Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu Luận Nghiên cứu chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.01 KB, 17 trang )

Mục lục
Mục lục 1
I.Tổng quan về rừng 1
1.Vai trò của rừng 2
2.Phân loại rừng 2
II.Hiện trạng khai thác rừng trên thế giới 3
III.Tài nguyên rừng ở Việt Nam 3
IV.Thuật Ngữ Chi Trả Dịch Vụ Môi Trường 7
1.Khái niệm: 7
2.Đối tượng tham gia 7
V.Nhu cầu hình Thành Chi Trả Dich Vụ Môi Trường Rừng Ở Việt Nam 7
VI.Nội dung chi trả dịch vụ môi trường 8
1.Xác định các đối tượng được chi trả dịch vụ môi trường rừng: 8
2.Xác định các đối tượng phải chi trả dịch vụ môi trường rừng 9
3.Công thức tính tiền chi trả cho chủ rừng 9
VII.Chi trả dịch vụ môi trường rừng thí điểm ở Lâm Đồng và Sơn La 10
1.Giới thiệu: 10
2.Sơn La: 10
a.Kết quả: 11
b.Hạn chế: 11
3.Lâm Đồng: 12
a.Kết quả: 12
I. Tổng quan về rừng
Rừng là hệ sinh thái có độ đa dạng sinh học cao nhất ở trên cạn, nhất là
rừng ẩm nhiệt đới. Ngoài ý nghĩa về tài nguyên động thực vật, rừng còn là một
yếu tố địa lý không thể thiếu được trong tự nhiên, có vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc tạo cảnh quan và tác động mạnh mẽ đến các yếu tố khí hậu, đất đai.
Chính vì vậy, rừng không chỉ có chức năng trong phát triển kinh tế - xã hội mà còn
có ý nghĩa đặc biệt trong bảo vệ môi trường. Diện tích đất có rừng của một quốc
gia tối ưu phải đạt 45% tổng diện tích.
1


1. Vai trò của rừng
Tùy theo nhận thức và các lợi ích khác nhau mà vai trò của rừng được đánh giá
khác nhau.
Hiện nay rừng được đánh giá theo các vai trò chính như sau:
• Là hệ sinh thái đa dạng và giàu có nhất trên cạn, đặc biệt là rừng ẩm nhiệt đới.
Năng suất trung bình của rừng trên thế giới đạt 5 tấn chất khô/ha/năm, đáp ứng 2 -
3% nhu cầu lương thực phẩm cho con người.
• Rừng có vai trò to lớn về môi trường và phát triển, là nguồn cung cấp nguyên vật
liệu cần thiết cho con người.
• Rừng cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,
dược liệu, du lịch, giải trí
• Rừng là "lá phổi xanh" hấp thụ CO2, tái sinh oxy, điều hòa khí hậu cho khu vực.
Rừng tạo nên khoảng 16 tấn oxy/ ha/ năm (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10
tấn). Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 -
3.000 m2 cây xanh tạo ra trong năm.
• Rừng giúp giảm nhẹ Hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Nhiệt độ
không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 - 5
o
C. Rừng bảo vệ
và ngăn chặn gió bão, giảm thiểu lũ lụt, gió bão, hạn hán,
2. Phân loại rừng
Rừng có nhiều chức năng quan trọng, dựa vào đó mà người ta chia rừng
thành 3 loại tuỳ thuộc vào chức năng cơ bản nhất:
• Rừng phòng hộ: bảo vệ đất, nước, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều
hoà khí hậu
• Rừng đặc dụng: Bảo tồn ĐDSH, thiên nhiên, mẫu chuẩn, gen, nơi học tập,
nghiên cứu, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, nghỉ ngơi, du lịch sinh
thái
• Rừng sản xuất: Sản xuất kinh doanh gỗ, lâm sản phi gỗ, động vật rừng và
BVMT sinh thái.

