẽ mở rộng hơn. Đó là cam kết
của sự phát triển, thể hiện ở sự chuyển động tích cực của tốc độ tăng trưởng tín dụng
cũng như quy mơ của các quỹ cho vay trong thời gian qua.Tuy vậy, theo các chuyên gia,
thực tế nguồn vốn của ngân hàng “bơm” cho các DNVVN vẫn cịn rất ít so với nhu cầu
và cịn khá nhiều các DN chưa được vay vốn.

SVTH: Phan Thị Thanh Luân


Trang 68



×