Theo độ giàu nghèo ta phân biệt:
• Rừng giàu: có trữ lượng gỗ trên 150 m3/ha.
• Rừng trung bình: có trữ lương gỗ từ 80 -150 m3/ha.
• Rừng nghèo: có trữ lượng gỗ dưới 80 m3/ha.
Theo các tính toán mới đây, năng suất trung bình của rừng trên toàn thế
giới đạt đến 5 tấn chất khô/ ha/ năm. Tuy nhiên con số này rất khác nhau tùy theo
loại rừng và nơi phân bố của chúng:
2
II. Hiện trạng khai thác rừng trên thế giới
Hình 1: sự phân bố các loại rừng theo vĩ độ và khí hậu.
Trước đây rừng chiếm diện tích khoảng 60 triệu km², đến 1958 chỉ còn
44,05 triệu km² đến năm 1973 còn 37,37 triệu km². Hiện nay diện tích rừng ngày
càng giảm do tác động của con người và chỉ còn khoảng 29 triệu km².Tốc độ mất
rừng trong những năm gần đây càng ngày càng gia tăng mạnh, dự đoán đến năm
2020 khoảng 40% rừng còn lại bị phá hủy nghiêm trọng.
III. Tài nguyên rừng ở Việt Nam
Năm 1945, Việt Nam có 14,3 triệu ha rừng, chiếm 43,8% diện tích đất đai,
đến những năm đầu thập niên 1990 diện tích này đã giảm tới con số 7,8 triệu ha
với độ che phủ chỉ còn 23,6% tức là đã ở dưới mức báo động (30%). Tốc độ mất
rừng ở Việt Nam trong những năm 1985 - 1995 là 200.000 ha/năm. Trên nhiều
vùng trước đây là rừng bạt ngàn thì nay chỉ còn là đồi trọc, diện tích rừng còn lại
rất ít, chẳng hạn như vùng Tây Bắc chỉ còn 2,4 triệu ha, Tây Nguyên chỉ còn 2,3
triệu ha. Rừng miền Đông Nam Bộ còn lại khá hơn song đang bị tập trung khai
thác. Rừng ngập mặn ven biển trước năm 1945 phủ một diện tích 400.000 ngàn ha
nay chỉ còn gần một nửa (200.000 ha) chủ yếu là thứ sinh và rừng trồng. Diện tích
đất trống đồi núi trọc đang chịu xói mòn nặng lên đến con số 13,4 triệu ha.
Theo báo cáo về hiện trạng rừng toàn quốc năm 2006 vừa được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn công bố, tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc hiện là 38%.
Tính đến cuối năm 2006 diện tích đất có rừng trên toàn quốc là gần 13 triệu ha,
trong đó rừng tự nhiên là 10,4 triệu ha; rừng trồng là 2,5 triệu ha. Phân loại theo

chức năng sử dụng thì rừng đặc dụng là 2,2 triệu ha; rừng phòng hộ là gần 5,3
triệu ha; rừng sản xuất là 5,4 triệu ha./.
Bảng: Diễn biến diện tích rừng ở Việt Nam qua các năm (đơn vị tính 1.000.000
ha).
Diện tích 1945 1976 1980 1985 1990 1995 1999 2002 2004
3
(ha)
Tổng diện
tích
14,30 11,16 10,60 9,89 9,17 9,30 10,99 11,78 12,30
Rừng
trồng
0,00 0,01 0,42 0,58 0,74 1,05 1,52 1,91 2,21
Rừng tự
nhiên
14,30 11,07 10,18 9,30 8,43 8,25 9,47 9,86 10,89
Độ che
phủ
43,00 33,80 32,10 30,00 27,80 28,20 33,20 35,80 36,70
Nguồn: Hiện trạng môi trường Việt Nam. Phần Đa dạng sinh học, 2005.
4
Rừng Việt Nam 1945
Rừng Việt Nam 1995
Hình2: Thảm thực vật rừng Việt Nam qua các giai đoạn 1945 và 1995
5
Hình 3. 6: Chất lượng rừng Việt Nam qua các năm 1990, 1995 và 2000
Tuy diện tích rừng có tăng lên trong hơn 10 năm gần đây, nhưng chất lượng
của rừng lại giảm đi, diện tích rừng giàu còn rất ít chỉ hơn 10%, diện tích rừng
nghèo thì ngày càng tăng lên. Bên cạnh đó, tỷ lệ này không đồng đều, tỷ lệ che
phủ của rừng ở những vùng đồng bằng đương nhiên là thấp, nhưng đặc biệt là có

những vùng rất cần có rừng như vùng núi Tây Bắc thì độ che phủ lại chỉ 27%.
Biểu đồ độ che phủ rừng ở các vùng miền trong cả nước
6
IV. Thuật Ngữ Chi Trả Dịch Vụ Môi Trường
1. Khái niệm:
Là cam kết tham gia hợp đồng trên cơ sở tự nguyện có ràng buộc pháp
lý và với hợp đồng này thì một hay vài người mua chi trả cho hệ sinh thái
xác định bằng cách trả tiên mặt hay các hổ trợ cho một hoăc nhiều người bán
và người bán này có trách nhiệm đảm bảo một loại hình sử dụng đất nhất
định cho một giai đoạn xác định để tạo ra các dịch vụ hệ sinh thái thoả
thuận.
- Chi trả dịch vụ hệ sinh thái là sự bồi thường cho việc cung cấp các
dịch vụ hệ sinh thái này
- Sự bồi thường hoặc hổ trợ này có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức
(tiền mặt, hỗ trợ hiện vật, miễn thuế, đảm bảo quyền hưởng dụng…)
2. Đối tượng tham gia
Người bán là người sẵn lòng (hoặc bị bắt buộc) tạo ra các hàng hoá và
dịch vụ hệ sinh thái thông qua việc quản lý hệ sinh thái.
Người mua là người sẵn lòng (hoặc bị bắt buộc) phải trả cho các lợi
ích từ việc nhận được hàng hoá và dịch vụ hệ sinh thái.
V. Nhu cầu hình Thành Chi Trả Dich Vụ Môi Trường Rừng Ở
Việt Nam
Có cuộc sống an lành, muốn sống tốt thì phải chi trả tiền, phải tổ chức
trồng rừng, bảo vệ rừng để rừng sản xuất ra các giá trị sử dụng làm chức
năng phòng hộ môi trường, cung ứng cho con người thụ hưởng. Những
người lao động lâm nghiệp (gọi là các chủ rừng), trực tiếp đầu tư vốn, lao
động để trồng rừng, bảo vệ rừng tức là sản xuất ra của cải vật chất gọi là các
giá trị sử dụng của rừng.
- Các giá trị sử dụng này được cung ứng cho mọi thành viên trong xã
hội thụ hưởng, thì các chủ rừng phải được chi trả, hoàn lại phần vốn,

lao động mà họ đã đầu tư cho rừng.
- Giá trị sử dụng trừu tượng của rừng là “loại hàng hoá đặc biệt”, có giá
trị rất lớn, chiếm tới 60-80% tổng giá trị kinh tế mà rừng tạo ra.
Cần phải được hình thành «thị trường» để trao đổi giữa người sản xuất
cung ứng các giá trị sử dụng của rừng với người hưởng thụ các giá trị sử
dụng này.
Các hoạt động trao đổi cung ứng dịch vụ các giá trị sử dụng từ môi
trường rừng như trên được gọi là «Chi trả dịch vụ môi trường rừng».
7
VI. Nội dung chi trả dịch vụ môi trường
1. Xác định các đối tượng được chi trả dịch vụ môi trường rừng:
* Tổ chức, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn và cá nhân có tư cách
pháp nhân, được giao rừng tự nhiên, nhận khoán quyền sử dụng rừng tự
nhiên ổn định lâu dài để bảo vệ, phát triển rừng, được chi trả phù hợp với giá
trị của rừng
* Tổ chức, hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn và cá nhân có tư cách
pháp nhân, được giao đất, giao và khoán rừng sản xuất
* Các loại rừng được áp dụng chi trả dịch vụ môi trường rừng là:
8
-Rừng phòng hộ và rừng đặc dụng
-Rừng sản xuất
2. Xác định các đối tượng phải chi trả dịch vụ môi trường rừng
* Các tổ chức cá nhân được hưởng lợi từ rừng (khai thác thuỷ lợi,
thuỷ điện, Du lịch sinh thái, du lịchvăn hoá, nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên
cứu khoa học, học tập…).
* Những người sống trên đất nước Việt Nam được hưởng thụ môi
trường trong lành từ rừng đem lại (ngăn chặn thiên tai, dịch bệnh, tạo không
khí trong lành).
* Nguồn kinh phí đã hình thành từ trước như thuỷ lợi phí, Thuế tài
nguyên, hàng năm được trích chuyển trả lại cho các dịch vụ môi trường

rừng.
* Các tổ chức cá nhân có hoạt động gây tác động ảnh hưởng có hại
đối với rừng (khai khoáng, khai thác lâm sản, sản xuất gạch ngói, gốm sứ,
khai hoang, thải công nghiệp, khói ô tô, xe máy; …).
* Nguồn thu từ hỗ trợ, đóng góp của các nước, các tổchức trong nước
và quốc tế
3. Công thức tính tiền chi trả cho chủ rừng
Trong Quyết định số 380/QĐ-TTg (10/4/2008) về việc ban hành
Chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng có nêu lên một công
thức xác định số tiền chi trả cho chủ rừng như sau:
Tổng số tiền chi
trả cho người
được chi trả dịch
vụ trong năm
(đồng)

=
Định mức chi
trả bình quân
cho 1 ha rừng
(đồng/ ha)
x
Diện tích rừng
do người được
chi trả dịch vụ
quản lý, sử
dụng (ha)
x
Hệ
số

K
Trong đó hệ số K phụ thuộc vào từng loại rừng (rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng, rừng sản xuất), tình trạng rừng (rừng giàu, rừng trung bình, rừng
nghèo, rừng phục hồi), nguồn gốc hình thành rừng (rừng tự nhiên, rừng
trồng) do UBND tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Sơn La quyết định cụ thể trên cơ sở
kết quả nghiệm thu rừng được cơ quan có trách nhiệm nghiệm thu xác nhận.
9
VII. Chi trả dịch vụ môi trường rừng thí điểm ở Lâm Đồng và
Sơn La
1. Giới thiệu:
Từ năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu xây dựng nền móng cho một
chương trình quốc gia về chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES). Hai trong những
văn bản quan trọng nhất là Quyết định 380/TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng
Chính phủ về thí điểm PFES ở hai tỉnh Sơn La, nơi đầu nguồn của hệ thống sông
Đà và tỉnh Lâm Đồng, nơi đầu nguồn của hệ thống sông Đồng Nai, và Nghị định
số 99 ngày 24/9/2010 của Chính phủ về thực hiện PFES trên phạm vi cả nước. Dự
án thí điểm về chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được triển khai tại tỉnh Sơn La
với sự hỗ trợ của cơ quan Hợp tác kỹ thuật CHLB Đức (GTZ), tại tỉnh Lâm Đồng
với sự hỗ trợ của tổ chức Winrock International. Vì thế, Việt Nam đã trở thành
một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới thực hiện PFES, sau Mexico và
Costa Rica.
Tại nhiều diễn đàn đối thoại chính sách quốc gia, đã có nhiều ý kiến thảo
luận đưa ra xoay quanh vấn đề thu tiền sử dụng dịch vụ MTR, đặc biệt là mức độ
sẵn lòng chi trả của các công ty sử dụng dịch vụ cũng như việc xác định mức chi
trả hợp lý. Các nhà hoạch định chính sách cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải
đền bù công sức của chủ rừng – những người tham gia quản lý bảo vệ rừng và coi
đó như một yếu tố đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời giảm bớt gánh nặng ngân
sách nhà nước đầu tư vào bảo vệ và quản lý rừng. Nhiều đợt khảo sát và các cuộc
họp đã được tổ chức để giúp người sử dụng dịch vụ MTR hiểu rõ lý do vì sao họ
phải trả tiền; tìm hiểu, tham vấn với họ về mức chi trả dự kiến đồng thời đề nghị

Chính phủ cho phép họ hạch toán chi phí chi trả dịch vụ MTR vào giá thành sản
xuất. Kết quả khả quan cho thấy các công ty đều bày tỏ quan điểm đồng ý thực
hiện nghĩa vụ chi trả hàng năm trên có sở hai lần/năm, vào tháng Bảy và tháng
Một năm tiếp theo.
2. Sơn La:
Tại Sơn La bên sử dụng dịch vụ được xác định là các nhà máy Thuỷ điện
Hoà Bình, nhà máy thuỷ điện Suối Sập, công ty Cấp nước Phù Yên và công ty Cấp
nước Mộc Châu, bên cung cấp dịch vụ là các chủ rừng trên địa bàn 2 huyện thí
điểm Mộc Châu và Phù Yên. Mức chi trả của từng công ty được xác định dựa trên
tổng lượng điện/tổng lượng nước kinh doanh hàng năm trong đó đối với 1Kwh là
20 đồng, 1m3 nước là 40 đồng và bình quân/ha là 100.432 đồng.
Việc thu tiền sử dụng dịch vụ MTR cũng được thực hiện theo cơ cấu phân
cấp hiện thời. Ở cấp quốc gia, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng (BVPTR) thu các
khoản chi trả của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình vì nhà máy thuộc khu vực hạ lưu
của 5 tỉnh trong đó có Sơn La. Trong khi đó, ở cấp tỉnh, quỹ bảo vệ và phát triển
rừng Sơn La thu tiền chi trả của 03 công ty còn lại đóng trên địa bàn tỉnh.
10
a. Kết quả:
Tính đến cuối năm 2010, ba trong số bốn công ty đã chuyển các khoảng
thanh toán đầu tiên của năm 2009 với tổng cộng hơn 60 tỷ đồng. Trong đó Nhà
máy Thủy điện Hòa Bình vẫn chưa thanh toán các khoản tiếp theo mặc dù đã có
yêu cầu bằng văn bản từ phía Quỹ BVPTR. Công ty còn lại - Nhà máy Thủy điện
Suối Sập - đã không đủ khả năng thanh toán do kinh doanh thua lỗ. Hơn nữa, chủ
rừng hay các nhà cung cấp dịch vụ MTR ở địa phương vẫn chưa lên tiếng yêu cầu
các nhà máy thanh toán theo kế hoạch đã cam kết, mặc dù họ được hưởng lợi đáng
kể từ khoản chi trả này. Họ đã không lên tiếng ngay cả khi họ đã từng tham gia
vào nhiều chiến dịch, hoạt động nâng cao nhận thức cũng như các sự kiện, diễn
đàn tham vấn về PFES. Họ cũng đã nhận được tờ rơi, thông tin và được nghe phổ
biến về PFES thông qua các chương trình truyền thanh, truyền hình ở địa phương.
Các nhà quản lý rừng dường như chưa hoàn toàn nhận thức được quyền lợi

và lợi ích tiềm năng của chương trình PFES. Giống như trước đây, họ thụ động
chờ đợi Chính phủ can thiệp và mang lại lợi ích cho mình.
Nhà máy Thủy điện Hòa Bình chưa sẵn lòng trả tiền dịch vụ MTR
Ông Nguyễn Văn Minh, Phó Giám đốc Nhà máy Thủy điện Hòa Bình hiểu rõ
những tác động tích cực từ việc bảo vệ rừng đầu nguồn. Ông nói: “Chúng tôi hoàn
toàn nhận thức được rằng rừng được bảo vệ và quản lý tốt sẽ giúp nhà máy của
chúng tôi hoạt động hiệu quả hơn”. Tuy nhiên, nhà máy chỉ tiến hành giải ngân
các khoản thanh toán khi có yêu cầu từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Trong khi đó, EVN không trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ
NN&PTNT), mà trực thuộc Bộ Công Thương. Như vậy, tỉnh Sơn La sẽ chỉ nhận
được các khoản thanh toán sử dụng dịch vụ MTR từ Nhà máy Thủy điện Hòa
Bình, nếu Thủ tướng Chính phủ yêu
cầu EVN đề nghị Nhà máy Thủy điện Hòa Bình thực hiện nghĩa vụ chi trả.
b. Hạn chế:
Cũng như một số chương trình PFES khác trên thế giới, cơ chế thí điểm ở
tỉnh Sơn La chưa kết nối trực tiếp người cung cấp và người sử dụng dịch vụ MTR
trên cơ sở ký kết hợp đồng thỏa thuận. Thay vào đó, nhiều cơ quan quản lý nhà
nước các cấp tham gia ở các cấp trung gian như Ban quản lý PFES ở các cấp được
thiết lập để thực hiện chức năng điều phối và Ngân hàng Chính sách Xã hội tham
gia thực hiện các giao dịch tài chính, chuyển tiền cho chủ rừng.Chưa xác định
được diện tích của từng chủ rừng đã khiến cho công tác chi trả dịch vụ môi trường
rừng ở đây bị đình trệ. Với 54.000 chủ rừng của 254 xã thuộc 9 huyện, Sơn La cần
một nguồn kinh phí cũng tương đương với số tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng
(khoảng 60 tỷ đồng) để thống kê, xác định diện tích thực của từng cá nhân chủ
rừng.
11
Giải pháp trước mắt của tỉnh Sơn La là ứng trước 60% nguồn kinh phí này
chuyển về ngân hàng chính sách xã hội để chi trả cho người dân. Nhưng ngân
hàng này chỉ giao dịch 1 tháng một lần, mà niêm yết ngày giao dịch thì không phải
người dân nào cũng biết, đặc biệt đối với đồng bào sống ở vùng cao hẻo lánh xa

xôi, cách trung tâm xã cả ngày đường như ở các xã trong vùng thí điểm của sơn la.
Vậy là… người dân thì không nhận được tiền, còn quỹ thì vẫn chẳng thể giải
ngân!
Thực tế thực hiện thí điểm ở Sơn La cho thấy cơ cấu thể chế PFES hiện nay
chưa hoàn toàn hướng tới các mục tiêu lâu dài nhằm kết nối người cung cấp dịch
vụ (chủ rừng) với người sử dụng dịch vụ. Hạn chế lớn nhất là nhận thức chưa đầy
đủ của chủ rừng, phương pháp tiếp cận theo định hướng chỉ đạo, thiếu sự phối kết
hợp giữa các Bộ, ngành và các cơ quan hữu quan, vấn đề thực thi còn hạn chế
cũng như sự hiểu biết không đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ của cả người cung
cấp và người sử dụng dịch vụ.
Đối với Sơn La, nên xem lại cách chi trả cũng như là thông báo cho người
dân rõ ràng về cách nhận tiền, thời gian hoạt động chi trả của ngân hàng nên thông
báo rõ ràng cho người dân. Nâng cao hơn nữa ý thức bảo vệ rừng và nâng cao kiến
thức của người dân.
3. Lâm Đồng:
a. Kết quả:
Tại Lâm Đồng, chương trình thí điểm đã nhận được sự đồng thuận cao của
các bên liên quan và hiện nay các nhà máy thuỷ điện Đa Nhim và Đại Ninh đang
chi trả khoảng 55 tỷ đồng (~2,8 triệu USD) cho hơn trong đó hơn 8.000 hộ dân
bảo vệ rừng được hưởng thu nhập bình quân từ 8,1 đến 8,7 triệu đồng/năm, cao
gấp ba lần so với thu nhập nhận khoán trước đây để bảo vệ hơn 203 nghìn ha rừng.
Qua 2 năm triển khai thí điểm, từ nguồn quỹ bảo vệ phát triển rừng trên 107 tỷ
đồng, tỉnh Lâm Đồng đã dành phục vụ cho công tác quản lý bảo vệ rừng cũng như
chi trả cho người dân, hộ gia đình, cộng đồng thôn, buôn nhận giao khoán.
Đến nay, đã có gần 10.000 hộ dân, trong đó gần 7.000 hộ là đồng bào dân
tộc thiểu số ở tỉnh Lâm Đồng được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách này. Cũng từ
đó, công tác quản lý bảo vệ rừng ở đây hiệu quả hơn, giảm được 50% vụ vi phạm
lâm luật. Nhiều hộ dân làm đơn xin được nhận khoán thêm diện tích rừng để bảo
vệ, phát triển. Người dân tuần tra, kiểm tra rừng thường xuyên hơn, đơn vị chủ
12

rừng, hộ nhận khoán rừng và chính quyền địa phương phối hợp chặt chẽ hơn. Tình
trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép ở hai tỉnh đã giảm
đáng kể. Lâm Đồng cũng là tỉnh đầu tiên thành lập Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng
và cho đến nay Quỹ đã ký hợp đồng với 768 hộ gia đình với kinh phí khoảng 25 tỷ
đồng (~1,2 triệu USD) để bảo vệ 35.000 ha rừng. Sau hai năm thí điểm, tỉnh Lâm
Đồng đã rất thành công với mô hình chi trả dịch vụ môi trường rừng ở xã Đa
Nhim, huyện Lạc Dương. Mỗi hộ đồng bào Cơho ở Đa Nhim được ban quản lý
rừng phòng hộ khoán bình quân 20ha rừng đầu nguồn của hồ thuỷ điện Đa Nhim
để bảo vệ. Với mức chi 400.000 đồng/ha/năm, mỗi hộ nhận 8 triệu đồng/năm, chia
cho bình quân năm người/hộ thì mỗi người được gần 135.000 đồng/tháng. Đây là
nguồn thu nhập ổn định trong cơ cấu thu nhập của họ vì phần từ sản xuất nông
nghiệp thường bấp bênh. Bà con Cơho hiểu rằng họ cần bảo vệ rừng để hồ Đa
Nhim có nước, nhà máy có điện bán, có tiền trả cho họ, nếu không họ lại nghèo.
Chính sách này cũng giống như cho bà con cái cần câu để họ câu cá bằng chính
kết quả lao động giữ rừng của mình. Bà con phấn khởi còn rừng thì đang được giữ
rất tốt.
Đồng bào dân tộc Cơtu ở xã Mà Cooih, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng
Nam, chiếm 81% dân số và hầu hết nằm trong 76% số hộ nghèo của xã. Thu nhập
bình quân của hộ khoảng 350.000 đồng/tháng, tính ra chỉ 70.000
đồng/người/tháng, cuộc sống vô cùng khó khăn. Diện tích tự nhiên của xã Mà
Cooih là 17.818ha, trong đó đến 84% là diện tích rừng tự nhiên phòng hộ đầu
nguồn cho các nhà máy thuỷ điện A Vương, Za Hung, Sông Bung. Sau khi được
biết đồng bào dân tộc Cơho anh em ở Lâm Đồng đã có cuộc sống khá lên nhờ
chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, đồng bào Cơtu ở Mà Cooih đang rất
mong được thực hiện chính sách này để bớt nghèo. Đó cũng là mong ước chung
của người dân ở khu vực đầu nguồn.
b. Hạn chế:
Đối với Lâm Đồng, dựa trên những kết quả đạt được linh động hơn trong
việc thực hiện nghị định dần đưa nghị định vào thực tế. Có thêm nhiều góp ý cho
nghị định.

VIII. Bài học và biện pháp:
Kinh nghiệm thực hiện từ Sơn La cho thấy cần thiết phải thay đổi phương
pháp tiếp cận truyền thống theo hình thức chỉ đạo và kiểm soát sang cơ cấu phân
cấp quản lý nhằm thúc đẩy tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm giữa người
cung cấp và người sử dụng dịch vụ. Có thể tạo ra sự thay đổi này bằng cách tăng
13
cường cơ cấu tổ chức hiện có thông qua thúc đẩy mối quan hệ phối kết hợp của
các cơ quan chủ quản ở cấp Trung ương (Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, Bộ
Tài chính) và ở cấp địa phương (giữa người cung cấp và người sử dụng dịch vụ).
Điều đó bao gồm tăng cường phân cấp và trao quyền quản lý cho người dân địa
phương như những đối tác thực hiện, tạo điều kiện hình thành và phát triển thị
trường, qua đó cho phép ký kết các hợp đồng tự nguyện dựa trên kết quả thực
hiện, áp dụng quy chế khen thưởng và tính trách nhiệm trong quá trình thực hiện.
Quan trọng hơn hết là cần thay đổi nhận thức, quan điểm coi người dân địa
phương là nguồn lao động giá rẻ, mà cần coi họ là những đối tác bình đẳng và là
lực lượng chính trong bảo vệ, quản lý và phát triển rừng.
Ngoài phân cấp, việc tăng cường vai trò và phân quyền cho chủ rừng thông
qua đẩy nhanh tiến độ giao đất, giao rừng sẽ tác động tích cực tới quá trình xây
dựng thể chế PFES. Cần tiếp tục giao những diện tích rừng và đất lâm nghiệp hiện
do các ban quản lý rừng và công ty lâm nghiệp đang quản lý cho hộ gia đình, cá
nhân và cộng đồng địa phương để quản lý, bảo vệ, đồng thời đảm bảo quyền sử
dụng đất rừng của họ.
Nâng cao nhận thức cho tất cả các bên liên quan từ các nhà hoạch định
chính sách ở cấp quốc gia tới các công ty sản xuất kinh doanh và các chủ rừng ở
địa phương, theo kế hoạch Bộ NN&PTNT xây dựng trong mối quan hệ phối hợp
của GIZ và các bên liên quan trong nước và quốc tế khác.
Ngoài các thông tư liên bộ hướng dẫn thực hiện Nghị định, cần xây dựng
thông tư liên bộ giữa Bộ NN&PTNT và Bộ Công Thương trong đó quy định cụ
thể chức năng, nhiệm vụ, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan nhằm đẩy
mạnh phân cấp cho phép hình thành những mối quan hệ trực tiếp giữa Ban quản lý

rừng đầu nguồn ở tỉnh và người sử dụng dịch vụ. Trong thông tư, cần quy định rõ
cơ chế quản lý của VNFF, kể cả quy định về thu tiền sử dụng dịch vụ MTR từ
nhiều nguồn khác nhau.
Tham vấn các bên liên quan nhằm ra quyết định và xây dựng sự đồng
thuận. Đại diện chủ rừng và người sử dụng dịch vụ tham gia là thành viên Ban
Quản lý PFES ở các cấp.
Trao quyền cho người dân địa phương để họ có thể bày tỏ quan điểm của
mình trong quá trình ra quyết định và tham gia giám sát toàn bộ quá trình vận
hành, ví dụ như thông qua việc thành lập hiệp hội các chủ rừng như đã được đề
xuất trong Chương trình Lâm nghiệp Quốc gia.
Thực hiện giám sát và đánh giá PFES công khai và có sự tham gia trong toàn
bộ quá trình thực hiện từ quản lý, sử dụng tài chính đến tác động của các hoạt
14
động cung cấp dịch vụ MTR. Đại diện người cung cấp và người sử dụng dịch vụ
MTR cần tham gia vào hoạt động giám sát và đánh giá này.
1. Những hạn chế của của việc áp dụng PES ở nước ta:
Việt Nam đã sẵn sàng sử dụng một số công cụ tài chính và kinh tế cần thiết
để thực thi hoạt động chi trả dịch vụ hệ sinh thái. Trong tất cả các nghiên cứu điểm
về PES, vấn đề không phải ở chỗ thiếu nguồn tài chính mà là thiếu một khung
pháp lý:
• Thiếu cơ sở pháp lý cho cộng đồng để tham gia ký kết các hợp đồng.
• Nếu chi trả dịch vụ hệ sinh thái được xem như là thuế, phí và lệ phí thì cần
phải bổ sung thêm điều khoản vào các luật, quyết định và thông tư liên
quan hiện hành để cho phép người cung cấp dịch vụ (chứ không phải là các
cơ quan Chính phủ) giữ lại các khoản thu từ các dịch vụ này.
• Thiếu công cụ kinh tế và công cụ pháp lý cho PES trong các văn bản pháp
lý quy định về bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ đầu nguồn và hấp thu
cacbon.
Dịch vụ môi trường và người mua, người bán được xác định rất rõ. Tuy
nhiên một số khía cạnh của PES còn nằm trong giai đoạn kế hoạch, chưa được thử

nghiệm:
• Làm thế nào để người mua, bán dịch vụ môi trường ký kết thoả thuận
một cách tự nguyện trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
• Điều kiện chi trả và việc cung cấp dịch vụ trong điều kiện cho phép,
điều kiện về phương thức sử dụng đất, các hoạt động của người bán và/
hoặc quản lý nguồn tài nguyên quy mô hợp đồng.
• Thời hạn và hình thức ký kết hợp đồng.
• Mức độ của các cam kết liên quan đến từng mối quan hệ nhân quả cụ
thể để duy trì tính liên tục của dịch vụ (tránh làm giàm, suy thoái hay
mất khả năng cung cấp dịch vụ của tài nguyên).
• Hình thức chi trả, ví dụ như thanh toán bằng tiền mặt để tuỳ ý sử dụng,
đầu tư vào các dịch vụ công hay quỹ uỷ thác phục vụ các hoạt động cụ
thể nào đó.
• Mức chi trả trong mối liên hệ với chi phí cơ hội của người bán và chi
phí lựa chọn dịch vụ của người mua.
15
2. Một số bài học kinh nghiệm
• Đối với chức năng rừng phòng hộ đầu nguồn
• Chỉ ra chi phí và lợi ích từ việc bảo vệ phòng hộ đầu nguồn là một yêu
cầu quan trọng để thuyết phục người mua tham gia.
• Việc thực thi pháp luật của chính phủ là cấn thiết chứ không phải chỉ
dựa vào hợp đồng mang tính tự nguyện giữa người mua và người bán.
• Hỗ trợ ban đầu là cần thiết để tạo sự chuyển biến các phương thức sử
dụng đất.
Đối với chức năng bảo vệ cảnh quan
• Một khoản tiền khá lớn có thể được tạo ra từ hoạt động du lịch thông
qua thu phí người sử dụng các dịch vụ cung cấp. hệ thống thu vé vào
cổng nên đa dạng hơn để phù hợp với các đối tượng khách du lịch khác
nhau.
• Số tiền thu được chuyển cho các cơ quan quản lý để bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, thách thức hiện nay là chưa xác định cơ chế rõ ràng để phân
bố số tiền này cho cộng đồng địa phương.
• Các vườn quốc gia có thể xây dựng một cơ chế hỗ trợ tài chính bền
vững thông qua chỉ tiêu hợp lý và tăng thu nhập từ hoạt động du lịch,
gồm cả duy lịch dựa vào cộng đồng.
Đối với vấn đề hấp thu cacbon
• Lồng ghép các dự án phát triển lâm nghiệp với các lợi ích từ hấp thu
cacbon thông qua sử dụng cơ chế chi trả phí tự nguyện.
• Hỗ trợ từ Chính phủ là rất quan trọn đối với việc xây dựng dự án, nâng
cao năng lực và hỗ trợ kỹ thuật.
• Chia sẻ lợi ích và sự tham gia của cộng đồng và người dân là chìa khoá
của sự thành công.
3. Một số hoạt động cần thức hiện
Hỗ trợ Chính phủ tiếp tục xây dựng khung pháp lý cho thực hiện PES.
Nghiên cứ để xác định mối liên hệ giữa vệc sử dụng đất vùng thượng nguồn
và chất lượng nước ở hạ nguồn; và các chi phí nhằm duy trì chất lượng nước.
16
Thiết lập các cơ chế nhằm thực thi các chi trả thông qua thuế và cải cách
giá nước.
Thu hút cộng đồng địa phương tham gia ký kết hợp đồng với các bên sử
dụng dịch vụ.
Đảm bảo các hỗ trợ của chính quyền địa phương đối với các cơ chế chi trả,
phải xây dựng được cơ chế rõ ràng cho cộng đồng địa phương trong việc hưởng
lợi từ việc quản lý tài nguyên được giao.
Hài hoà giữa các nhu cầu về lợi ích của địa phương và nhu cầu của quốc
gia.
Sử dụng cơ chế linh hoạt trong thương mại hoá cacbon của các dự án lâm
nghiệp cần được quan tâm để thu hút vốn. Bằng cách này, lồng ghép các dự án
phát triển lâm nghiệp với bảo vệ môi trường để có nguồn thu từ bán cacbon. Cơ
chế chi trả phí mang tính tự nguyện có thể làmột giải pháo để thu hút nguồn vốn từ

ngành công nghiệp.
Để có thể thương mại hoá cacbon cần có sự hỗ trợ từ Chính phủ như các
chính sách, xây dựng năng lực và đặc biệt là nâng cao nhận thức về biến đổi khí
hậu.
Tiến hành các nghiên cứu thí điểm về RUPES tập trung vào các cơ chế chi
trả nhằm giải quyết các vấn đề nghèo đói. Các mô hình này có thể gồm:
• Tăng cường sự an toàn về hưởng dụng đất
• Tạo cơ hội để người dân địa phương tham gia vào việc ra quyết
định.
• Trả công lao động cho việc bảo vệ dịch vụ môi trường với mức tối
thiểu tương đương với chi phí cơ hội mà người dân bỏ ra để thực
hiện các hoạt động tương tự như chặt gỗ.
• Tăng cường khả năng tiếp cận các quỹ đầu tư như quỹ tính dụng nhỏ
cho các hoạt động có tiềm năng sinh lợi.
• Tăng cường năng lực knh doanh để bán các dịch vụ môi trường như
một sản phẩm hàng hoá, ví dụ như tạo thương hiệu sinh thái.
17

×